Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 8 – hết)

Tác giả: Richard Seymur

Việt dịch: Nguyễn Quang A

 Nhà xuất bản Dân Khí-2025

Kết luận: Khí hậu Mù mịt

Là quá dễ để là người chống-phát xít ở mức phân tử gam, và thậm chí không thấy tên phát xít bên trong bạn, tên phát xít mà bản thân bạn duy trì và nuôi dưỡng và yêu thương với các phân tử cả cá nhân và tập thể.1

— Gilles Deleuze and Félix Guattari, A Thousand Plateaus

I.

Chủ nghĩa phát xít, Robert O. Paxton viết trong cuốn lịch sử có thẩm quyền của ông, trở thành một lực lượng lịch sử khi nó đề cập đến ‘một cảm giác về khủng hoảng áp đảo vượt ngoài tầm với của bất kể giải pháp truyền thống nào’. Nghịch lý trong cuốn sách này đã là, nơi đầy dẫy các khủng hoảng thật, thì chủ nghĩa dân tộc tai họa lại bị các khủng hoảng hoàn toàn hư cấu làm mê hoặc. Và, vì nó trình bày mình như một giải pháp, nó cũng rõ ràng khao khát cho một khủng hoảng thanh trừng, làm tan vỡ thế giới: sẵn sàng đối phó với nó. Sự hư cấu thảm họa này, tôi đã gợi ý, là một loại dreamwork (xem chú thích tại trang 64) diễn vai trên những khủng hoảng thật của thời đại, dẫn luồng phân tử của những sự khốn khổ kinh tế, xúc cảm và gợi tình thành một làn sóng triều dâng của bạo lực báo thù.2

Điều này vẫn chưa là chủ nghĩa phát xít, hoặc vẫn-chưa-là-chủ nghĩa phát xít. Chủ nghĩa dân tộc tai họa chắc chắn bị nhồi nhét bằng các sự tưởng tượng về một chế độ độc tài quân sự chống lại cánh tả: như thế các nhà hoạt động QAnon và ‘Stop the Steal’ thúc giục sự cai trị quân sự với Trump như tổng thống suốt đời; như thế những người biểu tình Brazil cầu xin quân đội ‘cứu’ Brazil khỏi chủ nghĩa cộng sản. Nó thăng hoa về việc trolling (chọc tức) nhắc tới chủ nghĩa phát xít lịch sử, như bộ trưởng văn hóa Brazil Roberto Alvim phát biểu về chính sách văn hóa mà hầu như bắt chước chính xác những dòng của một bài phát biểu của Goebbels được công bố trong một tiểu sử gần đây, hoặc trong sự nhắc chòng gẹo của Sarah Palin đến ‘mười bốn từ’ được các nhà dân tộc chủ nghĩa da trắng sử dụng. Nó đã phát động một loạt ‘cuộc nổi dậy’ lóng ngóng, nửa vời, lạc lõng, mà có thể được xem như buổi diễn tập trang phục cho ngày trọng đại. Trong ý thức hệ của nó, nó thường trông chính xác như ‘chủ nghĩa dân tộc cực đoan’ làm sống lại cái mà Roger Griffin mô tả như các hạt nhân quan niệm của chủ nghĩa phát xít. Tuy nhiên chủ nghĩa phát xít là nhiều hơn ý thức hệ của nó: như Andreas Malm và nhóm Zetkin Collective diễn đạt, nó là một ‘lực lượng lịch sử thực’. Một lực lượng có khuynh hướng tới sự tự sát nền văn minh mà chỉ tiết lộ mình khi nó nắm quyền lực.3

Các cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến chúng ta, ở mức phân tử của các quan hệ xã hội cũng nhiều như ở mức phân tử gam của sự loạn chức năng tư bản chủ nghĩa, sự tê liệt nghị viện và những thất bại tích lũy của chủ nghĩa công đoàn và cánh tả mà trong quá khứ đã dọn đường cho sự trỗi dậy phát xít đến quyền lực, đã vẫn chưa đạt một mức độ như vậy. Cánh hữu mới cũng chẳng đạt mức độ rõ ràng ý thức hệ và sự tự-tổ chức mà sẽ làm cho nó có khả năng lật đổ các nền dân chủ đại nghị. Tuy nhiên, hoạt động trên tất cả các khủng hoảng kể trên có một chất xúc tác, một hệ số nhân sức mạnh kiểm thử các nền tảng rất năng động của nền văn minh đương thời, được biết đến như khủng hoảng khí hậu. Và diễn biến hiện thời gợi ý rồi, tăng cường các vector hiện có của sự lây dân tộc chủ nghĩa thảm họa, nó được nhồi thuốc nổ để tạo ra các vụ nổ thêm nữa.

Trong năm 2021, tại một làng trên bờ Sông Brahmaputra ở bang Assam Ấn Độ, một tội giết người đã được ghi trên video. Chính phủ trục xuất những người Muslim Bengali khỏi nhà của họ, 5.000 nhà đã bị phá hủy, để cho những người Assamese Hindu ‘bản địa’. Một cậu con trai, Moinul Hoque, đã lao vào cảnh sát vũ trang trong cơn thịnh nộ mù quáng trước sự phá hủy của họ; họ đã bắn cậu ta ở cự ly rất gần, và sau đó tiếp tục đánh thân thể hấp hối của cậu ta bằng gậy. Đi cùng đội cảnh sát là một nhiếp ảnh gia Hindu, Bijoy Baniya. Khi gậy giáng xuống, Baniya nhảy một bước đắc thắng và đặt một chân lên ngực của cậu bé đang chết. Trong một tường thuật cho tờ Time, Debashish Roy Chowdhury đã bình luận, ‘Đạp chân lên một xác chết Muslim bây giờ có một vẻ yêu nước chính đáng của nó … những cảnh sát được thấy ôm anh ta trong video sau cái chết của Hoque.’4

Ngoài sự xúi giục của những kẻ Hindu thượng đẳng ra, đã có một ẩn ý đen tối khác của cuộc tàn sát. Một trong những lý do chính cho sự di cư của những người Muslim Bengali đến Assam trong những năm gần đây là làn sóng thảm họa do biến đổi khí hậu–gây ra, như lũ lụt phá vỡ hệ sinh thái của Đồng bằng sông Hằng. Trong hàng thập niên, điều này dẫn đến xung đột kéo dài khi những người Hindu Assamese tấn công những người Muslim Bangladesh, dẫn đến hơn ba mươi ngàn cái chết giữa 1991 và 2008.5 Chủ nghĩa dân tộc phạm tội giết người đã phát đạt trên sự phá vỡ khí hậu lâu ít nhất thế.

Bản thân sự bóc lột hành tinh không gây ra xung đột xã hội. Nó sinh ra còn hơn các ý thức hệ của chủ nghĩa dân tộc sống lại hoặc các đam mê báo thù đi cùng của nó. Đúng hơn, nó tạo ra các điều kiện cấu trúc cho khủng hoảng, trong khi xúc tác các điều kiện bellogenic (chắc là cực kỳ độc hại-velogenic do gõ v thành b và l thành ll) như sự khan hiếm tương đối, các tính dễ bị tổn thương không ngang nhau, chi phí sản xuất tăng lên, và sự khai thác hung bạo. Hãy xét những người tị nạn khí hậu, chẳng hạn. Theo UNHCR, 21 triệu người đã bị khí hậu dời chỗ hàng năm kể từ 2008. Vào năm 2050, nó phóng chiếu rằng 1,2 tỉ người sẽ bị biến đổi khí hậu và các thảm họa thiên nhiên di dời chỗ. Hàng triệu người tị nạn này đã kết thúc rồi trong nợ nần hoặc các hình thức nô lệ hiện đại đơn giản bởi vì vị trí của họ như những người tị nạn và địa vị thấp và những sự bảo vệ họ được trao làm cho họ dễ bị tổn thương hơn cho sự bóc lột, như thế một sự tăng lên về số của họ do khủng hoảng khí hậu chắc có khả năng để kéo dài thêm nữa cả các nguồn lực và sự hoan nghênh không đáng kể sẵn có cho họ. Biến đổi khí hậu sẽ cũng làm trầm trọng thêm các rủi ro hiện có liên kết với việc đi đến một nước an toàn. Chẳng hạn, những người nhập cư và những người xin tị nạn cố gắng đến biên giới Hoa Kỳ qua Mexico bây giờ phải đi qua Sa mạc Sonoran để tránh lưới kiểm soát biên giới và các điểm vượt biên được củng cố của nước Mỹ. Cuộc du hành nguy hiểm rồi này qua một môi trường cực kỳ nóng đang giết 350 người mỗi năm. Khi nhiệt độ tăng, số người đang chết vì suy nhược nội tạng và mất nước trong cơ thể chắc cũng tăng lên. Một số tăng lên của những người tị nạn khí hậu, chắc có vẻ, cũng sẽ tăng cường áp lực dân tộc chủ nghĩa cho các chế độ biên giới bạo lực hơn, làm cho chuyến đi còn nguy hiểm hơn nữa.6

Một dòng người tị nạn, tuy vậy, là không đủ để tạo ra một ‘khủng hoảng tị nạn’ hoặc gây ra một phản ứng dữ dội hung bạo, nhiều hơn các vụ cháy rừng gây ra cuộc săn đuổi antifa ở nông thôn Oregon chút nào. Như sử gia Dan Stone chỉ ra, ý tưởng gần đây về một ‘khủng hoảng tị nạn’ ở châu Âu có vẻ là một ‘cấu tạo cường điệu’ thuần túy: trong khi ‘các nước như Lebanon và Jordan mỗi nước đã nhận một triệu người tị nạn Syri, còn các nước Âu châu rõ ràng không có khả năng đối phó với hàng chục ngàn’. Các dòng (người tị nạn) chỉ trở nên ‘không thể quản lý nổi’ từ quan điểm của các nhà nước đã cam kết rồi để không cho những người tị nạn vào, như trong những cố gắng của ‘Pháo đài châu Âu’ để đóng cửa mọi phương tiện đi lại hợp pháp, khiến cho những người tị nạn phải đi các chuyến đi bằng thuyền đầy rủi ro trong đó hàng trăm người chết ở Địa Trung Hải mỗi năm. Và trong khi các chính trị gia đã dùng uyển ngữ đổ lỗi cho ‘bọn buôn người’ vì một tình hình do họ tạo ra – trong 2015, thậm chí được gợi ý rằng họ có thể ‘đánh bom’ những kẻ buôn người – trong thực tiễn họ xác nhận điều khẳng định của chủ nghĩa dân tộc tai họa rằng những người tị nạn không xứng đáng sự từ chối con người. Tương tự, tại Ấn Độ của Modi chỉ bởi vì các vấn đề tái phân phối và quyền hưởng đã được giải quyết trong hàng thập niên theo cách sắc tộc để làm lợi cho những người Hindu rồi, mà sự định cư của những người tị nạn khí hậu Bengali ở Assam là một cơ hội cho chủ nghĩa dân tộc phạm tội giết người.7 Một hệ sinh thái rối loạn lẽ ra sẽ không biến mình thành hoặc ‘chủ nghĩa phát xít hóa thạch’ hay ‘chủ nghĩa phát xít-sinh thái’ giả như các tiềm năng như vậy không được lưu hành rồi trong các chế độ đại nghị.

Nếu chủ nghĩa phát xít giữa hai cuộc chiến tranh đã phát đạt trên một khủng hoảng dân chủ bùng nổ từ miệng núi lửa của các cuộc nội chiến giai cấp dữ dội và chủ nghĩa đế quốc suy đồi, thì chủ nghĩa dân tộc tai họa bắt đầu rồi để luồn vào một cuộc khủng hoảng khí hậu khó bảo hơn đe dọa hạ tầng cơ sở năng động của nền văn minh hiện đại. Hiện tại, sự cam kết của chủ nghĩa dân tộc tai họa với chủ nghĩa đế quốc dân tộc cơ bắp đòi hỏi rằng nó chối bỏ biến đổi khí hậu như một lời nói dối ‘toàn cầu’ nạn nhân hóa những người lái xe máy yêu thích-tự do. Nó đã tiếp quản một bộ máy phủ nhận được tư bản hóa thạch xây dựng và bỏ rơi muộn hơn, và ý tưởng sinh động về mối đe dọa chủng tộc được thêm vào ý thức hệ thân-tư bản chủ nghĩa truyền thống của nó: biến đổi khí hậu là một sự lừa đảo chuyển của cải cho chủ nghĩa cộng sản Trung quốc, Trump nói, hoặc một âm mưu để trao bổng lộc của ‘các nhà sản xuất’ cho ‘những kẻ lười biếng’, Pamela Geller nói. ‘Chủ nghĩa cộng sản-Môi trường’, như tuyên ngôn của Breivik diễn đạt, có nghĩa là một ‘sự chuyển giao các nguồn lực … từ thế giới Tây phương phát triển cho thế giới thứ ba’. Bất chấp tất cả các trẻ sơ sinh dễ khóc và những người quá nhạy cảm ‘đang phá hủy nó’, chúng trao sự diễn đạt công nghệ cho những mong muốn toàn năng của họ: ‘Hãy khoan (dầu), hãy khoan!’

Tuy vậy, có rồi các xu hướng dân tộc chủ nghĩa-xanh và phát xít-sinh thái, được phản ánh trong khẳng định của Marine Le Pen rằng những người nhập cư là ‘những kẻ du mục’ không có ‘quê hương’ nào và không quan tâm đến môi trường, trong sự khinh miệt cực-hữu đối với ‘những người Do thái Quái đản’ trục lợi, và trong các tuyên ngôn ‘sói đơn độc’ của Payton Gendron, Brenton Tarrant và Patrick Crusius kết nối những nỗi sợ dân số quá đông với ‘sự Thay thế lớn’ và ‘sự diệt chủng da trắng’. Những tuyên bố này đang diễn tập lại ý tưởng hiện diện rồi trong hệ sinh thái thế kỷ-thứ mười chín, và tái hiện trong tư duy sinh thái của Ernst Haeckel, Ludwig Klages, Savitri Devi, Jorian Jenks, Alain de Benoist, Renaud Camus, Garrett Hardin, Hervé Juvin, Björn Höcke và Dave Foreman, rằng chủ nghĩa môi trường có nghĩa là một cuộc chiến tranh Darwinist xã hội về sự không phù hợp hay sinh học dư thừa.8

II.

Nếu sự hủy hoại sinh thái góp phần cho lợi ích của chủ nghĩa phát xít theo cách này hay cách khác, thì điều này nêu lên những câu hỏi nghiêm trọng về nền dân chủ. Hoặc để là chính xác một cách khó chịu, về nền dân chủ tư bản chủ nghĩa.

