Tháng Mười

Nguyễn Đức Tùng

 

Đi xa nhà một tuần, khi tôi về lá phong ngoài đường bay vào đầy sân, thùng thư ngập thư từ, báo chí, nhiều cái ướt đẫm nước mưa, tôi bật đèn ngồi bên bàn, pha trà nóng, mở những tờ báo ra, vui gặp những người bạn. Tôi dùng cây kéo nhỏ mở những phong bì đựng sách báo, nhớ hình ảnh của ba tôi ngày trước, ông dùng một cái dao mỏng để rọc giấy khi mua những cuốn sách mới. Buổi chiều nhiệt độ xuống thấp, băng giá đóng trên cửa, trên những lối đi trơn trượt, một người hàng xóm té ngoài đường, gãy xương cổ tay. Trăng lên, sáng bạc, màu thay đổi, hôm nào bạn buồn trăng cũng buồn, hôm nào bạn vui nó rất vui, màu của trăng là màu của tâm trạng. Gánh nặng của thế gian trên vai của bạn, một hôm nào được cất đi, bạn thấy lòng nhẹ nhõm. Hôm ấy rơi thêm một chiếc lá nữa. Trên căn gác cũ, với chiếc cầu thang bằng sắt ọp ẹp nằm ngoài trời, khi chúng tôi mới đến Canada, tôi xách những gói hàng đi chợ về cho những người bạn gái cũng mới đến như chúng tôi, nhưng từ trại tị nạn khác, một cô gái hai mươi tuổi, mặc áo đầm hoa ngồi bệt trên sàn nhà, cúi mặt mở những băng cát xét nhạc Vũ Thành An, thời đó còn rất lạ, cô gái ấy quay mặt lại trong đời sống của tôi, một lần duy nhất. Con đường chạy qua trước nhà tôi kéo dài mãi xuống chân đồi, vòng qua sát bờ sông, đó cũng là đường chạy. Những người chạy bộ gặp nhau trên đường, quen như bạn, chào nhau, trò chuyện. Chúng ta cùng chia sẻ một không gian, một thời tiết, một đất nước như nhau. Bắt đầu vào mùa Halloween, một người đàn ông hàng xóm chết đã lâu, mười lăm năm trước, để lại người đàn bà với hai đứa con nhỏ, bây giờ trở về, cầm lồng đèn đứng trước cửa, những người đi qua đều dừng lại, cúi đầu chào, ông ta cười phá lên, tiếng cười lạnh lẽo như kim loại, không ra vui, không ra buồn, giờ đây những đứa trẻ đã lớn, chúng không còn đi xin kẹo nữa nhưng vẫn tiếp tục cái trò chơi ấy, nhìn cách trang trí phía trước nhà, trong sân, các cầu thang, tôi biết rằng họ để dành nhiều giờ và tình yêu thương ở đó, cho người cha xấu số của mình và cho những đứa trẻ, bạn không thể biết đến điều ấy, nếu không được giải thích. Bạn không biết gì về lịch sử nếu lịch sử ấy không được giải thích. Nhiều năm trước, có một lần duy nhất trong đời tôi có một con chó nhỏ, khi tôi rời bỏ thành phố để qua Mỹ tôi đành để lại con vật cho một người bạn. Ngày chia tay con vật ngồi trước hiên nhà, im lặng, khóc, đó là một trong những cuộc từ giã buồn nhất. Tuyết sắp xuống, tôi lục tìm trong nhà kho cái xẻng xúc tuyết, những găng tay mùa đông, đôi giày cao, đôi ủng đi tuyết, tôi muốn nhìn tuyết xuống đêm nay, nhưng có lẽ vài hôm nữa. Mây xám đục bay qua nhưng chúng không dừng lại, nhiệt độ xuống thấp nhưng vẫn còn trên mức bông tuyết được hình thành, đất trời vào lúc giao mùa, gió đổi hướng, người đi, người về, tìm kiếm ngả đường, các khúc quanh, hỏi tên người chết, kể lại câu chuyện. Chúng ta kể câu chuyện để hiểu rõ hơn các ý nghĩa. Chúng ta kể chuyện để tập hợp, như một đám đông tập hợp lại, thì thào, bàn cãi, vô định hướng, cho đến khi có một người bước lên phía trước, trở thành trung tâm, trở thành một tiếng nói, rõ ràng và thơ mộng, về ý muốn của chúng ta mà trước đó chúng ta không biết là gì, không ai biết. Chúng ta cần thơ để làm gì? Thơ diễn tả cho chúng ta đời sống bên ngoài và đời sống bên trong. Chúng ta tìm thấy niềm vui trong ngôn ngữ của nó, trong hình ảnh của nó, chúng ta lắng nghe tính âm nhạc, ngưỡng mộ cách dùng chữ của các nhà thơ. Có một điều gì xảy ra gần như phép lạ mà ngôn ngữ thường ngày không có. Có một thứ tiếng nói khác, ngẫu hứng, bất ngờ kỳ lạ, bỗng nhiên hiện hữu trên trần thế.

