Lê Minh Hà
Bà cái Hà có một niềm hãnh diện không giấu diếm trước các bà ở làng. Không bà nào tậu được cỗ áo quan như bà ở tuổi ấy, lúc tuổi mới chạm sáu mươi. Bốn tấm dài hai tấm ngắn, bào phẳng lì, gỗ vàng tâm nổi vân nâu sáng, nhìn như soi gương được, sờ tay vào thì mát rười rượi.Nhà bà cháu cái Hà khác nhiều nhà, gian giữa không có bàn thờ xây bệ vệ, rỗng gầm, để đồ hay đựng thóc, quét vôi trắng lốp. Đi sơ tán dọc ngang làng trên xóm dưới về, bà nhờ người đan một tấm vạt đóng đinh cố định vào bức tường hậu, giữa hai cây cột xây to vật hình tròn mà nó vòng tay cũng không ôm hết. Lúc còn bé, Hà rất thích đứng trên giường bám cột nhà để với mấy cuốn sách đặt ngay đầu bàn thờ. Sách không biết của ai ở nhờ nhà lúc bà cháu dạt đi để quên lại. Có sách Bình dân học vụ. Có cả truyện. Cái Hà lần mò tập đọc khi còn chưa được đi học bằng những kiến thức võ vẽ thu lượm được lúc bám cửa lớp học ở chùa làng Khảm Lâm và bằng mấy cuốn sách này. Nó biết chuyện Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Hoàng Trìu, Quan m Thị Kính, Nhị độ mai và vô khối chuyện khác đầu tiên là do bà kể, sau đó là tự đọc rồi kể lại cho bà cũng bắt đầu từ mấy cuốn sách bà không đọc được đặt trang trọng ở góc bàn thờ.
Ngoài mấy cuốn sách, bàn thờ chả có gì ngoài bát hương và bằng Tổ Quốc Ghi Công. Tên ông nó trên cái bằng đó ghi sai, thiếu dấu huyền, nhưng bà bảo thôi, ông chịu mất tên để con cháu được là con cháu liệt sĩ, chứ bới ra lần nữa thì không biết đến bao giờ mới được trên giải quyết, mà chắc gì đã xong, chưa xong thì có khi lại bị tiếp tục coi là nhà việt gian, thì chết, thì chết. Cái Hà đã nhiều lần đứng dưới ngửa cổ lần đọc từng chữ trên tấm bằng bùa hộ mệnh cho cả nhà đó, tự thắc mắc một mình ở dưới đất thì người ta gọi ông nó là gì, theo tên cụ đặt cho ông hay theo tên trên bàn thờ? Bát hương và tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công không thể nào với tới được lúc nào cũng bồng bềnh, cao vời trong trí nó.
Dưới bàn thờ, kê trên hai cái chân mễ là bộ quan tài chưa ghép mộng của bà, sáu tấm, bốn tấm dài, hai tấm ngắn, gỗ vàng tâm, kể có thêm cái bàn uống nước kê luôn đó thì ngồi sẽ rất tiện. Nhưng đến sờ vào đó thì chị em nó cũng phải rất rón rén, sợ bà mắng. Vài ba hôm bà lại cầm cái phất trần phẩy ngang phẩy dọc trên mặt gỗ, vừa phẩy bà vừa bảo có cỗ áo này rồi bà có chết đi thì bố mẹ cô chú chúng mày cũng không phải lo gì, còn giỗ bà thì cũng không phải bày vẽ gì, chỉ cần một bát nước chè xanh, quả dứa với lại mấy củ khoai lang. Bà nói, vừa tư lự vừa say mê, làm cái Hà lo lo. Tại có những ngày tháng hơi hơi yên hàn, như cái hồi mẹ nó cho nó bỏ học, đưa phắt nó về bà, chị nó với lũ em con bà cô ông chú chưa phải đi sơ tán lại, nhà chỉ có hai bà cháu nó. Bà là chỗ dựa duy nhất của nó ở làng, nơi lúc nào cũng làm nó hơi chờn chợn vì chẳng biết ai với ai, lại còn không có bạn. Nó lo bà chết. Còn con em họ nó thì lại sợ bà chết mà giỗ bà như bà bảo thì chán, chả được ăn giỗ to.
