Lê Minh Hà
Bà cái Hà có một niềm hãnh diện không giấu diếm trước các bà ở làng. Không bà nào tậu được cỗ áo quan như bà ở tuổi ấy, lúc tuổi mới chạm sáu mươi. Bốn tấm dài hai tấm ngắn, bào phẳng lì, gỗ vàng tâm nổi vân nâu sáng, nhìn như soi gương được, sờ tay vào thì mát rười rượi.Nhà bà cháu cái Hà khác nhiều nhà, gian giữa không có bàn thờ xây bệ vệ, rỗng gầm, để đồ hay đựng thóc, quét vôi trắng lốp. Đi sơ tán dọc ngang làng trên xóm dưới về, bà nhờ người đan một tấm vạt đóng đinh cố định vào bức tường hậu, giữa hai cây cột xây to vật hình tròn mà nó vòng tay cũng không ôm hết. Lúc còn bé, Hà rất thích đứng trên giường bám cột nhà để với mấy cuốn sách đặt ngay đầu bàn thờ. Sách không biết của ai ở nhờ nhà lúc bà cháu dạt đi để quên lại. Có sách Bình dân học vụ. Có cả truyện. Cái Hà lần mò tập đọc khi còn chưa được đi học bằng những kiến thức võ vẽ thu lượm được lúc bám cửa lớp học ở chùa làng Khảm Lâm và bằng mấy cuốn sách này. Nó biết chuyện Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Hoàng Trìu, Quan m Thị Kính, Nhị độ mai và vô khối chuyện khác đầu tiên là do bà kể, sau đó là tự đọc rồi kể lại cho bà cũng bắt đầu từ mấy cuốn sách bà không đọc được đặt trang trọng ở góc bàn thờ.
Ngoài mấy cuốn sách, bàn thờ chả có gì ngoài bát hương và bằng Tổ Quốc Ghi Công. Tên ông nó trên cái bằng đó ghi sai, thiếu dấu huyền, nhưng bà bảo thôi, ông chịu mất tên để con cháu được là con cháu liệt sĩ, chứ bới ra lần nữa thì không biết đến bao giờ mới được trên giải quyết, mà chắc gì đã xong, chưa xong thì có khi lại bị tiếp tục coi là nhà việt gian, thì chết, thì chết. Cái Hà đã nhiều lần đứng dưới ngửa cổ lần đọc từng chữ trên tấm bằng bùa hộ mệnh cho cả nhà đó, tự thắc mắc một mình ở dưới đất thì người ta gọi ông nó là gì, theo tên cụ đặt cho ông hay theo tên trên bàn thờ? Bát hương và tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công không thể nào với tới được lúc nào cũng bồng bềnh, cao vời trong trí nó.
Dưới bàn thờ, kê trên hai cái chân mễ là bộ quan tài chưa ghép mộng của bà, sáu tấm, bốn tấm dài, hai tấm ngắn, gỗ vàng tâm, kể có thêm cái bàn uống nước kê luôn đó thì ngồi sẽ rất tiện. Nhưng đến sờ vào đó thì chị em nó cũng phải rất rón rén, sợ bà mắng. Vài ba hôm bà lại cầm cái phất trần phẩy ngang phẩy dọc trên mặt gỗ, vừa phẩy bà vừa bảo có cỗ áo này rồi bà có chết đi thì bố mẹ cô chú chúng mày cũng không phải lo gì, còn giỗ bà thì cũng không phải bày vẽ gì, chỉ cần một bát nước chè xanh, quả dứa với lại mấy củ khoai lang. Bà nói, vừa tư lự vừa say mê, làm cái Hà lo lo. Tại có những ngày tháng hơi hơi yên hàn, như cái hồi mẹ nó cho nó bỏ học, đưa phắt nó về bà, chị nó với lũ em con bà cô ông chú chưa phải đi sơ tán lại, nhà chỉ có hai bà cháu nó. Bà là chỗ dựa duy nhất của nó ở làng, nơi lúc nào cũng làm nó hơi chờn chợn vì chẳng biết ai với ai, lại còn không có bạn. Nó lo bà chết. Còn con em họ nó thì lại sợ bà chết mà giỗ bà như bà bảo thì chán, chả được ăn giỗ to.