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò

Xuân Diệu

Tôi đọc năm mười một tuổi, sau kỳ thi vào lớp đệ thất, trong tập thơ in bằng giấy hoa tiên khổ rộng của Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa. Bỗng nhiên có một tình yêu đối với thiên nhiên kỳ lạ mà chúng ta chưa hề biết, nhưng thật ra chúng vẫn ở đó. Chỉ là chúng ta chưa biết mà thôi. Nhà thơ nhìn thấy sự giống nhau ở hai sự vật khác nhau, trong khi chúng ta nhìn thấy chúng khác nhau. Nhà thơ nhìn thấy sự kỳ dị trong những sự vật bình thường, hàng ngày. Trong mỗi bài thơ những bộ phận đi với nhau, tách ra, xô dạt vào nhau, làm nên âm thanh, sự đối lập ý nghĩa, sự phá vỡ và cân bằng trở lại. Yếu tố quan trọng bậc nhất trong thơ là các chữ, hay từ vựng. Chúng tạo nên các cuộc cách mạng trong thơ ca, và do đó làm thay đổi cách nói và cách nghĩ của những thế hệ về sau. Ngôn ngữ thơ đi trước, dẫn đường, khám phá cách dùng chữ, thăm dò các ý nghĩa, làm mới lại cách nghĩ của chúng ta về thế giới. Chữ được chọn lọc và tập hợp không chỉ để tạo ra các ý nghĩa mà còn để tạo ra các phong cách. Chữ đẹp, sang trọng, chữ lịch sự được phép dùng trong thơ, còn những chữ bình dân, thậm chí dung tục, có được phép hay không, và đến đâu? Đọc thơ cần một sự chuẩn bị về mặt học hành. Người đọc cần phân biệt những chữ dùng khác nhau, mức độ văn hóa khác nhau và các lập trường chính trị khác nhau. Dùng một chữ, có thể để lộ ra một người. Tư cách, học vấn, quan điểm xã hội và chính trị. Không phải bao giờ cũng thế, nhưng một số chữ có khả năng bộc lộ rõ ràng như thế.

A word is dead

When it is said,

Some say.

I say it just

Begins to live

That day.

Một chữ đã chết

Có người

Nói thế

Tôi cũng nói thế

Nhưng để bắt đầu

Sống

Một ngày.

