Tiểu thuyết
NXB Lao Động, 2008

Tác giả Đặng Văn Sinh
CHƯƠNG 3
Những biến động dữ dội ở làng Hạ thời kì 1954 – 1955 đã để lại trong tâm hồn Sa ấn tượng khá nặng nề. Ở tuổi ấy Sa chưa thể hiểu sự thành công của cuộc Cách mạng ruộng đất sau khi một nửa đất nước được giải phóng khỏi ách đô hộ của người Pháp. Tai hoạ giáng xuống gia đình dồn dập làm cô bé chưa đầy chín tuổi như Sa luôn bị mặc cảm bởi đã mất niềm tin. Cảnh tượng làng Hạ lúc ấy vô cùng phức tạp. Những bần cố nông được chia nhà chia ruộng thì hoan hỉ ra mặt. Cứ vài hôm người ta lại tổ chức một cuộc biểu tình hàng nghìn người kéo đi rùng rùng khắp các thôn hô khẩu hiệu đả đảo bọn địa chủ, phú nông, cường hào, ác bá. Thiếu niên, nhi đồng mặc quần xanh, áo trắng, mũ chào mào, mang băng cờ, khẩu hiệu đánh trống vừa đi vừa nhún nhảy hát “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa…” Với người nông dân, những kẻ chân lấm tay bùn, hàng bao đời chưa bao giờ dám nghĩ đến đất, nay cầm chiếc thẻ nhận ruộng cứ ngỡ mình đang sống trong mơ. Ông Vệ Trác, ngồi bệt xuống khoảnh ruộng năm sào vừa được chia, chẳng biết ngẫm nghĩ thế nào, bỗng nhiên ôm mặt khóc hu hu. Anh Khoản, một cố nông chuyên làm mướn cho nhà Chánh Mậu, được nhận thửa ruộng bốn sào ba thước ở khu đồng Vàn. Vừa lấy vồ đóng tấm biển đề tên mình xong, anh liền bẻ một hòn đất ải cho vào miệng nhai thử.
Trừ những đối tượng bị quy là địa chủ ác bá đang bị giam giữ mà cái chết đã cầm chắc trong tay, bởi những chánh án không biết chữ trong các phiên toà đặc biệt, phần còn lại vô cùng hoang mang là đám người thuộc thành phần phú nông và trung nông lớp trên. Họ đang như kiến bò trong chảo lửa. Số này chỉ cần một kẻ xấu bụng nào đó ngầm báo với Đội rằng anh ta thuộc thành phần Quốc dân đảng là coi như số phận đã được định đoạt, nhẹ ra cũng phải cải tạo vài năm, còn nếu lại là chủ mưu thì có thể lãnh án tử hình. Những đối tượng như thế, ở nhà không dám nói to, bất đắc dĩ có việc phải ra đường thì len lét như rắn mồng năm.
Đối với chị Trầm, không hiểu vì sao, cả Đội Cải cách, cả chính quyền địa phương lẫn dân quân du kích đều không động đến cho dù họ đã liệt chị vào thành phần chống đối. Có lẽ do chị là một nữ nhan sắc. Hai mươi tám tuổi xuân đang độ chín, chị đẹp rực rỡ như một đoá thu hải đường đang lúc mãn khai. Chị đẹp đến mức, ngay cả bé Sa đôi lúc cứ ngồi nhìn mẹ ngẩn ngơ. Thói thường ở đời, hoa thơm nhiều ong bướm lượn. Thỉnh thoảng, nhất là vào những đêm tối trời không ít kẻ lợi dụng khu bãi vắng người rình rập. Ông Quyền Sẹo, xã đội phó, đã quá bốn mươi, người gầy nhẳng, bộ dạng như con nhái bén ướp muối thường lấy cớ đi tuần ven sông để vào nhà Trầm tán tỉnh. Chị đuổi khéo nhưng ông ta rất lỳ, ngồi dai không chịu về. Chị ngẫm nghĩ một lúc rồi vào buồng thì thầm với con gái. Sa giả bộ như đi ra bờ sông gánh nước nhưng nó lại ngầm giấu đôi quang thùng dưới gốc chuối rồi ba chân bốn cẳng chạy vào làng. Được một lúc thì bà Quyền xắn váy quai cồng chạy thình thịch trên đê xuống, giọng ồm ồm như lệnh vỡ:
– Ông Quyền đâu, về nhà ngay, con nghé đực nhà mình lạc sang bên Cồn…
Xã đội phó vốn sợ vợ, nghe tiếng bà, biết chị Trầm chơi xỏ đành ngậm bồ hòn làm ngọt, xách súng ra vườn chuối.
Có lẽ người yêu chị thật lòng là anh Ngọ, Đoàn trưởng. Anh Ngọ ba mươi hai tuổi, chưa vợ, vốn là bộ đội Đại đoàn 312 được điều động đi làm Cải cách. Ngọ mới về làng Hạ mấy tháng thay Đoàn trưởng Quảng phải chuyển đi vì mắc khuyết điểm hủ hoá với nữ cốt cán, bị anh chồng chị ta tóm sống, xuyên cho một mũi dao vào mạng sườn, xuýt chết. Từ ngày anh Ngọ về, không khí làng Hạ dễ thở hơn. Anh là người có học, làm việc thấu tình đạt lý chứ không quân phiệt, hống hách như tay Quảng.
Xem qua một số hồ sơ về vụ Quốc dân đảng, anh Ngọ biết ngay đó là chuyện bịa đặt do những kẻ cuồng tín, quá khích dựng lên, nhằm hãm hại người trung thực, tìm khe hở cho bọn cơ hội chui vào Tổ chức để phá từ trong phá ra. Nhưng biết gỡ thế nào đây? Bà con bần cố nông phần lớn mù chữ. Một số cố nông say sưa thái quá, bị kích động đến mức bịa đặt đủ các thứ tội cho những người trước đây họ có hiềm khích. Nhiều nhà, con dâu đấu bố chồng, cháu trai tố bác tạo thành nỗi kinh hoàng ngay trong mối quan hệ máu mủ ruột rà. Những giá trị đạo đức bền vững, nền tảng của cộng đồng làng xã Việt Nam từ ngàn đời nay đang có nguy cơ bị bọn dốt nát, hãnh tiến một cách mù quáng thẳng tay phá hoại. Tất cả những sự “lộn tùng phèo” ấy, chắc gì đã phải chủ trương của cấp trên? Vậy phải làm thế nào đây?
Đêm ấy Ngọ gần như thức trắng đọc những hồ sơ trọng yếu do Quảng để lại. Sáng hôm sau anh cho gọi lão Chuột Thọt, cô Nhút, cô Chút, ông Quyền và một vài cán bộ xã đến hội ý. Anh hỏi lão Chuột:
– Ai nói với bác ông Mẫn là đảng viên Quốc dân đảng?
– À, tôi nghe người ta nói thế. – Lão đánh giậm từ khi được chia ruộng, mặt vênh váo chẳng coi ai ra gì, trả lời nhát gừng.
– Bác có bằng chứng gì không?
– Cần gì bằng chứng. – Lão chép miệng. – Tay ấy lúc nào mặt cũng lầm lầm, nhà thì kín cổng cao tường, thỉnh thoảng lại thấy có người thậm thụt, thế chẳng phải họp hội kín là gì?
– Vì vậy mà bác quy cho người ta là Quốc dân đảng?
– Chính thị. – Lão Chuột vênh mặt tự đắc. – Tôi thấy là cứ phải cho lão ấy đi ở tù.
– Thôi được, mời bác ngồi xuống. – Anh Ngọ hý hoáy ghi mấy dòng rồi gọi tiếp. – Mời cô Chút: Cô có nhìn thấy ông Phong đi họp chi bộ Quốc dân đảng ở nhà ông Mẫn không?
Chút cắn môi ngẫm nghĩ một lúc rồi cất giọng liến thoắng:
– Dạ, thưa anh Đội, em thì em không nhìn thấy nhưng em cũng nghi họ là phản động.
– Cô nghe ai nói?
– Bác Quyền bảo với em ạ.
– Cô nhìn thấy thằng Toàn con ông Phóng lấy phân trâu bôi lên khẩu hiệu hôm nào?
– Thưa anh, hình như buổi trưa… mười hai tháng trước.
Anh Ngọ với cuốn sổ tay, lật vài tờ chợt ngạc nhiên bảo:
– Ngày 12 cô với cô Nhút xuống đồng Vạn chia ruộng mãi đến tối mới về kia mà, sổ công tác còn ghi đây…
– Thôi chết… Thế thì em nhớ nhầm, hình như hôm ấy là ngày… à phải rồi, ngày mười sáu.
– Ngày mười sáu cô được phân công gánh thóc nộp thuế nông nghiệp nhưng cứ đòi đi áp giải Hàn Hách lên huyện. Hôm ấy trời mưa to, cô quên rồi à?
– Dạ, thưa anh…
– Cô ngồi xuống! – Anh Ngọ hừ khẽ một tiếng rồi lạnh lùng bảo – Như thế là cô vu khống cho người ta. Tội gắp lửa bỏ tay người là nặng đấy. Nên chừa đi, nếu không sau này đời chẳng ra gì đâu. Từ mai cô và cô Nhút tạm thời không phải đến đây nữa. Tôi sẽ báo cáo việc này lên cấp trên.
– Dạ, thưa anh, nghĩa là chúng em bị đình chỉ công tác ạ?
– Tuỳ các cô, muốn hiểu thế nào cũng được.
Chờ hai nữ cốt cán ra khỏi sân, anh Ngọ mới quay sang xã đội phó Quyền:
– Bác Quyền nghe đây. Có phải năm 1952 bác đi lính Bảo an, đóng ở bốt Trung Hà cùng với lão Đội Cánh bên Thượng Đáp?
Lão Quyền giật mình, mồ hôi toát ra ướt đẫm chân mớ tóc rễ tre rủ lòng thòng xuống tận mang tai.
– Kìa, sao anh Đội lại nói thế… Năm 1952, nhà em chỉ tản cư lên Trung Hà thôi.
– Hồi đó bác đi “pa trui”[1] đã bắn chết một người đàn bà ở thôn Bòng gánh mía đi chợ Tổng.
– Thế ra Đội đã biết cả…?
– Chưa hết, – Đội Ngọ lạnh lùng bảo. – Tháng hai năm 1948, bác làm nội ứng cho một bọn lưu manh nửa đêm vượt tường vào nhà ông Phó lý Cài. Người nhà phát hiện ra, bọn trộm không khoắng được gì mà riêng bác còn bị ông ấy lia cho một mũi mác vào chân. Chỗ bắp chân trái ấy giờ vẫn còn vết sẹo bằng đồng xu đúng không?
