Đinh Thanh Huyền
Đầu tháng Chín năm 2025, tôi viết một bài phê bình về cuốn tiểu thuyết Đơn giản nhất là biến mất của Huy Bảo. Trong bài viết, tôi bày tỏ không chỉ lòng ngưỡng mộ đối với sự táo bạo, năng lực kiểm soát văn bản của tác giả mà còn hi vọng vào một thế hệ mới của văn chương Việt. Giữa tháng Chín, tôi lại có trong tay tập thơ mới của Huy Bảo với tiêu đề Mùa hè không dấu chân. Khi đọc tập thơ này, tôi cứ có cảm giác như có một sự sắp đặt bí ẩn để mình đọc tiểu thuyết của Huy Bảo trước, tập thơ sau. Một tập thơ và một tiểu thuyết, thật kì lạ, đã mở ra trong tôi những suy ngẫm về thể loại mà trước đó, chỉ loáng thoáng xuất hiện trong trí nghĩ.
Sự vận động của thể loại ở văn học Việt Nam nhiều năm qua đã tạo điều kiện cho các cây bút trẻ tuổi thuộc thế hệ công dân toàn cầu hòa nhập với văn chương thế giới. Họ được hưởng lợi từ sự thay đổi môi trường chính trị – văn hóa – kinh tế, từ thành tựu công nghệ và truyền thông, nhất là từ sự mở đường và trả giá của các thế hệ đi trước. Mỗi tác giả trẻ hôm nay đều có thể “bẻ gãy” khuôn thước thể loại, đổi mới thi pháp, tạo nên những tác phẩm khác biệt mà không mắc mứu gì với cái “gu” của độc giả. Tập thơ Mùa hè không dấu chân của Huy Bảo là một thi phẩm như thế.
Chúng ta thường hình dung thơ gồm: dòng chảy của cảm xúc/ý thức, các mô hình thi luật được tổ chức nhằm làm nổi bật mối quan hệ giữa âm điệu và ý nghĩa của ngôn từ thơ ca. Ngôn từ thơ được lựa chọn và kết hợp một cách khác thường so với ngôn ngữ sinh hoạt, (Phan Ngọc bảo “là tổ chức ngôn từ quái đản”), giàu khoảng trống, khoảng trắng, giàu hình ảnh, biểu tượng. Đó là những chỉ dấu khiến người đọc nhận diện thơ một cách dễ dàng (nếu đặt văn bản thơ cạnh văn bản văn xuôi). Nhưng nếu có nhiều dấu hiệu thay đổi, lập tức người đọc dấy lên nghi ngờ: “đó có phải thơ không?”.
Đó có phải thơ không?
Câu hỏi này luôn cần thiết. Một câu hỏi có tính chất “kiểm tra”về khuôn mẫu thể loại sẽ kích hoạt nhiều phản ứng khác nhau mà hiệu quả tốt nhất là khiến cả nhà thơ lẫn người đọc phải xem lại các thói quen viết, đọc. Chẳng hạn, ta biết rằng một bài thơ truyền thống thường có một mạch cảm xúc liền lạc. Nhưng trong thơ hậu hiện đại, mạch cảm xúc có thể bị cắt vụn, nhảy cóc hoặc ghép nối ngẫu hứng. Và đó là kiểu mạch cảm xúc trong Mùa hè không dấu chân. Đoạn thơ dưới đây là một ví dụ:
Hắn đã từ bỏ mùa thu như vậy
để đi về phía cánh cửa màu xám
bên đường
một chiếc hài của Lọ Lem bị bỏ lại
đừng yêu em thêm nữa
hắn nghĩ về khoảng trống
sẽ ở đó
đằng sau cánh cửa
vợ tôi và tình nhân trốn vào rừng
đó là thứ ba họ ăn lá dại và khi không làm gì
họ nằm trên cỏ
lắng nghe tiếng đoàn tàu xẻ dọc cơ thể mình
như một pho tượng một khuôn mặt qua gương
như chiến thắng của kẻ thù chiến thắng đã qua nhiều năm
mỗi ngày họ chứng kiến người ta nhảy
khỏi một cửa sổ tưởng tượng ước tương lai
nằm ở đó
đằng sau cánh cửa
(Cửa màu xám)
Hẳn có người khó chịu và chất vấn: “Cái gì đây? Hai khổ thơ này liên quan gì với nhau? Thôi, chẳng đọc làm gì, đây mà là thơ ư?”. Sự đứt gãy mạch cảm xúc trong thơ là “cú đánh” đầu tiên vào hình thức thể loại. Một bài thơ có mạch cảm xúc liền lạc, xét đến cùng vẫn là một kiểu tuyến tính. Nó vẫn có những mối liên kết để kiến tạo một không gian nội cảm “thuần chất”. Nhưng khi mạch cảm xúc bị đứt gãy, bị chuyển dòng đột ngột, bài thơ gợi một trải nghiệm về “thế giới rối loạn”, và nếu bắt nhịp được, người đọc có thể hiểu cái lí của cách xử lí ấy:
