Khi chúng ta không được quyền nổi quạu

Nguyễn Hoàng Văn

Tôi có một tật xấu là hay quạu và tật này dẫn đến một tật khác là… bào chữa, bằng một chiến thuật cũ xưa:

Toét mắt là tại hướng đình

Cả làng toét mắt một mình em đâu

Thì cả làng vậy cả, mà toàn người danh tiếng, tài năng, từ học giả Đào Duy Anh đến nhà giải phẫu Tôn Thất Tùng, nhà nhạc học Trần Văn Khê và, thậm chí, cả “cha già dân tộc”.

Như Đào Duy Anh, qua lời kể của vợ ông, bà Trần Thị Như Mân:

 “Tôi gặp anh Anh trước tiên là trong công việc của đảng và dành cho anh sự kính phục như đối với một người anh, vì vậy khi anh ngỏ ý muốn cùng tôi kết cuộc hôn nhân thì tôi cứ đắn đo mãi. Tôi chỉ mới quý anh, chứ tính anh hay cáu gắt, động trái ý là nổi giận thì khó mà gần được. Ba chị em chúng tôi thường nói vui với nhau rằng anh hay quạu, và đặt cho cái tên ‘quausime’.” [1]

Hay nhà giải phẫu Tôn Thất Tùng:

“Thầy Tùng (hồi đó cả Bệnh viện Việt Đức gọi giáo sư Tôn Thất Tùng là thầy) rất hay cáu, đặc biệt là khi mổ. Nếu có bà Hồ ở đấy, chắc chắn thầy sẽ dịu lại nhanh hơn”. Bà Hồ cũng luôn là người làm dịu cơn giận của giáo sư Tùng khi ông bị lạc mất những vật dụng nhỏ như tập giấy vẽ, cục tẩy… ở nhà. Tôn Nữ Hồng Tâm kể lại: “Mẹ dễ dàng tìm thấy những thứ đồ bị mất, cho dù ngay trước đó bố con tôi sục sạo khắp nhà mà cũng không tìm ra. Lúc đó, tôi ngạc nhiên và thắc mắc lắm. Sau này, khi có gia đình, tôi hiểu ra rằng, mẹ luôn tìm được nơi bố để quên đồ vì bà rất hiểu bố tôi”.[2]

Chuyện của họ là do người khác kể lại, riêng nhà nhạc học Trần Văn Khê thì tự thú nhận:

 “Tôi sanh ra bản tánh rất nóng nhưng không bao giờ muốn đánh người khác mà chỉ thường đập đồ, đá vào cửa nhà, cửa tủ… để thỏa cơn giận”.

Như, có lần, sau khi bỏ ra cả một buổi sáng thuyết trình về nghệ thuật chèo theo yêu cầu của Bảo tàng viện Pháp nhân cuộc lưu diễn của một đoàn chèo Việt Nam, ông đã quạu lên, đập vỡ cửa tủ đựng băng của viện vì anh con trai Trần Quang Hải quên, không bấm máy ghi âm.[3]

Trường hợp như thế thì, trừ người đã đắc đạo, sắp sửa thành… Phật, ai mà không nổi quạu? Vấn đề là mức độ nặng nhẹ còn sự giận dữ ở đây là hoàn toàn bình thường, bình thản như không có gì xảy ra mới là chuyện lạ. Chúng ta nổi cáu khi sự thể lẽ ra phải diễn tiến bình thường nhưng lại chuyển biến một cách bất thường, chệch ra khỏi “quy ước” thành văn hay bất thành văn của nó, một cách vô nghĩa lý. Ông Đào Duy Anh gắt lên vì sự việc trái với ý mình, tức chệch ra khỏi cái “quy trình” hằng cho là hợp lý. Ông Tôn Thất Tùng cáu vì với tay vào chỗ để vật dụng quen thuộc mà không thể nào tìm được, nghĩa là ai đó đã làm xáo trộn cái trật tự theo “quy ước” của mình. Và ông Trần Văn Khê đập vỡ cánh cửa bởi vì, chỉ vì một sơ suất cực kỳ ngớ ngẩn, mà phí công nguyên cả một buổi sáng, với bao tâm huyết.

