Lê Minh Hà
Bà cái Hà có một niềm hãnh diện không giấu diếm trước các bà ở làng. Không bà nào tậu được cỗ áo quan như bà ở tuổi ấy, lúc tuổi mới chạm sáu mươi. Bốn tấm dài hai tấm ngắn, bào phẳng lì, gỗ vàng tâm nổi vân nâu sáng, nhìn như soi gương được, sờ tay vào thì mát rười rượi.Nhà bà cháu cái Hà khác nhiều nhà, gian giữa không có bàn thờ xây bệ vệ, rỗng gầm, để đồ hay đựng thóc, quét vôi trắng lốp. Đi sơ tán dọc ngang làng trên xóm dưới về, bà nhờ người đan một tấm vạt đóng đinh cố định vào bức tường hậu, giữa hai cây cột xây to vật hình tròn mà nó vòng tay cũng không ôm hết. Lúc còn bé, Hà rất thích đứng trên giường bám cột nhà để với mấy cuốn sách đặt ngay đầu bàn thờ. Sách không biết của ai ở nhờ nhà lúc bà cháu dạt đi để quên lại. Có sách Bình dân học vụ. Có cả truyện. Cái Hà lần mò tập đọc khi còn chưa được đi học bằng những kiến thức võ vẽ thu lượm được lúc bám cửa lớp học ở chùa làng Khảm Lâm và bằng mấy cuốn sách này. Nó biết chuyện Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Hoàng Trìu, Quan m Thị Kính, Nhị độ mai và vô khối chuyện khác đầu tiên là do bà kể, sau đó là tự đọc rồi kể lại cho bà cũng bắt đầu từ mấy cuốn sách bà không đọc được đặt trang trọng ở góc bàn thờ.
Ngoài mấy cuốn sách, bàn thờ chả có gì ngoài bát hương và bằng Tổ Quốc Ghi Công. Tên ông nó trên cái bằng đó ghi sai, thiếu dấu huyền, nhưng bà bảo thôi, ông chịu mất tên để con cháu được là con cháu liệt sĩ, chứ bới ra lần nữa thì không biết đến bao giờ mới được trên giải quyết, mà chắc gì đã xong, chưa xong thì có khi lại bị tiếp tục coi là nhà việt gian, thì chết, thì chết. Cái Hà đã nhiều lần đứng dưới ngửa cổ lần đọc từng chữ trên tấm bằng bùa hộ mệnh cho cả nhà đó, tự thắc mắc một mình ở dưới đất thì người ta gọi ông nó là gì, theo tên cụ đặt cho ông hay theo tên trên bàn thờ? Bát hương và tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công không thể nào với tới được lúc nào cũng bồng bềnh, cao vời trong trí nó.
Dưới bàn thờ, kê trên hai cái chân mễ là bộ quan tài chưa ghép mộng của bà, sáu tấm, bốn tấm dài, hai tấm ngắn, gỗ vàng tâm, kể có thêm cái bàn uống nước kê luôn đó thì ngồi sẽ rất tiện. Nhưng đến sờ vào đó thì chị em nó cũng phải rất rón rén, sợ bà mắng. Vài ba hôm bà lại cầm cái phất trần phẩy ngang phẩy dọc trên mặt gỗ, vừa phẩy bà vừa bảo có cỗ áo này rồi bà có chết đi thì bố mẹ cô chú chúng mày cũng không phải lo gì, còn giỗ bà thì cũng không phải bày vẽ gì, chỉ cần một bát nước chè xanh, quả dứa với lại mấy củ khoai lang. Bà nói, vừa tư lự vừa say mê, làm cái Hà lo lo. Tại có những ngày tháng hơi hơi yên hàn, như cái hồi mẹ nó cho nó bỏ học, đưa phắt nó về bà, chị nó với lũ em con bà cô ông chú chưa phải đi sơ tán lại, nhà chỉ có hai bà cháu nó. Bà là chỗ dựa duy nhất của nó ở làng, nơi lúc nào cũng làm nó hơi chờn chợn vì chẳng biết ai với ai, lại còn không có bạn. Nó lo bà chết. Còn con em họ nó thì lại sợ bà chết mà giỗ bà như bà bảo thì chán, chả được ăn giỗ to.