hôm nọ bạn em báo tin
về việc những xác sống đã tràn vào thành phố
của bạn như thế nào buổi chiều hôm ấy
một đám xác sống ăn thịt chồng bạn
tự hỏi không biết bao giờ sẽ tới lượt mình
hôm sau bạn đào sẵn một cái huyệt
mà chưa biết ai sẽ chôn mình xuống
em đi viếng bạn ba ngày trước
anh không biết liệu em có bị
những xác sống ăn thịt hay không
trong ngày tận thế đã được dự báo
anh ra ngoài đường chẳng tìm ra
một tạp hóa nào còn mở cửa để mà tiêu đống tiền sót lại
anh có thể trốn vào rừng anh có thể
nhảy khỏi cửa sổ anh có thể yêu em thêm chút nữa
còn nhiều thứ trong nhà sẽ phải tìm chủ mới
bên đường
một chiếc hài đã bị Lọ Lem bỏ quên.
(Cửa màu xám)
Rõ ràng, chỉ khi tạo ra sự đứt gãy trong mạch cảm xúc, nhà thơ mới có thể diễn tả được một đời sống hỗn độn, phi lí, nơi con người đợi chờ ngày tận thế được báo trước. Đời sống ấy lẫn lộn nỗi sợ hãi với sự thờ ơ, tình yêu và tội lỗi, sự vô nghĩa lí đến cùng cực và vẻ đẹp lãng mạn nhuốm màu cổ tích. Mạch cảm xúc liền lạc nhất quán sẽ khó chuyển tải được những nội dung đối nghịch, phong phú như vậy.
Ở một khía cạnh khác, tác giả của Mùa hè không dấu chân có vẻ rất thích kiểu vắt dòng bất chợt:
lặp lại theo anh
sao người ta có thể sống
mà không bằng tình yêu của em
mà không bằng tình yêu của em
lặp lại theo anh
sao người ta có thể sống
mà không bằng tình yêu của em
mà không bằng tình yêu của em
(Nếu không bằng tình yêu của em)
anh khóc nấc lên bằng từng giấc mơ
nguyên thủy buổi trưa về sự trống rỗng
của tuổi hai mươi mốt không ngậm
cái đinh đang rỉ sét nào trong cuống họng
đôi lúc khác anh nhẩm lại cái tên em cố tìm ra
sự trùng lặp bất tận bất tận bất tận
(Không gì hơn)
nghĩa là những người rơi ra không trở lại
nghĩa là tháng sáu sẽ nhường chỗ cho tháng bảy và tháng bảy sẽ nhường
chỗ cho tháng tám và tháng tám sẽ nhường chỗ cho tháng chín
nghĩa là không thể làm cho ai hạnh phúc
nghĩa là bằng lăng trước sân không còn nở
(Bất khả thi)
Gần như bài thơ nào trong Mùa hè không dấu chân cũng có kiểu vắt dòng như thế. Những câu thơ dài bất thường, xuống dòng tùy hứng, không có nhịp điệu cố định đã phá hủy mô hình nhịp dứt khoát quen thuộc của thơ. Câu thơ của Huy Bảo ngỡ như không bao giờ chấm dứt. Điều này cho biết thực chất có một ý niệm hiện diện. Khi ý niệm khởi lên, nó sẽ không ngừng lại cho đến khi “vụ nổ cuối” bùng ra. Những câu thơ kéo dài làm gia tăng thời gian chờ đợi trước “cú nổ” ý nghĩa. Kiểu vắt dòng này khiến cú pháp bị treo lửng. Điểm cuối của chuỗi vắt dòng đó luôn là khoảnh khắc nhân vật trữ tình nhận ra thế giới bên trong mình vỡ vụn như thế nào. Điều đó làm nên những khoảng trống tâm lí mênh mông bên dưới các đoạn thơ dài. Ta biết rằng khoảng trống trong thơ thường là sự “im lặng”, sự gián đoạn trong cấu trúc câu thơ. Trong thơ Huy Bảo, đó không phải là khoảng trống của sự kiệm lời, mà là khoảng trống của sự đổ vỡ cú pháp tạo ra khoảng trắng tâm tưởng. Khoảng trống ở đây là khoảng không ổn định, nơi độc giả phải tự định hình cách đọc và cảm xúc của mình, nơi người đọc có thể điền vào chỗ thiếu hoặc đơn giản là chìm vào nỗi trống vắng mà thơ gợi ra.