Ăn giỗ to là to thế nào? Mấy chị em đều nhất trí là to như giỗ ông. Bà chẳng mời ai, chỉ có mẹ con bà cháu. Mãi sau này cái Hà mới biết ngày đó nhà nào cũng ăn cỗ, không có giỗ vẫn có cỗ. Vì đó là ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân, ngày chiêu hồn những người không được chết ở nhà, không được người nhà chôn cất. Nó hỏi bà nó sao không giỗ ông theo ngày ông hi sinh ghi trên bằng Tổ Quốc Ghi Công. Bà cái Hà chả bảo gì, chỉ thở dài. Hàng xóm bảo bác giỗ bác trai thế này thì coi như mất giỗ, bà vẫn lẳng lặng làm thế. Tận khi bác Mạch gái sang nhà khóc với bà vì nhận tin bác Mạch trai đã hi sinh, hi sinh nhưng chưa báo tử, chẳng biết phải cúng giỗ thế nào, bà mới nhỏ nhẹ bảo thương nhớ để trong lòng, cúng giỗ thì hương hoa cũng là cúng giỗ, anh ấy thật sống khôn chết thiêng thì sẽ về với mấy mẹ con từng ngày chứ chờ gì mâm cao cỗ đầy cháu biện. Đến khi đó cái Hà mới biết ngày ông nó hi sinh ghi trên bằng Tổ Quốc Ghi Công không thể là ngày giỗ ông được. Bà chỉ biết ang áng ông hi sinh đận chiến dịch Thu Đông năm một chín bốn bảy, trên Việt Bắc. Vậy là bà làm giỗ ông vào rằm tháng bảy. Bà rì rầm với bác Mạch hi sinh cũng là chết, chết vì gì thì cũng là chết, báu gì cái chuyện được công nhận nọ kia, chẳng qua chú nhà thím chết đi mang cái danh Việt gian thì con cháu không ngẩng đầu lên mà sống được nên là cứ phải đòi, cứ phải kiện đòi minh oan đến cùng để chú được công nhận là liệt sĩ. Hy sinh đời bố thì phải củng cố được đời con. May mà nhà thím bố mẹ bọn trẻ con là người nhà nước, còn biết đường kêu. Thím giỗ chú ngày này là để chú với anh em đồng chí tiếp tục bầu bạn dưới kia được ấm áp cùng nhau. Cùng cảnh ra đi, mất xương mất cốt, sông núi thì mênh mông mà mả riêng chưa chắc có, khấn vái riêng một người thì tội với nhiều người. Bác Mạch gái nghẹn ngào: “Hay là cháu về bảo với ông nhà cháu cứ làm như thím?!” Cái Hà nghe hóng, tự gật gù à biết rồi, biết vì sao trên bàn thờ chỉ có nải chuối bát hương mà mâm cỗ giỗ đầy phè kia bà lại đặt trên cái giường không ai nằm, không trải chiếu, kê sát khung cửa sổ mở ra vườn. Đấy là hai lần giỗ, giỗ ông mình với lại giỗ nhiều người làm ma ở ngoài đường ở chiến chường – Cái Hà ti toe giảng giải cho bà chị bé và mấy đứa em nhưng lớn hơn mình, thích chí vì mắt đứa nào cũng trố ra khi nghe.