Rốt cuộc, nền dân chủ tư bản chủ nghĩa là một hình thái vốn mâu thuẫn và không ổn định, trong đó nửa của chimera (quái vật đầu sư tử đuôi rắn-nền dân chủ tư bản) hoạt động theo những nguyên tắc hoàn toàn khác nhau. Trong thế giới sau-chiến tranh, nó đã tự-ổn định nơi nó hoạt động với lời hứa tăng trưởng vô tận như một lựa chọn thay thế cho một sự bình đẳng mà nó có lẽ không thể cung cấp. Sự tăng trưởng vô tận, mặc dù là một mâu thuẫn về thuật ngữ, đã trở thành một tôn giáo thế tục. Khủng hoảng sinh thái bây giờ thúc đẩy một khủng hoảng đức tin. Và trong khi tư tưởng sinh thái đã luôn luôn chứa chấp sự hoài nghi về nền dân chủ, từ ‘Tragedy of commons (Bi kịch của các tài sản chung)’ của Garret Hardin đến ‘Leviathan or Oblivion (Levitan hay sự Lãng quên)?’ của William Ophuls, nền dân chủ tư bản chủ nghĩa bây giờ lo lắng về các đồng minh của nó. Lập luận chung là, nó thất bại bởi vì chủ nghĩa ngắn hạn bầu cử, hoặc tư-lợi cử tri. Dù các lời xác nhận như vậy có dụng ý thế nào, trong sự từ chối hăm hở của họ để nhắc đến nửa tư bản chủ nghĩa của con chimera mà đã thúc đẩy khủng hoảng khí hậu, họ ít nhất cũng hiểu được giới hạn đang đạt được.9

Và ở giới hạn đó, câu hỏi là liệu nền dân chủ như đang tồn tại có đủ ổn định để chịu được áp lực to lớn mà biến đổi khí hậu sẽ đặt lên các nền tảng vật chất của nó hay không. Vì nền dân chủ, một cách toàn cầu, đang trong một tình trạng bấp bênh. Trong một báo cáo 2022 của Viện Quốc tế vì Dân chủ và sự Trợ giúp Bầu cử có cơ sở ở Stockholm, đã thấy rằng nửa của các nền dân chủ của thế giới đã bị xem là loạn chức năng, tê liệt thể chế và một sự xói mòn của các quyền tự do dân sự trong 5 năm vừa qua. Các định chế đại diện đã bị ‘khoét rỗng’ rồi như Peter Mair diễn đạt, trong khi nhà nước nghiêng theo một hướng độc đoán và loại trừ hơn. Trong tình huống này, niềm tin vào các ý tưởng dân chủ đang bị rút lui, với số người ở châu Âu và Bắc Mỹ mà nghĩ là ‘cốt yếu’ để sống trong một nền dân chủ đã sụt xa dưới 50 phần trăm giữa các thế hệ trẻ hơn.10

Thật kỳ lạ rằng chủ nghĩa dân tộc tai họa không nói xấu về nền dân chủ. Ngược lại, nó tự nhận là dân chủ hơn các đối thủ của nó. Khi Modi bị thách thức tại một cuộc họp báo ở Nhà Trắng về sự hành hạ những người Muslim ở Ấn Độ, ông phê bình nhận xét, ‘Dân chủ ở trong máu của chúng tôi.’ Donald Trump, vận động trong năm 2023, tự nhận là ở bên của sự đổi mới dân chủ: ‘tôi không coi chúng ta có nhiều dân chủ ngay bây giờ.’ Marine Le Pen, trong chiến dịch vận động bầu cử tổng thống 2022 của bà, đã tương phản bản thân bà với Macron ‘mệnh Mộc tinh’ kiêu ngạo, nói, ‘tôi tính đến việc tham vấn chuyên gia duy nhất mà Emmanuel Macron đã chẳng bao giờ tham vấn – nhân dân.’ Tại Israel, những người biểu tình cực-hữu chống lại các ràng buộc do Tòa án Tối cao áp đặt lên quyền lực hành pháp, hô ‘nhân dân là tối cao’. Các cuộc khảo sát được công bố trong 2018 tìm thấy rằng những người trung dung, không phải những người cực hữu, có khả năng nhất để bày tỏ sự hoài nghi về dân chủ.11 Đây chỉ đơn thuần là sự nhạo báng? Có phải cực hữu, trong việc nhận màng che phủ của một nền dân chủ luôn tồn tại để phá hủy, đơn giản lợi dụng tính chính danh dân chủ đang sụp đổ của phái trung dung? Nếu thế, vì sao không chính phủ dân tộc chủ nghĩa thảm họa nào tìm cách, chặn ‘cuộc đảo chính mềm’ của Trump, để lật đổ nền dân chủ? Vì sao đúng hơn nó ham thích các lời xác nhận đa số của nó? Nếu, như Dylan Riley cho là, chủ nghĩa phát xít có thể được xác định như ‘nền dân chủ độc đoán’ (mặc dù là khó để thấy demos (nhân dân) thực sự đang cai trị dưới chủ nghĩa phát xít), chủ nghĩa dân tộc tai họa có vừa lòng với chỉ việc nhảy cóc lên chủ nghĩa độc đoán?12

Câu trả lời đáng báo động là có thể, như Nikhil Pal Singh gợi ý trong một tiểu luận về ‘kiếp sau’ của chủ nghĩa phát xít, rằng chủ nghĩa phát xít là ‘doppelgänger hay cái song trùng’ của nền dân chủ tự do, phản ánh ‘một ý chí loại trừ mà đã thường xuyên tái xuất hiện’. Michael Mann đã chứng minh bằng tư liệu ‘mặt tối của dân chủ’ này trong quan hệ với hiện tượng thanh trừng sắc tộc. Các nền dân chủ không ổn định dễ mắc những sự xoắn tàn bạo trong đó demos bị đánh đồng với ethnos (sắc tộc). Trong hoàn cảnh khủng hoảng, các đặc tính dân chủ phù hợp với sự thịnh nộ dân tộc chủ nghĩa-sắc tộc, trong đó sự đối kháng giống-giai cấp được chuyển vị thành cuộc đấu tranh sắc tộc có tổng-zero. Những cơn thịnh nộ của chiến tranh vẫn chứa tiềm năng diệt chủng, dưới hình thức của cái Martin Shaw gọi là ‘chiến tranh thoái hóa’, trong đó phạm trù dân sự dần bị xóa sổ (như bị gần đây ở Iraq, Afghanistan, Palestine và trong chiến tranh drone của Obama). Nhưng, Mann đưa ra tư liệu, nội chiến mà các nhà dân tộc chủ nghĩa tai họa ao ước bây giờ lại phạm tội giết người hơn chiến tranh giữa các nhà nước.13

Sẽ là lạc quan thái quá (Pollyanna-ish) để giả thiết rằng các hệ thống dân chủ được trang bị đầy hiện thời của chúng ta, dễ bị như rõ ràng chúng bị những kẻ mới phất cực-hữu thao túng, sẽ tỏ ra đủ ổn định để vượt qua các cơn dông tố khí hậu đang đến. Chủ nghĩa dân tộc tai họa đang ngấm ngầm bận tâm rồi với những mối lo siêu hình của chủ nghĩa phát xít theo những cách diễn đạt hoặc tư bản chủ nghĩa-tăng tốc hay truyền thống, liên quan đến tính không thể tránh khỏi và tính đáng mong muốn của chiến tranh, tính không thể có của sự phổ quát và ý tưởng về số phận liên kết với một dân tộc được định nghĩa theo các thuật ngữ tự nhiên chủ nghĩa, sinh lực chủ nghĩa (vitalist) hay tôn giáo huyền bí – tất cả đều, như Chetan Bhatt viết, tiến triển theo logic ‘hướng tới bạo lực thanh trừng’.14 Nhưng nó vẫn chưa hiệu triệu sự tán thành quần chúng trên cơ sở đó với sự ngoại lệ của chủ nghĩa dân tộc Hindu. Mối nguy hiểm là khi nềm tin vào khả năng của nền dân chủ bị xói mòn từ bên trong và bị cọ sờn ở bên rìa, một siêu hình học phát xít bi quan sẽ tìm thấy điểm tựa của nó, đưa ra lời chào mời sự thượng đẳng như một giải pháp cho sự u sầu về sự mất mát và suy sụp. Những gì đến tiếp sau sẽ phụ thuộc vào việc tiếp sinh lực cho nền dân chủ theo những cách khác và bằng những phương tiện khác hơn là việc đơn giản củng cố niềm tin vào một hệ thống đang thất bại.

III.

Chúng ta không thể không công nhận mong muốn tận thế. Các phong trào cho sự thay đổi, từ chủ nghĩa bãi nô đến Extinction Rebellion (Nổi loạn Tuyệt chủng), phát đạt trên đường chân trời của sự kết thúc sắp xảy ra, mà hoặc là tai họa hay lễ kỷ niệm trong đó tất cả nợ nần đều được miễn nợ, tất cả sự bất công đều bị hủy bỏ, tất cả mọi người đều được tự do. Đây là một điểm mà những người trách mắng-hy vọng bỏ qua khi họ cảnh cáo chống lại ‘việc tiên đoán-diệt vong’, sợ rằng nó sẽ tước mất động cơ của cử tri cho sự thay đổi. Chắc chắn, như Walter Benjamin cảnh cáo, niềm vui đáng ngờ trong việc phá hủy bằng chứng về những thảm họa của chúng ta như các hình ảnh hàng hóa. Tuy nhiên cũng có một sự nổi loạn tiềm ẩn ngay cả trong những biểu hiện tuyệt vọng đần độn nhất, như khi Extinction Rebellion phất một biểu ngữ nói đơn giản: ‘We’re Fucked (Chúng ta bị Rắc rối rồi)’.

Biện chứng này của các thảm họa được Rosa Luxemburg bày tỏ thấm thía nhất, mà phân tích của bà về khủng hoảng tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân tộc đã ảnh hưởng sâu sắc đến phân tích của Hannah Arendt về chế độ toàn trị. Sự thấu hiểu của bà thường được cô đọng thành cụm từ bà vay mượn từ Engels: ‘chủ nghĩa xã hội hoặc tình trạng man rợ’. Thực ra, nó có thể được bày tỏ hay hơn như chủ nghĩa xã hội và tình trạng man rợ. Như Enzo Traverso diễn đạt, chủ nghĩa Marx chống lại các tầm nhìn Khai sáng đơn giản về tiến bộ với một quan niệm biện chứng về ‘thảm họa và sự tiến bộ, sự đàn áp và sự giải phóng’ trong cùng lúc, như chủ nghĩa đế quốc biến đổi ‘tất cả sự tiến bộ kỹ thuật và khoa học thành sự thoái bộ xã hội’.15

Đối với Luxemburg, đóng góp độc nhất của chủ nghĩa Marx, so với chủ nghĩa xã hội đại nghị, đã là ‘khái niệm về một sự đổ vỡ, về một thảm họa xã hội … một tai biến’, ‘một khủng hoảng chung và thảm khốc’, trong đó các khủng hoảng tích tụ của hệ thống tư bản chủ nghĩa dẫn ‘không thể tránh khỏi đến sự tiêu vong của nó’. Trong The Accumulation of Capital (Sự Tích lũy Tư bản), Luxemburg lập luận rằng các lý lẽ khách quan cho chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào sự sụp đổ không thể tránh khỏi này. Về bản chất, vì chủ nghĩa đế quốc sẽ luôn luôn sản xuất ra nhiều hơn mức có thể được tiêu thụ với lợi nhuận, nó chỉ có thể duy trì bản thân mình bằng việc tìm ra các ngoại vi mới để khai thác: vì thế sự cạnh tranh thuộc địa, sự tranh giành châu Phi và sự thúc đẩy chiến tranh ở châu Âu. Viết giữa đống đổ nát của Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, bà viết rằng chủ nghĩa đế quốc, sau khi đã phá hủy ‘nền kinh tế tự nhiên’ của các nước thuộc địa, ‘mang thảm họa như một phương thức tồn tại từ ngoại vi của sự phát triển tư bản chủ nghĩa quay lại điểm xuất phát của nó’. Cuốn pamphlet (sách mỏng) Junius, tiếng khóc tuyệt vọng thảm thiết của bà về sự đầu hàng của các đảng Marxist Âu châu đối với một cuộc chiến tranh trong đó các công nhân đâm thép vào ruột của các công nhân khác, cảnh cáo rằng nếu nhân loại không tự cứu mình bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì tình trạng man rợ sẽ dẫn đến ‘sự phá hủy văn hóa và, như ở Rome Cổ xưa, đến sự giảm dân số, cảnh tan hoang, sự thoái hóa, một nghĩa địa mênh mông’.16

Luxemburg, gần như bị chiến tranh đẩy đến sự tự sát, đã sống ngắn để thấy sự cứu chuộc bà đã tìm kiếm, trở thành một nhà lãnh đạo của một cánh tả cách mạng, mới, chống-chiến tranh. ‘Toàn bộ con đường của chủ nghĩa xã hội’, bà viết trong một trong những tiểu luận cuối cùng của bà trước khi bà bị Freikorps cực-hữu tra tấn đến chết dưới lệnh từ các cựu đồng chí của bà trong Đảng Xã hội Dân chủ, và xác bà bị vứt vào Kênh Landwehr, ‘đượt lát bằng chẳng gì trừ các thất bại rất to. Tuy nhiên đồng thời, lịch sử bước đều một cách không thể lay chuyển nổi, từng bước một, tới thắng lợi cuối cùng! Nơi ngày nay liệu chúng ta có là mà không có “các thất bại đó” để rút ra kinh nghiệm lịch sử, sự hiểu biết, quyền lực và chủ nghĩa duy tâm?’17

Tuy vậy, đã chẳng có gì ‘không thể tránh khỏi’ về sự tiến bộ trong biện chứng lịch sử đẫm máu, bi thảm và không chắc này. Trong phân tích chi tiết của Luxemburg, chủ nghĩa đế quốc đã là một cơ chế mênh mông, bành trướng và sụp đổ mà, để tự nó, có thể chỉ mang lại tình trạng nam rợ một cách không thể tránh khỏi. Sự sống sót phụ thuộc vào sự tự-tin, sự tự giác và sự tự-tổ chức của một phong trào giai cấp-lao động quần chúng, mà chẳng hề là không thể tránh khỏi. Và phân tích của bà về sự sụp đổ tư bản chủ nghĩa là chẳng hề quá lạc quan. Như David Harvey giải thích, khoảng cách giữa hàng hóa được sản xuất và cầu tiêu dùng thực tế ‘có thể dễ dàng được bù đắp bằng sự tái đầu tư mà tạo ra cầu của chính nó’.18 Khủng hoảng thật đến khi các cơ hội cho đầu tư sinh lời không còn nhiều nữa, như thế có một sự tích lũy tư bản quá mức hơn là một sự tiêu thụ hàng hóa thấp. Tại điểm đó, tuy thế, các khủng hoảng nghiêm trọng như các cuộc suy thoái, chiến tranh và đổ vỡ sinh thái, dù tai họa cho loài người, sẽ phá hủy tư bản dư thừa một cách hữu ích. Trò chơi, qua một reset bạo lực, lại có thể bắt đầu lại: chủ nghĩa đế quốc sẽ phát đạt trên các thảm họa của nó.