Đến đây, tôi buộc phải kéo bạn đọc giả định của mình vào một vấn đề dễ gây tranh cãi: ngôn ngữ thô tục trong Mùa hè không dấu chân. Thơ Việt Nam đã leo xuống khỏi chiếc tháp ngà của sự trang nhã, cao quý, thiêng liêng, đã đến gần hơn với đời sống trần trụi gai góc. Nhưng sự hiện diện của ngôn ngữ thô tục trong thơ vẫn không phải là điều dễ được chấp nhận. Sâu bên trong mỗi người đọc, gồm cả tôi, vẫn thấy rõ ảnh hưởng của những vần thơ gợi cảm, tinh tế, có khả năng thanh lọc tâm hồn. Điều này không phải là hạn chế. Ngược lại, đó là “kháng thể” thẩm mĩ giúp người đọc, một mặt chống lại thứ thơ thô tục bệnh hoạn, mặt khác, nhận diện được cái thô tục đã được thẩm mĩ hóa:
Hiện thực chỉ là những gì chúng mình không thể nào thoát nổi
và mưa đêm kết cục chỉ là những lưỡi dao rơi
đi qua tháng tám
sáp đèn cầy trong thanh quản
đường đến đám tang cha không một trạm dừng
đọc một bài diễn văn không làm đạo đức mày trở nên tốt đẹp
mày chỉ làm bánh xe tàu lửa trật đi
làm con rối
làm cái la bàn đã bị hư
trong hẻm cụt
ngoài công viên
trên bia mộ
một bài diễn văn thì đéo có ích gì
(Nhạc buồn)
Câu “một bài diễn văn thì đéo có ích gì” nếu đứng riêng có thể bị xem là thô tục. Nhưng đặt trong mạch thơ đầy hình ảnh tang thương: “mưa đêm như lưỡi dao”, “sáp đèn cầy trong thanh quản”, “đám tang cha”…, một từ thô tục bùng lên như một tiếng gào, cho thấy nhân vật trữ tình không còn kìm nén, không còn tin vào những lời hoa mĩ hay “bài diễn văn” đạo đức. Nó làm nổi bật sự giả tạo, vô nghĩa của thứ ngôn từ quan phương trong nỗi đau cá nhân. Sự thô tục chèn vào cuối cùng làm đoạn thơ “gãy nhịp” – giống như một cú ném mạnh xuống đất, khiến người đọc phải cảm nhận hiện thực qua sự va đập thẳng thừng của ngôn từ. Và đó cũng là một sắc thái thẩm mĩ.