Ăn giỗ to là to thế nào? Mấy chị em đều nhất trí là to như giỗ ông. Bà chẳng mời ai, chỉ có mẹ con bà cháu. Mãi sau này cái Hà mới biết ngày đó nhà nào cũng ăn cỗ, không có giỗ vẫn có cỗ. Vì đó là ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân, ngày chiêu hồn những người không được chết ở nhà, không được người nhà chôn cất. Nó hỏi bà nó sao không giỗ ông theo ngày ông hi sinh ghi trên bằng Tổ Quốc Ghi Công. Bà cái Hà chả bảo gì, chỉ thở dài. Hàng xóm bảo bác giỗ bác trai thế này thì coi như mất giỗ, bà vẫn lẳng lặng làm thế. Tận khi bác Mạch gái sang nhà khóc với bà vì nhận tin bác Mạch trai đã hi sinh, hi sinh nhưng chưa báo tử, chẳng biết phải cúng giỗ thế nào, bà mới nhỏ nhẹ bảo thương nhớ để trong lòng, cúng giỗ thì hương hoa cũng là cúng giỗ, anh ấy thật sống khôn chết thiêng thì sẽ về với mấy mẹ con từng ngày chứ chờ gì mâm cao cỗ đầy cháu biện. Đến khi đó cái Hà mới biết ngày ông nó hi sinh ghi trên bằng Tổ Quốc Ghi Công không thể là ngày giỗ ông được. Bà chỉ biết ang áng ông hi sinh đận chiến dịch Thu Đông năm một chín bốn bảy, trên Việt Bắc. Vậy là bà làm giỗ ông vào rằm tháng bảy. Bà rì rầm với bác Mạch hi sinh cũng là chết, chết vì gì thì cũng là chết, báu gì cái chuyện được công nhận nọ kia, chẳng qua chú nhà thím chết đi mang cái danh Việt gian thì con cháu không ngẩng đầu lên mà sống được nên là cứ phải đòi, cứ phải kiện đòi minh oan đến cùng để chú được công nhận là liệt sĩ. Hy sinh đời bố thì phải củng cố được đời con. May mà nhà thím bố mẹ bọn trẻ con là người nhà nước, còn biết đường kêu. Thím giỗ chú ngày này là để chú với anh em đồng chí tiếp tục bầu bạn dưới kia được ấm áp cùng nhau. Cùng cảnh ra đi, mất xương mất cốt, sông núi thì mênh mông mà mả riêng chưa chắc có, khấn vái riêng một người thì tội với nhiều người. Bác Mạch gái nghẹn ngào: “Hay là cháu về bảo với ông nhà cháu cứ làm như thím?!” Cái Hà nghe hóng, tự gật gù à biết rồi, biết vì sao trên bàn thờ chỉ có nải chuối bát hương mà mâm cỗ giỗ đầy phè kia bà lại đặt trên cái giường không ai nằm, không trải chiếu, kê sát khung cửa sổ mở ra vườn. Đấy là hai lần giỗ, giỗ ông mình với lại giỗ nhiều người làm ma ở ngoài đường ở chiến chường – Cái Hà ti toe giảng giải cho bà chị bé và mấy đứa em nhưng lớn hơn mình, thích chí vì mắt đứa nào cũng trố ra khi nghe.
Bà sợ cảnh người chết chỉ có tấm chiếu hay mùng màn đậy điệm khi chôn làm người sống áy náy hay gì mà tự tậu cỗ quan tài sớm thế chị em cái Hà không biết. Cỗ quan tài chưa ghép mộng oai vệ dưới bàn thờ ông một hôm bị hạ xuống. Máy bay Mỹ đánh phá ác liệt hơn. Có đêm bà phải đánh thức bầy cháu nằm đầy hai cái giường ở hai gian, giục chạy ra vườn, xuống hầm. Tối om, bọn trẻ lồm cồm lần mấy bậc đất tụt xuống, có hôm ngã chồng đống cá khê lên nhau, có hôm ướt như chuột lột vì ngập nước mưa chưa nhờ bên nhà ông Lúa tát đi được. Thế là bà gọi mấy chú hàng xóm tới nhờ đào hầm dưới gầm giường. Bốn tấm dài của cỗ quan tài chia đôi, kê lên làm nắp hầm, thò một đầu ra khỏi cái gầm giường thước sáu và thành nơi bà đặt âu trầu. Cái Hà rất thích ngồi ở đó lục lọi âu trầu của bà, gạ xin têm giầu cho bà. Nó cũng biết tiện miếng vỏ quạch bằng con dao bài nhỏ, bổ quả cau tươi hay chẻ hạt cau khô, xé lá giầu không quệt vôi, nhúm tí thuốc lào rồi cuộn lại đưa lên miệng bà. Nó không dám thử món đó bao giờ vì tận mắt thấy bà chị bé say trầu, lử lả ngã vật ra thềm vào phiên chợ trước đó lúc bà đi vắng, chỉ vì dám thử ăn trầu, lại còn nuốt cả nước cốt. Đánh đu chơi nhởn với lũ trẻ con trong xóm cả buổi mồ hôi mồ kê, về nhà, cái Hà thích khoanh chân chân ngồi ở đầu mấy tấm gỗ của cỗ áo quan chưa dùng nhìn ra vườn chuối. Cứ ngửi mùi trầu bà vừa nhai dập là không hiểu sao con bé rất yên tâm.