Trong đó chủ nghĩa dân tộc tai họa, giao hoán các sự bốc đồng nổi loạn hay bất đồng mơ hồ thành sự ủng hộ cho chủ nghĩa đế quốc dân tộc cơ bắp và sự báo thù sắc tộc, trong khi cũng phát đạt nhờ sự hàng hóa hóa các mong muốn này như những kẻ lừa đảo tung ra hàng hóa và các sách bán chạy nhất, là một trường hợp điển hình.

IV.

Làm sao chúng ta có thể bắt đầu phá vỡ luồng phân tử của chủ nghĩa dân tộc tai họa và ngăn chặn việc chuyển sự bất đồng ý kiến thành sự ưng thuận cho chủ nghĩa độc đoán bạo lực? Trên mức trực tiếp, chiến thuật, chủ nghĩa dân tộc tai họa là một đống mâu thuẫn và giới hạn.

Ví dụ, thành ngữ đôi khi tôn thờ công việc (workerist) của cánh hữu mới, như chúng ta đã thấy, là cực kỳ mỏng. Đối mặt với hành động tập thể, như trong các cuộc đình công của công nhân auto Mỹ gần đây hay các cuộc đình công Pháp chống lại cải cách hưu trí, nó cố gắng cẩn trọng để liên kết bản thân với cuộc nổi dậy, nhưng khác đi chẳng có gì làm yếu để nói và trong hầu hết trường hợp ở phía bên kia. Sự thực này có thể được cố gắng làm rõ cho tất cả những người đình công hay ủng hộ một cuộc đình công. Chủ nghĩa dân tộc tai họa cũng, giống chủ nghĩa phát xít, dễ bị tính toán sai và sự với quá xa nghiêm trọng bởi vì ý chí luận cực đoan của nó và sự hiểu huyền thoại về kẻ thù mà nó đối mặt. Điều này cho các đối thủ của nó khoảng thời gian để can thiệp và phá vỡ các dòng phân tử của nó. Sự suy thoái của cánh hữu vũ trang ở Hoa Kỳ tiếp sau ‘cuộc nổi dậy’ là một cơ hội như vậy.

Trong hầu hết trường hợp, trừ Ấn Độ, một sự yếu kém chính của cánh cực hữu mới là, nó phóng chiếu ảnh hưởng chính trị vượt quá xa độ sâu xã hội thật của nó. Sự tăng trưởng của nó được xây dựng bởi việc khai thác khủng hoảng của các đảng dòng chính, giành được tài trợ từ các nhà tư bản đứng ngoài, nhận được sự hậu thuẫn từ các nhà tài phiệt media cực hữu và tận dụng sự dấy lên của sự chú ý bằng việc thao túng cả media truyền thống và công nghiệp (mạng) xã hội. Sự huy động xuống đường phố của nó, trong khi bạo lực và nguy hiểm cho bất cứ ai tham gia, vẫn rời rạc và không đủ để duy trì cực hữu trong những thời kỳ dài của đấu tranh chính trị. Về mọi khía cạnh, chủ nghĩa dân tộc tai họa là con tin của các sự kiện.

Rồi có sự tách rời khác nhau xuất hiện bên trong chủ nghĩa dân tộc tai họa khi nó tập hợp các liên minh bầu cử và xã hội mới. Chẳng hạn, có một sự căng thẳng giữa chủ nghĩa cá nhân sợ xã hội với sự nhấn mạnh ‘libertarian-tự do chủ nghĩa’ của nó, và các khát vọng cực kỳ độc đoán, nhà nước chủ nghĩa và đôi khi thần quyền của nó, mà có thể gây ra các vấn đề cho sự tấn công các quyền dân sự và các quyền con người. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ hủy bỏ các quyền phá thai, chẳng hạn, dường như gây chi phí đắt đỏ cho những người Cộng hòa ở Hoa Kỳ. Cũng có một mâu thuẫn rành rành giữa chủ nghĩa đế quốc cơ bắp của chính trị dân tộc chủ nghĩa đương thời và những cảm giác ương ngạnh chống-tư bản chủ nghĩa mà nó thử bắt giữ với chủ nghĩa chống-toàn cầu hóa hay chống-chủ nghĩa tinh hoa được mã hóa về mặt chủng tộc.

Về chính trị khí hậu, vết nứt giữa chủ nghĩa từ chối và chủ nghĩa phát xít-sinh thái chắc trở nên có hậu quả hơn. Sự cam kết với chủ nghĩa từ chối đang tỏ ra là không đứng vững được, và bây giờ nó đã ngăn cản cực hữu khỏi việc có bất cứ cơ hội chiến đấu cho ảnh hưởng nào bên trong phong trào khí hậu. Trong những sự hủy hoại tình dục của nó, nó bao gồm những thái cực của sự hoảng loạn đạo đức và sự gây hấn tình dục được phép, là cả kênh kiệu lẫn khắt khe về mặt biểu hiện, bảo vệ ‘phụ nữ’ (chống phụ nữ chuyển giới) một phút và mắng nhiếc họ phút tiếp theo, đắc thắng và rên rỉ, theo truyền thống và hiện đại cáu kỉnh. Sự thực rằng Milo Yiannopoulos, nhà bình luận chính trị cực hữu ở Anh, bị bên của chính anh hủy bỏ cho sự xuất hiện để bảo vệ tình dục giữa một người lớn và một cậu bé vị thành niên, trong khi Andrew Tate dường như không bị suy sụp vì sự ô nhục tương đương nào khi bị buộc tội buôn bán tình dục, là dấu hiệu về sự căng thẳng ở đây. Thứ duy nhất thực sự cố kết sự chỉ trích của nó đối với tính hiện đại tình dục là tính thù địch của nó với những sự thay đổi xã hội đe dọa địa vị của nam tư sản da trắng: một khối cử tri hẹp. Bất kỳ ai có những sự căng thẳng này, dưới áp lực đủ, chắc trở thành một người ly giáo (schism).

Tuy vậy, điều này chỉ nêu câu hỏi về loại áp lực nào, được loại chiến lược nào hướng dẫn. Để hiểu chủ nghĩa phát xít chớm nở như dreamwork chính trị, như tôi hiểu, không có nghĩa là chúng ta có thể phân tâm nó vào sự lãng quên. Nhưng nó dường như ngụ ý loại giải pháp trị liệu nào đó, có lẽ giống giải pháp trị liệu được Marx chấp nhận hướng tới tôn giáo. Như Marx diễn đạt trong Contribution to critique of Hegel’s Philosophy of Right (Đóng góp cho phê phán Triết học về Quyền của Hegel) của ông, để đòi sự bãi bỏ tôn giáo như ‘hạnh phúc hão huyền của mọi người’ là để đòi ‘hạnh phúc thật của họ’.19 Thay cho việc chỉ lạnh lùng làm vỡ mộng của nhân dân bị áp bức và đau lòng, nhiệm vụ là để xóa bỏ các điều kiện dẫn đến các ảo tưởng. Một sự dịch thô của điều này trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa phát xít phôi thai sẽ là chính trị ‘cơm-áo (bánh mì-và-bơ)’. Điều này có nghĩa là việc thúc đẩy các đòi hỏi chính trị cho các điều tốt như vậy như lương cao hơn và nhà ở dễ đạt được sự đồng ý ngang sự chia rẽ, sự thực hiện chúng sẽ bắt đầu giải quyết các sự loạn chức năng kinh niên của chúng ta, cung cấp sự an ninh thật và tát cạn đầm lầy của ham muốn phát xít.

Đó không phải chính xác là những gì tôi đề xuất. Chúng ta không thể hy vọng để bỏ qua sức mạnh tâm lý bùng nổ của nghĩa dân tộc tai họa hoặc yêu cầu để đối mặt với mớ hương liệu khô của các ý tưởng tận thế của nó bằng việc đưa ra sự thoải mái vật chất cho các chủ đề của nó. Chúng ta sẽ là những người cố gắng để quản lý thuốc phiện cho mọi người nếu giả như đó là mức độ chiến lược của chúng ta. Tôi không gợi ý rằng chính trị cơm-áo là thừa. Nó sẽ giúp. Chúng ta có cần cơm-áo. Thậm chí chúng ta thích nó. Nhưng chúng ta không yêu nó. Và những thứ chúng ta yêu thường không cho chúng ta bất cứ lợi ích vật chất nào. Bạn có thể yêu con cái bạn, chẳng hạn, nhưng không phải bởi vì chúng làm tăng thu nhập và thời gian rỗi của bạn. Các ý tưởng mà mọi người yêu, và quý, thường là các ý tưởng mà vì chúng họ sẵn sàng hy sinh rất nhiều. Và kinh nghiệm cho thấy rằng, trong sự lựa chọn cho trước giữa sự an lạc vật chất và cơ hội để hy sinh cho một sự nghiệp mà cuối cùng có thể thắng, thì mọi người thường chọn cái sau. Như Tad DeLay diễn đạt, suy ngẫm về một người bạn bị bệnh nghiêm trọng được giữ sống bởi chăm sóc sức khỏe do chính phủ-bảo đảm, điều mà tuy nhiên ông tiếp tục khăng khăng nên bị bãi bỏ: ‘Mọi người khoái chiến thắng, cho dù họ sẽ chắc chắn chết.’20 Điều này thậm chí có đáng ngạc nhiên không? Chúng ta, đúng như Marx khăng khăng, là các sinh vật đam mê.

Để hiểu sự đam mê như một lực lịch sử, chúng ta cần đi vòng ngắn qua một khía cạnh của phương pháp của Marx. Bản chất của cách tiếp cận của Marx để phê phán tôn giáo đã không phải là sự gợi ý rằng các ý tưởng tôn giáo là ‘các ảo tưởng’ – làm thế nào bất kể ai có thể biết điều đó? – mà là mệnh lệnh để điều tra và thay đổi ‘các điều kiện vật chất’ trong đó các ý tưởng và các ý định hình thành. Như Marx diễn đạt trong A Contribution to critique of Political Economy (Một Đóng góp cho phê phán Kinh tế Chính trị), ‘con người xã hội (social beeing)’ xác định ‘ý thức’. ‘Những điều kiện vật chất’ này là gì? ‘Con người xã hội’ là gì? Có vẻ rõ ràng là chúng ta đang nói về thân thể con người, những sự yếu đuối, phụ thuộc và sự hữu hạn cuối cùng của nó. Chúng ta đang nói về nhu cầu để ăn và tính không thể tránh khỏi của cái chết.

Tuy nhiên nó không dừng ở đó. Đối với Marx, ‘con người xã hội’ nhắc đến tất cả các mối quan hệ xã hội mà chúng ta bước vào, dù như các công nhân, bà vợ, người vay, người cho vay, binh lính, người nổi tiếng hay bất cứ gì, trong hy vọng đảm bảo sinh kế của chúng ta. Nhưng một quan hệ xã hội là gì? Nó là ‘cái gì đó phi vật chất’ như Marx diễn đạt trong Grundrisse, một quá trình có ý thức giám sát các dòng chảy của vật chất và năng lượng trong một xã hội. Như thế các điều kiện vật chất bao gồm cái phi-vật chất. Như Engels diễn đạt, ‘chẳng gì xảy ra’ trong lịch sử ‘mà không có một mục đích có ý thức hay một mục tiêu được dự định (intended aim)’. Ý thức, sự vươn dài có chủ tâm hướng tới thực tế (về mặt từ nguyên, ‘intend’ có nghĩa là ‘vươn dài hướng tới’), là một trong những động lực của sự phát triển lịch sử.21

Vì sao, nếu sự tái sản xuất vật chất của chúng ta bị những quá trình phi vật chất chi phối, thì không phải là đủ để thay đổi ý chí của chúng ta sao? Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa dân tộc tai họa dễ bị ảnh hưởng bởi loại ý chí luận thuần túy này, nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng nó không hoạt động. Bởi vì những ý định của chúng ta không chỉ bị hạn chế bởi các khả năng vật chất đối mặt với chúng ta, mà cũng bị dàn xếp một cách tập thể qua những mối quan hệ, những định chế, những luật và các ý thức hệ mà kết cục của chúng thường bất chấp hay hạn chế các ý định của chúng ta. Engels lần nữa: ‘Điều được mong muốn xảy ra nhưng hiếm khi … nhiều mục đích mong muốn cản trở và xung đột lẫn nhau, hoặc bản thân những mục đích này ngay từ đầu không có khả năng thực hiện, hay những phương tiện để đạt được chúng là không đủ.’ Quá trình nảy sinh hầu như xuất hiện như một tai họa ngẫu nhiên nhưng, trong tầm nhìn dài hơn, những sự kiện dường như ‘bị những luật ẩn tàng, bên trong chi phối’.22 Lịch sử như thế dường như có một sự hợp lý nội tại dù yếu và lộn xộn đến thế nào. Một sự hợp lý mà, trong sơ đồ lớn của các thứ theo Marx và Engels, bất chấp mọi bạo lực và sự đồi bại gây kinh hãi của nó, hướng tới sự tự-ý thức tăng lên của loài, tính phổ quát tăng lên của các nhu cầu của nó, và như thế hướng tới tự do. Để hành động hiệu quả trong lịch sử như thế là để thấy rõ và nghiên cứu các nhịp điệu và các mâu thuẫn bị bít này.