Bà sợ cảnh người chết chỉ có tấm chiếu hay mùng màn đậy điệm khi chôn làm người sống áy náy hay gì mà tự tậu cỗ quan tài sớm thế chị em cái Hà không biết. Cỗ quan tài chưa ghép mộng oai vệ dưới bàn thờ ông một hôm bị hạ xuống. Máy bay Mỹ đánh phá ác liệt hơn. Có đêm bà phải đánh thức bầy cháu nằm đầy hai cái giường ở hai gian, giục chạy ra vườn, xuống hầm. Tối om, bọn trẻ lồm cồm lần mấy bậc đất tụt xuống, có hôm ngã chồng đống cá khê lên nhau, có hôm ướt như chuột lột vì ngập nước mưa chưa nhờ bên nhà ông Lúa tát đi được. Thế là bà gọi mấy chú hàng xóm tới nhờ đào hầm dưới gầm giường. Bốn tấm dài của cỗ quan tài chia đôi, kê lên làm nắp hầm, thò một đầu ra khỏi cái gầm giường thước sáu và thành nơi bà đặt âu trầu. Cái Hà rất thích ngồi ở đó lục lọi âu trầu của bà, gạ xin têm giầu cho bà. Nó cũng biết tiện miếng vỏ quạch bằng con dao bài nhỏ, bổ quả cau tươi hay chẻ hạt cau khô, xé lá giầu không quệt vôi, nhúm tí thuốc lào rồi cuộn lại đưa lên miệng bà. Nó không dám thử món đó bao giờ vì tận mắt thấy bà chị bé say trầu, lử lả ngã vật ra thềm vào phiên chợ trước đó lúc bà đi vắng, chỉ vì dám thử ăn trầu, lại còn nuốt cả nước cốt. Đánh đu chơi nhởn với lũ trẻ con trong xóm cả buổi mồ hôi mồ kê, về nhà, cái Hà thích khoanh chân chân ngồi ở đầu mấy tấm gỗ của cỗ áo quan chưa dùng nhìn ra vườn chuối. Cứ ngửi mùi trầu bà vừa nhai dập là không hiểu sao con bé rất yên tâm.
Rồi cũng hết chiến tranh. Bà theo chân mấy đứa cháu trở ra Hà Nội. Ở lại làng chỉ còn bà cô ruột cái Hà cùng mấy đứa con. Ngày ông đi kháng chiến, cô nó theo mẹ đưa em về làng tản cư, rồi thì làng bị Pháp chiếm, thành làng tề. Con gái thị thành da trắng tóc xanh mới mười sáu tuổi bị Tây bắt đi phu xây lô cốt ở đầu cầu, bà hoảng, đánh tiếng gả cô để cô được yên thân. Thế là kháng chiến thành công cô nó không thể trở ra Hà Nội được nữa, thành người nhà quê từ ấy. Cô chở bộ quan tài của bà về trên nhà, ngả ra thành bộ phản cho bầy con lăn lóc. Mấy tấm ván gỗ vàng tâm đã được bào bóng loáng, giờ càng bóng nhờ mồ hôi và đít trẻ con. Khi nào bà nằm xuống thì cả nhà sẽ đem mấy tấm ván ghép mộng lại, thế là thành cỗ áo để bà nằm. Rất oách. Cái Hà biết vậy từ lúc bé tí, biết, bà nó rất hãnh diện vì tậu được bộ quan tài để có chết đi thì bố mẹ cô chú nó sẽ không phải lo toan gì.
Hơn hai mươi năm sau bà cái Hà đi theo ông nó. Không biết tại sao mà rồi cỗ áo quan của bà không thấy chở ra Hà Nội. Bà về lại làng trong bộ ván mua theo tiêu chuẩn dành cho người chết tại cửa hàng làm quan tài ở phố 305, gần phố Lò Đúc nhà nó. Áo quan mậu dịch làm bằng gỗ tạp, sơn đỏ loét, không ghép mộng mà đóng đinh, chỗ hở chỗ vênh, phải nhờ vả chọn mãi mới được một cỗ tàm tạm cho bà.
Cỗ áo bà cái Hà dành dụm tự tậu cho mình lúc còn chưa tới tuổi sáu mươi vẫn là cái phản lên nước bóng ngời ở trên nhà bà cô nó.
Đám chắt của bà không đứa nào biết thực ra đó là bốn tấm ván của một cỗ quan tài được tậu từ sáu mươi năm về trước, được cụ của chúng tự chuẩn bị, để con cháu không phải khổ, lúc cụ sắp bước qua tuổi sáu mươi.
Cái Hà cứ thắc mắc một mình mãi suốt bao năm, còn hai tấm ván ngắn của cỗ áo mà bà tậu sớm thế nhưng vẫn không được nằm, cũng bằng gỗ vàng tâm, hai tấm gỗ ấy phiêu dạt nơi đâu không biết nữa.