– Ai, ai… nói với anh Đội thế?
– Chính vì thù ông Phó lý nên mấy năm qua bác tung tin con trai ông ấy là anh Điền đầu hàng địch, đeo lon sĩ quan đem quân chống phá Cách mạng, mặc dù bác biết thừa là anh ấy mất tích có phải không?
– Dạ, về chuyện này thì không phải một mình em. – Xã đội phó Quyền nhăn nhó – Chính là em nghe ông bí thư nông hội nói.
– Còn chuyện bác đến nhà chị Trầm trêu ghẹo chị ấy ông bí thư nông hội có bảo không?
– Dạ, em có lỗi…
– Bây giờ bác sang nhà ông Phó hội Long. – Anh Ngọ khoát tay chỉ ra cửa – Đêm nay hãy tạm ở đấy để ngày mai chúng tôi còn làm rõ một số chuyện liên quan đến chức danh xã đội phó của bác trong thời gian qua.
– Thế ra, anh… bắt tôi?
– Nên nhớ rằng hồ sơ về bác Đoàn ủy Cải cách đã nắm rõ. – Ngọ nghiêm giọng – Đội Cánh đã bị Toà xử tử. Còn Binh Ngũ, cái người cầm đầu bọn trộm đã đột nhập vào nhà ông Phó lý, hiện đang nằm trong trại giam vì tội đốt nhà bà Riềng bên Thanh Xá.
Bóc được mặt nạ Quyền Sẹo và vô hiệu hoá được mấy cố nông quá khích nhưng Đội Ngọ vẫn không thể hạ được thành phần gia đình ông Cài cũng như thanh minh cho trường hợp chị Trầm. Thật lòng anh thương chị nhưng không dám ngỏ lời. Sau những gì Ngọ đã làm, rất có thể một vài kẻ nào đó báo cáo lên cấp trên, và chẳng ai dám đảm bảo là họ không thêm dấm thêm ớt, thậm chí bóp méo sự thật để hại anh. Một hôm, Ngọ đến nhà chị Trầm. Chị đang ở trên nóc lợp lại mấy chỗ dột. Bé Sa băm rau lợn. Nhìn thấy anh, Sa reo lên:
– Ơ kìa bác Ngọ!
Ngọ nheo mắt cười bảo con bé:
– Cháu giỏi thật đấy, đã biết băm bèo giúp mẹ.
– Để cháu gọi mẹ xuống. Mẹ đang ở trên mái nhà.
– Mẹ đây rồi. – Chị Trầm vừa tụt khỏi thang rũ mấy cọng rạ vương trên tóc – Anh đến chơi hay là có chuyện gì?
– Tôi qua đò sang bên kia có chút việc, xong rồi nhân tiện rẽ qua thăm mẹ con chị.
– Việc của bố cháu Sa ở trên người ta trả lời thế nào ạ?
Ngọ khẽ lắc đầu:
– Tôi đã nhờ mấy người bạn ở Đại đoàn 312 hỏi bộ phận giải quyết chính sách của Trung đoàn 7, nhưng sau hoà bình, trung đoàn giải thể, phần thì phục viên, phần sáp nhập vào đơn vị khác nên chưa xác minh được trường hợp mất tích của anh Điền.
Trầm lấy tay quệt nước mắt:
– Thà rằng anh ấy hi sinh trong chiến đấu, mẹ con tôi cam chịu, đằng này chết không ra chết, sống không ra sống, lúc nào cũng bán tín bán nghi thật khổ quá. Anh Ngọ này, tôi biết anh là người tốt, anh cứ nói thật đi, hay là anh Điền đã…
– Tôi không tin anh ấy đầu hàng địch. Anh Điền là người có học không thể hành động như thế.
Thời kì sửa sai, gia đình ông Phó lý được hạ xuống thành phần trung nông. Ngôi nhà cũ bà con trả lại, mẹ con chị Trầm dọn vào ở trong làng. Bây giờ người ta không công khai bàn tán chuyện anh Điền đầu hàng giặc nữa, nhưng đã mấy năm qua gia đình không nhận được tin tức gì, nên các nghi án ấy lúc nào cũng lửng lơ trên đầu mẹ con chị.
Năm làng Hạ thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Sa đã mười ba tuổi, vừa đi học vừa phụ làm hợp tác với mẹ. Sa xinh đẹp không kém gì mẹ Trầm, có khác chăng là, cô bé sớm biểu lộ một tính cách mạnh mẽ vốn thừa hưởng được ở người cha mà giờ đây không còn có mặt trên đời. Ở lớp, Sa học trội hơn hẳn bạn bè kể cả cánh con trai thị trấn. Suốt mấy năm cấp 3, năm nào cô cũng đạt tiêu chuẩn xuất sắc, được dự thi học sinh giỏi môn toán của tỉnh.
Hè năm lớp chín, cả lớp đi lao động cuốc hố trồng cây cho lâm trường Bình Xuyên. Học trò ngày ấy phần lớn con nhà nghèo nhưng nhiều người có chí. Bạn bè đối xử với nhau chân thành. Tình bạn, tình thầy trò thiêng liêng lắm. Lần đầu tiên đến với rừng, nói đúng ra là vùng đồi trung du, cô nào cậu nào cũng choáng ngợp trước khung cảnh thiên nhiên phóng khoáng với mênh mông là mây trời và ngạt ngào hương sắc của những vạt thông non đang khép tán. Đêm, họ nằm trên bãi cỏ ngắm bầu trời sao long lanh như tấm lụa thanh thiên thêu ngân tuyến, lắng nghe tiếng rì rào của gió từ thung lũng Trường Yên thổi về. Vòm trời càng về khuya càng sâu thăm thẳm với hàng triệu ngôi sao xanh nhấp nháy. Dải Ngân Hà trắng đục chênh chếch trôi xuống chân trời phương nam. Dòng sông bạc cô đơn tựa như những đám bụi thời gian được các thiên thần chiếu sáng, lang thang khắp vũ trụ, đi tìm sự bình yên cho những tâm hồn phiêu lãng.
– Cô đơn thay là một đêm hè khi ta biết ta chỉ là giọt sương vô tình trong vũ trụ. – Một cậu con trai nào đó bỗng phá tan sự im lặng bằng giọng trầm ấm, tựa như là hát.
– Thơ của cậu nhão nhoét như bánh đa nhúng nước. – Cậu Đức, chuyên gia báo tường của lớp nhận xét châm chọc.
– Sai toét rồi nhà lí luận phê bình ơi! – Sa đang nằm trong đám con gái, ngồi dậy nói. – Đó là thơ của Ronsard[2]. Ông làm bài ấy trong thời kì ở đảo Sicille.
Anh chàng đọc thơ của Ronsard bảo cả bọn:
– Các cậu nhìn xem, ngôi sang sáng nhất ở chuôi chòm Tiên Nữ chính là sao chiếu mệnh của mình đấy.
– Chỉ nhận vơ. – Sa cười, nói to cho cả bọn nghe thấy. – Bản mệnh của cậu là ngôi sao đỏ quạch, sáng lờ mờ ở vai ông Thần Nông kia kìa.
– Không đâu. Đó là ngôi sao của thằng Phi. Tổ tiên nó vốn người da đỏ Bắc Mỹ. Các cậu cứ ngắm kĩ mái tóc của nó thì biết.
– Thôi đừng tán dóc nữa. – Anh chàng Nhiệm, dân thị trấn Nam Cường vốn là tay chơi guitare “bật bông” nổi tiếng bỗng hứng lên bảo – Tại sao các cậu cứ tranh nhau mấy ngôi sao chiếu mệnh vớ vẩn ấy mà không hát nhỉ. Đêm hè thanh bình như thế này chỉ hát tình ca mới làm người ta bớt đi nỗi nhớ nhà.
– Ừ thì “Tình ca” của Hoàng Việt – Chàng “Da đỏ Bắc Mỹ” nói. – Nhưng bài ấy hát tập thể không ổn, phải đơn ca mới hay.
– Đức nói đúng đấy. – Nhiệm vỗ nhẹ vào thùng đàn nói với sang đám con gái – Sa hát đi rồi mình sẽ độc tấu cho các bạn nghe bài “Áo lụa Hà Đông” của Ngô Thuỵ Miên.
Nhiệm nhấn khúc dạo đầu của bản “Tình ca”. Sa đứng dậy lắng nghe nhịp đàn rồi bắt vào: “Khi cất lên tiếng ca của lòng người yêu phương xa. Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba. Em ơi nghe chăng lời trái tim vọng ra. Rung trong không gian mặt biển sôi ầm vang…” Sa có chất giọng truyền cảm chinh phục người nghe. Cách thể hiện tình cảm của cô thật chân thành, tưởng như niềm nhớ thương của đôi thanh niên nam nữ kẻ Nam người Bắc trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt kia, không phải được thể hiện bằng những lời ca, mà nó là tiếng lòng, là nỗi thổn thức cất lên từ trái tim đầy tình yêu thương của cô bé học trò mười bảy tuổi giữa bầu trời trung du đêm nay. Những dư âm của bản “Tình ca” vừa dứt, hợp âm kết trên đàn guitare chưa kịp dừng thì bỗng nhiên, chẳng ai bảo ai, tất cả bọn con gái đều oà lên khóc. Những tiếng khóc bật ra rất tự nhiên dường như là sự tất yếu của quy luật tình cảm, là sự thăng hoa của một quá trình vận động tâm lí. Cánh con trai không khóc nhưng đều lặng lẽ suy ngẫm. Họ hiểu đó là những giọt nước mắt thiêng liêng không dễ gì có được hai lần trong một đời người.
Giám đốc lâm trường Bình Xuyên tỏ ra ưu ái cánh học sinh cấp 3. Ngoài việc bán theo giá cung cấp cho mỗi cô cậu mười tám kí lô lương thực, ông còn chỉ thị phòng Kế toán tài vụ thanh toán tiền công tăng hơn đơn giá hiện hành hai mươi lăm phần trăm. Thật ra có không ít hố bạch đàn và nhất là hố trồng thông trên sườn đồi chưa đạt tiêu chuẩn kĩ thuật, một vài cán bộ gặp ông phàn nàn, ông bảo:
– Tôi không trả công theo định mức sản phẩm mà động viên các cháu vì tinh thần làm việc hăng say. Các anh không thấy có những cô cậu sau một ngày làm việc, vừa mệt vừa đói, nằm lăn ra bãi cỏ tưởng chỉ còn cách khoác ba lô về với mẹ, vậy mà sáng hôm sau lại vác cuốc lên đồi. Về lâu về dài, muốn giữ được rừng và phát triển nó cần phải có những người thực sự yêu rừng. Tôi nghĩ, trong mấy chục các cháu hôm nay, biết đâu mai đây có cháu học nghề rừng và đến với chúng ta.