Nơi các đam mê đi vào sự phát triển lịch sử này là qua lý thuyết về nhu cầu. Như Marx diễn đạt trong The Economic and Philosophic Manuscripts (Các Bản thảo Kinh tế và Triết học): con người ‘giàu’ đồng thời ‘cần một tổng thể của sự biểu hiện con người thiết yếu’. Chúng ta trở nên càng giàu hơn và phát triển hơn, các nhu cầu của chúng ta càng phức tạp hơn. Các nhu cầu của chúng ta không chỉ cho các đồ chơi hay các tiện ích gì có thể được mua bằng tiền: đó sẽ chỉ là một khối nhu cầu ‘phiến diện’ được các thị trường nuôi dưỡng. Đúng hơn, chúng gồm một lĩnh vực phong phú và đa dạng hơn của các sự thỏa mãn khả dĩ, như nhu cầu cho những người khác trong ‘hoạt động cộng đồng và sự vui chơi chung’, và thậm chí sự phát triển của ‘các nhu cầu cấp tiến’ như ‘nhu cầu cho tính phổ quát’. Đấy là tất cả các nhu cầu lịch sử, theo nghĩa rằng chúng không là sinh học thuần túy mà xảy ra qua các pha phát triển trong các xã hội người. Chẳng hạn, qua các hiệp hội công nhân trong các công đoàn bắt đầu với nhu cầu để cải thiện thu nhập của họ, họ có được nhu cầu cho nhau. Trong The Poverty of Philosophy (Sự Khốn cùng của Triết học), Marx mô tả các nhà kinh tế Anh ‘ngạc nhiên thấy công nhân hy sinh một phần lớn lương của họ để ủng hộ các hiệp hội, mà theo con mắt của các nhà kinh tế học này, được thành lập chỉ để đòi tăng lương’. Mike Davis, trong lịch sử của ông về việc tổ chức xã hội chủ nghĩa, mô tả ‘sự siêu việt đạo đức tập thể’ nảy sinh từ các cuộc đình công dài, đặc biệt nơi chúng mở rộng để bao gồm toàn bộ các cộng đồng.23

Liệu điều này có ảnh hưởng nào đó đến sự thực rằng các thành viên công đoàn có xu hướng kháng cự dạ khúc dân tộc chủ nghĩa thảm họa, mà sự trỗi dậy của chính trị cực-hữu theo dõi sát sao độ sâu suy giảm của tư cách thành viên công đoàn và tần suất của các cuộc đình công, và rằng các công nhân bỏ phiếu cho bất kể đảng cánh-hữu nào có xu hướng là những người không tham gia công đoàn và làm việc cho các doanh nghiệp nhỏ? Tôi không đề xuất sự công đoàn hóa như một nguyên tắc lỗi thời, mặc dù chúng ta chỉ cần ‘xây dựng lại các công đoàn’ nhằm để đánh bại cánh cực-hữu mới. Nó, chẳng hạn, đã là các công nhân cảng đình công (tháng Tư, 1968) ủng hộ Enoch Powell (chính trị gia Anh phân biệt chủng tộc). Ở Hoa Kỳ, khoảng 40 phần trăm các hộ gia đình tham gia công đoàn đã ủng hộ Trump trong cả 2016 và 2020. Trong các công đoàn Đan mạch ngày nay, có một biên tăng lên ủng hộ cho các chính trị gia cực-hữu. Phần lớn phụ thuộc không chỉ vào các công đoàn hữu hiệu thế nào trong sự kháng cự các xu hướng tới sự bấp bênh hóa của việc làm và sự ủng hội tập thể các tiêu chuẩn sống, mà cũng vào liệu họ hành động như các nhà cung cấp dịch vụ đơn thuần hoặc như cái Richard Stöss gọi là một ‘cộng đồng giá trị’.24

Tôi chỉ có ý định chỉ ra rằng nó là về các hình thức sống, được thiết lập trong trường hợp này qua thần ái tình của hoạt động tập thể, mà các đam mê được hình thành. Giữa vài sự ngoại lệ của đời sống tập thể mà chúng ta đã được cho phép trong thời đại tân tự do, tuy vậy, ngoài các khu mua sắm tiêu dùng ra, đã là những cảnh tượng hấp dẫn của sự thuộc về quốc gia, từ các sân bóng đá đến các sự kiện Olympics. Và các cảnh tượng này, Freud quan sát, đã kích thích sự tự-yêu tập thể. Trong Mass Psychology and the Analysis of the ‘I’ (Tâm lý học Đám đông và sự phân tích cái ‘tôi’) (1922), Freud lập luận rằng trong những tập thể như vậy ‘cá nhân sẵn sàng để “từ bỏ” cái tôi-lý tưởng của mình’ và đổi nó lấy một ‘lý tưởng quần chúng’ mà có thể được hiện thân trong một lãnh tụ, lá cờ hay hình tượng. Điều này có thể trở nên đen tối rất nhanh, như được chứng tỏ trong tần suất mà sự đồng thanh phấn khích và vui tươi của những cổ động viên bóng đá có thể kết thúc trong bạo lực. Nhưng nếu các công nhân bị một sự kết hợp của nhu cầu và hy vọng kéo vào cuộc đấu tranh, bị kéo vào các nhịp điệu và mâu thuẫn của quá trình lịch sử với những thăng trầm dễ thay đổi của nó, nghĩ bản thân mình như phần của quá trình lịch sử đó và hình thành nhu cầu triệt để cho cộng đồng và tính phổ quát, thì trong chừng mực đó họ được tiêm chủng chống lại những đam mê hoang tưởng, chống-xã hội và báo thù của chủ nghĩa dân tộc tai họa.

Cũng không chỉ trong việc tổ chức công đoàn mà những nhu cầu triệt để như vậy có thể hình thành. Bất kỳ ai đã tham gia vào một phong trào xã hội có bất kể độ sâu và độ dài nào sẽ trải qua nghịch cảnh, những thất bại, sự phản bội và hy sinh, nhưng vẫn có thể có khả năng nói, như một cựu nhà tổ chức cộng sản nói với Vivian Gornick: ‘tôi chẳng hy sinh gì cả. Tôi đã làm cái tôi muốn làm. Đấy là những năm tuyệt vời, hay nhất của cuộc đời tôi, chúng cho tôi ý nghĩa và sự tập trung lớn lao, và chẳng gì giống thế sẽ xảy ra với tôi lần nữa.’25 Chính trong thời khắc lịch sử mà ý thức được nâng cao và cuộc sống dân chủ được xây dựng.

Bất chấp việc họ có kỹ năng khéo léo từ chơi trò chơi và việc khai thác các mối bận tâm của media, các nhà dân tộc chủ nghĩa tai họa cắt theo thớ của ý kiến đa số [theo ý kiến đa số] về ít vấn đề kích động của họ. Họ có vẻ lớn hơn chính họ nhờ cái bóng dài do ánh sáng chói của sự chú ý media thả xuống. Họ phụ thuộc đáng kể vào sự tê liệt hay sự sự đồng lõa của các đối thủ của họ. Họ phát đạt nhờ cái Mark Fisher nhắc đến như ‘sự giảm phát ý thức’ của chủ nghĩa đế quốc mãn kỳ, trong đó thông điệp liên miên của hệ thống là ‘bất cứ trạng thái tích cực nào, bất cứ hy vọng nào, là một ảo tưởng nguy hiểm’. Hay, để trích bộ trưởng nội vụ Anh Suella Braverman trong tranh cãi chống lại những người tự do và cánh tả, các hy vọng chẳng khác gì ‘các niềm tin xa xỉ’. Cực hữu phát đạt, như những người cuồng nhiệt thuyết âm mưu của chủ nghĩa Marx văn hóa như Braverman phát đạt, trên sự thất bại được nội hóa và tính rụt rè chính trị sinh ra từ chính trị giảm phát đó. Họ thành công trong chừng mực sự thất bại như vậy được thể chế hóa trong những biểu hiện của cánh tả bầu cử, như các đảng trung tả của ngày nay lo lắng theo đuôi cánh hữu về hầu hết các vấn đề xã hội lớn.26

Để đánh bại và gạt sang bên lề cựu hữu mới, đầu tiên cần dứt khoát buông bỏ sự cam chịu đặc trưng cho cả cánh tả và phong trào lao động trong ba thập niên. Có những cọng rơm đáng khích lệ trong gió theo hướng này: một sự hồi sinh của một cánh tả cấp tiến về mặt bầu cử, sự tái xuất hiện của giai cấp sau tất cả các năm này và tính chiến đấu trong phong trào lao động. Các xu hướng này, đại diện cho các vết nứt đáng kể trong một sự đồng thuận lạnh lẽo và ngột ngạt, cho thấy rằng các nhà dân tộc chủ nghĩa tai họa không cần phải là những người hưởng lợi duy nhất từ cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tự do.

V.

‘Chủ nghĩa phát xít có vẻ đến từ bên ngoài,’ Félix Guattari cảnh cáo, ‘nhưng nó tìm thấy năng lượng của nó ngay tại tâm của sự mong muốn của tất cả mọi người.’ Foucault cũng cảnh báo rằng vấn đề là ‘chủ nghĩa phát xít trong tất cả chúng ta … trong đầu chúng ta và trong hành vi hàng ngày của chúng ta, chủ nghĩa phát xít mà khiến chúng ta yêu thích quyền lực, để mong muốn chính thứ thống trị và khai thác chúng ta’.27

Trước khi chủ nghĩa phát xít trở thành một phong trào, nó phải lưu hành trong cuộc sống hàng ngày, trong hình thức phôi thai của bệnh hoang tưởng và tư cách nạn nhân hàng ngày, sự tưởng tượng về sự bồi thường và báo thù, khát vọng thống trị, nhu cầu độc đoán để là đúng, khả năng làm nhục, sự tuân theo ingroup (nhóm trong) tìm kiếm-sự chuẩn y và các xu hướng nghịch đảo hướng tới ác ý và tính tàn bạo xã hội. Đấy là những jouissance (khoái cảm) phát xít tầm thường, hay các chủ nghĩa phát xít vi mô, mà, khi cho trước một hình thù ý thức hệ phù hợp, lớn tiếng thông báo mình trong những thời khắc khủng hoảng.

Các khủng hoảng của chủ nghĩa đế quốc nói chung cũng là các khủng hoảng của cánh tả trong phương thức tư duy và tái sản xuất quen thuộc của nó. Và trong chính trị ‘đường chéo’ của các năm gần đây, một loại của các trí thức bị hạ tầng và những người khác từ cánh tả đã lật sang một phiên bản của chính trị cực-hữu. Trục của sự chuyển đổi này đã thường là một mối đe dọa được cảm nhận đối với cơ thể và sự tự do di chuyển tương đối của nó, dù nó là những quyền chuyển giới đe dọa ‘những không gian của phụ nữ’, hoặc những sự can thiệp và vaccine Covid nghiền nát chủ quyền cá nhân. Sẽ có thể an ủi để nói rằng các hạt giống bội giáo đã rõ ràng từ lâu, nhưng điều đó không đúng. Sẽ cũng dễ chịu nếu chúng ta có thể giải thích về việc cánh tả xa lánh nhân dân một cách không cần thiết qua việc nó bỏ qua các vấn đề mà cánh hữu khai thác, sự kiểm duyệt online dễ dàng và tính đơn giản đạo đức phản ứng lại. Đó là một vấn đề thật, mà về nó Naomi Klein thật sâu sắc một cách lý thú trong cuốn Doppelganger. Nhưng để đổ lỗi cho nó hoàn toàn về điều đó sẽ ngụ ý rằng những kẻ đào ngũ là những con thỏ dễ bị hoảng hốt. Sự thật, tôi nghi, là gần hơn với linh cảm của Guattari, rằng mong muốn cho chủ nghĩa phát xít là một cám dỗ tiềm ẩn mà không ai được miễn trừ. Luôn có thể tỏ ra là những sự gắn bó mà quan trọng, không chỉ hơn các niềm tin được giữ sâu nhất của chúng ta, nhưng hơn sự cam kết của chúng ta với thực tế như vậy. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nghĩ về ‘chủ nghĩa phát xít trong tất cả chúng ta’ nhiều như chúng ta được khuyến khích để hiểu virus covid-19: chúng ta có thể bị nhiễm mà không biết nó.

Có một cảnh cáo từ lịch sử ở đây, được mô tả trong tiểu luận của Alf Lüdtke hỏi về các công nhân Đức dưới chủ nghĩa Nazi: ‘What Happened to the “Fiery Red Glow”?’ (‘Điều gì đã Xảy ra với “Ánh sáng Đỏ Rực”?’) Lüdtke theo dõi cú sốc của những người Dân chủ Xã hội và Cộng sản trong tháng Ba 1933 khi các khu dân cư giai cấp-lao động được trang trí bằng cờ thập ngoặc và nhộn nhịp đầy phấn khích chấp nhận Führer (Thủ lĩnh-Hiter). Một số công nhân đăng nhập vào SA (Sturmabteilung, lực lượng bán quan sự áo nâu). Những người khác yên lặng. Hầu hết công nhân đã không sang bên chủ nghĩa phát xít, đặc biệt những người đã bỏ phiếu cho cánh tả. Nhưng chủ nghĩa phát xít lẽ ra đã không toàn diện đến vậy trong chiến thắng của nó giả như nó đã không khơi dậy những khát khao tiềm ẩn của ít nhất một số công nhân đó.28

Trong việc nêu chi tiết những mầm bệnh xúc cảm đóng góp cho sự lây dân tộc chủ nghĩa thảm họa, tôi đã mô tả những sự oán giận, hận thù và những sự khao khát thời tận thế mà tất cả chúng ta đều có thể không chống nổi. Lý thuyết ‘móng ngựa’ về chính trị, mà theo đó ‘các thái cực’ là gần nhau hơn với chủ nghĩa tự do, là sáo mòn. Nhưng rõ ràng là các đam mê cơ bản thúc đẩy cánh tả có thể luôn luôn, dưới áp lực của tuyệt vọng và suy đồi đủ, trong màn không khí che phủ thất bại, bị biến thái và biến đổi thành đối lập phát xít của họ.