Nhưng nếu đó không phải là con trai mình mà là một chuyên viên nào đó của Bảo tàng viện Pháp, chắc gì cánh cửa trên đã vỡ? Nói theo nhà tâm lý học Mỹ Deborah South Richardson thì chúng ta có khuynh hướng trút bỏ những ẩn ức với những người gần gũi nhất vì tin rằng quan hệ đủ vững bền để chịu đựng và chấp nhận. Trong khi, với những người xa lạ, chúng ta gồng lên và đóng kịch để chứng tỏ nền tảng văn hóa, chứng tỏ sự tử tế và lịch lãm thì, trong phạm vi thân thuộc, lại buông thả với con người thật của mình, thoải mái bộc lộ cái tốt lẫn cái xấu dè.[4]

Như Đào Duy Anh thời trẻ, lúc đảm nhiệm vai trò Tổng bí thư của Tân Việt Cách mạng đảng, một trong những tổ chức cộng sản đầu tiên. Lãnh tụ chính trị chưa bao giờ giỏi giang trong việc âm mưu và thủ đoạn này được những đồng chí của mình mang ra đùa với biệt danh “quausime” thì có nghĩa là quan hệ giữa họ thực sự gần gũi, không có gì phải dè dặt. Và Giáo sư Tôn Thất Tùng, cũng chẳng mâu thuẫn gì khi, vì bất ý, ông dễ dàng nổi cáu với những phụ tá hay con cái nhưng lại dễ dàng xuống nước trước người vợ hiểu rõ mình. Ông ta nổi cáu vì cho rằng họ xô lệch cái “quy ước” thông thường của mình, còn người vợ thì lại hiểu rất rõ rằng chính ông cũng đã khiến cái “quy ước” đó chệch đi.

Và có quạu như thế thì chúng ta mới thực sự là con người với những khía cạnh bất toàn của nó; chấp nhận một người, là hiểu, là thông cảm cho sự bất toàn này:

Em yêu sự thông minh hóm hỉnh

Đến thói thường hay cáu gắt của anh

Nếu đời anh đã xếp thành ngăn

Em sẽ đảo tung lề thói cũ

(Xuân Quỳnh, Thơ viết cho mình và những người con gái khác)

Thì đó là con người. Và khi phần người này bị quyền lực hay danh vọng xô lệch thì khía cạnh nhân vân trong những góc cạnh bất toàn kia cũng lệch lạc theo và trở nên khó để… thông cảm. Như sự “thất vọng tràn trề” của nhà thơ Lưu Trọng Lư, qua lời kể của nhà biên kịch kiêm đạo diễn Vũ Đình Phòng:

“Cuối năm ấy (1956), đột nhiên Vụ (Nghệ Thuật) nhận được điện thoại từ Phủ Chủ tịch yêu cầu một điều, đại khái: “Mấy hôm nay Bác có vẻ buồn. Yêu cầu Vụ Nghệ thuật cử vài diễn viên ca múa và ngâm thơ lên tiêu khiển cho Bác.” Lệnh còn nói rõ: “Nhất thiết phải có nghệ sĩ ngâm thơ bằng giọng miền Trung.” Nhận được lệnh, anh Lư bàng hoàng, vậy là nhất định phen này sẽ được gặp Bác, thỏa nỗi ao ước bấy lâu, vì chắc chắn anh sẽ phải đích thân dẫn tốp văn công ấy lên Phủ Chủ tịch và có mặt trong lúc các diễn viên biểu diễn. Anh hồi hộp chờ cho mau đến giờ đi.

Lên đến Ba Đình, trong lúc các diễn viên vào một phòng nhỏ trang điểm và thay quần áo, anh thơ thẩn ngoài hành lang tòa nhà, bước chân lững thững và hồi hộp chờ… Đột nhiên anh thấy có bóng người từ cuối hành lang đi đến. Hành lang hơi tối nên lúc đầu anh không nhìn thấy mặt, nhưng anh đoán chính là “Bác”. Dáng người mảnh khảnh và bước chân nhanh nhẹn. Anh thấy tim mình đập mạnh. Anh đứng lại, chờ Bác đến để chào và tỏ lòng tôn kính. Nhưng bất ngờ thay, Cụ bước nhanh đến, cau mặt, gắt luôn: “Không có việc gì để làm à? Mà đứng thơ thẩn, lại hút thuốc thế này? Đi tìm xem có việc gì mà làm đi chứ”. Và trong lúc ông anh của tôi còn đang đứng ngẩn người, chưa biết đối đáp ra sao thì “Cụ” đã thoăn thoắt đi khuất vào hành lang phía đối diện và biến mất…” Đột nhiên anh cảm thấy không ngờ “ông Cụ” thô lỗ, cục cằn thế!” Bao nhiêu điều trước đây anh tưởng tượng ra, về một con người lịch lãm, biến mất sạch. Thay vào đấy là một cảm giác thất vọng tràn trề… ”