Ăn giỗ to là to thế nào? Mấy chị em đều nhất trí là to như giỗ ông. Bà chẳng mời ai, chỉ có mẹ con bà cháu. Mãi sau này cái Hà mới biết ngày đó nhà nào cũng ăn cỗ, không có giỗ vẫn có cỗ. Vì đó là ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân, ngày chiêu hồn những người không được chết ở nhà, không được người nhà chôn cất. Nó hỏi bà nó sao không giỗ ông theo ngày ông hi sinh ghi trên bằng Tổ Quốc Ghi Công. Bà cái Hà chả bảo gì, chỉ thở dài. Hàng xóm bảo bác giỗ bác trai thế này thì coi như mất giỗ, bà vẫn lẳng lặng làm thế. Tận khi bác Mạch gái sang nhà khóc với bà vì nhận tin bác Mạch trai đã hi sinh, hi sinh nhưng chưa báo tử, chẳng biết phải cúng giỗ thế nào, bà mới nhỏ nhẹ bảo thương nhớ để trong lòng, cúng giỗ thì hương hoa cũng là cúng giỗ, anh ấy thật sống khôn chết thiêng thì sẽ về với mấy mẹ con từng ngày chứ chờ gì mâm cao cỗ đầy cháu biện. Đến khi đó cái Hà mới biết ngày ông nó hi sinh ghi trên bằng Tổ Quốc Ghi Công không thể là ngày giỗ ông được. Bà chỉ biết ang áng ông hi sinh đận chiến dịch Thu Đông năm một chín bốn bảy, trên Việt Bắc. Vậy là bà làm giỗ ông vào rằm tháng bảy. Bà rì rầm với bác Mạch hi sinh cũng là chết, chết vì gì thì cũng là chết, báu gì cái chuyện được công nhận nọ kia, chẳng qua chú nhà thím chết đi mang cái danh Việt gian thì con cháu không ngẩng đầu lên mà sống được nên là cứ phải đòi, cứ phải kiện đòi minh oan đến cùng để chú được công nhận là liệt sĩ. Hy sinh đời bố thì phải củng cố được đời con. May mà nhà thím bố mẹ bọn trẻ con là người nhà nước, còn biết đường kêu. Thím giỗ chú ngày này là để chú với anh em đồng chí tiếp tục bầu bạn dưới kia được ấm áp cùng nhau. Cùng cảnh ra đi, mất xương mất cốt, sông núi thì mênh mông mà mả riêng chưa chắc có, khấn vái riêng một người thì tội với nhiều người. Bác Mạch gái nghẹn ngào: “Hay là cháu về bảo với ông nhà cháu cứ làm như thím?!” Cái Hà nghe hóng, tự gật gù à biết rồi, biết vì sao trên bàn thờ chỉ có nải chuối bát hương mà mâm cỗ giỗ đầy phè kia bà lại đặt trên cái giường không ai nằm, không trải chiếu, kê sát khung cửa sổ mở ra vườn. Đấy là hai lần giỗ, giỗ ông mình với lại giỗ nhiều người làm ma ở ngoài đường ở chiến chường – Cái Hà ti toe giảng giải cho bà chị bé và mấy đứa em nhưng lớn hơn mình, thích chí vì mắt đứa nào cũng trố ra khi nghe.