Chủ nghĩa dân tộc tai họa vẫn chưa là phát xít. Nhưng ở đỉnh cao đã qua của nó, nó ầm ầm dọc theo đường ray cố định hướng tới chiến tranh toàn diện, hướng tới đại họa sinh thái và sự hủy diệt con người và hướng tới sự lắp đặt ‘vương quốc khác’ đó với ‘cái chết thảm lạ kỳ của riêng’ nó mà David Rousset, người sống sót trại tập trung Buchenwald, đã gọi là ‘univers concentrationnaire (vũ trụ trại tập trung)’.29

GHI CHÚ

KẾT LUẬN: KHÍ HẬU MÙ MỊT

  1. 1. Gilles Deleuze and Félix Guattari, A Thousand Plateaus: Capitalism and Schizophrenia, University of Minneapolis Press, Minneapolis and London, 1987, p. 216.
  2. 2. Robert O. Paxton, The Anatomy of Fascism, Penguin, 2004, p. 291.
  3. 3. Glenn Greenwald and Victor Pougy, ‘Bolsonaro, Under Fire, Dismisses His Culture Minister for Giving a Nazi Speech, but It Is Still Representative of Brazil’s Governing Ethos’, Intercept, 19 January 2020; Mark Abadi, ‘Sarah Palin is catching heat for tweeting a reference commonly associated with white supremacy and neo-Nazis’, Business Insider, 7 July 2017; Roger Griffin, Fascism, Polity Press, Cambridge, 2018, p. 40; Andreas Malm and the Zetkin Collective, White Skin, Black Fuel: On the Danger of Fossil Fascism, Verso, London and New York, 2021, Kindle loc. 3562.
  4. 4. Debashish Roy Chowdhury, ‘Is India Headed for an Anti-Muslim Genocide?’, Time, 4 October 2021.
  5. 5. Casey Mulgoff, ‘Climate Change and Conflict in Migration from Bangladesh to Assam (India)’, ICE Case Studies Number 260, December, 2011.
  6. 6. James R. Lee, Climate Change and Armed Conflict Hot and Cold Wars, Routledge, London and New York, 2009, pp. 3–15; S. Bellizzi, C. Popescu, C. M. Panu Napodano, et al., ‘Global health, climate change and migration: The need for recognition of “climate refugees”’, J Glob Health 13: 03011 (24 March 2023); Geert Van Dok, ‘Climate Refugees are Increasingly Victims of Exploitation’, Reliefweb, 10 November 2021; Oliver Milman, ‘The climate crisis is killing migrants trying to cross the US border, study finds’, Guardian, 16 December 2021.
  7. 7. Dan Stone, Concentration Camps: A Short History, Oxford University Press, Oxford and New York, 2019, pp. 109–10; ‘Europe weighs bombing migrant boats’, Defencenews, 2 May 2015.
  8. 8. Về bộ máy phủ nhận, xem Andreas Malm and the Zetkin Collective, White Skin, Black Fuel: On the Danger of Fossil Fascism, Verso, London and New York, 2021; Edward Wong, ‘Trump Has Called Climate Change a Chinese Hoax. Beijing Says It Is Anything But’, New York Times, 18 November 2016; Pamela Geller, ‘Follow the Money to Nail Global Warming Hoax’, Newsmax, 17 December 2019; Graham Readfearn, ‘Norwegian Terrorist Anders Breivik Reveals Climate Denial Influences’, DeSmog, 26 July 2011; Beth Gardiner, ‘White Supremacy Goes Green’, New York Times, 28 February 2020; Blair Taylor, ‘Ecofascism and Far-Right Environmentalism in the United States’, trong Bernhard Forchtner, ed., The Far Right and the Environment: Politics, Discourse and Communication, Routledge, London, 2020; Philip Oltermann, ‘German Far Right Infiltrates Green Groups with Call to Protect the Land’, Guardian, 28 June 2020; ‘Le Pen’s National Rally Goes Green in Bid for European Election Votes’, France24, 20 April 2019; Daniel Jones, ‘Greenshirts – The (Mis)use of Environmentalism by the Extreme Right’, History Workshop, 21 April 2020; Matthew Connelly, Fatal Misconception: The Struggle to Control World Population, Harvard University Press, Cambridge, MA, 2008; Janet Biehl and Peter Staudenmaier, Ecofascism Revisited, New Compass, Porsgrunn, Norway, 2011; and Jedediah Purdy, ‘Environmentalism’s Racist History’, New Yorker, News, 13 August 2015.
  9. 9. David Shearman and Joseph Wayne Smith, The Climate Change Challenge and the Failure of Democracy, Praeger, Westport, CT, 2007; David Runciman, ‘Democracy is the planet’s biggest enemy’, Foreign Policy, 20 July 2019; Edward Luce, ‘Democracies are ill-suited to deal with climate change’, Financial Times, 5 January 2020; Simon Kuper, ‘The Myth of Green Growth’, Financial Times, 24 October 2019; Alyssa Battistoni and Jedediah Britton-Purdy, ‘After Carbon Democracy’, Dissent, Winter 2020.
  10. 10. ‘Half of world’s democracies in decline, intergovernmental watchdog says’, Reuters, 30 November 2022; Peter Mair, Ruling the Void: The Hollowing Out of Western Democracies, Verso, London and New York, 2013; Yascha Mounk and Roberto Foa, ‘The Danger of Deconsolidation: The Democratic Disconnect’, Journal of Democracy 27: 3 (July 2016), pp. 5–17.
  11. 11. Prashant Jha, ‘PM Modi slams US media’s question on Muslim rights in India, says “democracy in our blood”’, Hindustan Times, 23 June 2023; Brett Samuels, ‘Trump: “I don’t consider us to have much of a democracy right now”’, Hill, 17 September 2023; Elaine Ganley, ‘Far-right Le Pen campaigns as French “voice of the people”’, Associated Press, 12 April 2022; Dahlia Scheindlin, ‘Even if the Ceasefire Holds, the Far-Right Will Dominate Israel’s Future’, Time, 21 May 2021; David Adler, ‘Centrists Are the Most Hostile to Democracy, Not Extremists’, New York Times, 23 May 2018.
  12. 12. Riley, Civic Foundations of Fascism, p. 2.
  13. 13. Nikhil Pal Singh, ‘The Afterlives of Fascism’, in Race and America’s Long War, University of California Press, Berkley, 2017; Michael Mann, The Dark Side of Democracy: Explaining Ethnic Cleansing, Cambridge University Press, Cambridge and New York, 2005; Martin Shaw, War and Genocide, Polity Press, Cambridge, 2003, pp. 23–6; Michael Mann, Incoherent Empire, Verso, London and New York, 2003, p. 138; Nick Turse, ‘The Secret Air War in Iraq’, Nation, 24 May 2007; Mark Benjamin, ‘When is an accidental civilian death not an accident?’, Salon, 30 July 2007; Heather Sharp, ‘Gaza conflict: Who is a civilian?’, BBC News, 5 January 2009; Jo Becker and Scott Shane, ‘Secret “Kill List” Proves a Test of Obama’s Principles and Will’, New York Times, 29 May 2012.
  14. 14. Chetan Bhatt, ‘White Extinction: Metaphysical Elements of Contemporary Western Fascism’, Theory, Culture and Society 38: 1, pp. 1–26; xem cả Harrison Fluss and Landon Frim, ‘Behemoth and Leviathan: The Fascist Bestiary of the Alt-Right’, Salvage, 21 December 2017 về những ám ảnh siêu hình của chủ nghĩa dân tộc đa nguyên Duginite và chủ nghĩa gia tốc Landian; và Thomas Sheehan, ‘Myth and Violence: The Fascism of Julius Evola and Alain de Benoist’, Social Research: On Violence: Paradoxes and Antinomies 48: 1 (1981), pp. 45–73.
  15. 15. Về những sự liên tục giữa Luxemburg và Arendt, xem Philip Spencer, ‘From Rosa Luxemburg to Hannah Arendt: Socialism, Barbarism and the Extermination Camps’, The European Legacy: Towards New Paradigms, 11: 5 (2006), pp. 527–40; Enzo Traverso, Left-Wing Melancholia: Marxism, History, and Memory, Columbia University Press, New York, 2016, pp. 155–6.
  16. 16. Rosa Luxemburg, ‘Speech to the Hanover Congress (1899)’, trong Dick Howard, ed., Selected Political Writings Rosa Luxemburg, Monthly Review Press, 1971, được sao chép lại tại org; Rosa Luxemburg, Reform or Revolution, Militant Publications, London, 1986 [1900], chapter 1, được sao chép lại tại marxists.org; Rosa Luxemburg, The Accumulation of Capital, Yale University Press, New Haven, 1951; Rosa Luxemburg, The Accumulation of Capital: An Anti-Critique, chapter 1, trong Kenneth J. Tarbuck, ed., Rosa Luxemburg and Nikolai Bukharin: Imperialism and the Accumulation of Capital, Allen Lane/The Penguin Press, London, 1972, pp. 45–150, được sao chép lại tại marxists.org; Rosa Luxemburg, The Junius Pamphlet: The Crisis of German Social Democracy, 1915, chapter 1, được sao chép lại tại marxists.org; cho một bình luận hữu ích, dù phê phán về chủ nghĩa tai họa chính trị-kinh tế của Luxemburg, xem Stephen Rousseas, ‘Rosa Luxemburg and the Origins of Capitalist Catastrophe Theory’, Journal of Post Keynesian Economics 1: 4 (1979), pp. 3–23; về quan niệm của bà về lịch sử, xem F. Menozzi, ‘Think Another Time: Rosa Luxemburg and the Concept of History’, New Formations: A Journal of Culture, Theory, Politics, 94 (2018): pp. 7–22; về thuyết không thể tránh khỏi của bà, xem Norman Geras, The Legacy of Rosa Luxemburg, Verso, London and New York, 2015, chapter 1.
  17. 17. Rosa Luxemburg, ‘Order Prevails in Berlin (January 1919)’, được sao chép lại tại org.
  18. 18. David Harvey, The New Imperialism, Oxford University Press, Oxford and New York, 2005, p. 92.
  19. 19. Karl Marx, ‘A Contribution to the Critique of Hegel’s Philosophy of Right’, trong Early Writings, Penguin, New York, 1992, p. 243.
  20. 20. Tad DeLay, ‘What Does the Populist Want?: Shame and the Proud Boys’, talk published on the author’s now-defunct Patreon.
  21. 21. Karl Marx and Friedrich Engels, The German Ideology, 1845, sẵn có tại Marx Engels Internet Archive 1994, org; Karl Marx, Grundrisse: Foundations for the Critique of Political Economy, Penguin, New York, 1993, p. 309; Friedrich Engels, Ludwig Feuerbach and the End of Classical German Philosophy, 1886, sẵn có tại Marx Engels Internet Archive 1994, marxists.org.
  22. 22. Friedrich Engels, Ludwig Feuerbach and the End of Classical German Philosophy, 1886, sẵn có tại Marx Engels Internet Archive 1994, org.
  23. 23. Karl Marx, ‘The Economic and Philosophic Manuscripts of 1844’, trong Early Writings, Penguin, New York, 1992, pp. 351 và 355; Karl Marx, ‘The Poverty of Philosophy (1847)’, trong Marx and Engels, Collected Works, vol. 6, Progress Publishers, London, 1975, pp. 210–11; Mike Davis, Old Gods, New Enigmas: Marx’s Lost Theory, Verso, London and New York, 2018, p. 33; thật rõ ràng, toàn bộ dòng tư tưởng này được thúc đẩy bởi Agnes Heller, The Theory of Need in Marx, Allison and Busby, London, 1974.
  24. 24. Christoph Arndt and Line Rennwald, ‘Union members at the polls in diverse trade union landscapes’, European Journal of Political Research 55: 4 (2016); N. Mosimann, L. Rennwald, and A. Zimmermann, ‘The radical right, the labour movement and the competition for the workers’ vote’, Economic and Industrial Democracy 40: 1 (2019): pp. 65–90; Kim Gabbitas, ‘Trade Union Trade-Offs: Unions, Voters, and the Rise of Right-Wing Populism’, Claremont-UC Undergraduate Research Conference on the European Union, article 8, 2017; Helena Vieira, ‘Workers in smaller companies are more likely to vote conservative’, LSE Blogs, 25 July 2017; Susi Meret and Andreas Beyer Gregersen, ‘Trade Unions and Right-Wing Populism in Europe: Country Study, Denmark’, Friedrich-Ebert-Stiftung, Berlin, January 2023; Richard Stöss, ‘Trade Unions and Right-Wing Extremism in Europe: Country Study, Germany,’ Friedrich-Ebert-Stiftung, Berlin, 2017.
  25. 25. Sigmund Freud, Mass Psychology: And Other Writings, Penguin, New York, 2004, Kindle loc. 254; Vivian Gornick, The Romance of American Communism, Verso, London and New York, 2020, Kindle loc. 2287.
  26. 26. Mark Fisher, ‘All of This Is Temporary’, talk at Rich Mix, London, 23 February 2016, com; Mark Fisher, Capitalist Realism: Is There No Alternative?, Zero Books, Ropley, 2009, p. 5; Rajeev Syal, ‘Suella Braverman claims “hurricane” of mass migration coming to UK’, Guardian, 3 October 2023.
  27. 27. Félix Guattari, ‘Everybody Wants to be a Fascist’, trong Chaosophy: Texts and Interviews, 1972-1977, Semiotexte, Los Angeles, 2007; Michel Foucault, ‘Preface’ trong Gilles Deleuze and Félix Guattari, Anti-Oedipus: Capitalism and Schizophrenia, University of Minnesota Press, Minneapolis, MN, 1983, p. 6.
  28. 28. Alf Lüdtke, ‘What Happened to the “Fiery Red Glow”?: Workers’ Experiences and German Fascism’, trong Lüdtke, ed., The History of Everyday Life: Reconstructing Historical Experiences and Ways of Life, Princeton University Press, Princeton, NJ, 1995.
  29. 29. David Rousset, The Other Kingdom, Reynal and Hitchcock, New York, 1947; David Rousset, L’Univers Concentrationnaire, Les Éditions Minuit, Paris, 2015.

Index

A

Abbas, Mahmoud, 180

Abu Ali Mustafa, các Lữ đoàn, 1623

Abu Ghraib, 136

The Accumulation of Capital (Luxemburg), 198

Act of Indemnity and Oblivion, 16

Action Française, 43

Adorno, Theodor, 1, 24, 118, 132

Afghanistan, 11, 88

Aguilera y Munro, Gonzalo de, 98

Al Qaida, 101

al-Aqsa, các Lữ đoàn Tử sĩ, 1623

Algeria, 173

Alian, Ghassan, 1578

Aliot, Louis, 36

al-Qaim, 136

al-Shifa, Bệnh viện, 165

Alternative für Deutschland (AfD), 67

Alvim, Robert, 191

‘Amalek’ bài phát biểu (Netanyahu), 184

Amazon Web Services, 73

Amazon, 74

American Legislative Exchange Council, 150

Ames, Mark, 39

Amnesty International, 138, 182

Amoss, Louis, 113

Ấn Độ, 2, 56, 911, 16, 23, 27, 31, 36, 457, 82, 934, 125, 128, 1389, 141, 182, 194, 200

Anand, Dibyesh, 79

Anglin, Andrew, 81

Anh Em Italy, đảng (Brothers of Italy), 7, 34

‘Antifa,’ 18, 545, 95

Áo xanh lam, hội người Trung quốc mặc (Lam Y Xã-Chinese Blue Shirts), 256

Apple, 74

Arendt, Hannah, 58, 169, 175, 198

Argentina, 27, 45

Armstrong, Karen, 62

Assam, Ấn Độ, 192

austerity policies in, 29

Australia, 17

Austria, 45, 131

Ayyub, Rana, 127

B

B’Tselem, 182

Ba Lan, 27, 34, 601, 93

Babbitt, Ashli, 90

Bagga, Tajinder Singh, 102

Bagram, 136

Bajrang Dal, 82

băng đảng ăn mặc chỉnh tề, các, (grooming gangs) 121

Băng nhóm đi xe máy, 8

Bangladeshi Muslims, 192

Baniya, Bijoy, 192

Bannon, Steve, 31, 35, 100, 107, 1478, 153

bạo lực chính trị, sự trỗi dậy của, 5

bạo lực đạo đức (moral violence), 50

bạo lực phân tán, 133

bạo lực quần chúng, (mass violence), 2

bạo lực thượng đẳng, 5

Barak, Ehud, 179

Barghouti, Mustafa, 186

Barkun, Michael, 51

Barrès, Maurice, 43

Barroso, Gustavo, 94

Barruel, Abbé, Mémoire pour servietterr à l’histoire du jacobinisme, 63

Barthes, Roland, 65, 106

Bartov, Omer, 161, 184

Bass, Alan, 78

bất bình đẳng, 56

Baudrillard, Jean, 678

‘bè đảng (cabal),’ 95

Beam, Louis, 11213

Beck, Glenn, 149

Beck, Richard, We Believe children: A Moral Panic in the 1980s, 83

Begin, Menachem, 176, 178

Beierle, Scott, 88

Beinart, Peter, 177

Beiteinu, Yisrael, 182

Belew, Kathleen, 112

Bello, Walden, 145

Ben-Ami, Shlomo, 179

Ben-Givir, Itamar, 167, 177, 182, 186

Ben-Gurion, David, 170, 173, 176

bệnh thần kinh ám ảnh (obsessional neurosis), Freud về, 119

Benjamin, Walter, 198

Bennett, Naftali, 161, 1812

Benoist, Alain de, 195

Bergamin, Peter, 175

Berlin, 166

Bertho, Alain, 5, 39

Bevins, Vincent, 95

Bharatiya Janata Party (Đảng BJP), 4, 10, 82, 1012, 1257, 136, 137, 140, 142, 153