Từ ngữ thô tục trong tập Mùa hè không dấu chân xuất hiện ở vài bài: Nhạc buồn, Nếu không bằng tình yêu của em, Dòng sông (Cái bóng), Cảnh nằm trong cảnh,… Thứ ngôn từ này có thể gây sốc lúc ban đầu. Nhưng vượt qua sự choáng váng bởi mĩ quan quen thuộc bị tấn công trực diện, ta có thể nhận ra chiến lược biểu hiện của nhà thơ. Những từ ngữ thô tục đó đều xuất hiện khi đời sống phô bày ra tất cả sự đổ vỡ, bất lực, con người chìm vào sự vô nghĩa: với ống thở sẽ bị rút và ông già bạn thì khóc bà già bạn bỏ đi biệt xứ và mình thì quay mặt đã quay mặt rất lâu bạn đã câm miệng đi như một con chó già một bài thơ già một vết tích già một bức tường già bạn đã câm miệng đi rất lâu rất lâu rất lâu rất lâu rất lâu. Trong thơ, chính nhân vật trữ tình cũng kinh ngạc khi nhìn thấy bao nhiêu là bi hài kịch diễu qua dưới mắt. Những tiếng thô tục được đặt vào đúng ngữ cảnh đã biến thành một phương tiện nghệ thuật để biểu đạt cảm xúc, thái độ, quan niệm. Đó là một quá trình thẩm mĩ hóa: cái vốn “xấu” hay “thấp kém” được đặt trong ngữ cảnh nghệ thuật, trở thành một giá trị thẩm mĩ mới, tạo hiệu ứng mạnh mẽ, gây chấn động. Thủ pháp này không mới trong thơ Việt nhưng cách dùng và hiệu quả nghệ thuật tùy thuộc từng tác giả. Trong thơ Huy Bảo, từ ngữ thô tục không đóng vai trò thể hiện cái “tôi” hoặc trình bày một diễn ngôn xã hội mà được dùng như lối nói trong ngữ điệu đời sống bình thường của của giới trẻ. Bởi vậy, câu thơ có chứa từ ngữ thô tục của Huy Bảo nghe như lời nói thường, bật ra một cách tự nhiên, không lên gân, không cường điệu cảm xúc:
chỉ có hai quân tượng được đứng ở ô đen
có nghĩa là đụ mẹ mày cùng chí hướng sẽ phải làm kẻ thù vĩnh cửu
làm cặc gì có cách diễn giải nào ngu đần như vậy
mày vẫn là thằng đần suốt mấy năm qua
làm cặc gì
bạn cười nghiêng ngả
mười lăm tuổi
mười năm
bạn cười nghiêng ngả
(Cảnh nằm trong cảnh)
Lối nói vỗ mặt, trần trụi chính là kiểu ngôn ngữ của người trẻ đương đại. Cái tục tĩu trở thành điểm nhấn âm vang trong tiếng cười nghiêng ngả, tạo ra một thứ hài hước chua chát. Đoạn thơ như một đoạn thoại bình thường của hai người bạn trẻ lâu rồi mới gặp nhau. Câu chuyện của họ kì cục và vô nghĩa. Họ nhạo báng nhau, châm chọc nhau một cách thoải mái. Vậy đây là đoạn thơ về niềm vui tình bạn sao? Không. Đây là cách để nhà thơ bày ra cái cảm giác phi lí, trống rỗng, chán chường của tuổi trẻ. Đặt đoạn thơ trong toàn bài, nó cực kì hợp lí bởi sau khoảnh khắc tiếng cười và sự bỗ bã bùng lên, bài thơ đột ngột chuyển mạch, kết thúc với cái nhìn như thấu hết sự giả tạm của đời sống:
tiễn bạn ra ga chiều nay
thật tình chỉ là cảnh nằm trong cảnh
cảnh bạn rời đi nằm
trong sự hiện diện của bạn
trong buổi chiều ngày hôm nay
buổi chiều của năm xưa
buổi chiều của ngày mai
bạn phải tin rằng
thật tình chỉ là cảnh nằm trong cảnh.
Những đặc điểm nói trên đã dẫn đường cho tôi phát hiện ra sự giao thoa và liên kết giữa thơ và truyện của chính tác giả Huy Bảo. Trong Mùa hè không dấu chân có nhiều bài gần với truyện, có cấu trúc văn xuôi rõ rệt, có nhân vật, sự kiện, bối cảnh cụ thể (Dòng sông (Cái bóng), Cửa màu xám hay Khoảng trống, Phà vẫn chạy, Bất khả thi):
Trên đường đến đó, cô đã quên trước tiên những khuôn mặt.
Đầu tiên là khuôn mặt anh ngày hôm qua, trong tấm gương, tay cầm bàn chải. Buổi sáng. Có người thích tiếng nước sôi. Người khác (hàng xóm) treo cổ tự sát.
Những ngày thứ ba dài kéo theo ngày thứ tư chết tiệt. Những ngày như dòng sông đã đưa cô đi. Và cô nghỉ trên sóng. Và cô quên trên sóng.
Đó là khuôn mặt người đàn bà đã bỏ cô lại đằng sau cánh cửa hai mươi năm trước để nhập vào dòng người biểu tình. Giờ bà ta sống trong một con hẻm ở Cộng Hòa. Tiếng súng vang bên tai mỗi đêm.