Bà sợ cảnh người chết chỉ có tấm chiếu hay mùng màn đậy điệm khi chôn làm người sống áy náy hay gì mà tự tậu cỗ quan tài sớm thế chị em cái Hà không biết. Cỗ quan tài chưa ghép mộng oai vệ dưới bàn thờ ông một hôm bị hạ xuống. Máy bay Mỹ đánh phá ác liệt hơn. Có đêm bà phải đánh thức bầy cháu nằm đầy hai cái giường ở hai gian, giục chạy ra vườn, xuống hầm. Tối om, bọn trẻ lồm cồm lần mấy bậc đất tụt xuống, có hôm ngã chồng đống cá khê lên nhau, có hôm ướt như chuột lột vì ngập nước mưa chưa nhờ bên nhà ông Lúa tát đi được. Thế là bà gọi mấy chú hàng xóm tới nhờ đào hầm dưới gầm giường. Bốn tấm dài của cỗ quan tài chia đôi, kê lên làm nắp hầm, thò một đầu ra khỏi cái gầm giường thước sáu và thành nơi bà đặt âu trầu. Cái Hà rất thích ngồi ở đó lục lọi âu trầu của bà, gạ xin têm giầu cho bà. Nó cũng biết tiện miếng vỏ quạch bằng con dao bài nhỏ, bổ quả cau tươi hay chẻ hạt cau khô, xé lá giầu không quệt vôi, nhúm tí thuốc lào rồi cuộn lại đưa lên miệng bà. Nó không dám thử món đó bao giờ vì tận mắt thấy bà chị bé say trầu, lử lả ngã vật ra thềm vào phiên chợ trước đó lúc bà đi vắng, chỉ vì dám thử ăn trầu, lại còn nuốt cả nước cốt. Đánh đu chơi nhởn với lũ trẻ con trong xóm cả buổi mồ hôi mồ kê, về nhà, cái Hà thích khoanh chân chân ngồi ở đầu mấy tấm gỗ của cỗ áo quan chưa dùng nhìn ra vườn chuối. Cứ ngửi mùi trầu bà vừa nhai dập là không hiểu sao con bé rất yên tâm.
Rồi cũng hết chiến tranh. Bà theo chân mấy đứa cháu trở ra Hà Nội. Ở lại làng chỉ còn bà cô ruột cái Hà cùng mấy đứa con. Ngày ông đi kháng chiến, cô nó theo mẹ đưa em về làng tản cư, rồi thì làng bị Pháp chiếm, thành làng tề. Con gái thị thành da trắng tóc xanh mới mười sáu tuổi bị Tây bắt đi phu xây lô cốt ở đầu cầu, bà hoảng, đánh tiếng gả cô để cô được yên thân. Thế là kháng chiến thành công cô nó không thể trở ra Hà Nội được nữa, thành người nhà quê từ ấy. Cô chở bộ quan tài của bà về trên nhà, ngả ra thành bộ phản cho bầy con lăn lóc. Mấy tấm ván gỗ vàng tâm đã được bào bóng loáng, giờ càng bóng nhờ mồ hôi và đít trẻ con. Khi nào bà nằm xuống thì cả nhà sẽ đem mấy tấm ván ghép mộng lại, thế là thành cỗ áo để bà nằm. Rất oách. Cái Hà biết vậy từ lúc bé tí, biết, bà nó rất hãnh diện vì tậu được bộ quan tài để có chết đi thì bố mẹ cô chú nó sẽ không phải lo toan gì.
Hơn hai mươi năm sau bà cái Hà đi theo ông nó. Không biết tại sao mà rồi cỗ áo quan của bà không thấy chở ra Hà Nội. Bà về lại làng trong bộ ván mua theo tiêu chuẩn dành cho người chết tại cửa hàng làm quan tài ở phố 305, gần phố Lò Đúc nhà nó. Áo quan mậu dịch làm bằng gỗ tạp, sơn đỏ loét, không ghép mộng mà đóng đinh, chỗ hở chỗ vênh, phải nhờ vả chọn mãi mới được một cỗ tàm tạm cho bà.
Cỗ áo bà cái Hà dành dụm tự tậu cho mình lúc còn chưa tới tuổi sáu mươi vẫn là cái phản lên nước bóng ngời ở trên nhà bà cô nó.
Đám chắt của bà không đứa nào biết thực ra đó là bốn tấm ván của một cỗ quan tài được tậu từ sáu mươi năm về trước, được cụ của chúng tự chuẩn bị, để con cháu không phải khổ, lúc cụ sắp bước qua tuổi sáu mươi.