Rồi cũng hết chiến tranh. Bà theo chân mấy đứa cháu trở ra Hà Nội. Ở lại làng chỉ còn bà cô ruột cái Hà cùng mấy đứa con. Ngày ông đi kháng chiến, cô nó theo mẹ đưa em về làng tản cư, rồi thì làng bị Pháp chiếm, thành làng tề. Con gái thị thành da trắng tóc xanh mới mười sáu tuổi bị Tây bắt đi phu xây lô cốt ở đầu cầu, bà hoảng, đánh tiếng gả cô để cô được yên thân. Thế là kháng chiến thành công cô nó không thể trở ra Hà Nội được nữa, thành người nhà quê từ ấy. Cô chở bộ quan tài của bà về trên nhà, ngả ra thành bộ phản cho bầy con lăn lóc. Mấy tấm ván gỗ vàng tâm đã được bào bóng loáng, giờ càng bóng nhờ mồ hôi và đít trẻ con. Khi nào bà nằm xuống thì cả nhà sẽ đem mấy tấm ván ghép mộng lại, thế là thành cỗ áo để bà nằm. Rất oách. Cái Hà biết vậy từ lúc bé tí, biết, bà nó rất hãnh diện vì tậu được bộ quan tài để có chết đi thì bố mẹ cô chú nó sẽ không phải lo toan gì.
Hơn hai mươi năm sau bà cái Hà đi theo ông nó. Không biết tại sao mà rồi cỗ áo quan của bà không thấy chở ra Hà Nội. Bà về lại làng trong bộ ván mua theo tiêu chuẩn dành cho người chết tại cửa hàng làm quan tài ở phố 305, gần phố Lò Đúc nhà nó. Áo quan mậu dịch làm bằng gỗ tạp, sơn đỏ loét, không ghép mộng mà đóng đinh, chỗ hở chỗ vênh, phải nhờ vả chọn mãi mới được một cỗ tàm tạm cho bà.
Cỗ áo bà cái Hà dành dụm tự tậu cho mình lúc còn chưa tới tuổi sáu mươi vẫn là cái phản lên nước bóng ngời ở trên nhà bà cô nó.
Đám chắt của bà không đứa nào biết thực ra đó là bốn tấm ván của một cỗ quan tài được tậu từ sáu mươi năm về trước, được cụ của chúng tự chuẩn bị, để con cháu không phải khổ, lúc cụ sắp bước qua tuổi sáu mươi.
Cái Hà cứ thắc mắc một mình mãi suốt bao năm, còn hai tấm ván ngắn của cỗ áo mà bà tậu sớm thế nhưng vẫn không được nằm, cũng bằng gỗ vàng tâm, hai tấm gỗ ấy phiêu dạt nơi đâu không biết nữa.
Berlin, 24. 07.2022 – 07. 03. 2024
Rút từ SÔNG CÒN CHƯA CẠN
-
Người phụ trách Văn Việt:
Trịnh Y Thư
Emails:
Văn:
Thơ:
Nghiên cứu – Phê bình:
Vấn đề hôm nay:
-
DANH NGÔN
-
Viết là một hình thức trị liệu; đôi khi tôi tự hỏi làm thế nào tất cả những người không viết, sáng tác hoặc vẽ có thể thoát khỏi sự điên rồ, u sầu, hoảng loạn và sợ hãi vốn có trong thân phận con người.