(Dòng sông)
Khi các đặc tính của truyện thâm nhập vào thơ, nó kéo theo các thủ pháp của thể loại khác như: thủ pháp lặp khung cảnh hay hình ảnh cắt dựng nhanh, tạo cảm giác montage điện ảnh (Cảnh nằm trong cảnh, Đèn trong nhà bếp, Con trai thứ bảy (của người con trai thứ bảy), độc thoại sân khấu hoặc thoại kịch (Bất khả thi, Khoảng trống). Tiếp đó, các yếu tố liên văn bản xuất hiện: nhân vật Lucky Luke (Truyện tranh và phim Lucky Lucke), nhân vật Thợ Mũ (phim Alice’s Adventures in Wonderland), người con trai thứ bảy (truyền thuyết dân gian châu Âu, Album Seventh Son of a Seventh Son (1988) của Iron Maiden):
Lucky Luke của em, chúng ta không thể mãi ở bên nhau. Chúng ta không thể mãi ở bên nhau. Lucky Luke của em, hôm qua khi anh rút súng ra cái bóng đã hỏi em tại sao anh luôn bắn về phía nó. Đừng khóc Lucky Luke của em.
(Dòng sông),
Để lại công viên
để lại nhà thờ
hắn không cho em được nói lời nào
có lẽ bởi hắn là thi sĩ
ngày mai hắn mơ được làm Thợ Mũ
em đẽo cho hắn một đồng xu mới toanh
để lại công viên nước bỏ hoang
để lại bảo tàng các mảnh cơ thể
(Manifesto 07)
Trong thơ truyền thống, yếu tố liên văn bản ít liên quan đến cấu trúc, còn trong thơ hiện đại, nó trở thành nguyên tắc tổ chức văn bản, quyết định cách thơ vận hành. Ta hãy tìm hiểu đoạn thơ sau:
Đó là tháng tư
của thời đáng sống hơn
trong phòng em
những con sâu tìm đường thoát
khỏi bức tường mùa hè
khi anh tự hỏi
đâu là điểm kết
của cơn động kinh đưa anh tới một hoang mạc
đưa anh tới một hoang mạc dẫn đường anh gặp tay lừa đảo
dẫn đường anh gặp tay lừa đảo con đường phủ đầy ảo mộng giấy
phủ đầy ảo mộng giấy trên tấm áo cà sa anh cuộn nó lại
tấm áo cà sa anh cuộn nó lại thành hình con rắn
thành hình con rắn đã lừa em tới đây tới một hoang mạc
đó là tháng tư
của thời đáng sống hơn
nhiều thần thánh hơn
nhiều món nợ phải dần dần trả
cũng bởi vậy mà lửa đã tắt
cũng bởi vậy mà anh đã có
tất cả thời gian trên đời
chỉ để không làm gì
thứ hai là đinh ốc
thứ ba ăn cái kén
thứ tư giã bánh dày
(trên cung trăng xa xôi)
thứ năm mất lưỡi liềm
thứ sáu viết thư tay
(đường đến bưu điện mùa hè
tháng tư lồng lộng gió)
(Con trai thứ bảy (của người con trai thứ bảy))
Trong truyền thuyết dân gian châu Âu, người con trai thứ bảy có “quà tặng” siêu nhiên: khả năng tiên tri, kết nối với cái thiêng, đứng giữa thiện – ác. Nhân vật trữ tình “anh” trong bài thơ Con trai thứ bảy (của người con trai thứ bảy) cũng vậy. Trong cơn bấn loạn tâm thần, năng lực siêu nhiên của anh ta đã tạo ra một thế giới hoang đường với tay lừa đảo, con đường phủ đầy ảo mộng giấy, tấm áo cà sa, con rắn, hoang mạc. Nhân vật “em” cũng bị đưa đến thế giới đó (thành hình con rắn đã lừa em tới đây tới một hoang mạc). Nhưng “em” có thể rời đi từ bất cứ đâu, kể cả giấc mơ của “anh”. Chúng ta bắt gặp ở đây bóng dáng của thế giới siêu thực trong điện ảnh và cổ tích, nơi người ta sống giữa thực và ảo, có thể dấn bước vào cõi huyền bí, cũng có thể bước ra khỏi nơi đó bằng một cách thức bí truyền. Trong cõi giới đó, mọi thứ diễn ra không theo trật tự thông thường. Những cái bất thường trong đời sống chúng ta lại là hiển nhiên trong cõi khác. Và nhân vật người con trai thứ bảy đó, với tất cả sức mạnh siêu nhiên của mình, không thể tìm thấy nghĩa lí của đời sống. Bài thơ kết thúc trong nỗi hoang mang hiện sinh của nhân vật “anh”: bên ngoài phòng em/ anh có thể đã sống/ kiếp một con bướm/ bầy bướm không bao giờ có thật/ từng là những con sâu tìm đường thoát/ khỏi bức tường mùa hè. Như vậy, các chi tiết liên văn bản nói trên chính là phương tiện tổ chức văn bản thơ. Chúng không có mặt như một sự “trang sức về nghĩa”. Chúng đóng vai trò vật liệu kiến tạo. Nhờ liên văn bản, bài thơ trở thành một dạng “lai ghép thể loại”: trữ tình hiện đại + huyền thoại tôn giáo + đồng dao dân gian. Lúc này, thơ không còn là tiếng nói đơn tuyến, tự trị của cái tôi trữ tình, mà là đa tầng diễn ngôn của huyền thoại, tôn giáo, văn hóa dân gian, đời sống thường nhật.