Bhatt, Chetan, 91, 197

Bhushan, Prashant, 102

Biden, Joseph, 92, 153, 1656

Billig, Michael, 16, 512

Bismarck, Otto von, 11

Bissonnette, Alexandre, 109

Black Hundreds, 1301

Black Lives Matter, 1011, 18, 55, 57, 92, 146, 149, 1512

Black, Don, 112, 114

Blair, Tony, 136

Blanchot, Maurice, 25

Blinken, Anthony, 165

Bloch, Ernst, 24

Blood Sacrifice and the Nation: Totem Rituals and the American Flag (Marvin and Ingle), 14

Blüher, Hans, 901

Bộ Ngoại giao Mỹ, 165, 1867

Bộ Nội An Mỹ, 151, 152

Bờ Tây, 142, 1634, 181, 183

Bộ Tư pháp Mỹ, 153

Bodin, Jean, 30

Bolsa Família, 40

Bolshevism, 98, 1323

Bolsonaro, Jair, 2, 6, 7, 10, 23, 34, 36, 40, 42, 45, 47, 801, 83, 923, 99100, 129, 150

Bongino, Dan, 73

Borges, 116

Bowers, Robert, 73

Bown, Alfie, The Playstation Dreamworld, 115

Boycott, Divestment and Sanctions (BDS), 174

Bradford, England, 120

Brass, Paul, 127

Braudel, Fernand, 9

Braverman, Suella, 165, 2056

Brazil, 6, 911, 23, 27, 31, 36, 45, 89, 925, 101, 1289, 1412, 182, 191

Breivik, Anders Behring, 1314, 91, 10910, 11316, 122, 194

Brexit, 6, 278, 31, 1213

Brexit, 6, 278, 31, 45, 1213

Brietbart, 73

Briggs, Robin, 30

British National Party (BNP-Đảng Dân tộc Anh), 5, 116, 1201

Brown, John, 57

Brown, Wendy, 41

Buber, Martin, 175

Buchanan, Pat, 4

Buffalo Creek, Tây Virginia, 489, 50

Bush, George W., 323, 127, 136, 148

C

Cabinete do Ódio (Office of Hate), 1001

cách ly xã hội, 14950

Cách mạng công nghiệp, 9

Cách mạng Nga, 96

cách mạng xã hội chủ nghĩa, ở Nga, 43

Cải cách trí bổng, các cuộc đình công chống lại ~ ở Pháp, 200

Callison, William, 66

Camus, Renaud, 195

Cantle, Báo cáo, 120

Cardoso dos Santos, Beneditor, 129

Carlson, Tucker, 88, 152

Carswell, Douglas, 122

Carvalho, Olavo de, 100

Carville, James, 4

Casement, Roger, 17

Centola, Damon, 13, 114

Certeau, Michel de, 57

Césaire, Aimé, Discourse on Colonialism, 188

Chad, các nhà dân tộc chủ nghĩa, 856

Chaturvedi, Swati, 101

cháy rừng, các vụ, 8, 52, 54, 56

chế độ toàn trị, 656

chia tách de jure, sự, 38

chiến dịch ‘Vote Leave’ (bỏ phiếu rời EU), 122

Chiến dịch Cạnh Phòng vệ (Operation Protective Edge), 159, 181

Chiến dịch Đúc Chì(Operation Cast Lead -2008-2009), 130, 159, 181

Chiến dịch Lá chắn Phòng vệ (Operation Defensive Shield), 180

Chiến dịch Lũ al-Aqsa (Operation al-Aqsa Flood), 164

Chiến dịch Trụ cột Mây/Phòng thủ (Operation Pillar of Cloud/Operation Pillar of Defence), 159, 181

chiến lược trả thù lan vào, 108

chiến tranh mạng, (cyberwar), 10023

chiến tranh ở Ukraine, 156

Chiến tranh Sáu Ngày (1967), 162, 173

Chiến tranh thế giới thứ Hai, 158

chiến tranh thoái hóa, 197

Chiến tranh thông tin, 73

chiến tranh ủy nhiệm của Hoa Kỳ, 98

Chile, sự bùng nổ của chủ nghĩa dân tộc tai họa ở, 27

chính sách khắc khổ, ở Vương quốc Anh, 29

Chính thể chuyên chế Pháp (French absolutism), 16

chính trị tội giết người, 1289

Chitty, Christopher, 80

chống-chủ nghĩa cộng sản, 934, 97

chống-phong tỏa, các cuộc biểu tình, ở Đức, 66

‘chống-woke’ chủ nghĩa dân tộc, 21

Chowdhury, Debashish Roy, 192

Chu kỳ, các (cycles), 9

chủ nghĩa bãi nô (abolitionism), 197

chủ nghĩa bán-quân sự, 1301

chủ nghĩa Bolshevik-Do thái, 95

Chủ nghĩa cộng sản-Môi trường, 194

chủ nghĩa dân tộc đương thời, 801

chủ nghĩa dân tộc giết người, 12454

chủ nghĩa dân tộc mới phất (upstart), 80

chủ nghĩa dân tộc phản động, 3940

chủ nghĩa dân tộc phẫn uất, 40

chủ nghĩa dân tộc tai họa, 4, 11, 13, 18, 214, 27, 31, 357, 42, 45, 47, 70, 77, 79, 98, 128, 133, 191, 194, 197, 199200, 208