-
Writing is a form of therapy; sometimes I wonder how all those who do not write, compose, or paint can manage to escape the madness, melancholia, the panic and fear which is inherent in a human situation.
-
(Graham Greene, Ways of Escape, 1980)
-
Viết, tôi nghĩ, không tách biệt với sống. Viết là một dạng sống kép. Nhà văn trải nghiệm mọi thứ hai lần. Một lần trong thực tại và một lần trong tấm gương luôn chờ đợi trước hoặc sau.
-
Writing, I think, is not apart from living. Writing is a kind of double living. The writer experiences everything twice. Once in reality and once in that mirror which waits always before or behind.
-
(Catherine Drinker Bowen, The Atlantic, số tháng 12, 1957)
-
Tôi có thể viết những thứ rác rưởi, nhưng văn chương rác rưởi thì người ta bao giờ cũng có thể sửa. Chứ một trang trống thì đành thua.
-
I may write garbage, but you can always edit garbage. You can't edit a blank page.
-
(Jodi Picoult, npr ngày 22.11.2006)
-
Tôi chưa bao giờ bắt đầu một bài thơ mà tôi biết trước kết thúc. Viết… là khám phá.
-
I have never started a poem yet whose end I knew. Writing... is discovering.
-
(Robert Frost, Selected poems, ed. 1963)
-
Nếu có một cuốn sách bạn muốn đọc nhưng nó chưa được viết thì bạn phải viết đi.
-
If there's a book that you want to read, but it hasn't been written yet, then you must write it.
-
(Toni Morrison, bài nói tại Hội đồng Nghệ thuật Ohio 1981)
-
Cứ viết đi, bất kể điều gì. Vòi mở thì nước mới chảy.
-
Start writing, no matter what. The water does not flow until the faucet is turned on.
-
(Louis L’Amour, Education of a Wandering Man, 2008)
-
Bài viết mới
- Tiến trình lập hiến: Lý thuyết và thực tế qua các bản Hiến pháp Việt Nam 29 Tháng Mười, 2025
- “Đô Mỹ”, “ký họa” và những sứ quân làng 29 Tháng Mười, 2025
- Giá trị của tác phẩm nghệ thuật dưới góc nhìn của chuỗi provenance 29 Tháng Mười, 2025
- Thơ Lê An Thế 29 Tháng Mười, 2025
- Hi.69 – HỘI NGỘ HAI DÒNG PHÙ SA, triển lãm của Hoàng Võ và Đức Giang 29 Tháng Mười, 2025
- Một sĩ quan người Đức 28 Tháng Mười, 2025
- Dương Tường 28 Tháng Mười, 2025
- Giải thưởng Booker Thiếu nhi 28 Tháng Mười, 2025
- Doãn Quốc Sỹ từ hiện sinh đến vào thiền 27 Tháng Mười, 2025
- Thơ Bùi Chát 27 Tháng Mười, 2025
- Thủ phạm của “nền văn học loạn giá trị” 26 Tháng Mười, 2025
- Huyền thoại Duy-ma-cật: Triết học của trí tuệ bất nhị và đời sống nhập thế 26 Tháng Mười, 2025
- Phải chăng có sự từ chối hay bóp méo lịch sử đang diễn ra 26 Tháng Mười, 2025
- Bốn đoạn ngắn về một người đàn bà 26 Tháng Mười, 2025
- Thơ Trần Doãn Nho 26 Tháng Mười, 2025
- PGS TS Mạc Văn Trang: Thư ngỏ gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo 25 Tháng Mười, 2025
- Một nền văn học loạn giá trị 25 Tháng Mười, 2025
- Chi bằng học (từ Phan Châu Trinh tới Phan Khôi) 25 Tháng Mười, 2025
- Tính trạng trội 25 Tháng Mười, 2025
- Trương Chi, đâu bóng thuyền Văn Cao? 25 Tháng Mười, 2025
- Nghệ thuật không nhất thiết phải kể câu chuyện gì 25 Tháng Mười, 2025