Lao động tuy vất vả nhưng được lao động tập thể trong một cộng đồng toàn những người trẻ tuổi có văn hoá làm tâm hồn như được chắp cánh. Không ít cô cậu cảm xúc dâng tràn hý hoáy làm thơ. Cậu Thành cứ hết giờ lại tha thẩn lên đồi thông tìm nguồn cảm hứng cho những bài thơ tình lãng mạn. Anh chàng Kha vốn dân xóm Trại ngoài đê, rất thạo nghề câu tôm kè đá sông Linh, học văn rất thường, thế mà một hôm khoe với Sa đã viết được ba chương tiểu thuyết “Mùa hoa mận”. Mai Huyền, học trò cưng của cô Đạm Phương, đêm nào cũng chong đèn ghi chép. Thì ra “hắn ta” viết nhật kí. Một hôm, nhân lúc đi hái sim, Sa bảo:
– Huyền này, ghi ai vào trong sổ của mày thì ghi nhưng hãy chừa tao ra. Tao có ma đấy. Mụ mà cho tao vào danh sách là cái ma nó nát cho hết hồn.
Huyền nheo mắt hỏi:
– Cái quyển sổ bìa đỏ dưới đáy ba lô của đằng ấy để làm gì thế?
– Cái gì? Ai bảo cậu…
– Nói thật, mình đọc những bài thơ của cậu rồi. – Mai Huyền thú nhận. – Thơ cậu đầy tâm sự và có khả năng chinh phục người đọc một cách kì lạ. Cậu lại xinh đẹp nữa. Có điều, con gái mà đa mang nghiệp văn chương sau này sẽ khổ.
– Cậu nói đúng. – Giọng Sa có vẻ hơi buồn. – Thầy Giang trong giờ giảng Truyện Kiều cũng đã nhận xét như thế.
Những tháng năm êm đềm của tuổi học trò cứ lặng lẽ trôi qua. Đến lúc Sa ý thức được quỹ thời gian mà tạo hoá dành cho mỗi người không phải là vô tận thì kì thi tốt nghiệp lớp mười đã tới. Thi xong, mỗi đứa bay một phương trời. Một số tiếp tục lên đại học, số khác đi bộ đội hoặc xin việc ở nhà máy, công trường, và bằng những con đường khác nhau, ai nấy đều tự chịu trách nhiệm cho tương lai của mình.
Sa làm hồ sơ xin thi Đại học Bách khoa nhưng nhà trường không gửi giấy báo. Cô xuống xã hỏi lí do thì ông phó chủ tịch phụ trách nội chính trả lời rất chung chung. Hỏi để biết thôi, thực ra việc này chẳng có gì khó hiểu. Nguyên nhân sâu xa của nó vẫn là cái nghi án mất tích của người cha mà cho đến bây giờ vẫn còn ám ảnh mẹ con Sa như một thứ mặc cảm tội lỗi. Làm hợp tác xã được khoảng nửa năm, xã có đợt tuyển công nhân Quốc phòng, Sa làm đơn xin đi. Bà Trầm không ngăn được con gái mặc dù đã khóc cạn nước mắt.
Đầu tháng giêng năm 1965, Sa khoác ba lô đi bộ lên huyện. Bà Trầm đưa con gái đến tận cây đa đồng Vàn. Khi chia tay, Sa ôm lấy mẹ tức tưởi khóc. Bà Trầm vuốt mấy sợi tóc mai trên thái dương Sa, giọng mếu máo:
– Lên trên ấy phải giữ gìn con nhé. Thật khổ con tôi, thân gái dặm trường…
CHƯƠNG 4
Theo quy định của công đoàn, hàng tháng mỗi đoàn viên phải góp cho nhà bếp hai tạ củi. Rừng bạt ngàn. Củi các loại không thiếu. Ngày chủ nhật, con trai con gái rủ nhau vào khe Bầu, chưa đầy nửa buổi đã chặt được hàng chục vác. Lấy củi cũng có cái thú của nó. Dọc theo khe Bầu có khá nhiều dâu da, quýt nghệ và cây chôm chôm, toàn những thứ chua, ăn buốt cả răng. Cây quýt nghệ vào dịp quả chín, vàng rực, lốm đốm giữa những bụi chút chít, kim sao và dây mộc hương. Thứ quýt này mọc tự nhiên ở những vạt đồi bằng phẳng gần khe nước, cây chỉ cao ngang đầu, cành lá xum xuê, xanh tốt quanh năm, quả rất chua mà hương thơm lạ lùng. Vào rừng quýt nghệ bất cứ ai cũng cảm nhận được ngay thứ mùi huyền hoặc vừa găn gắt vừa dịu ngọt lúc thoang thoảng như hương cam, lúc lại nồng nàn tựa men rượu ủ lâu ngày.
Cánh con gái lại thích kiếm củi ở đèo Dẻ. Vùng ấy có nhiều mận. Quả mận rừng chỉ bằng ngón tay, vừa chua vừa chát. Chẳng biết cái thứ quả hoang dại ấy bổ béo gì mà tất cả các nàng, không trừ một ai, cứ đến chiều thứ bảy hoặc sáng chủ nhật là kéo nhau đi hái về hàng túi xách ăn với muối ớt.
Cây mận dại cao to, mọc chênh vênh bên sườn núi. Mùa xuân, hoa mận nở trắng rừng. Hương hoa mận hăng hắc lẫn trong gió, ngửi thấy cứ có cảm giác nao nao trong người. Hôm ấy, trên đường đi làm về, Sa lùi lại phía sau đợi Phan. Khi anh đã đến ngang tầm, Sa khẽ bảo:
– Chốc nữa Sa lên đèo Dẻ lấy củi Phan có đi không?
Phan hơi ngại, vì nếu đi là mất giấc ngủ trưa, hai giờ chiều đã phải có mặt ở hiện trường sẽ mệt. Ngần ngừ một lát, anh định lắc đầu, nhưng khi quay lại thoáng thấy trong mắt Sa có cái nhìn khác thường đành gật đầu:
– Chị lại muốn ăn mận dại chứ gì? Để đến chủ nhật không được à?
Sa bĩu môi không nói gì mà chỉ khẽ “ứ” một tiếng.
Buổi trưa, hai người dong xe cải tiến ngược lên dốc Đá Trắng. Dàn đồng ca bất tận của ve rừng rền rĩ những điệp khúc chói tai, vô hồn, nghe đến sốt ruột. Phan cầm càng. Sa đẩy phía sau. Trên xe để chiếc làn mây và con dao. Sườn dốc hơi cao, khó đi nhưng nhiều củi. Sa thu gom những cành cây khô bị cánh sơn tràng khai thác gỗ bỏ lại. Phan dùng dao quắm chặt, bó thành từng vác, lăn xuống chân núi. Độ chừng nửa giờ, công việc hoàn tất. Nhìn thấy vết xây xát trên đôi bàn tay búp măng của Sa, Phan ái ngại bảo:
– Sao chị không mang găng vào? Tay đẹp thế kia mà…
Lúc này có vẻ như Sa không mấy quan tâm đến đôi tay. Cô kẹp tóc cho gọn lại, cầm nón rồi kéo áo Phan:
– Lên trên kia hái mận.
– Tôi sợ bị muộn giờ.
– Không sợ. Sa đã nói với chị Đài rồi. – Cô cười tinh nghịch. – Mận đầu mùa chín nhiều lắm, mình sẽ hái cho cả tổ “liên hoan” hoàn thành khối lượng.
Hai người đến đỉnh Yên Ngựa. Nắng trên cao dường như nhạt hơn, bầu trời trong hơn, bất giác Phan có cảm giác tâm hồn chống chếnh như vừa uống phải thứ men lạ.
– Phan nhìn dải núi trước mặt có thấy gì không?
Theo tay Sa, Phan thấy dãy núi cao đối diện với đỉnh Yên Ngựa chạy dài như một vòng cung xanh nổi dập dềnh trên thung lũng mây trắng như sữa. Anh lắc đầu:
– Chịu. Chị nhìn thấy cái gì?
Sa tủm tỉm cười:
– Núi Nàng Tiên đấy.
– Thì sao? – Phan hỏi bâng quơ.
– Này nhé, mỏm phía bên trái, hơi thấp một tí, có sườn đá màu xám kia là đầu nàng tiên. Chóp cao nhất vồng lên quanh năm mây phủ mỏng như tấm khăn voile là khuôn ngực nàng. Còn dãy Phù Đinh vừa dài vừa vuốt dần xuống mịn màng như nhung kia chẳng giống đôi chân nàng là gì.
Phan không thể không phá lên cười bởi kiểu so sánh đầy chất Tự lực Văn đoàn của cô gái vùng Kinh Bắc:
– Người đẹp đang ngủ. Chị có thấy những đám mây trắng trên ngực nàng phập phồng không?
Sa đánh mắt nguýt Phan, giục:
– Thôi, chàng hiệp sĩ, lên hái mận đi.
Phan chọn cây mận cao khó trèo nhưng nhiều quả chín. Lên đến chạc ba, anh với tay vặt một quả cho vào miệng nhấm thử.
– Chị ở dưới lấy nón hứng khi nào đầy tay tôi thả xuống.
Mận rừng là thứ quả khó hái. Phan chỉ muốn chiều Sa chứ thực ra chẳng hứng thú gì với thứ quả hoang dại mọc đầy sườn núi và chát sin sít ấy. Khi đã vặt được già nửa nón, ước chừng thời gian nghỉ trưa sắp hết, Phan đu người chuyền xuống cành thấp nhất cách mặt đất vài thước hái những quả cuối cùng. Cành này cũng thuộc loại to nhưng nó đâm ngang không có điểm tựa rất khó trèo. Phan nằm bò xuôi theo cành, với dần ra ngoài. Vừa túm được mấy quả chẳng ngờ anh bị tuột tay rơi xuống… Đứng dưới, thấy vậy, Sa vội quẳng nón đưa hai tay ra đỡ. Phan rơi vào đúng người cô gái. Cả hai cùng ngã. Lúc bị rơi, Phan chẳng nhớ mình ở tư thế nào. Có lẽ do bản năng mách bảo, cần phải nhanh chóng bấu víu vào một cái gì đó để giữ được dù chỉ phần ngàn sự sống, nên tay anh bám chặt lấy vai Sa, đến nỗi mấy chiếc cúc nơi cổ áo bị đứt để lộ ra khuôn ngực tròn căng mịn như cẩm thạch. Phan xấu hổ, quay mặt, định đứng dậy nhưng một bên chân tê dại không nhấc được. Sa lấy tay gạt mớ tóc ra sau gáy rồi rướn người áp bầu vú nóng hổi vào ngực Phan. Cô thở gấp gáp, hỏi khẽ:
– Có đau không?