Ở phần đầu bài viết này, tôi nhắc đến tiểu thuyết Đơn giản nhất là biến mất bởi có một hiện tượng thú vị: sự kiên kết thể loại. Có khá nhiều chi tiết xuất hiện trong cả hai văn bản thơ và truyện: nhân vật Thợ Mũ, mô thức thời gian nối tiếp (tháng sáu sẽ nhường chỗ cho tháng bảy và tháng bảy sẽ nhường/ chỗ cho tháng tám và tháng tám sẽ nhường chỗ cho tháng chín), motif tự sát, công viên – nơi nhân vật nằm trên cỏ, nhà thờ – nơi nhân vật chứng kiến sự vô ích của tôn giáo, hoa bằng lăng rơi – nỗi ám ảnh của sự tàn lụi, mất mát… Một chi tiết có vẻ bâng quơ trong thơ được phát triển thành một tình tiết trong tiểu thuyết (hai dòng thơ: sao không nhảy tiếp đi/ cùng tiếng đạn trên sàn (Bụi năm cũ) và chương Nhảy trong tiểu thuyết). Với sự liên kết thể loại, ta chứng kiến sự cộng hưởng cảm xúc (ở thơ là “nén”, ở truyện là “mở”), cộng hưởng ý nghĩa (một chi tiết xuất hiện ở hai thể loại tạo nên tính đa tầng, đa phương diện về nghĩa), sự tái sinh hình tượng (một chi tiết có thể là “hạt giống” ở thể loại này, “nảy mầm” ở thể loại kia). Chẳng hạn, hai dòng thơ hôm qua anh bỏ cuộc/ thứ bảy anh đốt tranh (Manifesto 07) có thể không gây chú ý, nhưng chi tiết người họa sĩ đốt tranh xuất hiện nhiều lần trong tiểu thuyết là biểu tượng đầy sức ám ảnh. Hành vi cực đoan đó thể hiện sự khủng hoảng niềm tin vào giá trị sáng tạo của người nghệ sĩ. Nó là dấu hiệu của sự bất lực, thất vọng vì tác phẩm không được công nhận hay chính tác giả thấy vô nghĩa. Trong tiểu thuyết, đây là cao trào của bi kịch cá nhân. Và cả tập thơ cũng như tiểu thuyết của Huy Bảo đều dựng lên những nhân vật không đáng tin. Trong tập thơ Mùa hè không dấu chân, nhiều khi nhân vật trữ tình nói quá hoặc bóp méo cảm xúc (Ruồi Á Đông, Phà vẫn chạy, Khoảng trống, Dòng sông). Có lúc nhân vật trữ tình “đeo mặt nạ” khiến lời thơ không biết là thật hay diễn (Bất khả thi, Ruồi Á Đông, Cá giấy). Có lúc nhân vật trữ tình tỏ ra tiền hậu bất nhất (Bí mật của mấy tờ lịch, Dự báo thời tiết). Trong tiểu thuyết Đơn giản nhất là biến mất không có nhân vật nào thực sự đáng tin. Sự mơ hồ từ nhân thân đến hành động, các phiên bản truyện kể khác nhau với những tình tiết trùng lặp, quá nhiều lỗ hổng trong truyện,… là những dấu hiệu của kiểu nhân vật bất khả tín. Để xây dựng kiểu nhân vật này, Huy Bảo liên kết nhiều chi tiết trong cả hai thể loại, ví dụ nhân vật họa sĩ đốt tranh, những người bạn vừa thân thiết vừa xa lạ với nhau, chiếc cửa sổ mở để nhân vật tự sát, bụi, công viên,…