Cái Hà cứ thắc mắc một mình mãi suốt bao năm, còn hai tấm ván ngắn của cỗ áo mà bà tậu sớm thế nhưng vẫn không được nằm, cũng bằng gỗ vàng tâm, hai tấm gỗ ấy phiêu dạt nơi đâu không biết nữa.
Berlin, 24. 07.2022 – 07. 03. 2024
Rút từ SÔNG CÒN CHƯA CẠN
-
Người phụ trách Văn Việt:
Trịnh Y Thư
Emails:
Văn:
Thơ:
Nghiên cứu – Phê bình:
Vấn đề hôm nay:
-
DANH NGÔN
-
Viết là một hình thức trị liệu; đôi khi tôi tự hỏi làm thế nào tất cả những người không viết, sáng tác hoặc vẽ có thể thoát khỏi sự điên rồ, u sầu, hoảng loạn và sợ hãi vốn có trong thân phận con người.
-
Writing is a form of therapy; sometimes I wonder how all those who do not write, compose, or paint can manage to escape the madness, melancholia, the panic and fear which is inherent in a human situation.
-
(Graham Greene, Ways of Escape, 1980)
-
Viết, tôi nghĩ, không tách biệt với sống. Viết là một dạng sống kép. Nhà văn trải nghiệm mọi thứ hai lần. Một lần trong thực tại và một lần trong tấm gương luôn chờ đợi trước hoặc sau.
-
Writing, I think, is not apart from living. Writing is a kind of double living. The writer experiences everything twice. Once in reality and once in that mirror which waits always before or behind.
-
(Catherine Drinker Bowen, The Atlantic, số tháng 12, 1957)
-
Tôi có thể viết những thứ rác rưởi, nhưng văn chương rác rưởi thì người ta bao giờ cũng có thể sửa. Chứ một trang trống thì đành thua.
-
I may write garbage, but you can always edit garbage. You can't edit a blank page.
-
(Jodi Picoult, npr ngày 22.11.2006)
-
Tôi chưa bao giờ bắt đầu một bài thơ mà tôi biết trước kết thúc. Viết… là khám phá.
-
I have never started a poem yet whose end I knew. Writing... is discovering.
-
(Robert Frost, Selected poems, ed. 1963)
-
Nếu có một cuốn sách bạn muốn đọc nhưng nó chưa được viết thì bạn phải viết đi.
-
If there's a book that you want to read, but it hasn't been written yet, then you must write it.
-
(Toni Morrison, bài nói tại Hội đồng Nghệ thuật Ohio 1981)
-
Cứ viết đi, bất kể điều gì. Vòi mở thì nước mới chảy.
-
Start writing, no matter what. The water does not flow until the faucet is turned on.
-
(Louis L’Amour, Education of a Wandering Man, 2008)
-
Bài viết mới
- Cuối năm nhìn những chuyến xe qua 31 Tháng Mười Hai, 2025
- Sông Hậu biến mất trên Bàn cờ Mekong 31 Tháng Mười Hai, 2025
- Người viết ký ức trong Người xé mặt nạ 31 Tháng Mười Hai, 2025
- Quán cháo lú 31 Tháng Mười Hai, 2025
- Khi những bức tranh được treo lên 31 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Lê Thanh Trường 31 Tháng Mười Hai, 2025
- Tình dục và hiện sinh ở Haruki Murakami 30 Tháng Mười Hai, 2025
- Can đảm đứng về phía Sự thật: Đọc “Người xé mặt nạ” của Bùi Mai Hạnh 30 Tháng Mười Hai, 2025
- Phân tích ảnh hưởng xung đột biên giới Thái Lan – Cam Bốt trên tiến độ xây dựng kênh đào Funan Techo 30 Tháng Mười Hai, 2025
- Visual thinking – Sức mạnh của tư duy hình ảnh 30 Tháng Mười Hai, 2025
- Thương lắm ngày xưa 29 Tháng Mười Hai, 2025
- Nơi đất lành chim đậu 29 Tháng Mười Hai, 2025
- Nga cướp tài sản văn hóa, xóa căn cước Ukraine 29 Tháng Mười Hai, 2025
- Lê Trọng Nguyễn và “Bến giang đầu” 29 Tháng Mười Hai, 2025
- Nghệ thuật thuộc về nhân dân (Sự nhào nặn độc giả xô-viết) 28 Tháng Mười Hai, 2025
- Bao giờ người biết yêu người? 28 Tháng Mười Hai, 2025
- Ghi chép của Nguyễn Phương Mai sau gần 4 tháng sống tại Ukraine, Nga và một số nước trong vùng đệm của hai bên chiến tuyến (kỳ 5) 28 Tháng Mười Hai, 2025
- Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng đầu rau, các cơm, ghế cơm, nhà vưng/bếp, lò, vua bếp/táo quân (phần 51) 28 Tháng Mười Hai, 2025
- GIỚI THIỆU Tạp chí Triết số đặc biệt về Thông diễn học (tapchitriet.com) 28 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Cư sĩ Minh Đạt 28 Tháng Mười Hai, 2025
- Đọc Máu rắn của Đỗ Hoàng Diệu 27 Tháng Mười Hai, 2025
- Linh hồn sông nước của “Văn hóa miệt vườn” trong văn xuôi Nam Bộ 27 Tháng Mười Hai, 2025
- Tháng mười hai 27 Tháng Mười Hai, 2025
- Một vùng đất còn thơm mùi huyền sử 27 Tháng Mười Hai, 2025
- Lữ khách 26 Tháng Mười Hai, 2025
- Tượng đất tượng gỗ tranh tài 26 Tháng Mười Hai, 2025
- Heidegger: Tầm ảnh hưởng sâu sắc của Being and Time 26 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Vasyl Stus 26 Tháng Mười Hai, 2025
- Mỹ học của sự nổi loạn 26 Tháng Mười Hai, 2025
- Ngài Z và Kẻ Thế Thân 25 Tháng Mười Hai, 2025
- Mỹ tự trong sắc phong thần của Thượng quan Phan Thanh Giản 25 Tháng Mười Hai, 2025
- Địa tô, doanh thu và quyền phát triển đất: nhà nước sẽ thu được bao nhiêu từ các khu đô thị? 24 Tháng Mười Hai, 2025
- Đọc Han Kang giữa cuộc khủng hoảng nhân đạo trên dải Gaza 24 Tháng Mười Hai, 2025
- Thử “đọc” tranh Doãn Hoàng Kiên bằng “Ký hiệu học tạo hình” 24 Tháng Mười Hai, 2025
- Rằm tháng bảy (5) 24 Tháng Mười Hai, 2025
- Ghi chép của Nguyễn Phương Mai sau gần 4 tháng sống tại Ukraine, Nga và một số nước trong vùng đệm của hai bên chiến tuyến (kỳ 4) 24 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Thiền Zen Paul Vân Thuyết 24 Tháng Mười Hai, 2025
- Ở Phòng Triển Lãm Số 0 23 Tháng Mười Hai, 2025
- Rằm tháng bảy (4) 23 Tháng Mười Hai, 2025
- Ghi chép của Nguyễn Phương Mai sau gần 4 tháng sống tại Ukraine, Nga và một số nước trong vùng đệm của hai bên chiến tuyến (kỳ 3) 23 Tháng Mười Hai, 2025
- Chuyện thật như đùa 23 Tháng Mười Hai, 2025
- Nơi đất lành chim đậu 23 Tháng Mười Hai, 2025
- Phim Left-Handed Girl (Cô Bé Tay Chiêu) của nữ đạo diễn Thái Thực Tinh 23 Tháng Mười Hai, 2025
- Ngủ mơ, thấy dự một phiên xử đặc biệt của Tòa án “Sự thật tuyệt đối” 23 Tháng Mười Hai, 2025
- Màu xanh, theo những bể dâu 22 Tháng Mười Hai, 2025
- Ghi chép của Nguyễn Phương Mai sau gần 4 tháng sống tại Ukraine, Nga và một số nước trong vùng đệm của hai bên chiến tuyến (kỳ 2) 22 Tháng Mười Hai, 2025
- Nghe nhịp đá dưới chân tháp 22 Tháng Mười Hai, 2025
- Tôi úp mặt vào nước – một nhu cầu kỳ lạ 22 Tháng Mười Hai, 2025
- Rằm tháng bảy (3) 22 Tháng Mười Hai, 2025
- Ghi chép của Nguyễn Phương Mai sau gần 4 tháng sống tại Ukraine, Nga và một số nước trong vùng đệm của hai bên chiến tuyến (kỳ 1) 21 Tháng Mười Hai, 2025
- Đọc Tuyển tập Trịnh Y Thư: Theo Dấu Thư Hương 2 21 Tháng Mười Hai, 2025
- Rằm tháng bảy (2) 21 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Trần Hoàng Phố 21 Tháng Mười Hai, 2025
- Con người, cuối cùng đều phải làm bạn với cô đơn 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Con đường phải tránh! 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Bức thư chia tay của nhà báo Tô Hòa (viết nhân vĩnh biệt chị Ngọc Lan) 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Taxi đêm ở Tokyo 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Rằm tháng bảy (1) 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Nữ hoạ sĩ Kim Chi – Triển lãm tranh sơn dầu cá nhân lần thứ 7 “No Stopping 2” – 20 năm đến với nghệ thuật 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Chọn lọc gen và ảo tưởng về tinh hoa 19 Tháng Mười Hai, 2025