Berlin, 24. 07.2022 – 07. 03. 2024
Rút từ SÔNG CÒN CHƯA CẠN
-
Người phụ trách Văn Việt:
Trịnh Y Thư
Emails:
Văn:
Thơ:
Nghiên cứu – Phê bình:
Vấn đề hôm nay:
-
DANH NGÔN
-
Viết là một hình thức trị liệu; đôi khi tôi tự hỏi làm thế nào tất cả những người không viết, sáng tác hoặc vẽ có thể thoát khỏi sự điên rồ, u sầu, hoảng loạn và sợ hãi vốn có trong thân phận con người.
-
Writing is a form of therapy; sometimes I wonder how all those who do not write, compose, or paint can manage to escape the madness, melancholia, the panic and fear which is inherent in a human situation.
-
(Graham Greene, Ways of Escape, 1980)
-
Viết, tôi nghĩ, không tách biệt với sống. Viết là một dạng sống kép. Nhà văn trải nghiệm mọi thứ hai lần. Một lần trong thực tại và một lần trong tấm gương luôn chờ đợi trước hoặc sau.
-
Writing, I think, is not apart from living. Writing is a kind of double living. The writer experiences everything twice. Once in reality and once in that mirror which waits always before or behind.
-
(Catherine Drinker Bowen, The Atlantic, số tháng 12, 1957)
-
Tôi có thể viết những thứ rác rưởi, nhưng văn chương rác rưởi thì người ta bao giờ cũng có thể sửa. Chứ một trang trống thì đành thua.
-
I may write garbage, but you can always edit garbage. You can't edit a blank page.
-
(Jodi Picoult, npr ngày 22.11.2006)
-
Tôi chưa bao giờ bắt đầu một bài thơ mà tôi biết trước kết thúc. Viết… là khám phá.
-
I have never started a poem yet whose end I knew. Writing... is discovering.
-
(Robert Frost, Selected poems, ed. 1963)
-
Nếu có một cuốn sách bạn muốn đọc nhưng nó chưa được viết thì bạn phải viết đi.
-
If there's a book that you want to read, but it hasn't been written yet, then you must write it.
-
(Toni Morrison, bài nói tại Hội đồng Nghệ thuật Ohio 1981)
-
Cứ viết đi, bất kể điều gì. Vòi mở thì nước mới chảy.
-
Start writing, no matter what. The water does not flow until the faucet is turned on.
-
(Louis L’Amour, Education of a Wandering Man, 2008)
-
Bài viết mới
- Đừng dùng ký ức cá nhân để kết tội một tác phẩm văn học 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Ông Hạo – một ánh sáng lụi tàn 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Điểm mù tập thể trong quan hệ sáng tạo giữa họa sĩ, giám tuyển và phê bình tại Việt Nam 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Sự thách đố của Cái Ác 10 Tháng Mười Hai, 2025
- SỰ SÁM HỐI với LINH MỤC và VỚI CÔNG CHÚNG… 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Nguyễn Huy Lượng bình văn Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Bùi Vĩnh Phúc 10 Tháng Mười Hai, 2025
- “Nỗi buồn chiến tranh” và hiện tượng thù ghét văn chương 9 Tháng Mười Hai, 2025
- QUÁN KỲ NAM – Bến duyên giang đầu mây che kín một niềm đau 9 Tháng Mười Hai, 2025
- Portrait of a Lady on Fire (Chân dung thiếu nữ trong lửa) – Càng xem càng thấy hay 9 Tháng Mười Hai, 2025
- Lẫn lộn (‘ngọng’) n – l qua lăng kính tiếng Việt từ TK 17 và mở rộng (phần 32C) 9 Tháng Mười Hai, 2025