Phan run bắn người, lắp bắp nói chẳng thành lời. Sa lại thì thầm trong hơi thở nồng nàn:
– Có thích không? Sa cho…
Thú thực, lúc đầu Phan sợ lắm, nhưng rồi chẳng hiểu do nguồn sức mạnh nào, bất ngờ anh ghì chặt lấy nàng, vùi đầu vào ngực nàng thì thầm:
– Sao cho nhiều thế, chị không giữ lại cái gì cho mình ư?
Sa nhoẻn miệng cười, kéo Phan đứng dậy:
– Trên đời này Sa chỉ cho một người thôi… Nào, bây giờ thì xuống xếp củi vào xe rồi về đi làm.
*
* *
Sáng chủ nhật, cả bọn kéo nhau đi chơi chợ. Lúc về Sa rủ Phan đi tắt lối bản Poọc tìm dâu da. Bản Poọc ở thung lũng Đá Xám, nhà nào cũng trồng vài cây dâu da đất và mắc coọc. Quả dâu da khi chín hung hung đỏ, mọc thành từng chùm như chùm sung xung quanh cây, ăn một vài quả thì ngon, ăn nhiều bị say. Thứ này dân bản không bán. Ai xin cũng cho, vặt bao nhiêu tuỳ thích. Phan còn nhớ, mấy hôm trước, anh chàng Vĩnh, lần đầu tiên nhìn thấy loại quả này, ăn lấy ăn để, trên đường về, đến gần cầu Nậm Pạng phải móc họng nôn ra bằng hết. Trời đã xế trưa. Phan cảm thấy càng đi càng xa, anh sinh nghi hỏi Sa:
– Hay là mình bị nhầm đường? Lối vào bản Poọc làm gì phải leo nhiều dốc thế này.
– Cứ nghĩ là Phan đã đi lối ấy Sa mới rủ…
– Thế là bị lạc rồi. – Phan quay lại nhìn trước nhìn sau buông giọng chán nản. – Đành đi một quãng nữa gặp người hỏi thăm vậy.
Hai người lặng lẽ bước trong tâm trạng không còn mấy vui vẻ như lúc Phan bị các cô hàng rượu ở chợ Bản Then mời chào nếm thử. Đó là thứ rượu nấu bằng mật mía, men lá rừng, nếm một chút không sao nhưng uống nhiều sẽ váng đầu hoa mắt. Các cô hàng rượu người Tày, áo chàm, cô nào cũng xinh, kẻ chân mày đen bóng như mực Tàu, nói tiếng Kinh còn ngọng nghịu nhưng rất dễ thương. Phan dạo đi dạo lại mãi ở hàng rượu lâu đến mức Sa phải sốt ruột. Lúc về, cô làm như vô tình hỏi:
– Sao lâu thế? Hay là bị các nàng sơn nữ ở hàng rượu hút mất hồn?
Phan lắc đầu cười trừ:
– Không đâu… Tôi chỉ muốn xem những chiếc túi thổ cẩm của các cô người Tày thôi. Còn về sơn nữ thì tôi biết có một nàng xinh đẹp hơn tất cả mọi cô gái trên đời.
– Ai mà ghê thế? – Sa làm như không quan tâm lắm, hỏi lửng lơ.
– Giờ thì chưa nói được.
Cuối cùng cũng thấy thấp thoáng trong cánh rừng phía trước một mái nhà. Hai người lội qua khe nước có chiếc cối giã gạo, đến nơi mới hay, đó không phải nhà sàn mà là ngôi nhà tranh lợp lá gồi như của đồng bào miền xuôi. Nhà nằm trên khoảnh đất bằng phẳng, chung quanh có hàng rào gỗ chắc chắn, cao ngang đầu. Ngoài cùng được bao kín bởi lũy tre gai quanh năm xanh tốt như bức thành tự nhiên.
Chủ nhà là một người rất khó đoán tuổi. Ông ta bị khập khiễng, bàn tay trái cụt mất ba ngón, nói tiếng Kinh rất sõi. Hỏi ra mới biết, ông là người dưới xuôi, quê mãi Thanh Hoá, không phải dân tộc như Phan nghĩ. Nghe Sa hỏi đường về bản Poọc, ông nheo mắt cười:
– Thế là sai đường rồi. Đáng lẽ đến chỗ ngã ba có cây ngái cụt ngọn ấy rẽ tay trái, men theo đường mòn xuống dốc, thì cô cậu lại quặt tay phải. Nhưng thế cũng tốt. Chả mấy khi được gặp người vùng xuôi lên đây, mời cô cậu ở lại chơi, đến chiều, tôi sẽ đưa theo đường tắt về cầu Nậm Pạng.
Hoá ra ông mới chỉ ngoài bốn mươi, trước vốn là bộ đội trung đoàn 7. Chuyện về cuộc đời ông quả thật là những trang buồn thảm. Nghe ông kể, đôi lúc Phan thấy rợn cả người. Còn Sa, thỉnh thoảng lén lau nước mắt.
Ông tên là Trần Quang Song, gia nhập Vệ quốc quân từ năm 1947, đã tham gia Chiến dịch Biên giới, được tặng thưởng huân chương chiến công. Năm 1953, trong lúc trung đoàn rút về hậu cứ ở Hoà An củng cố lực lượng chuẩn bị hành quân sang Tây Bắc tham gia chiến dịch Điện Biên thì bỗng nhiên ông mắc chứng bệnh lạ. Trời không rét mà ngón tay ngón chân buốt như kim châm, ở mặt có những vết đỏ như vệt chàm, ấn tay không thấy đau. Bệnh phát ra ngoài chừng nửa tháng thì các khớp chân tay cứng lại, đi đứng rất khó khăn. Mãi đến lúc ấy đơn vị mới biết ông mắc bệnh phong. Đó là một trong “tứ chứng nan y”, vô phương cứu chữa, vì vậy trường hợp của ông Song rất khó giải quyết. Bàn đi bàn lại mãi, cuối cùng, trước khi hành quân, anh em chiến sĩ làm cho ông một căn nhà nhỏ trong rừng, để lại ít lương thực, thực phẩm và nhờ đồng bào địa phương giúp đỡ. Có điều, từ khi người bệnh binh đến ở ngôi nhà này, dân các bản xuống chợ không dám qua thung lũng Đá Xám. Họ sợ bị lây nên đi vòng lối bản Then tít trên cao, xa hơn nửa ngày đường.
Bản Then nằm cheo leo bên sườn núi như một cái tổ chim sâu lủng lẳng móc vào cành cây. Trong bản có ông già Thênh làm thầy lang. Ông Thênh ở với vợ trong ngôi nhà sàn lợp ngói máng cuối bản. Nghe bà con người Tày bảo, dưới dốc Lượn có anh bộ đội bị bệnh phong, ông liền vào rừng hái một ít lá rồi khoác tay nải xuống núi. Đến nơi, xem xong các vết thương sưng tấy trên tay chân anh bộ đội, ông bảo:
– Bệnh này ta có thể chữa được.
Anh Song mừng chảy nước mắt, nói không thành lời. Ông già lấy từ túi chàm ra một gói thuốc bột, mấy cuộn lá và một miếng trông như sáp ong đưa cho người bệnh, dặn:
– Lá thì nấu kỹ, cô đặc, sau đó mài ít sáp trộn vào cùng với thìa bột trong gói này, ngày uống hai lần. Đến con trăng sau ta lại xuống, sẽ mang cao dán cho.
Ông lang Thênh xuống núi đến lần thứ chín thì anh Song khỏi bệnh. Tiếc là trong hơn một năm chữa thuốc anh không kiêng được vì còn phải tăng gia sản xuất để tự nuôi sống mình nên một bàn chân bị co lại thành tật và bàn tay trái cụt mất mấy đốt. Khỏi căn bệnh hiểm nghèo, Song mang con gà trống thiến nặng bốn kí lô, một vò rượu nếp cẩm và mấy nải chuối lên bản Then tìm vào nhà ông Thênh làm lễ tạ ơn và xin làm con nuôi. Hai ông bà quý lắm, mời thầy mo ở bản Héng sang cúng ma, nhận mặt.
Trần Quang Song vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi lúc còn ẵm ngửa. Một cặp vợ chồng thuyền chài vùng Lạch Trường nhặt được anh trên bờ sông khi họ mang cá lên chợ bán. Lớn lên, Song theo nghề chài lưới của bố mẹ nuôi. Cuộc sống đang xuôi chèo mát mái thì anh lại một lần nữa bị quẳng ra khỏi tổ ấm gia đình. Ấy là vào tháng hai năm Ất Dậu, bố mẹ nuôi và mấy đứa em trai, em gái bị chết đuối trong trận bão năm Thân để lại trong kí ức anh nỗi kinh hoàng, cho đến bây giờ, mỗi khi nghĩ đến lại rùng mình. Từ đấy chàng ngư phủ bỏ nghề sông nước lên bờ làm ruộng. Một cô gái làng để ý đến anh. Hai người hẹn hò nguyện kết thành đôi. Thế nhưng khi gia đình cô gái biết Song là dân ngụ cư không cha mẹ lại nghèo rớt mồng tơi liền gả ép con cho cháu trai ông Chủ tịch Liên Việt xã. Song hận lắm, bỏ ruộng, bỏ ngôi nhà tranh một gian hai chái xin vào Vệ quốc đoàn.
– Vậy là gần hai chục năm qua bác chưa một lần về thăm nhà?
– Thật ra thì làm gì có nhà mà về hả cô? – Ông Song chép miệng. – Tôi vốn là đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi, không rõ gốc gác của mình, suốt đời ăn nhờ ở đậu, may mà được vợ chồng ông thuyền chài cưu mang, đến khi nhập ngũ lại được anh em đùm bọc.
– Vì những lý do ấy mà bác quyết định trụ lại vùng này phải không?
– Cũng bởi tại cái số tôi nó chẳng ra gì, bước đường cùng đành ở lại xứ người, chứ lắm lúc cũng tủi thân lắm.
– Sao bác không tìm lấy một bác gái cho có bầu có bạn, lúc về già nương tựa vào nhau?
Ông Song lắc đầu thở dài:
– Cô cậu tính xem, ở vào hoàn cảnh như tôi chẳng người đàn bà nào dám đặt chân đến đây, nói gì đến chuyện trăm năm. Bệnh phong thì khỏi lâu rồi nhưng di chứng vẫn còn vô khối trên người, và nhất là ấn tượng của đồng bào từ bao đời nay không dễ gì một sớm một chiều thông cảm được.