- “Nỗi buồn chiến tranh”: Ai hiếp Phương? 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Tiến sĩ ca 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Chu Hồng Tiến và 29 bài thơ cuối 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Có phải là như thế không? 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 8 – hết) 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Nguyễn Viện 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Mùa nào thức nấy, có phải!?! (Về “Văn học Chấn thương”) 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Sự ồn ào quanh Nỗi buồn chiến tranh và thứ đứng sau nó 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Tôi nghe nhạc Từ Công Phụng 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Người xé mặt nạ 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 7) 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Tiệm cận sự thật và lật sử 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Tuổi thơ và con sông Tonlé Sap trên Xứ Chùa Tháp 2/3 thế kỷ trước 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Song Lang 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 6) 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Lê An Thế 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Người buôn đồ cổ 16 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn của hận thù còn lớn hơn NỖI BUỒN CHIẾN TRANH 16 Tháng Mười Hai, 2025
- “Nỗi buồn chiến tranh” – Bản kinh thế tục phơi bày vô minh 16 Tháng Mười Hai, 2025
- Những nhân vật vắng mặt trong QUÁN KỲ NAM 16 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 5) 16 Tháng Mười Hai, 2025
- Văn học có cần phải “đẹp”: Nhìn từ “Báu vật của đời”? 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Sartre đã biện hộ cho trí thức như thế nào? 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Khủng hoảng tác giả và sự trỗi dậy của độc giả trí tuệ nhân tạo 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Bài nói chuyện của Nguyễn Thị Khánh Minh trong buổi Ra Mắt Sách “Theo Dấu Thư Hương” tập 2 của nhà văn Trịnh Y Thư 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 4) 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Gánh hát quê đã cũ và những ngụm nước bọt đang phun 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Cập nhật tiến độ kênh đào Funan Techo từ tháng 05.2023 tới tháng 12.2025 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Thăm một bảo tàng hòa bình ở Nhật 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Phát biểu nhân dịp giới thiệu cuốn Theo Dấu Thư Hương II của Trịnh Y Thư 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn chiến tranh, và 4 thập kỷ dư luận 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Bùi Chát & Cụ thể trừu tượng 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Đặng Tiến (Thái Nguyên) 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Từ một chiếc lồng nghĩ về “Nỗi buồn chiến tranh” 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Bộ sưu tập các tác phẩm Hán văn của tủ sách Hoàng Xuân Hãn được đưa vào thư viện của Viện Đông Á (IAO, Lyon) 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Năng lượng một con đường – Đọc hồi ký Bùi Mai Hạnh 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Giám tuyển: Nghề kiến tạo tri thức và phẩm giá bị hiểu sai 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 3) 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Những chuyến đi xa 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Chiến tranh không chỉ có một giọng kể 12 Tháng Mười Hai, 2025
Danh sách liên kết