Thì hôm ấy ông ta buồn. Nhưng không chỉ lúc ấy, cũng không chỉ là sự thất vọng của mỗi một Lưu Trọng Lư, trong một lần đến Phủ Chủ tịch. Ông Hà Huy Giáp, người sau này trở thành Thứ trưởng Bộ Văn hóa và Phó ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, đã có đến mấy tháng quan sát điều này:

“Về cách thức xử sự này của ông Hồ, về sau tôi đã được ông Hà Huy Giáp kể, sau khi ông nghe tôi đọc bản phác thảo ban đầu kịch bản “Kể chuyện Bác Hồ” (kịch bản sau đấy được viết lại rồi “bị” cưỡng bức nhận thêm tác giả thứ hai… Chính ông này đổi tên kịch bản thành “Người Công dân số Một”).

Ông Hà Huy Giáp kể rằng sau Đại Hội Hai, Đảng ra công khai, đổi tên thành Đảng Lao Động, Sau Đại hội, “Cụ” giữ ông Hà Huy Giáp ở lại (đoàn đại biểu Nam Bộ ra họp hình như chỉ có ba người) giúp Cụ. Ông Hà Huy Giáp ở bên Bác vài tháng. Và ông kể đại khái: “Bác rất nghiêm, nghiêm đến mức khó tính. Nghe thấy tiếng cười bên ngoài là Bác đang gõ máy chữ, cũng chạy ra mắng: “Không có việc gì à? Mà nhăn răng cười cợt thế kia? Tìm việc gì mà làm chứ. Có đống củi kia, ra mà bổ đi…” Cụ khó tính đến nỗi không ai dám bén mảng đến gần phòng của Bác. Chỉ khi Bác cho ai đi gọi thì mới dám đến..”[5]

Trông như thể một ông chủ hẹp hòi với người ăn kẻ ở nhưng với một bậc “cha già dân tộc” thì vấn đề cần phải được soi xét sao cho ngang tầm… “dân tộc”. Như thế thì lời quạu quọ “Tìm việc gì mà làm đi chứ” cần được nhìn qua lăng kính của tên đảng “Lao Động” và qua triết lý “Lao động là vinh quang”. Phải chăng, do cái dáng đứng thơ thẩn cực kỳ “phi lao động” bên làn khói thuốc mà Lưu Trọng Lư bị quạu? Và, phải chăng, vì “nhăn răng cười” giữa lúc còn có bao nhiêu việc để… “vinh quang”, những nhân viên phục vụ trong Phủ Chủ tịch mới bị mắng?

Nhưng con người phải được sống như con người, đâu phải là cỗ máy làm việc? Mà, ở đây, “cha già dân tộc” cũng là… người, đâu hề miễn dịch trước quy luật của Deborah? Ông ta quạu với các nhân viên cần vụ, mà Lưu Trọng Lư có bị quạu cũng chỉ vì bị lầm tưởng là một nhân viên cần vụ. Nhưng ông ta lại nhũn nhặn, chưa hề nổi quạu trong các cuộc họp cấp cao, ở Việt Bắc hay lúc đã về Hà Nội, kể cả lúc đáng quạu nhất.[6] Ông ta càng không nổi quạu khi viếng thăm nước bạn trong tư thế một vị quốc khách hay khi họp báo ngay giữa thủ đô.

Và có quạu lên, ông ta cũng chỉ quạu khi cái quan niệm sống “lao động vinh quang” của mình không được những kẻ dưới trướng chu toàn nhưng điều đó, bất quá, cũng chỉ khiến Lưu Trọng Lư thất vọng, khiến những nhân viên phục vụ sợ hãi và xa lánh chứ chẳng làm chết ai. Nhưng khi nhà chính trị nổi quạu theo những mục tiêu hay ân oán cá nhân bằng quyền lực không kiểm soát của mình, hắn ta mới thực đáng sợ.

Như khi Tố Hữu quạu lên với Hoàng Cầm. Lê tấm thân già nua đầy bệnh tật trong tù chỉ vì tập thơ Về Kinh Bắc chẳng làm gì nên tội, Hoàng Cầm cam lòng viết bản “thú tội” để thoát khỏi cảnh tù nhưng lại bị đày thêm một năm nữa chỉ vì Tố Hữu… quạu:

 “Sau khi tôi nhận tội, công an đã định cho tôi về thật. Nhưng trong thời gian chờ đợi giải quyết, thì một hôm ông Lê Đức Thọ gọi công an lên hỏi về vụ Hoàng Cầm ra sao rồi, và thông báo rằng có một số trí thức Pháp, những người quen biết nhiều với ông, đã giúp đỡ ông và đoàn đại biểu Việt Nam ở Hội nghị Paris, vừa gửi thư cho ông yêu cầu nếu xét Hoàng Cầm không có tội trạng gì cụ thể thì hãy thả ngay nhà thơ ra. Ông còn nhắc nhở: “Các cậu xem thế nào thì giải quyết đi, không có thì mang tiếng lắm”. Sự việc trên được công an báo cáo với Tố Hữu. Ông lập tức hạ lệnh: “Ngoại quốc can thiệp hả? Đã thế thì cho thêm một năm nữa!”[7]

Phản ứng của Tố Hữu có thể có từ những mầm mống khác như sự phê phán thẳng thắn của Hoàng Cầm với tập thơ Việt Bắc năm nào tuy nhiên lời buộc miệng đầu cáu kỉnh “Ngoại quốc can thiệp hả” đã cho thấy lý do trực tiếp. Ông ta là chân lý, là pháp luật, số phận của Hoàng Cầm là do ông ta định đoạt, đó là quy ước đương nhiên. Khi những trí thức Pháp dám chọc ngoáy vào cái quy ước đương nhiên thì ông ta phải quạu lên và, do đó, trong tay ông ta, Hoàng Cầm chợt trở thành một thứ sâu, thứ kiến, muốn cho bao nhiêu án tù là cho, không cần nề hà cần đến luật pháp, tòa án.

Nếu Tố Hữu, trong thơ và trong diễn ngôn chính trị, luôn luôn đề cao chủ nghĩa tập thể thì, ở đây, liên quan đến sự “mang tiếng” của thể chế, ông ta lại cực kỳ… cá nhân và, do đó, trở nên cực kỳ tầm thường. Nhà chính trị mà thấu được chữ “nhẫn”, có đủ bản lĩnh để áp chế những ân oán cá nhân cùng những xúc cảm nhất thời để hướng đến những điều lớn lao mới là nhà lãnh đạo vĩ đại. Như Trần Hưng Đạo. Vì vận nước, anh hùng dân tộc này đã bỏ qua thù nhà. Và vì thù nước, bậc anh hùng đã kềm nén cái tôi và xúc cảm nhất thời khi bị tay chân của Sài Xuân, sứ giả của nhà Nguyên, sỉ nhục: bị tên hầu này dùng mũi tên đâm vào đầu đến chảy máu mà vẫn bình thản, sắc mặt không hề thay đổi, đến độ Sài Xuân phải nể phục.[8]

Nhưng Trần Hưng Đạo không phải là Phật sống. Là con người trần tục với đủ sắc thái tình cảm hỉ nộ bi ái ố, Trần Hưng Đạo cũng đã bừng bừng “căm tức” vì “chưa được xả thịt lột da” khi thấy sứ giặc “đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình”. Và, như là người có tiếng nói quyết định thời ấy, Trần Hưng Đạo đã cùng vua tôi nhà Trần “quạu” lên để, trước cuộc xâm lăng đầu tiên của quân Nguyên, ba lần gô cổ những sứ giả hống hách của phương Bắc tống vào ngục thất.[9]

Đó là sự vĩ đại của một nhân cách phi thường. Biết tiết chế những xúc cảm cá nhân nhưng cũng biết nuôi dưỡng sự phẫn nộ chính đáng của cộng đồng để, khi cần thiết, biến thành sức mạnh của cộng đồng. Có nhìn lại những tháng ngày với không khí hừng hực nuôi dưỡng bằng sự phẫn nộ nung nấu từ “Hịch tướng Sĩ”, bằng hào khí Diên Hồng và bằng quyết tâm “Sát Thát” hằn lên da thịt, chúng ta mới nhìn ra sự tầm thường của thời hiện tại và bi kịch của những thế hệ bị tước quyền nổi quạu. Bị cấm nổi quạu khi tổ quốc bị sỉ nhục, khi tài sản hay tính mạng đồng bào bị xâm phạm và cả khi giang sơn thấm máu cha ông bị lấn chiếm.

Bị cấm nổi quạu như những người yêu nước mình, người Việt thậm chí còn bị cấm nổi quạu cả trong tư thế của người tiêu thụ hay nạn nhân. Người Việt đang bị cấm nổi quạu như là khách hàng của những thế lực công nghiệp giả cầy, cái nhóm lợi ích có thể thao túng cả hệ thống kiểm duyệt và trấn áp. Người Việt còn bị cấm nổi quạu như là nạn nhân của những thế lực phá sơn lâm đâm hà bá để, giữa những ngày này, khi trận đại hồng thủy ở miền Trung bùng lên với sự xúc tác của những nhóm lợi ích hủy hoại thiên nhiên, sinh mạng của người Việt đang bị xem thường như giống sâu, giống kiến.