- Hậu báo “Văn nghệ” và “Nỗi buồn chiến tranh” (kỳ 3) 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn chiến tranh và một công chúng văn chương 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Vị khách 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Collingwood và nỗ lực cứu chuộc nghệ thuật khỏi sự hời hợt của thời đại 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Vấn đề sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để dịch tác phẩm văn học (2) 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Nhà văn Bảo Ninh: “Sợ và né thì không viết được” 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Quán Kỳ Nam – Sài Gòn một thời không gọi tên 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Bến lở (kỳ 7 – hết) 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Vấn đề sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để dịch tác phẩm văn học (1) 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Quảng Tánh Trần Cầm 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Vinh danh tác phẩm – Có nên quốc doanh hoá sáng tạo văn chương và nghệ thuật? 6 Tháng Mười Hai, 2025
- Không gian nghệ thuật kỳ lạ của một hoạ sĩ không chỉ cầm cọ 6 Tháng Mười Hai, 2025
- Vương Gia Vệ và “Tâm trạng khi yêu” 6 Tháng Mười Hai, 2025
- Cành xuân khiết 6 Tháng Mười Hai, 2025
- Love without Sex – Những chuyện tình không xác thịt 5 Tháng Mười Hai, 2025
- Chính quyền Iran kết án vắng mặt đạo diễn Jafar Panahi một năm tù 5 Tháng Mười Hai, 2025
- Trần Mộng Tú, một dòng thơ tuôn chảy ngoài quê hương 5 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Dương Thắng 5 Tháng Mười Hai, 2025
- THÔNG ĐIỆP THÁNG 12: Đến với “Nước Đức, người trẻ và di sản”, hãy cởi mở, hãy tư duy phản biện 5 Tháng Mười Hai, 2025
- Tôi nhớ một người phía sau Bảo Ninh 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Giữ tượng đài hay giữ sự thật? Câu chuyện “Nỗi buồn chiến tranh” 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn chiến tranh 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Nguyễn Duy viết về cú cúi đầu của Bảo Ninh 4 Tháng Mười Hai, 2025
- “Kỉ niệm nào ghi dấu trên tay”: Tiễn biệt một lãng tử âm nhạc 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Đôi lời về phim “Quán Kỳ Nam” 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Bến lở (kỳ 6) 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” nhìn từ Mỹ 3 Tháng Mười Hai, 2025
- Từ nỗi buồn Bảo Ninh đến Nỗi buồn chiến tranh 3 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn chiến tranh và… kỷ nguyên gì 3 Tháng Mười Hai, 2025
- Thực hành diễn giải lịch sử của tác phẩm chiến tranh: So sánh “Nỗi buồn chiến tranh” và “Những thứ họ mang” 3 Tháng Mười Hai, 2025
- Tầm cao của văn học chiến tranh phương Đông 3 Tháng Mười Hai, 2025
- Cụ tượng – như một hơi thở nội tâm 3 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Nguyễn Hoàng Anh Thư 3 Tháng Mười Hai, 2025
- Ocean Vuong trò chuyện cùng Viet Thanh Nguyen 2 Tháng Mười Hai, 2025
- Nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn: Trọn đời mang theo ‘quê hương thu nhỏ’ 2 Tháng Mười Hai, 2025
- Vài nhận xét về phim “Quán Kỳ Nam” 2 Tháng Mười Hai, 2025
- Câu niệm chú xả lũ: thợ xẻ, thợ xả và thợ thiến 1 Tháng Mười Hai, 2025
- Giữa ồn ào và đức tin 1 Tháng Mười Hai, 2025
- Quán Kỳ Nam – Hạnh phúc nhỏ cũng làm ta muốn khóc 1 Tháng Mười Hai, 2025