Trong lúc Phan nói chuyện với ông Song, Sa ngắm nghía mọi thứ trong nhà và chợt thấy chiếc khung ảnh treo trên vách liếp. Cô xem đi xem lại và nhận ra, trong đó có tấm ảnh giống như tấm bố Điền đã gửi về cho mẹ con cô sau khi tham gia Chiến dịch Biên giới. Sa nhấc khung ảnh xuống mang lại chỗ ông Song.
– Bác ơi! Cháu trông người này quen quen. Ông ấy quê quán ở đâu ạ?
– À, đấy là trung đội trưởng của tôi, tên bác ấy là Điền.
– Bác cho cháu xem được không ạ? – Sa hồi hộp hỏi.
– Được, cháu cứ lấy ra đi, còn có chữ của bác Điền phía sau.
Tấm ảnh cỡ 3×4 đã khá mờ, nhìn không thật rõ các chi tiết trên gương mặt, nhưng điều quan trọng là mặt sau có ghi mấy chữ nhỏ bằng bút máy Parker: “Thân tặng Trần Quang Song. Nguyễn Điền, làng Hạ…”.
– Đúng là bố cháu rồi. – Sa thì thầm. – Bác ở với bố cháu hồi nào hả bác?
– Thì ra cháu là con bố Điền? – Ông Song bị bất ngờ đến mức không thể tin cuộc gặp gỡ này lại là sự thật.
– Dạ…
Có một cái gì giống như trò chơi định mệnh bất chợt ám ảnh tâm trạng người cựu chiến binh. Giọng ông nghẹn lại:
– Bố cháu ít tuổi hơn bác nhưng là người có học được cấp trên cử là trung đội trưởng. Trung đội tham gia mấy chiến dịch lớn đặc biệt là trận đánh bao vây, tiêu diệt cánh quân do trung tá Charton chỉ huy tiến công từ Cao Bằng xuống dể gặp cánh quân của trung tá Le Page ở Đông Khê. Trên đường hành quân về Nậm Púa, trung đội bị giặc phục kích tại bản Thông. Bố cháu bị mảnh canon chém vào lưng. Vết thương khá nặng. Máu ra nhiều. Lúc ấy đội hình trung đội phải xé lẻ để đối phó với cả một đại đội Âu Phi thiện chiến mới được thả dù xuống mà trinh sát của ta không phát hiện ra. Chúng tôi vừa đánh vừa rút dần về phía đèo Cù. Đến lúc thoát được khỏi vòng vây thì tình trạng vết thương của anh Điền đã nguy lắm rồi. Đêm ấy trời tối đen lại lắc rắc mấy hạt mưa. Tôi cùng một anh nữa quê Sơn Tây đành liều đưa anh Điền vào một bản gần đó nhờ giúp đỡ. Tôi nói “liều” là vì lúc ấy chẳng biết bản này thuộc vùng đã giải phóng hay vẫn còn bị chiếm đóng. Ngôi nhà sàn chúng tôi vào nằm cuối bản. Chủ nhà là một ông già người Tày. Ông có cô con gái chừng mười ba mười bốn. Nhìn thấy tình trạng vết thương, ông già nói gì đó với cô con gái bằng tiếng dân tộc rồi ra hiệu cho chúng tôi cõng anh ấy đi theo. Ứơc chừng hơn một giờ toàn leo dốc, anh em được dẫn vào một cái hang trong khu rừng dây leo chằng chịt, cây cối rậm rạp. Ông già đánh lửa châm vào ống tre đựng dầu trám. Ánh sáng làm lũ dơi trong hang bay tán loạn. Một thứ mùi khen khét như mùi diêm sinh tỏa ra làm đầu óc mọi người váng vất, thậm chí lợm giọng. Lúc này ông già đã nghiền nát nắm lá vặt được trên đường đi, ra hiệu cho cô con gái lại gần rồi nói bằng tiếng Kinh:
– Bộ đội bị mất nhiều máu phải rịt thứ cỏ này mới cầm được. Các anh may vào đúng nhà ta, nếu vào nhà trưởng bản phía bên kia nó đi báo Tây đồn thì không cứu được.
Nghe ông già nói tôi lạnh sống lưng, chỉ chút xíu nữa cả ba đều toi mạng. Đêm hôm sau, anh Phúng được cử đi tìm đơn vị báo cáo. Tôi ở lại chăm sóc vết thương cho anh Điền. Cái hang là nơi kín đáo, xa bản nên tương đối an toàn. Ông già hình như có thứ thuốc quý gia truyền nên vết thương của bố cháu mau lành mặc dù chỉ dùng toàn loại lá và rễ cây rừng. Cứ vài ngày một lần, ông già lại cử cô con gái, giả bộ đi làm nương mang gạo, củ cải và cả thịt lợn rừng lên cho chúng tôi. Ở trong rừng được nửa tháng vết thương của anh Điền lên da non, đã có thể nhúc nhích được. Chúng tôi cảm ơn bố con ông già người Tày tốt bụng và định đến chiều tối thì đi nhưng ông ngăn lại bảo:
– Phải đợi bảy ngày nữa cái lưng mới khỏi. Đi bây giờ, vết thương vỡ ra, thuốc của ta hết phép không chữa được. Mà hình như cái bộ đội đi tìm những người anh em chưa về?
– Vẫn chưa già ạ. Chúng cháu sợ anh ấy lạc.
– Để ta đi xem sao.
Đêm hôm thứ ba, ông già cùng anh Phúng về đến hang. Không phải Phúng lạc đường và vì chưa tìm được đơn vị. Anh phải lang thang trong rừng mấy ngày mới biết tin trung đoàn đã về Dốc Chuối. Hôm chia tay, ông già đưa cho anh Điền mấy lá cao và dặn:
– Nhớ dán vào chỗ đau ba lần nữa là khỏi hẳn. Khi nào nước nhà độc lập, các bộ đội nhớ lên đây uống rượu, ăn thịt con mang với bố con ta.
– Rồi sau đó các bác có tìm thấy đơn vị cũ không ạ?
– Tìm thấy. – Ông Song gật đầu nhìn Sa. – Về Dốc Chuối chỉnh huấn xong thì bố cháu được lệnh về miền xuôi công tác. Trước khi đi bố cháu có cho bác tấm ảnh này, nói là sau hoà bình mời bác về thăm làng Hạ.
– Từ bấy đến giờ bác có nhận được tin tức gì của bố cháu không?
– Không – Ông Song lắc đầu. – Mà sao cháu lại hỏi thế? Vì hoàn cảnh thành ra bác không về xuôi…
– Bác ơi! – Sa bỗng rơm rớm nước mắt. – Cháu hỏi như thế là vì bố cháu mất tích. Từ hoà bình đến nay đã mười một năm mà vẫn không được công nhận là liệt sĩ…
CHƯƠNG 5
Sườn núi cao mười tám mét. Đứng trên đỉnh nhìn xuống nhiều người nổi da gà. Mặt đường cũ hẹp chưa đầy ba mét, kề ngay bên cạnh là vực sâu thăm thẳm. Những hòn đá to bằng chiếc mũ cối lăn xuống không thấy tiếng động dội lại. Đó là đoạn đường vòng dài một trăm bảy mươi hai mét, có khối lượng đất đá lớn nhất toàn tuyến mà A4 là một trong những đơn vị chủ lực thi công. Phía trên dốc là rừng dẻ. Những cây dẻ cổ thụ mọc rải rác khắp nơi, mỗi cây chiếm cả một khoảng không gian vươn cành xòe ra như chiếc tán khổng lồ quanh năm rợp bóng mát. Lúc nghỉ giữa giờ, cánh nam giới thường gác xà beng, đu người lên rừng dẻ uống nước, hút thuốc. Công việc thổ mộc vất vả lắm. Trên đỉnh dốc, người ta căng sợi chão bằng ngón chân cái vào hai cây to. Các chàng thanh niên khoẻ mạnh, lưng thắt dây an toàn, đầu dây có khoá móc vào sợi cháo. Họ sắp hàng ngang, chọn thế đứng cho thuận lợi rồi dùng xà beng chọc đất cho rơi xuống. Chừng một hai buổi, khi đã hạ được vài bậc, bề rộng vài thước thì xem như đã tạo được vị trí an toàn. Tuỳ từng thành phần đất đá mà người thiết kế quy định mái dốc nặng hay nhẹ. Phải là những người có kinh nghiệm mới được phân công bạt talus. Mái dốc làm xong phải đảm bảo tiêu chuẩn kĩ thuật, phẳng và có tính thẩm mỹ. Càng xuống dưới, công việc dễ dàng hơn nhưng khối lượng đất đá cũng nhiều hơn. Thật khốn khổ cho những A nhận phải phần đất toàn đá schiste vỉa phong hoá, rất khó nhằn.
Sau một tuần A4 hạ được tám mét chiều cao thì gặp đá. Đây không phải đá xanh nung vôi mà là loại sa thạch màu gan trâu chạy thành vệt, không đến nỗi cứng lắm nhưng cuốc, choòng đều chịu phép. Cán bộ kỹ thuật Đảo xem đi xem lại mấy lần, cuối cùng quyết định cho nổ mìn. Nổ mìn bằng phương pháp thủ công rất lâu và nếu không cẩn thận sẽ gây tai nạn. Sau khi định vị các lỗ mìn, từng cặp một, dùng loại choòng[3] chuyên dụng, lưỡi đã được tôi già, người giữ choòng, người quai búa. Búa đập phải chắc, gọn, choòng cầm vững tay, xoay đều, thỉnh thoảng tưới nước và lấy bột đá ra. Khi công việc hoàn tất, nhân viên kỹ thuật mang mìn đến hiện trường, cử một số người thạo việc gắn kíp, nhồi thuốc, cắt dây cháy chậm. Buổi trưa, sau khi công trường nghỉ việc, tổ trưởng phân công hai người cầm cờ đuôi nheo gác hai đầu đường. Khi ấy công đoạn cuối cùng là đốt dây cháy chậm mới được thực hiện. Tiếng mìn uỳnh oàng làm cho khoảng trời vốn yên tĩnh của rừng già bỗng giãn ra. Những tiếng nổ ấy lại được vách núi cộng hưởng lan truyền theo sườn núi của thung lũng Đá Cháy nghe âm âm như tiếng sấm rền từ trận mưa rào đầu mùa hạ. Sau tiếng mìn một không khí oi nồng sặc mùi dây cháy chậm cứ chập chờn trong cơn chuyển động dữ dằn của đá.