Emily Dickinson

Thơ, về bản chất, có tính chính trị. Thơ không trực tiếp nói về các chủ đề xã hội, chính trị, rất ít khi đưa ra các thông báo và lời khuyên. Tuy nhiên những nhà thơ có một đời sống thâm sâu gắn bó với dân tộc mình, cộng đồng của mình, những người yêu tự do, chống bạo lực, độc tài, và mọi hình thức đàn áp con người, chống lại sự thoả hiệp và sự ngụy biện rất khó nhìn thấy, bao giờ cũng, một cách ý thức hoặc một cách vô thức, không tránh né điều ấy, bộc lộ khuynh hướng, đường đi, cách nhìn, sự ủng hộ hay phản đối, trên chính khuôn mặt của chị ta, anh ta. Những kẻ lừa dối trong thơ, dù từ lập trường nào, không làm được điều ấy. Ngay cả trong lễ hội mùa thu, nơi những đứa trẻ mang mặt nạ ra đường, để cho những người chết sống lại, thì sự hóa trang ấy là sự hóa trang có tính nghệ thuật. Đôi khi nghệ thuật mang mặt nạ, nhưng chúng không phải là sự lừa dối. Tháng Mười, lễ Halloween, đất trời mờ ảo, sương mù dày đặc, những người vội vã rời chỗ làm về với gia đình, quên mất trời đã tối, bạn ghé vào một khu phố để tìm mua mấy thứ cần thiết, lạc đường, vừa rẽ trái vào một con đường lạ thì gặp một chiếc xe chạy tới, người lái xe chạy thật chậm, hạ cửa kính xuống, la lớn: Đường một chiều, bạn vội vàng lùi xe lại, chạy thêm một đoạn nữa, phía trước một người lái xe vừa xin bạn nhường đường, liền có tiếng gọi từ phía bên phải, anh ta quên bật đèn, trên đường những người lái xe giúp đỡ nhau, khi thì bạn quên cái hộp trên trần, khi thì quên bật đèn lúc trời tối, khi thì lái vào đường một chiều, có lần bạn quên đóng nắp xăng. Cái nắp xăng. Chúng ta quên nhiều thứ, bất cẩn trong cuộc đời. Chúng ta vấp ngã. Đâm vào cột đèn. Đổ xăng tràn ra ngoài. Một người lái xe trẻ tuổi mãi nhìn một cô gái trẻ trên đường lao cả xe vào vệ đường. Những người lái xe nhắc nhở nhau: cái nắp xăng, đường trái chiều, đi sai đường, ánh sáng, đèn, ở đây chúng ta bắt đầu vào mùa của những linh hồn lang bạt, không nhà cửa, họ cần những ngọn đèn lồng với ánh sáng ấm áp soi đường. Người đàn ông trong phòng số 103 sắp chết. Tôi làm việc trong một bệnh viện dành cho người già và những người bệnh ở giai đoạn cuối cùng, những bệnh nhân bị ung thư giai đoạn cuối, bị liệt cột sống, suy tim, suy thận, chảy máu não, những người nằm trên giường nhiều năm. Mới đầu con cháu đến thăm mỗi ngày, về sau thưa dần, như trong một thế giới mà ánh sáng dần dần mờ tắt, càng lúc càng tối tăm lạnh lẽo. Nửa đêm người y tá trực gọi cho tôi. Tôi lái xe vào, làm thủ tục khai tử. Tôi đến gần giường bệnh, nghe nhịp tim, hô hấp, bắt mạch, chiếu đèn penlight vào đồng tử theo thủ tục, trước khi tuyên bố về cái chết của một người. To pronounce. Tôi hỏi người y tá số điện thoại của thân nhân. Một ông già tám mươi sáu tuổi có vợ sống trong thành phố. Đó là đêm gió dữ, tuyết mịn như tơ. Tôi chia buồn với người ở đầu dây và hỏi bà có muốn đến thăm chồng lần cuối hay không. Bà ở một mình già yếu và không thể đi được. Bà xin lỗi nhưng xin phép không đến thăm chồng mình lần cuối. Tôi nói tôi hiểu điều ấy và an ủi rằng trong điều kiện thời tiết xấu việc đi lại khó khăn, quyết định ấy là hợp lý. Gác điện thoại. Tôi đứng im một lúc, nhìn vào khoảng không, tâm hồn chấn động, người y tá đứng trước mặt cũng im lặng. Ba chúng tôi trong căn phòng nhỏ, người y tá, tôi và một người vừa qua đời mà linh hồn chưa kịp rời bỏ thể xác trong khoảng tối mờ của một đêm tuyết xuống. Tôi biết rằng tôi muốn làm một điều gì đó, nhưng tôi không biết đó là điều gì. Tôi đưa tay vuốt mắt người bệnh một lần nữa, lần thứ hai, tôi thấy mắt ông đã nhắm rồi, nhưng không nhắm chặt.

 (Trích trong Những mùa)

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.