chủ nghĩa dân tộc, 1517, 37

chủ nghĩa dân túy kinh tế, 47, 145

chủ nghĩa Darwin Xã hội, 20, 43

chủ nghĩa đế quốc cơ bắp (vạm vỡ), 47, 139

chủ nghĩa đế quốc, 47

chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, proximity of, 97

chủ nghĩa Marx văn hóa, 95, 206

chủ nghĩa Marx, xem, Marxism

chủ nghĩa phát xít hóa thạch, 194

chủ nghĩa phát xít lịch sử, 70

chủ nghĩa phát xít mới, 901

chủ nghĩa phát xít, 1012, 235, 512, 70, 98, 121, 1313, 1912, 200, 206

chủ nghĩa phát xít-sinh thái, 194, 201

chủ nghĩa Stalin, 60

chủ nghĩa tân tự do đang phân hủy, 119

chủ nghĩa tân tự do, 1920, 401, 45

Chủ nghĩa thực dân Pháp, 173

chủ nghĩa tự do hư vô (nihiliberalism), 41

chủ nghĩa xã hội dân tộc, 43

Churchill, Winston, 96

chuyện hoang đường ‘kẻ săn mồi phòng tắm’, 62

chuyện hoang đường phân biệt chủng tộc (racist myths), 62

Civilization and Its Discontents (Freud), 15, 100

Claremont, Viện, 149

Clarke, Michael, 164

Clinton, Hillary, 26, 55, 152, 185

Cloudflare, 734

Cloward, Richard, 33

Cobb, Jonathan, 38

Coetzee, J. M., 119

Cohen, Kế hoạch, 945

Cohn, Norman, 64

Colombia, sự bùng nổ của chủ nghĩa dân tộc tai họa ở, 27

con người xã hội, 202

Concerned Citizens Tribunal, 124, 126

Confédération générale de travail (CGT), 43

Cộng hòa Liên bang Đức, 2

cộng sản-bí mật, bọn (crypto-communists), 956

Công ước Diệt chủng, 183, 185

Connolly, William, 22

Contribution to critique of Hegel’s Philosophy of Right (Marx), 201

Contribution to critique of Political Economy (Marx), 202

Conversation, The, 64

Copeland, David, 116, 120

Corbyn, Jeremy, 93

Corradini, Enrico, 43

Coulter, Ann, 152

Covid-19, đại dịch, 78, 19, 23, 534, 56, 64, 701, 142, 146, 14950, 207

Cox, Jo, 110, 118, 123

Croatia, 131

Cronjé, Geoffrey, 118

Crusius, Patrick, 1945

Cruz, Nikolas, 88, 109

Cruz, Ted, 149

Csurka, István, 61

cử tri da trắng, các, 33

cuộc tấn công, các, lên những người Á châu, 120

Cứu trẻ em, tổ chức, 756, 83, 160

Cyberwar and Revolution (Dyer-Witherford and Matviyenko), 100

D

D’Annunzio, Gabrielle, 80

Daemonologie, 30

‘Dahiya, học thuyết,’ 15960, 181

Daladier, Édouard, 94

Dallagnol, Deltan, 92

Dan Tamir, các tư liệu, 175

Danielson, Aaron, 152

Danon, Danny, 183

Daughters of the American Revolution, 96

The Da Vinci Code, 64

Davidson, Jake, 88

Davies, William, 201

Davis, Mike, 204

Dayan, Moshe, 173, 176

Dân chủ impeachment efforts, 149

dân phòng có vũ trang, 8

de Waal, Alex, 160

‘The Decolonization of Myself’ (Mannoni), 100

DeLay, Tad, 22, 60, 202

Deleuze, Gilles, 12, 107, 1323, 191

Delhi, cuộc tàn sát, 141, 146

‘Demo für Alle’ các cuộc biểu tình (Đức), 83

Deneen, Patrick, 149

Denial (Từ chối, thơ), 124

DeSanctis, Alexandra, 150

DeSantis, Ron, 70

Desmet, Mattias, 71

Devi, Savitri, 195

Dialectic of Enlightenment (Horkheimer and Adorno), 1

Diaz, Tracy, 72

‘dịch nâu, bệnh (brown plague),’ 12, 25

Die Linke, 66

diễn đàn chơi game, 114

Diễn đàn Dân chủ Hungari, 61

diệt chủng Rwanda, 187

diệt chủng, 15589

Discourse on Colonialism (Césaire), 188

Dollfuss, chế độ độc tài, ở Austria, 45

Dòng Đền (Order of Templars), 63

Donoghue, Joan, 185

Donovan, Jack, 901

Doppelganger (Klein), 207

Douhet, Giulio, 1589

Drake Enterprises, 35

Dresden, 158

drone, 163

Du Bois, W. E. B., 17

Duda, Andrzej, 90

Duke, David, 112

Durkheim, Émile, 114

Duterte, Rodrigo, 6, 10, 34, 42, 45, 80, 94, 1001, 1035, 1426

Dyer-Witherford, Nick, 100, 1078

Đ

Đại học Oxford, 103

Đại học Philippines, 143

Đại Israel, 174

Đại Suy thoái, 9, 19, 23, 34, 53, 56

Đảng Bảo thủ (UK), 6

Đảng Cộng hòa, 8

Đảng Công nhân (Workers’ Party), 92, 129

Đảng Công nhân Cộng sản, 112

Đảng Công nhân Đức, 44

Đảng Công nhân Truyền thống (Traditionalist Worker Party), 1467

Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Quốc gia Đức, 44

Đảng Cộng sản Trung quốc, 142

Đảng Cộng sản, 945

Đảng Độc Lập Vương quốc Anh (UK Independence Party-UKIP), 31, 1212

Đảng Integralist, 945

Đăng ký Công dân Quốc gia (NRC), 140

Đảng Lao động Anh, 37

Đảng Luật và Công lý (Ba Lan), 34

Đảng Nhân dân Thụy Sĩ, 5

Đảng Quê hương Do thái (Jewish Home Party), 1812

Đảng Quốc Đại (Congress Party) (Ấn Độ), 24

đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress), 82, 94, 138, 142

Đảng Quyền lực Do thái (Jewish Power Party), 130

Đảng Tôn giáo Dân tộc, 182

Đảng Tự do (Freedom Party), 5

Đảng vì Tự do, 7

đảng Xanh (Greens), 66

Đảng Zionist Tôn giáo, 130

đam mê (passion), Marx nói về, 29

Đạo Kitô (Christendom), 30, 41

Đạo luật Nổi loạn (Sedition Act 1918), 96

Đạo luật Sửa đổi Tư cách công dân (Citizenship Amendment Act-CAA), 140

Đạo tin lành (Protestantism) Pháp, 16

Đệ tam Đế chế, 81, 82, 1335, 158

đình công than đá, 43

đình lạm, sự (stagflation), ở Israel, 177

đội tử thần Davao, các, (Davao Death Squads-DDS), 143

Đức, 46, 66, 1312

E

Easthorpe, Lucy, 51

Eban, Abba, 176

Eco, Umberto, 109

The Economic and Philosophic Manuscripts (Marx), 203

Economist, 139

Ehrenreich, Barbara, 125

Eiland, Giora, 157

Einstein, Albert, 175

Emunim, Gush, 1746

Engels, Friedrich, 203

Engler, Sarah, 39

Erikson, Kai T., 4850

Estado Novo, chế độ độc tài, 945

Ethiopia, 21, 182

ethno-masochism, khổ dâm-sắc tộc 89

EU (European Union-Liên Âu), 6, 45, 122, 185

Everything in Its Path: Destruction of Community in the Buffalo Creek Flood, 48

Evola, Julius, 21

F

Facebook, 57, 68, 73, 74, 104, 140, 166

Falange, 131

Fallujah, 136

Fanon, Frantz, 15, 118

Farage, Nigel, 31, 1213

FARC, nhóm, 90

Fauci, Anthony, 70

Faye, Guillaume, 89

FBIAnon, 72

Federici, Silvia, 30

Feiglin, Moshe, 157

Fentanyl, khủng hoảng nghiện, 53

Festinger, Leon, When Prophecy Fails, 75

Finchelstein, Federico, 70

First Things, 150

Fisher, Mark, 41, 205

Flisfeder, Matthew, 106

Floyd, George, 8, 55, 151

Flynn, Michael, 1478

Ford, 35

Foreman, Dave, 195

Fortuyn, Pim, 5

Forza Italia, 7

Foucault, Michel, 81, 206

Fox News, 59, 149

Fox, Dominic, 1920

Fox, Stefanie, 161

Franco, Francisco, 98

Franco, Marielle, 129

FreedomWorks, 150

Freemasons, 63

Freikorps, 945, 125

Freud, Sigmund, 1516, 22, 37, 65, 76, 85, 88, 100, 119, 205

Freudians, những người theo Freud, 117

Friberg, Daniel, 89

Friedman, Benjamin, The Moral Consequences of Tăng trưởng kinh tế, 4

Fromm, Erich, 15

Furber, Paul, 72

G

Gab, 89

Gabunada, Nic, 1034

Gallant, Yoav, 155, 157, 186

Gandesha, Samir, 11

Gandhi, Rahul, 138

Gandhi, Sonia, 138

Gates, Bill, 645

Gauri Lankesh Patrike, 102

gây hấn, tiêu điểm tâm lý học của Freud về sự, 15

Gaza, 21, 15589

Gellately, Robert, 134

Gendron, Payton, 109, 1945

General Motors, 35

Geneva, Công ước, 1656

Genocide Watch (Theo dõi Diệt chủng), 141

Gestapo, 134

Ghrálaigh, Nlinne Ní, 184

giai cấp lao động da trắng, 32, 34, 36

giai cấp lao động in, 32

giai cấp lao động, 2747

giảm phát ý thức (consciousness deflation), 205

Gikan sa Masa, Para sa Masa (Từ Quẩn chúng, đến Quần chúng) chương trình TV, 143

Glasman, Lord, 37

globohomo; Chương trình nghị sự Đồng tính-Toàn cầu, 88

Goebbels, Joseph, 106, 1323, 191

Gold, Ian, Suspicious Minds, 117

Gold, Joal, Suspicious Minds, 117

Goldstein, Baruch, 177

Google, 74

Gordon, Arthur, 17

Gornick, Vivian, 205

Goswami, Arnab, 103

Gotliv, Tally, 157

Graham, Lindsey, 92

Gramsci, Antonio, 9

Grapes of Wrath (Steinbeck), 49

Greensboro, vụ Tàn sát năm 1979, 112

Griffin, Roger, 1912

Grindeanu, Sorin, 61

Grunberg, Richard, 135

Grundrisse (Marx), 203

Guantanamo, 136

Guardian, 119, 159

Guattari, Félix, 12, 105, 107, 1323, 191, 206

Guérin, Daniel, 12

Gujarat, mô hình, 22, 456, 1245, 1359, 141, 143

H

Ha’aretz, 164

Habsora system (hệ thống Phúc Âm) , 15960

Haditha, 136

Haeckel, Ernst, 195

Haider, Jörg, 5

Haley, Nikki, 166

Hamm, Mark, 108, 115, 117

Hanebrink, Paul, 96

Hardin, Garrett, 195

Hardwig, John, 69

Harris, Kamala, 7

Harris, Sam, 91

Hartleb, Florian, 116

Harvey, David, 199

hashtag #ArrestMariaRessa, 105

hashtag #birthergate, 107

hashtag #gamergate, 107

hashtag #pizzagate, 59

hashtag #StoptheSteal, 74, 191

hashtag #WWG1WGA (where we go one, we go all), 73

‘hệ thống náo loạn được thể chế hóa,’ 127

Hebdo, Charlie, 121

Heimwehr, 131

Hendrix, Steve, 156

Herbert, George, 124

Hernandez, Armando, Jr., 88

Herzl, Theodor, 170

Herzog, Dagmar, 81

Herzog, Isaac, 157, 174

Hess, Scott, 146

Heyer, Heather, 148, 151

Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), 45

Himmler, Heinrich, 82

Hindu, người Assam theo đạo, 192

Hindu, phong trào dân tộc chủ nghĩa, 23

Hindutva, chế độ, 139

hiraeth, từ tiếng Welsh: khao khát nơi không có đường về, 51

Hirschhorn, Sara Yael, 175, 177

Hirschmann, Albert O., 28

Hitchens, Christopher, 91, 97

Hitler, Adolf, 1, 1112, 44, 81, 106, 134

Hitler, Đoàn Thanh niên, 134

HLIAnon, 72

‘Hoa Hồng Trắng’ (‘The White Rose’), 63

Hoa Kỳ; chống-chủ nghĩa cộng sản ở, 934; chính quyền Biden ở, 165; Kitô giáo ở, 1516; bạo lực tập thể ở, 128, 130; đại dịch Covid-19 ở, 78, 150; các chiến thuật chiến tranh mạng ở, 108; sức mạnh giảm ở, 11; sự bùng nổ của chủ nghĩa dân tộc tai họa ở, 27; diệt chủng và ~, 187; chính phủ dân tộc chủ nghĩa ở, 9, 1412; Netanyahu và~, 182; dân số ở, 10; chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc ở, 56; tình trạng nô lệ ở, 17; Tòa án Tối cao hủy bỏ các quyền phá thai ở, 201; những người ủng hộ Trump ở, 204; các cử tri của Trump  ở, 33; giai cấp lao động da trắng ở, 32

Höcke, Björn, 195

Hội bệnh Tâm thần Thế giới (World Psychiatric Association), 19

Hội đồng An ninh Quốc gia, 1478

Hội đồng Quan hệ Lao động Quốc gia, 35

Hội nghị Hành động chính trị Bảo thủ (CPAC), 149

Hội Tam Điểm, xem Freemasons

Holmes, Richard, 159

Holocaust, (diệt chủng Do thái ở châu Âu từ 1941-1945) 71, 745, 161, 167, 187

Hook, Derek, 118

Hoover, J, Edgar, 96

Hopkins, Matthew, 30

Hoque, Moinul, 192

Horkheimer, Max, Dialectic of Enlightenment, 1

Horthy, Miklós, 45, 61

Hotovely, Đại sứ, 185

House Un-American Activities Committee (HUAC), 96

Houthi, phong trào, 166

Huguenots, những người Pháp theo đạo Tin lành bị săn đuổi, 16

Human Rights Watch, 144, 182

Hume, Brit, 149

Hungary, 6, 27, 34, 36, 44, 601, 89, 934, 141, 174, 182

Huwara, làng, 130

Huynh Đệ Muslim Ai Cập, 17980

Hy Lạp, 16, 130

I

ICJ, xem, International Court of Justice

Icke, David, 64

ILO, xem, International Labor Organisation

IMF, xem, International Monetary Fund

incel, các (người độc thân không tình nguyện),  857

Ingle, David, Blood Sacrifice and nation: Totem Rituals and the American Flag, 14

Integralism (Thuyết Toàn diện), 23

Integralismo Brazil, 256

International Court of Justice (Tòa án Công lý Quốc tế-ICJ), 165, 183, 185, 187

International Criminal Court, Tòa án Hình sự Quốc tế, 145, 155

International Institute for Democracy and Electoral Assistance, 1956

International Labor Organisation, Tổ chức Lao động Quốc tế, 39

International Monetary Fund, IMF, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, 60

Inter-Services Intelligence (ISI-Tình báo Liên quân của Pakistan), 126

Intifada thứ Hai, 17980

Intifada thứ Nhất, 178

The Investors Chronicle, 139

Iraq, 5, 11, 136

Islam hóa châu Âu, 93

Israel, 2, 1589, 1613, 1658, 172, 174, 1778, 1826

Italy, 7, 27, 46, 131

J

Jabotinsky, Ze’ev, 16970

Jahan, Ishrat, 138

James I, King, 301

James, Oliver, 20

Jameson, Fredric, 64

Jaruzelski, Wojciech, 601

Jenks, Jorian, 195

Jihad Islamic, 1623

Johns Hopkins Center for Humanitarian Health (Trung tâm Johns Hopkins vì Sức khỏe con Người), 1601

Joint Operations Room of Resistance Factions, (Phòng Chiến dịch Chung của các Phái Kháng chiến) 162

Jones, Alex, 745

Juvin, Hervé, 195

K

Kádár, János, 601

Kahane, Meir, 1767

kairos, 8

Kallis, Aristotle, 132

Kallner, Ariel, 157

Kashmir, 6, 21

Katz, Israel, 157, 185

Kaur, Ravinder, 46, 138

Kavanaugh, Brett, 61, 149

‘Kế hoạch Dalet,’ 171

Keller, Catherine, 25

Keller, Helen, 68

kênh ‘72 Virgins’, 160

Kenosha, Wisconsin, 31, 1512

Kerala, mô hình, 1356

Kershaw, Ian, 134

Khai sáng (Enlightenment), 71

Khảo sát Kiểm tra Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia, 87

Khảo sát Quốc gia về sự Tăng trưởng Gia đình, 87

Khảo sát Xã hội Tổng quát (General Social Survey), 87

khí hậu (climate), 191208

khoảng cách giàu có chủng tộc (racial wealth gap), 34

không khí chính trị (political climate), 201

khủng hoảng của chủ nghĩa đế quốc, 206

khủng hoảng tị nạn, 193

kinh tế chính trị cựu hữu, 135

Kirby, John, 186

Kitô giáo, 1516, 45, 545, 63

Klages, Ludwig, 195

Klein, Naomi, 65, 78, 207

Knopf, Terry Ann, 57

Kotsko, Adam, 41

Kovel, Joel, 67, 97

Kramer, Heinrich, 31

Kristallnacht (Đêm Thủy tinh, 1938), 1334

Ku Klux Klan, 112, 147

Kühne, Thomas, 135

Kulka, Otto Dov, 1334

Kulturkampf, 149

L

Lạm dụng Nghi lễ Satanic, 68, 834

lạm dụng nghi lễ, kiểm soát tâm trí và sự lạm dụng có tổ chức (ritual abuse, mind control and organised abuse – RAMCOA), 68

lạm dụng tình dục trẻ em (child sex abuse), 83

Lam-Y-Xã xem Áo xanh Lam

Lankesh, Gauri, 102

Lansing, Robert, 96

Lao động Mới (New Labour), 121

lây, sự (contagion), 1314, 31, 98

Le Bon, Gustave, 117

Le Pen, Marine, 7, 31, 34, 36, 45, 1946

Leader, Darian, 51

Lebanon, chiến tranh ở, 181

Lega Nord, (Liên đoàn phương Bắc, Italia) 6, 7

‘Leviathan or Oblivion?’ (Ophuls), 195

Levien, Max, 95

LGBT, các quyền, 90, 93

Lieberman, Avigdor, 182

Liên đoàn Phòng vệ Do thái (Jewish Defence League), 1767

liệt dương (erectile dysfunction), 88

Ligue des Patriotes (Liên đoàn những người Yêu nước), 43

Likud, Đảng, 157, 182

linchamento (lynching-hành hình), 101

The Light (tờ báo), 71

‘lỗ đen chống-chủ nghĩa cộng sản,’ 97

lời cáo buộc phù thủy, những, 301, 96, 1212

London School of Hygiene & Tropical Medicine (LSHTM), 1601

longue durée, 9

Luật Đất đai Israeli (1960), 175

Luật Trở về, 175

Luật Tư cách Công dân, 175

Lực lượng Phòng vệ (Israeli Defence Force-IDF), 156, 162, 164, 175

Lüdtke, Alf, 108, 207

Lula da Silva, Luis Inácio (Lula), 2, 923

Lusk, Ủy ban, 96

Luther King, Martin, Jr., 25, 96

Luxemburg, Rosa, 1989

lý thuyết hình thành đám đông (theory of mass formation), 71

lý thuyết về chế độ toàn trị, 63

lynchings-hành hình, 178

M

Macciocchi, Maria, 82

MacInnes, Gavin, 745

Macron, Emmanuel, 196

Magnes, Judah, 175

Mair, Peter, 196

Mair, Thomas, 11820, 1223

Maistre, Joseph de, 91

Malaya, Anh tấn công chống lại, 98

Male Fantasies (Thewelet), 79

Malm, Andreas, 192

Malviya, Amit, 102

Mamdani, Mahmoud, 187

Mandeville, Bernard, 28

Manila, 31, 143

Mann, Michael, 3, 43, 97, 131, 1967

Männerbünde, 901

Mannoni, Octave, 15, 100, 119

Marasco, Robyn, 90

Marcos, Bongbong, 6, 34, 105, 1434

Marcos, Ferdinand, 6

Marcuse, Herbert, 98

Marshall, T. H., 20

Marvin, Carolyn, Blood Sacrifice and nation: Totem Rituals and the American Flag, 14

Marx, Anthony, 16

Marx, Karl, 29, 188, 2014

Marxism, chủ nghĩa Marx, 44, 46, 7999, 1623

Marxist, Đảng, 198

Masjid, Babri, 126, 153

Mass Psychology and the Analysis of the ‘I’ (Freud), 205

Mặt trận Dân tộc (Front National), 5, 36

Mặt trận Dân tộc (National Front), 120

Mặt trận Giải phóng Dân tộc (FLN), 173, 187

Mặt trận Nhân dân cho Giải phóng Palestine (Popular Front for the Liberation of Palestine -PFLP), 1623, 173

Matar, Haggai, 164

Mateen, Omar, 111

Matviyenko, Svitlana, 100, 1078

máy chiến tranh, các, 10023

McAdam, Doug, 13

McCain, John, 323

McCargo, Duncan, 143

McCarthy, Cormac, Stella Maris, 50

McCarthy, Joseph, 95

Medill School of Journalism, 53

Meir, Golda, 168, 172

Mémoire pour servietterr à l’histoire du jacobinisme (Barruel), 63

Merton, Thomas, 51

Metzger, Tom, 113

Midgley, Mary, 62

Miéville, China, 78

Milei, Javier, 7, 45

Miller, Stephen, 148

Minassian, Alek, 88, 109

minh bạch, sự, của thực tế, 70

Minutemen militia, 96

Mirowski, Philip, 40

Mishra, Kapil, 140, 141

Mishra, Pankaj, 109

The Moral Consequences of Economic Growth (Friedman), 4

The Morals of the Market (Whyte), 41

mô hình Davao (Philippines), 456, 1434

mô hình Gujarat, xem, Gujarat, mô hình

Modi, Narendra, 6, 1011, 22, 24, 34, 36, 42, 457, 81, 1013, 1247, 135, 13743, 146, 150, 194, 196