Đầu giờ chiều, công việc trước tiên của bộ phận mặt đường là vần đá xuống vực. Các thao tác cứ đều đặn như thế, ngày nọ tiếp ngày kia, cho đến khi hoàn thành toàn bộ công trình.
Trong tổ có một anh tên là Khải, người Hải Dương, hát dân ca rất ngọt. Anh có cây nhị cũ rích, cần tróc sơn, hộp cộng hưởng sứt mẻ lúc nào cũng kè kè bên mình. Những đêm trăng anh thường mang nhị ra đầu cầu vừa cò cưa vừa hát bài “Những người con gái đồng chiêm” của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Tiếng ca của anh hoà với nước chảy dưới chân cầu lại được tiếng nhị réo rắt đưa đẩy nghe sao mà buồn. Anh là người thật thà chất phác, làm việc nhiệt tình nhưng về đường tình duyên thì trắc trở. Nghe nói ở quê, anh phải lòng cô con gái ông chủ nhiệm. Cô này nhan sắc thường mà tính lại đỏng đảnh. Anh chị cảm nhau là do cùng đội văn nghệ. Trước khi Khải lên công trường, hai người hẹn sau một năm sẽ cưới. Chưa được sáu tháng, Khải nhận được thư cô em báo chị Thà đã lấy chồng… Uất quá, nhà nghệ sĩ vung tay quăng cây nhị xuống suối rồi về giường nằm khượt ra như người chết rồi. Mấy hôm sau chị Đài từ phía dãy nhà con gái sang thăm, cầm theo gói giấy báo dài như bọc miến dong ngày tết. Khi chị về, Phan mở ra xem hoá ra là cây nhị của anh Khải. Anh cảm động lắm bảo với Phan:
– Mày thấy… Đài thế nào?
– Chị ấy hơi đen một tí nhưng là người tốt.
Anh Khải lại hỏi:
– Cô ấy tìm vớt cây nhị của tao… là làm sao?
– Điều ấy thì anh phải tự biết chứ, việc gì hỏi em.
Chị Đài với Sa thân nhau. Chị là con nhà nghèo lại đông anh em nên học hành dở dang, chỉ lớp bốn đã bỏ. Trừ anh Túc, anh Khải và anh Phương ra, những người còn lại của A4 đều ít tuổi hơn chị. Chị coi bọn họ như em, đôi khi cũng mắng mỏ, la rầy về chứng này tật kia. Chị khâu vá rất khéo và nấu nướng trong những dịp tổ liên hoan ngon có tiếng.
Dạo này Trần Đảo hay la cà ở A4. Đảo tốt nghiệp Trường trung cấp Giao thông Vĩnh Yên, trước ở Cục Công trình 2, mới đây được điều lên Công trường Cầu đường Cao Bằng. Đảo người tầm thước, da trắng, tóc gọng kính, dáng thư sinh, đặc biệt có giọng nói nghe khá lạ tai. Hình như lưỡi ngắn lại rộng bề ngang nên anh ta có kiểu phát âm bèn bẹt, tiếng nọ dính vào tiếng kia nghe cứ như vừa nhai kẹo mạch nha vừa nói. Mỗi sáng, dù đã có kẻng báo, nhưng hôm nào cũng vậy, Đảo dậy thật sớm, chạy một vòng qua các dãy lán cất cái giọng bèn bẹt, thúc những anh chàng dậy muộn:
– Đến giờ rồi, dậy tập thể dục các đồng chí ơi!
Hết dãy nhà nam anh ta lại vòng cầu sang dãy nhà nữ. Cánh con gái ở đây cũng không vừa. Biết Đảo không dám xộc vào nhà như bên nam, họ gài chặt cửa, nằm im thin thít trêu ngươi. Chờ mãi chẳng thấy cô nào ra, anh ta lững thững quay về báo cáo xê trưởng. Như đã nói xê trưởng Thành sống có tình với mọi người nhưng đôi lúc hơi gàn và đặc biệt nguyên tắc. Những anh phạm khuyết điểm, đến văn phòng nhận lỗi, hứa sửa chữa thì ông tha cho, nhưng nếu cứ nhơn nhơn tưởng ông không biết gì thì hãy coi chừng. Với tính nói dài, nói dai cố hữu, trước toàn thể mọi người trong cuộc họp tối thứ sáu hàng tuần, ông mà lên lớp cho khoảng hai giờ đồng hồ thì chỉ còn cách chui xuống đất cho khỏi nhục. Thật ra, cái gì cũng có giá của nó. Chứng bệnh thích rỉa rói người khác đã mấy lần làm hại ông. Điển hình là vụ chiếc đồng hồ báo thức.
Hôm ấy A4 đến phiên gác đêm. Mọi lần thì không sao nhưng hôm ấy là ngày 2 tháng 9, nhà bếp tổ chức liên hoàn mừng lễ độc lập. Trước đấy mấy hôm, công trường bán cho mỗi người một chai rượu Ngũ gia bì. Ngũ gia bì nhắm với thịt bò xào lăn, thịt bò sốt vang, mà lại mỗi anh những một chai thì làm gì chẳng “ngủ li bì”. Đánh chén rồi, các tướng say khướt, anh nọ đùn đẩy anh kia, cuối cùng cánh con gái thương tình, gác cho đến mười giờ. Người tiếp sau các cô là anh chàng Khoát. Cậu này buồn ngủ díp mắt nhưng vẫn đủ tỉnh táo để vặn đồng hồ nhanh ba mươi phút. Đến lượt cậu Nhàn. Chàng ta vác súng dạo một vòng chung quanh lán, về góc bếp kéo mồi thuốc lào, độ chừng già nửa tiếng, thấy người mệt mỏi bèn tự bảo: “Kệ mẹ nó, cứ vặn đồng hồ lên mấy phút cho thằng Phan gác quá đi một chút cũng chẳng sao”. Chẳng ai bảo ai mà “chúng khẩu đồng từ”, kết quả, người gác cuối cùng là anh Khải phải chịu trận. Cứ theo đồng hồ, năm giờ mười lăm, anh Khải thúc kẻng báo thức. Đến hồi thứ ba thì ông Thành dậy ra cầu Nậm Pạng tập thể dục. Đảo vẫn còn ngái ngủ, quần đùi áo lót vừa chạy vừa gọi tiếng nọ dính vào tiếng kia:
– Đến – giờ – rồi…, dậy – tập – thể dục – các – đồng – chí ơi…!
Bên kia suối có tiếng con gái lao xao nhưng dãy nhà nam vẫn im phăng phắc. Ông Thành sinh nghi vội chạy về xem đồng hồ. Thì ra lúc ấy mới có ba giờ mười lăm… Kết cục A4 bị ông Thành xạc cho một trận ra trò. Dùi đánh đục, đục đánh chạm, cuối cùng người ta cũng tìm được những kẻ gây ra sự cố dây chuyền. Mỗi anh bị phạt gác hai đêm liền mà “phạm nhân” đầu tiên là anh chàng Khoát. Cậu ta tức ông đội trưởng lắm bèn nghĩ kế trả thù. Đang băn khoăn thì nhìn thấy chiếc kẻng làm bằng vỏ quả bom tạ từ thời Pháp chẳng biết ai tha ở đâu về treo lủng lẳng dưới cành cây sao ngay đầu nhà Ban chỉ huy, Khoát nhếch mép cười nhạt. Năm giờ mười một phút sáng hôm sau, Khoát không thèm dạo trước mà giơ thẳng cánh nện nhát kẻng đầu tiên bằng chiếc dùi sắt tổ bố. Ông Thành bị bất ngờ, giật nảy mình, quát:
– Đứa nào gõ kẻng đấy?
Im lặng. Phía nhà bếp có tiếng anh Huynh quản lý văng tục. Chừng ba phút sau, tiếng thứ hai, cũng đột ngột và chát chúa như lần trước. Ông Thành tức điên liên, vùng dậy, mặc quần dài, nhưng vì vội quá, thành ra hai chân xỏ vào cùng một ống nên cứ lúng túng như gà mắc tóc, trong khi ấy, ở đầu nhà Khoát thong thả bổ nhát thứ ba. Tiếng này, Khoát vụt theo kiểu vừa giật vừa nhấn nên âm lượng rất đanh, như xoáy vào màng tai làm chính cậu ta cũng phát hoảng. Khi ông xê trưởng ra được đến nơi thì Khoát đang ở giữa hồi thứ nhất. Hình như cố tình trêu tức cấp trên nên khoảng cách giữa hai tiếng kẻng bị cậu ta kéo dài ra gấp hai, ba lần bình thường. Mà theo quy định, kẻng báo thức phải đúng ba hồi chín tiếng. Ông Thành không thể nói chen vào giữa hai tiếng kẻng, vì có nói Khoát cũng không thể nghe thấy. Ông đành nén giận về phòng chờ. Ba hồi chín tiếng kẻng kéo dài đúng mười chín phút, đạt kỉ lục Guinness trong các loại hiệu lệnh báo thức. Những hồi kẻng như thế có thể gọi cả hồn người chết trở lại dương gian, chứ chưa nói đến những chàng lười, chuyên dậy muộn, không đánh răng rửa mặt mà xách bát ngay xuống bếp ăn sáng.
*
Dạo này Đảo có vẻ chú ý đến Sa. Phan thấy mấy chiều gần đây, mỗi khi hết giờ làm việc anh ta thường tìm cách ở lại sau để về cùng A4. Chị Đài nháy Sa:
– Mày bị chiếu tướng rồi.
Sa chẳng ưa gì chàng kỹ thuật rỗng tuếch, nổi tiếng lăng nhăng trong quan hệ tình ái nhưng vốn có tính hài hước, cô bấm chị Đài nói nhỏ:
– Chị cứ để yên xem chàng Don Juan này tán tỉnh thế nào đã.
Sa vờ bị vấp ngã cho chị Đài vượt lên trước. Không bỏ lỡ thời cơ, Đảo cúi xuống nhẹ nhàng hỏi:
– Có đau lắm không hả cô Sa?
Sa bất chợt ngẩng lên, bắt gặp cặp mắt đắm đuối của chàng kỹ thuật đa tình liền giả vờ:
– Bác Đảo đấy ạ… Cảm ơn, vấp sơ sơ thôi mà. Chúng em cứ nghĩ bác về trước với A2 rồi.
– Ấy chết, tôi mới có hai mươi tám, làm gì đến nỗi phải gọi bằng bác…
– Chúng em trót quen miệng, mong… anh đừng chấp.
– Không có gì. – Đảo đi chậm lại bắt đầu lên dây cót bằng giọng nhai kẹo mạch nha. – Ở nhà Sa học đến lớp mấy rồi?
– Dạ, nhà nghèo, bố lại mất sớm nên mới học đến lớp bốn.