Nếu sống lại giữa cái thời này thì Trần Hưng Đạo sẽ phản ứng như thế nào? Cũng chỉ là sự phẫn nộ ngày cũ: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa thể xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”?

Tôi không tin là bậc anh hùng của chúng ta chỉ đơn thuần như thế bởi, nếu ngày ấy chỉ đối mặt với kẻ thù từ bên ngoài, bây giờ còn phải đối mặt với bọn ở bên trong. Nghĩa là sự phẫn nộ đến mức cực kỳ của ngày xưa cũng phải đan chen với sự khinh bỉ và ghê tởm của ngày hôm nay, cũng ở mức cực kỳ…

[1] Trích từ phụ lục “Sống với tình thương” của bà Trần Thị Như Mân, in trong Đào Duy Anh (2002), Nhớ nghĩ chiều hôm, NXB Văn Nghệ TPHCM, trang 519.

[2] “Bà Hồ” là Vi Thị Nguyệt Hồ, vợ của Giáo sư Tùng, chuyển kể lại trong bài “Chuyện về người vợ của giáo sư Tôn Thất Tùng” của Hoàng Hạnh, đăng trên tờ Sức khỏe Đời sống của Bộ Y tế, số ngày 23/7/2009:

https://giadinh.suckhoedoisong.vn/chuyen-ve-nguoi-vo-cua-giao-su-ton-that-tung-17220090717084694.htm

[3] Trần Văn Khê (2015) Trí Huệ để lại cho đời, NXB Thông Tấn, TPHCM, trang 81-82.

[4] https://www.huffpost.com/entry/aggression-research_n_5532142

[5] https://vanviet.info/tu-lieu/ky-niem-ve-luu-trong-lu/

[6] Bùi Công Trừng (Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học nhà nước) kể cảnh trong Hội nghị 15 của Trung ương đảng vào tháng 1/1959: Hồ Chí Minh ngồi ghế chủ tọa nhưng chỉ day mặt ra sân vì, dưới sự đạo diễn của Lê Đức Thọ, những đại biểu liên tiếp đứng lên mạt sát Liên Xô. Đôi khi vì quá chướng tai nên Hồ Chí Minh đưa tay ngăn lại hay muốn phát biểu, nhưng bị Lê Đức Thọ ngăn cản: “Bác hãy để cho anh em người ta nói đã mà.”.

Hội nghị này đã thông qua Nghị quyết 9 về việc sử dụng bạo lực cách mạng tại miền Nam.

Nguyễn Văn Trấn (1995), Viết cho mẹ & Quốc hội, California: Văn Nghệ, trang 327-329.

[7] http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9662&rb=08

[8] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư của, Quyền V, Kỷ Nhà Trần, chương “Nhân Tông Hoàng Đế”.

Năm 1277, Trần Nhân Tông cử Trần Di Ái thay mình đi sứ nhưng Trần Di Ái được nhà Nguyên phong vương, cho Sài Xuân (Sài Thung) hộ tống trở về để lên ngôi vua, dĩ nhiên là nhà Trần không chấp nhận.

Sài Xuân đến Đại Việt với thái độ ngạo mạn. Thượng tướng Trần Quang Khải đến sứ quán tiếp nhưng vẫn nằm khểnh trên giường, không thèm tiếp. Trần Hưng Đạo xin vua đến dò xét tình hình và khi thấy Trần Hưng Đạo mặc áo vải, cạo trọc đầu, Sài Xuân đứng dậy, vái chào và mời ngồi vì tưởng là nhà sư phương Bắc. Khi Trần Hưng Đạo đang uống trà với Sài Xuân thì người hầu cận của Xuân nhận ra, đứng sau lưng dùng mũi tên đâm vào đầu chảy máu nhưng Trần Hưng Đạo vẫn bình thản, sắc mặt không hề thay đổi. Sài Xuân bái phục nên khi ra về, đã tiễn tận cửa.

[9] Sau khi thôn tính Đại Lý (Vân Nam) vào năm 1253, Ngột Lương Hợp Thai đã ba lần phái sứ thần đến chiêu hàng Đại Việt nhưng những nhà ngoại giao ngạo mạn này đều bị nhà Trần tống giam. Năm 1257 Ngột Lương Hợp Thai xua quân tiến đánh Đại Việt và khi đến Thăng Long thì phát hiện ba viên sứ thần còn bị giam trong ngục, khi cởi trói ra thì một người đã mất mạng.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.