Kinh dịch luật của sự sống & các dòng chảy nhỏ
Kinh dịch luật về tính liên tục của sự sống
Cổ–Lâm–Quán là hành trình thức tỉnh của nhận biết,
Khiêm–Tốn–Tế là hành trình trong suốt của hành động,
Tụ–Tán–Hồi là hành trình tự giải phóng của sự sống — nơi Đạo thở bằng nhịp của tự do.
Động – Tĩnh – Hóa là hơi thở của tình yêu và từ bi.
Kinh dịch – luật của sự sống
sự sống là liên tục
không có khoảng hở
không có điểm bắt đầu
không có điểm kết thúc
sự sống là một dòng chảy vô tận
cuộc sống
cái mà chúng ta thường gọi là đời sống hàng ngày
là sự đứt đoạn
là sự rời rạc hóa sự sống
bằng hai mặt đối lập
thành công và thất bại
đúng và sai
quân tử và tiểu nhân
sự sống có ba luật nền tảng
luật thứ nhất: tương đồng
mọi sự vật
mọi hiện tượng
mọi tính chất…
khác nhau trên nền của cái giống nhau
và giống nhau trên muôn mặt khác nhau
cấu trúc một nguyên tử
phản chiếu cấu trúc một hệ mặt trời
con người không sáng tạo ra sự sống
chúng ta chỉ là bản sao
là ánh phản chiếu của vũ trụ
sự tương đồng phổ quát nhất
được diễn đạt bằng âm và dương
hôm nay
ngôn ngữ nhị nguyên của 0 và 1
đang dệt nên thế giới phẳng
nhưng cũng chỉ là một vòng quay trở lại
của âm và dương trong Kinh dịch
luật thứ hai: chuyển động
mọi sự vật
mọi thực thể…
đều chuyển động
chuyển động bên trong
và chuyển động bên ngoài
không có gì đứng yên
cả vũ trụ là một điệu vũ vô tận
nên mọi thứ vô thường
luật thứ ba: liên thuộc
không một điều gì tồn tại độc lập
không một hạt bụi nào rơi xuống
mà không làm rung động các vì sao
cái vẫy cánh của một con bướm
có thể chạm tới cả thiên hà
luận quẻ và lăng kính
Kinh dịch thì thuần khiết
nhưng cách diễn giải các quẻ
lại do con người đặt ra
từ Văn vương, Võ vương
đến Khổng tử
đều mang lăng kính của quyền lực
thành công và thất bại
quân tử và tiểu nhân
vào diễn giải Kinh dịch theo cách của mình
nếu Lao Tzu chịu diễn giải Kinh dịch
các quẻ ấy sẽ không bị nhuộm màu
chỉ còn sự trung thực
của thiên nhiên
và sự sống
giống như tử vi
đời người thường được nhìn qua ba vector:
mệnh
tài
quan
người thầy bói giỏi nhất cũng bị giới hạn
bởi chính ba vector đó
nhưng với một hành giả
mọi thứ đã thay đổi
ba vector của ông ấy
trở thành nhận biết
tự do
và tình yêu
hàm mục tiêu đã khác
mệnh tài quan
không còn có ý nghĩa
nhiều những ông thầy cũ
đứng ngoài cánh cửa
chỉ thấy bóng dáng mà không thấy tâm
điều này không có nghĩa
người hành giả đã thoát khỏi ảnh hưởng của các vì sao
các vì sao vẫn xoay vần
vẫn tác động như thuở ban đầu
chỉ có điều
người hành giả không còn bị xiềng xích
bởi định nghĩa thành công hay thất bại
ông ấy nhận biết mọi sự kiện
dù là tiền định hay ngẫu nhiên
như một làn gió lướt qua mặt hồ
trái đất vẫn quay.