Với tôi, sự liên kết thể loại mở ra một toàn cảnh văn chương Huy Bảo. Chiến lược nghệ thuật tạo “thế giới văn chương riêng”, nơi các chi tiết mang tính biểu tượng, luôn trở lại như mảnh ghép trong một vũ trụ thống nhất làm rõ rằng sáng tác của Huy Bảo là một dòng liên tục, thơ và tiểu thuyết chỉ là hai hình thức biểu đạt khác nhau và mục đích của thực hành nghệ thuật là tác giả tự đối thoại với chính mình. Sự giao thoa và liên kết thể loại giúp tập thơ Mùa hè không dấu chân được tăng cường chất tự sự, tiểu thuyết Đơn giản nhất là biến mất thì đậm chất thơ. Điều này có nghĩa là mạng trao đổi các dấu hiệu nội văn đang thâm nhập lẫn nhau ở hai thể loại. Nó chứng tỏ thơ và truyện không phải là hai “loài” khác biệt tuyệt đối trong hệ sinh thái. Chắc chắn có những ngách nhỏ cung cấp chỗ cho một vài đặc điểm của thể loại này khu trú trong thể loại kia. Khi các áp lực nội sinh và ngoại sinh thay đổi, ranh giới thể loại có thể bị làm mờ, các đặc tính cốt lõi của thể loại cũng thay đổi. Đó là xu thế của văn học hậu hiện đại. Biết đâu, một ngày nào đó, chúng ta sẽ chứng kiến “siêu thể loại” văn học xuất hiện!
Mạch cảm xúc bị đứt gãy, hiện tượng vắt dòng bất chợt, từ ngữ thô tục trong thơ, sự giao thoa và liên kết thể loại là những yếu tố khiến cho việc trích thơ Huy Bảo cực kì khó khăn. Nhưng điều đó cũng có mặt tích cực, bởi nó buộc người đọc phải “đi” hết văn bản mới có thể “bắt trọn” ý nghĩa. Và, sau tất cả, điều khiến tôi ngồi lại thật lâu với tập thơ Mùa hè không dấu chân là vì chất thơ của nó. Thơ Huy Bảo vẫn tràn đầy nhạc điệu của ngôn từ và nhịp điệu của cảm xúc:
nếu không bằng tình yêu của em
cửa sổ của phòng khách có mở không
làm sao để người ta nhảy
nếu không bằng tình yêu của em
nếu không bằng tình yêu của em
thứ hai xin chết vì tình yêu của em
thứ ba xin trở lại vì tình yêu của em
thứ tư xin rời khỏi thành phố sống một nửa cuộc đời trong tù một nửa trong rượu rẻ tiền và thơ ca rác rưởi và những cái đầu rỗng tuếch vì tình yêu của em
nếu không bằng tình yêu của em
nếu không bằng tình yêu của em
thứ năm xin được bay lên bay lên vì tình yêu của em
thứ sáu xin được nằm trên cỏ công viên nhai cỏ công viên cỏ công viên vì tình yêu của em
thứ bảy xin bắn một viên đạn vào đầu đạn trong đầu vì tình yêu của em
nếu không bằng tình yêu của em
nếu không bằng tình yêu của em
(Nếu không bằng tình yêu của em)
Thơ Huy Bảo vẫn đầy ắp mĩ cảm:
Cha xứ sắp nói một điều ai cũng biết
rằng Chúa sẽ yêu tất thảy các con
hôm qua anh là cái chong chóng ở quảng trường
ngày mai anh là ngọn đèn là bê tông là dây cáp
là khói từ đoàn tàu là dấu chân kẻ trộm
là bọt dưới đáy ly là vết sẹo tình cờ
ngày mai anh nhảy như chưa bao giờ nhảy
rơi khỏi thành phố này như chưa bao giờ rơi
hôm qua họ rào công viên lại
vậy anh còn biết đi đâu giữa lộn xộn tháng mười
khi em đã về đến nhà và thay một đôi giày khác
sau buổi chiều buồn trên bãi cỏ của chúng ta.
(Dự báo thời tiết)
Còn quá sớm để nói đến một sự nghiệp của tác giả Huy Bảo, nhưng thật khuây khỏa khi đọc những sáng tác mới nhất của anh bất chấp những khó khăn mà chúng gây ra.
Hà Nội, ngày 4/10/2025