– Tiếc nhỉ. – Đảo chép miệng. – Giá mà Sa tốt nghiệp lớp bảy rồi thì mình sẽ đề nghị với công trường cho đi học lớp thống kê.
– Cảm ơn… Trình độ học vấn của em thấp nên không dám nghĩ đến việc đi học.
– À, Sa này, nghe nói Sa thích hát, tôi có bài “Nụ cười miền sơn cước” của nhạc sĩ Hoàng Cầm hay lắm, tối nay mang sổ đến tôi chép cho.
– Thế mà từ trước đến nay em cứ nghĩ Hoàng Cầm là nhà thơ vùng Kinh Bắc có bài “Bên kia sông Đuống” nổi tiếng, còn ca khúc “Nụ cười sơn cước” là của nhạc sĩ Tô Hải cơ đấy.
– Ai nói với Sa thế? – Đảo ngượng chín người vì thói ba hoa nhưng vẫn cố làm ra vẻ hiểu biết. – Em không biết chứ ông Hoàng Cầm này còn là một nhạc sĩ tiền chiến nữa kia.
Sa làm bộ ngây ngô, giả vờ nói:
– Thế ạ? Thú thật em có biết gì đâu, tất cả là do cậu Phan bảo.
Trong giây lát, Đảo thoáng nghĩ đến cánh con trai A4, mặt anh ta đanh lại: “Toàn những đứa rắn mặt, khó bảo nhất là thằng Khoát, còn thằng Phan thì khinh khỉnh, phớt đời”.
– Hừ, cái cậu Phan này… có vẻ khó hiểu.
– Anh ấy học hết lớp chín rồi đấy. – Sa thong thả nói. – Chơi guitare hay lắm.
– Các cô đừng có mà thấy đỏ tưởng chín. – Đảo bất ngờ thay đổi cách xưng hô. – Những thằng con trai có mẽ bên ngoài với chút tài vặt là cần phải cảnh giác.
– Với tất cả sao? – Sa hỏi tai quái.
– Phải, tất cả.
– Anh Đảo đừng chủ quan vơ đũa cả nắm. Em chắc trong số ấy phải trừ ra một người.
– Ai thế? – Đảo ngơ ngác hỏi.
– Anh chứ ai…
– Cái cô này! – Đảo biết mình nói hớ, bị sượng mặt. – Giọng của Sa cay như ớt ấy…
Sau đó ít lâu, C22 tổ chức cho anh chị em học bổ túc văn hoá. Phan là một trong số mấy người có học vấn cao hơn cả được chỉ định làm giáo viên. Trong A4, chỉ có Phan biết Sa đã tốt nghiệp lớp mười nhưng cô chỉ ghi trong sơ yếu lí lịch là lớp bốn và yêu cầu Phan giữ kín chuyện này. Thế là lợi bất cập hại, cô bị điệu lên lớp. Đảo nhận dạy lớp của Sa. Lớp này gồm hai mươi bảy người phần lớn là nữ, trong đó có chị Đài. Chương trình học gồm hai môn văn và toán. Học được một thời gian, thầy Đảo ra đề kiểm tra cho học sinh như sau: “Anh (chị) hãy kể lại những hoạt động bình thường của đơn vị ta vào buổi sáng chuẩn bị cho một ngày lao động trên công trường”. Đây là một bài khó. Nhiều người ngồi cắn bút. Vài chàng vẽ nguệch ngoạc ra giấy rồi hút thuốc lào sòng sọc. Số khác tỏ ra cố gắng nhưng chỉ được vài dòng rồi tắc tỵ. Sa ngồi mãi bên trong, cạnh chị Đài. Cô ngẫm nghĩ một lúc rồi cắm cúi viết, được đoạn nào lại đưa chị Đài chép.
Buổi học sau thầy Đảo mang tập bài đã chấm trả cho các học viên. Thầy nhận xét, văn của chị Đài mạch lạc, đúng ngữ pháp, kể về hoạt động của C22 tương đối hay nhưng giọng điệu có tính châm chọc, thiếu tinh thần xây dựng. Chị Đài bấm Sa cố nén cười. Đêm hôm ấy, bọn con gái tập trung vào một gian, thắp đèn đọc cho nhau nghe, vừa đọc vừa cười phá lên. Toàn văn bài kể chuyện như sau: “Chiếc kẻng làm bằng vỏ quả bom tạ của quân đội Pháp để lại, treo lủng lẳng trước nhà Ban chỉ huy C22. Cứ mỗi sáng vào lúc năm giờ mười lăm, những chùm âm thanh nặng nề, vừa đanh quánh vừa dai dẳng len lỏi khắp các dãy nhà, làm cho không ít anh chàng vốn có máu liều bất chấp giờ giấc cũng phải tung chăn bật dậy. Những kẻ lười biếng cố tình nằm lỳ, và trong đầu đang có âm mưu cáo ốm thì đã có anh cán bộ kỹ thuật đến tận nơi thăm hỏi. Thú thực, buổi sáng, trước khi đi làm, chúng tôi không sợ ông đội trưởng bằng anh cán bộ kỹ thuật này. Anh tên là Đ, người trắng trẻo, mắt có vẻ đa tình, tóc gọng kính và thuộc nhiều bài hát tiền chiến, nhất là những ca khúc nổi tiếng của “nhạc sĩ” Hoàng Cầm. Mỗi buổi sáng, anh Đ còn dậy sớm hơn cả kẻng báo thức. Tiếng kẻng còn đang gióng giả, anh đã chạy một vòng từ nhà Ban chỉ huy đến hết lượt các gian, vừa chạy vừa gọi bằng giọng mũi như bị ngạt rất có ngữ điệu: “Đến giờ rồi, dậy tập thể dục các đồng chí ơi!”. Một lúc sau, ông đội trưởng T cũng chạy huỳnh huỵch ra cầu tập bài thái cực quyền. Có hai vị lãnh đạo làm gương hai phía, cánh thanh niên chúng tôi vốn dĩ không mấy thích thể dục mà chỉ thích ngủ cũng phải làm theo. Ăn sáng rất nhanh, vì khẩu phần mỗi người chỉ là hai bát cơm với muối rang. Sau đó, chúng tôi đóng bộ bảo hộ lao động bằng vải xanh công nhân dày cộp như da trâu, đôi găng muôn thuở, rồi người vác xà beng, người đẩy xe, người khiêng nước uống, tất cả đều hướng đến hiện trường như một đoàn quân ra trận”.
Biết thủ phạm vụ này là Sa, Đảo tức lắm, buổi học tiếp sau, lấy cớ mệt đùn cho Phan lên lớp. Chiều hôm sau, khi cả tổ đã về trước Sa ra hiệu cho Phan đi chậm lại. Hai người đến đoạn Đèo Báng, Sa ngập ngừng mãi rồi mới nói:
– Phan có biết vì sao Sa làm bài văn ấy cho chị Đài chép không?
– Tôi chịu… Hình như các chị cố tình dùng anh ta làm trò cười.
– Là vì mấy hôm trước anh ta… ngỏ lời với Sa.
Phan lặng người:
– Vậy à?
– Phan thấy thế nào?
– Hắn là cán bộ kỹ thuật, một đám tốt đấy.
– Phan không ghen à?
Anh chợt đỏ mặt lắc đầu:
– Tôi có quyền gì đâu mà…
– Có đấy… – Sa nói nhỏ chỉ đủ cho hai người nghe. – Để cho hắn hết ảo tưởng. Cái thùng kêu to là cái thùng rỗng.
A4 làm được hai tháng thì hoàn thành công việc nổ mìn bóc lớp đá schistes phong hoá. Phần còn lại là đất nhóm ba, nhóm bốn dễ đào. Đúng vào dịp ấy chi đoàn thanh niên C22 tổ chức một đợt thi đua mang tên “Công trình 26 tháng 3” với khẩu hiệu “Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”. Như vậy, một tháng có bốn tuần, mỗi tuần Đoàn vận động làm đêm một buổi từ tám đến mười hai giờ. Làm đêm tuy mệt nhưng vui. Đuốc thắp sáng trưng. Không khí lao động tấp nập như là một chiến dịch lớn. Có điều, làm thủ công rất chậm. Máy móc lại ít. Muốn đẩy nhanh tốc độ thi công chỉ còn một cách là phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật. Phan đưa ý kiến áp dụng kiểu đào hàm ếch. Phương pháp này không có gì mới nhưng chắc là sẽ cho năng suất cao hơn so với trước đây. Đào hàm ếch, nghĩa là dùng cuốc chim moi sâu phía dưới một khối đất lớn tạo nên khoảng không gian hẫng, sau đó lấy xà beng thúc mạnh phía trên, khối đất đổ sập xuống đủ để chị em phụ nữ có việc làm trong nhiều giờ. Lúc ấy khoảng chín giờ sáng, tảng đất của A4 đánh theo phương pháp trên tính sơ bộ cũng gần hai chục khối. Anh chàng Khoát cởi trần, lưng bóng nhẫy mồ hôi, tay cầm cuốc chim cán ngắn trông giống cái rìu đá của người nguyên thuỷ, đang choãi chân “phạt” theo chiều ngang. Phan cũng cởi trần, tóc tai bù xù, cầm choòng sắt sáu cạnh, dài mét tám, khom người phóng từng nhát chắc nịch. Phía bên kia, anh Túc, anh Khải, cậu Nhàn đang loay hoay với tảng đá hình bán nguyệt mắc kẹt giữa hai lớp schistes phong hoá. Chị Đài, Sa và cô Diệu dùng cuốc bàn kéo đất ra. Kéo được đến đâu họ lại xúc lên xe cút kít đẩy ra ngoài.
Khi dưới khối đất đã có một khoảng trống đáng kể, Phan, Khoát và anh Khải chui hẳn vào nới cho rộng thêm, sau đó đào sâu xuống tạo thành một cái lườn. Công việc đến đây có thể xem như sắp hoàn thành. Đang bổ những nhát cuốc chim cuối cùng, Phan cảm thấy hình như khối đất đang chuyển động, anh vội thét lên:
– Anh Khải ra ngay! Nó đổ…
Khi tỉnh dậy, Phan thấy mình nằm trong Bệnh xá công trường. Toàn thân anh đau ê ẩm, đau hơn cả những trận đòn thừa sống thiếu chết bằng roi mây mà ông bố đã dạy bảo anh từ hồi còn nhỏ. Phía giường bên là Khoát nằm cong người như con tôm, trên trán cậu ta có một cái bướu to bằng quả ổi. Anh Khải chắc không việc gì nhưng có lẽ vẫn còn hoảng. Lúc ấy, trông anh như vừa bị mất trộm, dáng ngơ ngơ ngác ngác rất tức cười. Phan đưa mắt nhìn quanh, không thấy đám con gái. Anh định hỏi Sa nhưng rồi lại buột miệng:
– Chị Đài đâu?