- Nghe tiếng vọng từ nền văn minh bị chôn vùi 24 Tháng Mười, 2025
- Tùy bút Trần Tuấn: Những phác thảo đời sống không hoàn kết 24 Tháng Mười, 2025
- Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 317): Nhà văn Trịnh Y Thư 24 Tháng Mười, 2025
- Tô Như Châu – Người viết nên mùa thu Hà Nội từ bên bờ kia chiến tuyến 24 Tháng Mười, 2025
- Thiền Zen Paul Vân Thuyết 24 Tháng Mười, 2025
- Triển lãm “Hình vang vọng ý” 24 Tháng Mười, 2025
- Thầy tôi: Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ 23 Tháng Mười, 2025
- Con mắt trôi dạt 23 Tháng Mười, 2025
- Thơ cười của thi sỹ Ủa (Nguyễn Duy) 23 Tháng Mười, 2025
- Mộng du khi xa xứ 23 Tháng Mười, 2025
- Bi kịch của quyền lực và sự thức tỉnh của con người trong “Đỉnh cao chói lọi” 22 Tháng Mười, 2025
- Doãn Quốc Sỹ: nhà văn thần thoại 22 Tháng Mười, 2025
- Thơ Kim Yi-deum 22 Tháng Mười, 2025
- Thơ Cư sĩ Minh Đạt 22 Tháng Mười, 2025
- Cấu trúc “đám mây” trong thơ đương đại 21 Tháng Mười, 2025
- Cách đọc “Những linh hồn da đen” trong thời đại hậu chủng tộc 21 Tháng Mười, 2025
- Thơ Ái Điểu 21 Tháng Mười, 2025
- Với người vừa khuất núi 20 Tháng Mười, 2025
- Hãy sống thêm một ngày nữa 20 Tháng Mười, 2025
- Đọc thơ Nguyễn Viện 20 Tháng Mười, 2025
- “Theo dấu thư hương II” – sách mới của Trịnh Y Thư 20 Tháng Mười, 2025
- “Thành phố và những bức tường bất định” của Murakami 19 Tháng Mười, 2025
- 120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Bài diễn thuyết thứ ba: Nhà văn có phải là một trí thức không?(*) 19 Tháng Mười, 2025
- Thơ Han Kang 19 Tháng Mười, 2025
- Nguyễn Hữu Liêm và Giới hạn của Giới hạn 19 Tháng Mười, 2025
- Thơ Lê Thanh Trường 19 Tháng Mười, 2025
- Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 8 – hết) 19 Tháng Mười, 2025
- Khi bức tranh không còn gánh nổi ý nghĩa 18 Tháng Mười, 2025
- 120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Bài diễn thuyết thứ hai: Chức năng của trí thức(*) 18 Tháng Mười, 2025
- Tháng tư, mưa, và người chưa từng tồn tại 18 Tháng Mười, 2025
- Tuấn Andrew Nguyễn có tên trong sáu nghệ sĩ nhận Giải MacArthur “Thiên tài” 18 Tháng Mười, 2025
- Cội mai 17 Tháng Mười, 2025
- Doãn Quốc Sỹ, nỗi buồn và, niềm vinh dự, hân hoan lớn 17 Tháng Mười, 2025
- 120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Bài diễn thuyết thứ nhất: Thế nào là một trí thức?(*) 17 Tháng Mười, 2025
- Thơ của bác sĩ Tôn Thất Tùng 17 Tháng Mười, 2025
- Nhà văn được vinh danh, dịch giả được nhớ đến 17 Tháng Mười, 2025
- Trần Thế Vĩnh với Solo lần thứ 5 VŨ ĐIỆU NGÀN HOA 17 Tháng Mười, 2025
- Dòng nhạc kỷ niệm với nhạc cũ miền Nam (kỳ 356): Tuyển tập “Những Tình Khúc Tiền Chiến Tiêu Biểu”- Mộng Chiều Xuân (Ngọc Bích) 17 Tháng Mười, 2025
- Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 7) 17 Tháng Mười, 2025
- Thơ haiku của Masaoka Shiki 17 Tháng Mười, 2025
- Vĩnh biệt Dzoãn Quốc Sỹ (17.2.1923 – 14.10.2025): Dzoãn Quốc Sỹ – Người giữ ngọn lửa của chữ nghĩa 16 Tháng Mười, 2025
- Viết vội những dòng tưởng nhớ: Thương tiếc nhà văn Doãn Quốc Sỹ 16 Tháng Mười, 2025
