Phan Nhật Nam – Thái Kế Toại – Phan Thúy Hà (*)

Phan Thúy Hà

Một sáng ngủ dậy nhận được tin nhắn:

Ông Phan Nhật Nam “Nhờ chuyển đến Cô Phan Thúy Hà,

Bài viết [Chia sẻ của một phụ nữ viết sách tự do] cô rất hay, rất thực, không thể thực hơn nên tôi nhờ chuyển lại đến cô những lời chân thực/không thể chân thực hơn sau đây:

– Tôi cũng họ Phan, tên Nhật Nam, không phải bút hiệu hay danh hiệu nào cả. Là Người Lính Nhảy Dù từ ngày ra trường 23/11/1963. Chỉ có trận Hạ Lào (2/1971 tôi không có mặt). Sáng 29/4/1975 chịu pháo kích cuối cùng trong Tân Sơn Nhất.

– Tôi nay 80 tuổi, nên nghĩ rằng có thể nói chuyện với cô như cha/con; bằng hữu ngang thế hệ vì chung MỘT VIỆC.

– Tôi cũng viết sách từ 1968 (từ Mậu thân Huế) nhưng không hề là "Nhà Văn"

– Tôi đã nói nhiều lần trên các talk show và các diễn đàn vì:

– Tôi VIẾT về những điều mắt thấy/tai nghe/tự thân chứng kiến từ Nam ra Bắc suốt đoạn đời 1945, 1954, 1960, 1968, 1972, 1975… và hiện nay vẫn ĐANG TIẾP TỤC vì nói chưa đủ/nói chưa hết/nói chưa ra lẽ mà cũng chẳng mấy ai nghe!

– Thế nên tôi rất Quý Trọng cô

– Tiếp tục công việc mà tôi (tự) nhận ra "không thể làm xong/làm tròn"

Thương Mến – Quý Trọng Cô Phan Thúy Hà như Cha/Con – Bằng Hữu.

Chân thành,

Phan Nhật Nam."

Mình nhắn lại ngay giây phút đó:

“Bác Phan Nhật Nam ơi, bác không biết cháu nhưng với cháu thì hình bóng bác, giọng nói bác, suy nghĩ mà bác chuyển ra bằng lời, đã thân quen, gần gụi với cháu, đồng hành với cháu sáu năm qua, từ lúc có ý định viết sách.

Cháu biết hết các cuốn sách bác viết, nghe đi nghe lại những bài bác nói chuyện, cháu nhớ câu bác nói “tôi với chiến tranh là một”, “người Việt Nam là thánh chịu nạn”, “viết bao nhiêu cho hết, viết bao nhiêu cho đủ”….

Nhiều lần cháu đã nhờ người hỏi giúp mail của bác, địa chỉ bác để cháu tặng sách bác và muốn nói đôi lời tấm lòng cháu dành cho bác”.

Tin nhắn gửi đi rồi mình vẫn ngẩn ngơ.

Vài ngày sau bác gửi mail cho mình, và từ hôm đó tuần nào mình cũng hỏi thăm bác.

Mình gửi cho bác những bức hình chụp các trang trong một cuốn sổ, hỏi bác có nhận ra không.

“Trời đất chữ của cậu chứ còn ai, do cậu học trong tù giai đoạn chưa vào kiên giam, nằm cạnh ông Tê. Cuốn vở nầy do bố cậu cho khi vào thăm nuôi (5/1978). Mà làm sao con có những cuốn tập nầy?! Chỉ có Chúa Thánh Linh mới quyết định những sự việc nầy.

Cám ơn con tất cả. cậu N” (bác xưng cậu và kêu mình bằng con, coi như mình là cháu gái).

Người gửi cho mình những bức ảnh là chú Thái Kế Toại.

“Ô PNN còn khoẻ không cháu. Bảo ông rằng chú gửi lời thăm. Chú là người từ BCA xuống trại Ba Sao nói chuyện với ông trước khi chuyển ông vào Xuân Lộc để chuẩn bị ra trại. Có tặng ông mấy số báo Văn Nghệ đổi mới.

Đây là cuốn vở tự học tiếng Pháp của ông.

Cái này nằm trong hồ sơ, không cần thiết thì loại bớt đi, chú giữ lại.

Nếu con ông PNN còn ở trong nước chú có thể trao lại”

“Cảm ơn con và ông Toại vô cùng.

Tưởng như chuyện thần thoại trong cuộc đời bình thường.”

Mình nhìn những trang chữ thân thương. Ngậm ngùi và cảm động.

Một anh lính dù sau chiến tranh bị tù 14 năm. Vào tù vẫn tự học tiếng Pháp. Một người ở Bộ Công an vẫn giữ lại cuốn vở tự học loại ra khỏi hồ sơ suốt bấy nhiêu năm, qua rất nhiều lần thay đổi nơi làm việc, chuyển nhà, cuốn sổ vẫn nằm trang trọng trong tủ sách, với hy vọng một ngày nào đó được trao lại.

clip_image002

– Bác Phan Nhật Nam hôm nhận được bộ sách mình gửi tặng. Mình hỏi sao trông bác buồn vậy, bác bảo, quả thật không vui được con ơi.

clip_image004

– Vợ chồng chú Toại hôm đến nhà mình gặp gỡ các nhân vật trong cuốn sách Gia Đình và Đoạn đời niên thiếu.

clip_image006

clip_image008

clip_image010

clip_image011

clip_image013

– Những trang cuốn sổ tự học tiếng Pháp và tiếng Anh trong tù của anh lính dù Phan Nhật Nam.

Nguồn: FB Phan Thúy Hà

(*) Nhan đề của Văn Việt

Comments are closed.