- Nhớ nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn 1 Tháng Mười Hai, 2025
- Bến lở (kỳ 5) 1 Tháng Mười Hai, 2025
- Tặng phẩm của dòng sông: một thước phim âm bản của chiến tranh 30 Tháng Mười Một, 2025
- Mathilde Granveau – Những mảng ghép ánh sáng của Đông Dương 30 Tháng Mười Một, 2025
- Khi tranh luận vượt khỏi khung tranh 30 Tháng Mười Một, 2025
- Thơ Trần Đức Toản 30 Tháng Mười Một, 2025
- Câu chuyện về “Ngôi làng của những-người-không-có-mặt- người” 29 Tháng Mười Một, 2025
- Những tiếng cười chua và nỗi buồn lặng trong ‘Mộng du khi xa xứ’ 29 Tháng Mười Một, 2025
- Đọc XUYÊN QUA MỌI CHIẾN TUYẾN của Nguyễn Xuân Thọ 29 Tháng Mười Một, 2025
- Apprivoisé… 29 Tháng Mười Một, 2025
- Cuối cùng anh Tom Cruise cũng nhận giải Oscar 29 Tháng Mười Một, 2025
- Thủy điện vô can: ngụy biện và bất nhân 28 Tháng Mười Một, 2025
- Cái ôm của Ni trưởng Tâm Nguyệt 28 Tháng Mười Một, 2025
- Hai bức ảnh 28 Tháng Mười Một, 2025
- Bến lở (kỳ 4) 28 Tháng Mười Một, 2025
- Cái chết có màu gì? 28 Tháng Mười Một, 2025
- Nhớ Thầy trong Piano Sonata 14 27 Tháng Mười Một, 2025
- Khi chúng ta không được quyền nổi quạu 27 Tháng Mười Một, 2025
- Thơ Lê Thanh Trường 27 Tháng Mười Một, 2025
- Cụ tượng của Bùi Chát: Một cách nhìn mới về hành động hội họa 27 Tháng Mười Một, 2025
- Nguyễn Duy viết về nạn nhân bão lụt 26 Tháng Mười Một, 2025
- Người không có dấu chân 26 Tháng Mười Một, 2025
- Vài cảm nghĩ về truyện ngắn của một cây bút mới: Ái Điểu 26 Tháng Mười Một, 2025
- Thành Chương – Người thủ lĩnh cuối cùng của mỹ thuật dân gian đương đại Việt Nam 26 Tháng Mười Một, 2025
- Tháng Mười Một 26 Tháng Mười Một, 2025
- Giật mình, biết đâu thấy có mình… 26 Tháng Mười Một, 2025
- Những hình ảnh sau trận lụt ở Đông Hoà, Phú Yên 25 Tháng Mười Một, 2025
- Tiếp tục lầm bầm về giáo dục 25 Tháng Mười Một, 2025
- Nhìn hiện tượng Sophie Trịnh, nghĩ về phê bình mỹ thuật 25 Tháng Mười Một, 2025
- Bến lở (kỳ 3) 25 Tháng Mười Một, 2025
- Thơ Nguyễn Duy 25 Tháng Mười Một, 2025
- Ngập lụt diện rộng: Cần nhìn thẳng vào phần “nhân tai” để giảm thiệt hại 24 Tháng Mười Một, 2025
- Nghĩ nhỏ giữa những ngày buồn 24 Tháng Mười Một, 2025
- Hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi gõ một lời vô tâm 24 Tháng Mười Một, 2025
- Một mạng người đáng giá bao nhiêu? 24 Tháng Mười Một, 2025
- Đêm thấy ta cùng thác đổ 23 Tháng Mười Một, 2025
- Chiếc xe hòm vào xã Hòa Thịnh 23 Tháng Mười Một, 2025
- Cô bé trên mái nhà sàn 23 Tháng Mười Một, 2025
- Bổ sung và đính chính vài chi tiết về tiểu sử Nguyễn Huy Lượng 23 Tháng Mười Một, 2025
- Thơ haiku Iio Sōgi 23 Tháng Mười Một, 2025
- Môi trinh kỹ nữ (Cố sự tân trang) 22 Tháng Mười Một, 2025
- Cụ Tượng – Bùi Chát và hành vi đưa cái vô hình ra bề mặt 22 Tháng Mười Một, 2025
- Bến lở (kỳ 2) 22 Tháng Mười Một, 2025
- Chiến dịch diệt chim sẻ – khi con người quên lắng nghe tự nhiên 22 Tháng Mười Một, 2025
- Đất chảy 21 Tháng Mười Một, 2025
- Đọc thơ Trần Hạ Vi 21 Tháng Mười Một, 2025
- Bùi Chát & Cụ tượng – một cơn trôi mang hình hài 21 Tháng Mười Một, 2025
- Mấy câu hỏi với họa sĩ Phan Nguyên 21 Tháng Mười Một, 2025
- Thơ Trịnh Cung 21 Tháng Mười Một, 2025
- Khi cảm xúc có xương, ý nghĩa có bóng 20 Tháng Mười Một, 2025
Danh sách liên kết