thiên hà vẫn trôi về hố đen
Kinh dịch vẫn nguyên vẹn
như từ thuở khởi đầu
chỉ có lăng kính của con người
là thay đổi
méo mó
qua từng thế hệ
đọc Kinh dịch
không phải để biết tương lai
mà để soi thấy mình trong hiện tại
quẻ không phán xét
quẻ chỉ là tấm gương
khi lòng bạn tĩnh lặng
tấm gương ấy trong suốt
khi lòng bạn đục
hình bóng méo mó
Kinh dịch không sai bao giờ
chỉ có cách ta nhìn nó
chưa đúng
khi lòng ta chưa tĩnh
dòng chảy nhỏ 1 –
Cổ (蠱) – Lâm (臨) – Quán (觀)
– thức tỉnh
trong bóng tối của núi
một giọt nước ra đời
từ tiếng nứt nhỏ của lòng đá
nó không biết mình là khởi đầu hay tàn dư
chỉ biết rơi
mỗi va chạm là một lời tạ lỗi
mỗi rung động là lời cầu nguyện
ánh sáng chưa tới
nhưng giọt nước đã biết hướng về nó
như một ký ức cổ xưa vẫn còn ấm trong hạt bụi
đó là Cổ
khi cái cũ tan ra
và cái trong trẻo bắt đầu thở
giọt nước đi qua rễ cây
qua hang đất
qua những tĩnh mạch âm thầm của rừng
nó nghe tiếng rên của sâu
tiếng ngáy của đá
và tự thấy mình cũng là phần của cơn mơ ấy
ở nơi đất hé nắng đầu tiên
giọt nước dừng lại
lăn tròn trên lá cỏ non
trong veo
run rẩy
đó là Lâm
khi sự trong sáng tìm thấy điều mong manh hơn mình
nó không cứu ai
chỉ thấm vào
chậm rãi như lời thưa của buổi sáng
như nỗi nhớ không gọi tên
khoảnh khắc ấy
đất và nước không còn hai
chúng lắng nghe nhau bằng tĩnh lặng
cái hiểu sâu không phải đến từ lời nói
mà từ sự đồng hiện
của im lặng
rồi mặt trời lên
trong mắt của giọt nước
bầu trời hiện nguyên vẹn
không gương
không ranh giới
chỉ còn Quán
cái thấy không còn người thấy
gió đi qua giọt nước tan
hóa thành hơi
nó không mất
chỉ trở nên không còn bị thấy
và trong cái vô hình ấy
nó chạm mọi hình:
núi
biển
mây
người và
hạt bụi
mọi thứ cùng thở chung một hơi
đó là sự sống
đang thì thầm qua muôn hình tướng
rằng chẳng có gì tách biệt
cổ là bóng tối tự biết mình đã chín
lâm là ánh sáng đến gần mà không hỏi tên
quán là im lặng soi ra vạn vật
và người hành giả
chẳng làm gì ngoài việc
lắng nghe giọt nước nhỏ trong tim
nó rơi mãi
qua các tầng hiện hữu
không tìm nơi đến
chỉ tan vào khúc hát vô biên của Sự sống
hành động trong dòng nhỏ thứ hai Khiêm (謙) – Tốn (損) – Tế (濟)
trong lòng sông đá không nói
nhưng nước biết đường
nó đi quanh
lách qua
không vì muốn đến
chỉ vì không thể dừng
mỗi va đập là một bài học về lặng thinh
mỗi chuyển động
là một cách từ bỏ quyền định hướng
đó là Khiêm
khi hành động trở nên thấp
như người cúi đầu mà bước vào vô hạn
nước tiếp tục đi qua ruộng đồng
mang theo ánh trăng
mảnh gỗ
và cả rác
nó không giữ
không khước từ
chỉ trôi
mỗi cái mất là một lần trở về
mỗi buông ra là một lần sinh mới
đó là Tốn
khi hành động là phủ định chính mình
là thấy mọi thêm thắt đều là thừa
mọi ý định đều là che khuất
ở đây
người hành giả không tìm cách hành thiện
chỉ làm trong suốt
để sự việc tự trôi qua bàn tay
mà không mang mùi của bản ngã
rồi nước gặp biển
không còn nơi để đi
cũng không còn lý do để dừng
nó tan vào toàn thể
nhưng vẫn là nó
vì biển chỉ là nước biết mình mênh mông
đó là Tế
sự hoàn thành không kèn trống
nơi hành động và không hành động trở thành một
không còn lao động để mong thu hoạch
cũng không còn hoạt động để chứng minh
chỉ còn hành động
trong suốt như gió qua rừng
như nhịp tim không cần ai ra lệnh
một người đang quét sân
một người đang lau mặt
một người đang cúi nhặt hòn đá
không ai trong họ biết rằng Đạo đang vận hành
qua từng đường cong của lưng
qua từng hơi thở cúi xuống
và nơi ấy
sự vượt chiều của lao động bắt đầu:
khi làm không còn là tiêu phí
mà là thức tỉnh
khi từng chuyển động nhỏ đều trở thành minh triết
Khiêm là cúi
Tốn là buông
Tế là tan
và hành động
là con đường trong suốt dẫn từ cúi đầu đến vô biên
Tụ (聚) Tán (散) Hồi (回) – khúc tự do của dòng chảy nhỏ thứ 3
đêm
trong khe núi hẹp
một giọt sương chậm rãi tụ lại
trên đầu cỏ non vừa hé
chẳng có ý muốn gom
chẳng có bàn tay nào gọi
chỉ là hơi lạnh và hơi ấm gặp nhau
chạm khẽ
và nở thành trong suốt
đó là Tụ
sự hội về không bởi nỗ lực
mà bởi nhớ
mọi hạt trong vũ trụ đều đang tụ về nhau
bằng tiếng gọi không lời của tự do –
sự trở lại của những mảnh đã từng tan
rồi gió thổi qua
giọt sương run nhẹ
tan thành vô số ánh lung linh trên lá
nó không cưỡng lại
chỉ mở
mỗi hạt nhỏ bây giờ là một khúc ca
vỡ ra để mang tiếng ngân của ánh sáng đi xa
đó là Tán
khi tự do thôi thúc sự sống lan tràn
khi không gì còn giữ lấy mình
khi chia lìa cũng là một cách để trở về
vì trong Tán có Tụ
trong mỗi tan rã đều ẩn mầm gặp gỡ
và khi nắng tàn
hơi nước bay lên
gặp trời
gặp gió
gặp mây
rồi rơi lại xuống dòng suối đã từng là nó
chẳng ai bảo nó đi đâu
chẳng ai gọi nó trở về