Anh Khải mặt khó đăm đăm thông báo một tin chết người:
– Lúc khối đất sắp đổ, thấy cậu lúng túng vướng cái cuốc chim, cô Sa lao vào cứu, bị tảng đá mồ côi làm dập chân. Bọn cô Đài đã theo xe đưa Sa ra bệnh viện.
– Chị ấy có… làm sao không?
– Chưa biết được. – Anh Khải lắc đầu bảo. – Thật hú vía. Chút nữa thì ba thằng chúng mình đi đứt.
– Từ nay con xin các bố quên ngay cái “tối kiến” đào hàm ếch đi nhé. – Cậu Khoát xoa xoa cái bướu trên đầu nói. – Đúng là lợi bất cập hại.
Trưa hôm sau, dù vẫn còn mệt Phan vẫn nằng nặc đòi về. Anh tắm rửa qua loa rồi cuốc bộ ra thị xã Cao Bằng. Sa nửa nằm nửa ngồi, tựa lưng vào chăn, mắt lơ đãng nhìn dòng nước lũ đục ngầu chảy cuồn cuộn dưới sông Bằng qua khung cửa sổ. Thấy Phan vào, Sa gượng cười:
– Phan đi thăm bệnh nhân đã xin phép Ban chỉ huy chưa?
Nhìn cái chân bó bột của Sa, Phan dở khóc dở mếu:
– Tại tôi mà chị bị tai nạn, nếu chẳng may làm sao tôi ân hận lắm.
Sa ngồi thẳng dậy, đưa khăn mùi xoa cho Phan, giọng thản nhiên như không:
– Là đàn ông không bao giờ được khóc. Khóc làm người ta hèn đi. Với lại chân Sa có làm sao đâu, chỉ độ một hai tháng lại về đẩy xe thôi.
Phan liếc mắt nhìn khắp nơi thấy trong phòng không có ai liền mạnh dạn cầm bàn tay búp măng của Sa thì thầm:
– Tôi khóc vì… chị đấy.
Sa chớp chớp hàng mi, giọng nghẹn lại:
– Sa biết…
Phan bóp chặt bàn tay cô bạn gái, ngập ngừng:
– Ông Đảo nói… với chị thật à?
Sa tủm tỉm cười:
– Tưởng chỉ Hoạn Thư mới có… máu ấy?
Phan lúng túng không dám nhìn vào mắt Sa, anh ngước nhìn vòm trời trong xanh. Một cánh cò trắng mải miết bay về phương bắc. Cánh cò cô độc, lẻ loi làm anh liên tưởng đến hoàn cảnh của người bạn gái.
Trong lúc Sa còn nằm bệnh viện thì ở nhà anh Túc bị ông Thành “xạc” cho một trận nên thân. Anh phải làm kiểm điểm đến lần thứ ba mới đạt yêu cầu. Đảo vốn chẳng ưa gì A4, giờ nhân vụ tai nạn lao động bèn xúi ông Thành phạt mỗi người hai ngày công trừ vào tiền tạm ứng cuối tháng. Chị Đài tức lắm, bàn với cánh con gái cho anh ta một vố.
Dịp ấy là mùa ngô, các mế người Tày thường luộc ngô bánh tẻ đựng vào các tay nải chàm mang ra công trường bán cho anh chị em ăn trong giờ nghỉ. Ngô Hoà An ngon lắm vì đó là loại ngô nếp thuần chủng nổi tiếng chỉ đất Cao Bằng mới trồng được. Khác với miền xuôi, đồng bào dân tộc ở đây luộc ngô cả áo, bán giá rẻ không thể ngờ: một hào ba bắp. Khi lớp áo được tước ra, những hạt đều tăm tắp, màu trắng ngà, vừa bùi vừa dẻo hiện ra dưới một lớp nhựa trong suốt thơm mùi nếp hoa vàng, vô cùng hấp dẫn. Nhiều anh háu đói, chén sáu bảy bắp, trưa về bỏ cơm tập thể. Cũng như mọi ngày, hôm ấy mế Quy gánh hai tay nải bắt đầu bán từ A1. Phía đằng này Đảo đang loay hoay lên “ga”[4]cho A5. Đợi cho anh ta làm xong chị Đài gọi:
– Anh Đảo ơi! Sa nó trách đấy…
Đảo sáng mắt lên, xách cuộn thước dây về phần đất A4.
– Trách gì? Tôi làm gì mà trách? – Đảo hỏi lửng lơ.
– Là vì từ hôm người ta đi bệnh viện đến nay chẳng thấy anh ra thăm.
– Các đồng chí thông cảm. – Đảo vừa cuộn thước vừa phân bua. – Mấy hôm vừa rồi tôi bận quá. Hơn nữa, tôi mà đi, chẳng may ở công trường lại xảy ra tai nạn thì gay. Có thể chủ nhật này…
– Chúng em nói đùa thôi. – Chị Đài nháy cô Diệu. – Sa nó sắp khỏi rồi. Kìa mế Quy đã mang ngô đến, chúng em mời anh ở lại ăn ngô.
Chẳng biết do bệnh sĩ hay chập mạch, nhìn thấy bà bán ngô, Đảo nói to bằng giọng bèn bẹt:
– Các cô cứ ăn đi. Hôm nay tôi chiêu đãi.
– Thật nhé. – Cô Diệu vỗ tay reo lên. – Mế ơi, còn bao nhiêu bán cả cho chúng con.
– Ấy, tôi nói là… – Đảo hốt hoảng chen vào.
– Quân tử không nói hai lời. – Chị Đài bảo. – Anh cứ mua cho chúng em đi, khi nào Sa về nó sẽ đền.
Hôm ấy Đảo phải cắn răng chịu phép, rút hai đồng sáu trả tiền gần tám chục bắp ngô trong khi anh ta chỉ ăn được hai bắp. Số ngô này, A4 không xài hết phải nhờ mấy cô A2 viện trợ.
Vào trung tuần tháng tư. Chân Sa được tháo bột. Cả A4 kéo nhau đi đón. Đến bệnh viện mọi người mới hay, chân của Sa không thể trở lại bình thường. Anh em nam giới ngậm ngùi không nói được, còn bọn con gái oà lên khóc. Bây giờ Sa đi lại có phần khó khăn. Bàn chân bị dập cứ dặt dẹo như là các đoạn xương gãy xếp sai vị trí trước khi bó thạch cao. Hôm khám cho cô lần cuối, ông bác sĩ khoa ngoại, người dân tộc Nùng bảo:
– Cái gân ở gần mắt cá bị co, đành để vậy thôi, không chữa được. Rất may cho cô là không phải cưa vì vết thương nhiễm trùng.
Về đội, Sa được ông Thành bố trí làm cấp dưỡng. Hằng ngày nhìn thấy cô vất vả với chiếc chân què quẩn quanh trong khu nhà ăn tập thể, Phan rất ái ngại nhưng chẳng giúp gì được. Trước đây khi chưa bị tai nạn, buổi tối không thể đếm được bao nhiêu chàng trai lảng vảng trước cửa gian tập thể của Sa. Mỗi anh có một kiểu cưa kéo riêng, nhưng anh nào cũng hy vọng lọt được vào mắt xanh người đẹp. Vậy mà giờ đây hầu hết bọn họ đều tìm cách lảng ra, nói như chị Đài là:“Các chú rể tương lai vội bỏ của chạy lấy người khi nhìn thấy cái chân thọt”.
Làm việc trong một bếp tập thể nấu ăn cho hơn trăm người hoàn toàn không đơn giản. Chỉ riêng nhặt rau, vo gạo, khuân củi đã mệt bở hơi tai. Sợ nhất là vào dịp những tháng hè. Nắng trên trời đổ xuống, nóng từ bếp tỏa ra làm cho anh chị nuôi như bị nung trong lò lửa. Vào những hôm như thế, người phục vụ mệt nhoài, tối đến chỉ còn nước húp cháo. Tuy vậy làm bếp về mùa đông thì ấm, chỉ ngại khâu rửa bát đĩa, xoong nồi. Tuy chưa đầy năm, nhưng cánh nhà bếp C22 cũng đã có vô khối giai thoại chẳng khác gì chuyện tiếu lâm. Quản lý bếp ăn là anh Huynh. Anh Huynh người Mạc Xá, tính xuề xoà, nghiện thuốc nặng, lúc nào cũng giắt chiếc điếu cày bằng gang tay bên mình. Vào dịp Quốc khánh, anh cùng ông Liệu sang tận Trùng Khánh mua lợn. Lợn không mua được nhưng sau mấy ngày hai người dắt về ba mẹ con con bò giá rất rẻ. Sáng ngày 2 tháng 9, cả tổ dậy từ lúc ba giờ làm thịt bò. Thui xong, anh Huynh và ông Liệu khênh một con bê xuống bờ suối rửa để mổ. Đang làm, anh Huynh thèm thuốc, bảo với ông Liệu:
– Lên làm một điếu đã rồi gọi thằng Nhỡ xuống mổ với ta cho nhanh bác ạ.
– Ừ thì làm mồi thuốc cho tỉnh. – Ông Liệu cắm con dao nhọn xuống đất hưởng ứng.
Ông Liệu có tật hễ cứ hút thuốc nặng vào sáng sớm là say vật ra, mồm miệng cứng như là lên cơn động kinh. Cho nên, trước khi hút, bao giờ ông cũng dọn chỗ sẵn, để khi say lăn ra không bị va chạm. Thuốc của anh Huynh hôm ấy là loại Vĩnh Bảo chính hiệu, hút xong, cả hai người đều lơ mơ rồi ngủ béng lúc nào không hay, khi tỉnh dậy, bước thấp bước cao ra bờ suối thì ôi thôi, con bê đã không cánh mà bay. Ông Liệu mắt nhắm mắt mở nhìn quanh, tưởng rằng kẻ trộm đã chơi xỏ mình, đến khi nghe thấy nước suối réo ầm ầm, mới vỡ lẽ. Mưa trên thượng nguồn, lũ bất ngờ đổ về đã cuốn phăng chú bê thui trong lúc các vị còn đang say sưa khói thuốc.
[1] Pa trui: Đi tuần tra. Tiếng Pháp patrouille
[2] Nhà thơ Pháp thế kỷ XVIII
[3] Choòng: Loại xà beng bằng sắt sáu hoặc tám cạnh, lưỡi được tôi cứng để đục lỗ mìn.
[4] Ga: Mặt cắt ngang nền đường (phiên âm từ tiếng Pháp )