Molyneux, Stefan, 745

Mondon, Aurelien, 367

Moro, Sérgio, 92

Mosse, George, 801

Mueller, điều tra, 149

Musk, Elon, 1823

Muslims, 6, 125

Mussolini, Benito, 21, 46

Mỹ Latin, 45

Myanmar, diệt chủng, 183

N

N.T. Technology, 73

Nakba, 157, 162, 1712

Nam Phi, 1836

Namibia, 188

Nanavati-Mehta, Ủy ban, 137

nâng cao, sự, (upliftment), 46

náo loạn cộng đồng, ở Ấn Độ, 139

náo loạn tôn giáo, ở Ấn Độ, 139

Nasser, Gamal Abdel, 1723

National Review, 150

Navarro, Peter, 35

Navon, Tzipi, 157

Naxal đô thị, các, 94

Naxals, 94

Nazi, Đảng, 44, 106, 112, 131, 1345

Nazi, tính dục, 81

nền tảng công nghiệp (mạng) xã hội, 57, 68, 1045, 166

Netanyahu, Benjamin, 61, 101, 157, 162, 168, 174, 176, 1812, 1845

Netanyahu, Sara, 157

Netanyahu, Yair, 61

New York Times, 14950, 183

‘New York, các quy tắc,’ 14950

Nextdoor, app., 57

Nga, 10, 17, 43, 61, 1078, 128, 1301, 156

Nghị quyết LHQ 242, 178

nghĩa dân tộc khiêu dâm, chống chủ nghĩa Marx, 7999

nguyên tắc thực tế, 678

nhà hành pháp gia sản (patrimonial executive), 148

nhà nước-quốc gia (nation-state), 1517

Nhà tâm lý học đám đông, các (crowd psychologists), 117

những người Dân chủ Xã hội, 67

Nixon, Richard, 33

Nội chiến Anh, 16

nội chiến Âu châu, 9

nổi dậy (insurrection), 2, 3, 153

Nổi loạn Tuyệt chủng (Extinction Rebellion), 197

Noonan, Peggy, 149

Northwestern University, 53

nữ tính độc hại, 59

Nuremberg, các Luật (1935), 1334

O

oán giận, sự, 2930

Oath Keepers, 153

Obama, Barack, 334, 92, 139, 148

Ocasio-Cortez, Alexandra, 92

Oedipality, 63

Oedipus, phức cảm, 118

Omar, Ilhan, 92, 101

Ophuls, William, ‘Leviathan or Oblivion?,’ 195

Orbán, Viktor, 45, 6, 36, 45, 61, 93, 174, 1823

Oregon, 8, 524, 56

Osborne, Darren, 109

Oslo, sự sụp đổ của thỏa thuận), 180

Østby, Gudrun, 6

P

PacifiCorp, 56

Pakistan, 16, 121, 126

Palestin Liberation Organisation (PLO-Tổ chức Giải phóng Palestin), 163, 173, 17880

Palestin National Initiative Sáng kiến Quốc gia Palestin), 186

Palestin, Đảng Cộng sản, 172

Palestin, Nhà chức trách, Chính quyền, 164, 180

Palestin, những người, 157, 1702, 1834, 187

Palestine bị Anh Ủy trị (British Mandate Palestine), 175

Palestine, 129, 167, 185

Palheta, Ugo, 133

Palin, Sarah, 191

Palmeter, Ryan, 109

The Parallax View, 64

Pappe, Ilan, 170, 172

Paris, Công xã, 98, 114

Parler, 734

participatory disinfotainment (sự cùng nhau tung thông tin giải trí giả), 71

Patrick, Dan, 149

Patriot Soapbox, 73

Paulsen, Ronnelle, 13

Paxton, Robert O., 147, 1778, 191

PayPal, 74

PDP-Laban, 6

Pedahzur, Ami, 1745

Pembroke College, 61

Pence, Mike, 37

Peruvian Amazon Company, 17

Peterson, Jordan, 85

Petö, Andrea, 89

Pettman, Dominic, 106

Pfeffer, Jeffrey, 38

Pháo đài châu Âu, 194

Pháp lệnh Cải Đạo Bất hợp pháp (Unlawful Religious Conversion Ordinance), 82

Pháp, 7, 10, 27, 36, 434, 136, 166, 200

phát xít hóa, 174

Philippines, 6, 911, 27, 42, 457, 934, 103, 128, 142, 144

Phillips, Adam, 58

Phillips, Whitney, 107

Phòng Chiến dịch Chung của các Phái Kháng chiến, xem, Joint Operations Room of Resistance Factions

Phòng Thương mại Sioux Falls, 55

phòng tra tấn, các, 136

phong trào ‘Kháng cự Lớn’, 96

phong trào các quyền dân sự, sự đàn áp ~, 96

phong trào Kahanist, 23, 182

Phong trào Năm Sao (Five Star Movement), 6

phong trào phát xít giữa hai cuộc chiến tranh, 46, 70

Phong trào Phát xít Italia, 434

Phục hồi Anh (English Restoration), 16

Phương Bắc toàn cầu, 45

Phương Nam toàn cầu, 44

Pick, Daniel, The Pursuit of Nazi Mind, 118

Pieronek, Tadeusz, 90

Pinochet, Augusto, 45, 139

Piven, Francis Fox, 33

The Playstation Dreamworld (Bown), 115

Pomerantsev, Peter, 103

Popper, Karl, 601

Poulantzas, Nicos, 46

The Poverty of Philosophy (Marx), 204

Powell, Enoch, 118, 204

Presley, Ayanna, 92

Prigozhin, Yevgeny, 2

Proofs of a conspiracy against all the religions and governments of Europe, carried on in the secret meetings of Free Masons, Illuminati and Reading Societies (Robison), 63

The Protocols of the Elders of Zion, 63, 96

Proud Boys, 89, 14850, 1523

Pulido, Laura, 56

The Pursuit of the Mazi Mind (Pick), 118

Putin, Vladimir, 2, 61

Puttnam, Robert, 10

Q

QAnon, 5, 52, 55, 667, 727, 834, 115, 1489, 191

quản lý Darwinist, sự, 45

Querdenken, phong trào, 657

quốc gia có thương hiệu (branded nation), 46

Quỹ Tiền tệ Quốc tế, xem, International Monetary Fund

Quỹ Xã hội Mở (OSF), 601

quyền của người chuyển giới, các (transgender rights), 59, 207

quyền lực da trắng, phong trào, tạp chí (white power movement), 112, 120

quyền phúc lợi, các, (welfare rights), 39

R

Rabin, Yitzhak, 178

Rae, Heather, 16

Rajiv Gandhi, Quỹ, 138

Ramadi, 136

Rankin, John, 96

Rappler (tạp chí), 105

Rashtriya Swayamsevak Sangh (RSS), 10, 23, 102, 126, 153

Rassemblement National, đảng Tập hợp Dân tộc (Pháp) 36

Reagan, Ronal, 33

‘Real Face of SECULARISM’ video, 102

Reay, Diane, 38

Red Army, 132

Reddit, 72

‘Reich thứ Tư,’ 63

Reich, Wilhelm, 15, 51, 90

Reichsbürger movement, 2

Reinoehl, Michael, 152

Reno, R. R., 150

Republic TV, 103

Ressa, Maria, 105

Riley, Dylan, 111, 148, 196

The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy (Stoddard), 79

Ritchie, David, 15

Rittenhouse, Kyle, 152

Rivera, José Antonio Primo de, 66

Robertson, Pat, 88

Robin, Corey, 18

Robinson, Tommy, 745

Robison, John, Proofs of a conspiracy against all the religions and governments of Europe, carried on in the secret meetings of Free Masons, Illuminati and Reading Societies, 63

Rochelle, Pierre Drieu de la, 66

Rodger, Elliot, 88, 115

Rogers, Coleman, 723

Rogin, Michael, 67

Romney, Mitt, 323

Roof, Dylann, 78, 109

Rosário, Maria do, 801

Rose, Jacqueline, 123, 169, 176

Rosenberg, Arthur, 1112

Rothberg, Roi, 173

Rousseff, Dilma, 92

Rousset, David, 208

Rubin, Shira, 130

Rubinstein, Amnon, 169

Rumania, 61, 89, 131, 182

RUSI think tank, 164

S

SA Patriot, 120

Said, Edward, 179, 187

Samarra, 136

Sarkar, Tanika, 125

Saull, Richard, 11, 130

Savarkar, V. D., 124

Sayer, Andrew, 29, 38

Sayigh, Rosemary, 171

Scheler, Max, 30

Schiff, Adam, 154

Schradie, Jen, 107

Schrecker, Ellen, 98

Segal, Raz, 161

Sennett, Richard, 38

Sharett, Moshe, 172

Sharon, Ariel, 127, 136, 17980

Shas, Đảng, 182

Shaw, Martin, 159, 197

Sheetrit, Meir, 159

Sherawat, Mallika, 127

Shin Bet, 187

Shindler, Colin, 1745

siêu thực tế (hyperreality), 68

Simmel, Ernst, 11516

Simonini, J. B., 63

Singh, Nickhil Pal, 196

Sisi, Tướng, 165

Skeggs, Beverley, 389

Skocpol, Theda, 10

Sky News, 186

Slobodian, Quinn, 45, 66

Smith, Adam, 28

Smith, Iain Duncan, 93

Smotrich, Bezalel, 130, 182

Sodini, George, 88

Sói Đơn độc giết người, 5, 10023, 177

Solnit, Rebecca, 48

Soros, George, 602

Spaaij, Ramon, 108, 115, 117

Spencer, Richard, 745, 147

Spengler, Oswald, 24

squadristi, 131

Starkey, David, 18, 118

Steinbeck, John, Grapes of Wrath, 49

Stella Maris (McCarthy), 50

Stellantis, 35

Stemple, Nathan, 35

Stephens, Brett, 14950

Sternhell, Zeev, 174, 177

Stickel, E. Gary, 83

Stoddard, Lothrop, The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy, 79

Stone, Dan, 193

Stormfront (Black), 114

Stormtroopers, 131

Stöss, Richard, 204

Sturm und Drang, 107

Sturmbteilung, 131

sức khỏe tâm thần, 54

Sudomo, Muhammad, 956

Suharto, 95

Sunak, Rishi, 186

Suspicious Minds (Gold and Gold), 117

Syria, 193

Syrkin, Nachman, 169

T

Tal Afar, 136

Talbot, Rohan, 155

Taliban, 89

8chan, 724, 110

tàn sát tại Tree of Life Synagogue (Giáo đường Do thái Cây Đời), cuộc, 73

tăng trưởng kinh tế, 4

Tarde, Gabriel, 12

Tarrant, Brenton, 89, 1945

Tate, Andrew, 68, 87, 201

Tây Ban Nha, 131

Taylor Greene, Marjorie, 55

Tea Party, phong trào, 5, 92, 97

Telegram, 667, 89, 160

thảm họa, các, 4878

thảm sát Ngày St Bartholomew, vụ, 16

trạm phát sóng 5G, các, 64

Thatcher, Margaret, 20

A Thousand Plateaus (Deleuze and Guattari), 191

Thewelett, Klaus, 79, 94

thế giới quan âm mưu (conspiracism) 512

Thế giới thứ Ba, 138

They Live, 64

Thiel, Peter, 23

“Top G,” 87

Thổ Nhĩ Kỳ, 16, 122

‘Thời đại Mới,’ 81

thủ dâm, 80

thuyết âm mưu, các, 58, 60, 64

 Tiếng nói Do thái vì Hòa bình (Jewish Voice for Peace), 161, 165

TikTok, 68, 166

Tilly, Charles, 133

Times, 96

tin cậy ủy thác, sự 70

tin cậy xã hội, sự, 69

tính di động hướng xuống, 40

tính dục (sexuality); Chitty nói về bá quyền tình dục, 80; tưởng tượng về sự khoái trá tình dục vô hạn, 87; tiêu điểm tâm lý học của Freud vào, 15; sự khiêu dâm của ác tính tình dục, 84; dục tính, 7999; dục tính như một vấn đề địa chính trị, 88; sự phấn khích tình dục, 812; giá trị thị trường tình dục, 85; thần học tình dục, 82

tính gia trắng (whiteness), 334

tình trạng nô lệ, ở Hoa Kỳ, 17

Tiwari, Ragini, 140

Tlaib, Rashida, 92

Tổ chức Lao động Quốc tế, xem, International Labor Organisation

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO-World Health Organisation, 19

Tòa án Công lý Quốc tế, xem, International Court of Justice

Tòa án Hình sự Quốc tế, xem, International Criminal Court

toàn cầu hóa tân tự do, 9

tôn sùng ‘vợ truyền thống’, sự, 90

tổn thương giai cấp (class injury), 39

Totem và Taboo (Freud), 85

‘Tragedy of commons’ (Hardin), 195

trạng thái xã hội, tri thức như một ~, 69

trào lưu chính thống thị trường tự do, 19

‘Trật tự Thế giới Mới,’ 63

Traverso, Enzo, 11, 198

tri thức khoa học, nghiên cứu về, 69

tri thức, như một trạng thái xã hội, 69

trò chơi hóa (gamification), 115

Trợ giúp Y tế cho những người Palestin, 155

Trolling màn khói, 107

Trotsky, Leon, 128

Trump, Donald, 2, 67, 1011, 18, 234, 27, 315, 37, 42, 45, 47, 52, 545, 61, 70, 72, 746, 801, 92, 101, 108, 14654, 166, 183, 194, 196, 204

tự hào, 19

Tufecki, Zeynep, 106

‘tư-lợi,’ 289

tưởng tượng bị cắm sừng (cuck fantasies), 85

Turkle, Sherry, 65

Tuyên ngôn Cộng sản, 25

‘tuyên ngôn sói đơn độc,’ 1314

Tuyệt chủng (Extinction), 198

tuyệt chủng da trắng, 91

Twitter, 734

U

UKIP, xem, Đảng Độc Lập Vương quốc Anh

Ukraine, chiến tranh ở, 156

Umarji, Hussain, 137

UNICEF, 184

union density, 39

United Auto Workers, 35, 101

United Kingdom

United Nations High Commissioner for Những người tị nạn (UNHCR), 193

United Nations Relief và Works Agency (UNRWA), 156, 172, 187

United Torah Judaism, 182

The Uncanny (Freud), 76

Urso, Christina, 73

‘Us Moderates,’ đảng, 7

Ustaša, 131

‘Utah Citizens’ Alarm, 8, 151

Uttar Pradesh, 82

Ủy ban Chủ quyền tiểu Bang, 967

Ủy ban ngày 6 tháng Giêng, 1524

Ủy ban Quốc gia vì Phụ nữ, 83

Ủy ban Thẩm phán Banerjee, 126

Ủy trị Anh, sự  (British Mandate), 170

V

văn hóa gay, 80

Vanaik, Achin, 125

Vargas, Getúlio, 92, 945

Vệ binh Sắt (Iron Guard), 131

Verma, Parvesh, 140

Viện nghiên cứu Hòa bình, 6

Việt Minh, 113

Vishwa Hindu Parishad (VHP), đảng, 82, 126

Vlaams Blok, 5

Volksgemeinshcaft, 135

von Hayek, Friedrich, 45

von Mises, Ludwig, 45

W

Wagner, Nhóm, 2

Wall Street Journal, 149

Washington Post, 101, 130, 156

Watkins, Jim, 73

Watson, Sophie, 30

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged , . Bookmark the permalink.