- Thay Lời Tựa dành cho tập truyện “Cò Đùm” của nhà văn Doãn Quốc Sỹ 16 Tháng Mười, 2025
- Những con chữ của ba tôi 16 Tháng Mười, 2025
- Ocean Vương – Mỹ là một ảo ảnh 16 Tháng Mười, 2025
- Thơ Shaimaa El Sabbagh 15 Tháng Mười, 2025
- Nhà văn Doãn Quốc Sỹ qua đời tại Nam California, thọ 103 tuổi 15 Tháng Mười, 2025
- Sinh mệnh của sông Mã, sông Chu và sông Lam dưới bóng các mỏ đất hiếm ở Lào 15 Tháng Mười, 2025
- Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 316): Nguyễn Xuân Hoàng, nhà văn hải ngoại 15 Tháng Mười, 2025
- Quyền ăn trộm, quyền kể chuyện và phẩm giá quốc gia 15 Tháng Mười, 2025
- Đọc Bùi Chát – Kẻ đi về phía chữ nghĩa mất cân bằng 15 Tháng Mười, 2025
- 120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Liệu có còn cứu vớt được trí thức? (*) 15 Tháng Mười, 2025
- Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 6) 15 Tháng Mười, 2025
- Nguyễn Thị Loan Phương – Triển lãm cá nhân đầu tiên, tranh sơn mài ĐƯỜNG LÊN MÂY 14 Tháng Mười, 2025
- Vinh Thụ – Sự thức tỉnh của sơn mài trước thời đại 14 Tháng Mười, 2025
- Treo đá giữa trời 14 Tháng Mười, 2025
- Bề dày năm tháng cũng là tài sản 14 Tháng Mười, 2025
- Khi Giải Nobel Hòa Bình 2025 bị phỉ báng: Sự thật ở đâu? 13 Tháng Mười, 2025
- Tản ký con nhím 13 Tháng Mười, 2025
- Giữa hoang mạc tinh thần tìm lại tâm kinh 13 Tháng Mười, 2025
- Cây tuyết tùng cô đơn (László Krasznahorkai 60 tuổi) 13 Tháng Mười, 2025
- Rượu lạt 13 Tháng Mười, 2025
- Giải thưởng mỹ thuật đương đại: Tín hiệu chuyển mình và cơ chế đánh giá mới cho nghệ thuật Việt Nam 13 Tháng Mười, 2025
- Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 5) 13 Tháng Mười, 2025
- Thơ ngọng của Nguyễn Duy 12 Tháng Mười, 2025
- László Krasznahorkai – Đường đến Nobel văn chương 2025 12 Tháng Mười, 2025
- 120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Từ biện minh cho sự hiện hữu đến biện hộ cho trí thức: một khao khát làm người (*) 12 Tháng Mười, 2025
- Phản kháng: Từ tranh, thơ, tượng, tới giấy trắng 12 Tháng Mười, 2025
- Thư gởi con trai – Những bức thư không khép lại 12 Tháng Mười, 2025
- Nguyễn Lâm – Người giữ ngọn lửa trừu tượng miền Nam 12 Tháng Mười, 2025
- Thơ Nguyễn Quốc Chánh 12 Tháng Mười, 2025
- Dòng nhạc kỷ niệm với nhạc cũ miền Nam (kỳ 355): Tuyển tập “Những Tình Khúc Tiền Chiến Tiêu Biểu”- Mơ Hoa (Hoàng Giác) 12 Tháng Mười, 2025
- Welcome to Palestine Cultures of the World Festival in Hanoi 12 Tháng Mười, 2025
- María Corina Machado – Người đàn bà không chịu câm lặng 11 Tháng Mười, 2025
- László Krasznahorkai: Nhà văn thắng giải Nobel nhấn mạnh tính thực tế của hiện tại 11 Tháng Mười, 2025
- “Bậc thầy của khải huyền Hungary” 11 Tháng Mười, 2025
- Thế giới thể loại không yên ổn trong thơ Huy Bảo 11 Tháng Mười, 2025
- Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 315): Nghiêm Xuân Hồng hiện đại hóa huyền sử 11 Tháng Mười, 2025
- László Krasznahorkai – Ánh sáng trong bóng tối 10 Tháng Mười, 2025
Danh sách liên kết