Dương Tường

Tạp bút Tru Sa

 

 

Dáng mỏng những nhánh khô gầy, ngón nhỏ run run, bước chân chậm rãi, nhỏ hơn cái bóng đổ dưới mặt đường, cái miệng tươi một nụ cười ngát nắng trên khuôn mặt trổ đầy tàn nhang, đấy là Dương Tường, người đàn ông của thế hệ hoàng kim một thuở, cụ ông cỗi tuổi nhưng chưa tàn, chưa ruỗng, lúc nào cũng tươi tỉnh, hớn hở, rào đón đủ loại mật ngon trên đời.

Tôi không thân với Dương Tường, giữa tôi và ông ít sự qua lại, ít chuyện trò, không có điểm gắn kết tâm giao nhưng tôi mến ông, quý cái sự đơn sơ, gần gũi và hiền lành, bao gồm cả tính nũng nịu trẻ con ở ông. Sự biết của tôi với Dương Tường bắt đầu từ uy tín của những cuốn sách dịch, chưa cần biết giá trị hay dở cuốn sách thế nào nhưng hễ Dương Tường dịch là có thể yên trí về chất lượng dịch. Bức thư gửi người đàn bà không quen là cuốn mở màn cho chặng đọc sách dịch của Dương Tường, đọc rất khoái, ưng cái bụng, đọc một lần, rồi đọc lại, lật thêm một lần nữa để nhấm nháp cách dụng ngôn uyển chuyển và bay bướm trong từng câu văn. Suốt tuổi sinh viên của tôi, Dương Tường là dịch giả tôi đọc nhiều nhất sau Đoàn Tử Huyến. Lâu lâu tôi cũng theo dõi hoạt động của ông trên đài báo hoặc qua những bài viết của người khác về ông. Thân già, sống trẻ, thích đi, thích gặp gỡ, miễn là gặp nhau là sướng cái tinh thần, tôi hình dung về Tường như vậy. 2013, tôi đi xem tọa đàm ở Trung tâm Văn hóa Pháp, tình cờ thấy ông đi dưới nhà. Lúc đó mắt ông còn sáng, người còn khỏe, bước đi vẫn vững, tôi và Tường đi ngược hướng, tôi về vì hội thảo quá đông và ồn ào, Tường đến. Tôi liếc nhìn ông, nhìn như chụp ảnh vào hộp ký ức bởi trước giờ tôi chỉ thấy Dương Tường trên ảnh hoặc bìa sách. Dương Tường nhìn sang tôi, không ai nói gì, cứ đứng đó và nhìn, mắt đối mắt, tôi định chào hỏi, bắt chuyện nhưng lại thôi vì không quen, lúc đó Tường cũng nghĩ ngợi, định nói gì đó nhưng chắc ngại, chả biết thằng kia là ai. Tôi cắt ngang hai ánh nhìn bằng cách bước qua ông. Dương Tường đi lên lầu. Tôi chưa đi ngay mà nhìn ông từ sau lưng. Đi mấy bước Tường ngó ra sau một cái, cả hai im lặng, người ra cửa, người lên trên. Nhiều năm sau, tôi gặp lại Dương Tường ở căn nhà thuê của Phạm Toàn. Trông Tường gầy và yếu hơn, mắt chỉ nhìn được một con. Chúng tôi ngồi uống trà, ăn bánh, tôi chỉ chào hỏi cho phải phép, thấy Tường hay liếc ngó sang tôi, Minh Hà bảo, “Anh Tường có thấy cậu này giống anh không?” Dương Tường cười nhẹ, “Giống anh hồi trẻ lắm.” Nói vậy, cười vậy rồi lại rít thuốc. Sau lần gặp đó, tôi gặp Dương Tường nhiều hơn, đều là những cuộc ngồi chung với Phạm Toàn, với Diệu, ngồi chung với vợ chồng Nguyệt Cầm và Tạ Duy Anh. Số lần Ken cố tình kéo tôi đến nhà Tường thì nhiều không đếm xuể. Gặp mãi thành quen, gặp lâu, bẵng đi thành nhớ, cứ nghĩ ngợi, ghi chép nét mặt buồn ngơ như gõ phím trên dương cầm, lạnh. Gặp rồi cười, cứ vậy, tự lúc nào tôi đã chấp nhận Dương Tường là mối tri giao thân thuộc chứ không còn là vai vế giữa tiểu sinh và tiền bối.

Danh tiếng và tài hoa của Dương Tường ai cũng đã biết, đã hiểu và ngưỡng mộ thành thói quen. Dịch thuật là chuyên môn chính, ngoài ra ông còn làm thơ, viết báo, ghi tạp bút… Kết bạn với Dương Tường như một cái nghề không sinh lợi nhưng khoái trá, không phải ai ông cũng hết lòng nhưng ai ông cũng mến cảm, bởi sự chân thật, sống mộc nên ông được nhiều người quý. Dương Tường quảng giao nhưng kén nói, nhiều khi vụng miệng, bị hố lời, ông hay chờ đợi các câu chuyện rồi mới mở lòng, tùy hứng mà kể, không thì cứ nghe, lâu lâu góp dăm lời cho xôm cuộc chuyện. Tính háo chữ đã ăn vào máu nên Dương Tường luôn cần mẫn làm việc, dịch đủ loại sách, vừa để kiếm cơm lúc khó, vừa thỏa cơn nghiện sách vở. Tôi giống Tường ở khoản háu chữ, chỉ khác, ông viết văn chơi, dịch là chính, tôi viết văn thuần túy. Cả tôi và ông đều không thể sống nổi nếu không cầm bút, sống với chữ, ngủ trong chữ như một thứ tình yêu, một dạng hôn phối kiểu cộng sinh. Viết, dịch cũng là quá trình tự học, tự ngẫm, tự hiểu bản thân, mình được đi xa, đi nhiều hơn, tiếp cận được với nhiều số phận, cảnh đời, giao hòa được với những tầng ký ức phủ dày dọc ngang lịch sử kim cổ. Thế hệ của Dương Tường bị đọa ải trong sự nghèo khó, bần hàn, cuộc sống lúc nào cũng thách thức nên ông không có cơ may được ăn học trọn gói như lớp người sau. Tưởng rủi mà hên, nhờ vậy, sự học của ông được tự chủ, thích gì học nấy, thấy thiếu, thấy ham cái gì là tự mày mò, trình độ tự tôi không theo lệnh trả bài, điểm thành tích thì bén vào máu, vào xương, trở thành dưỡng chất quý báu của tinh thần. Chiến tranh không giết được ai, ngược lại, sự túng quẫn dồn con người vào ngõ cụt đã rèn giũa tâm hồn Tường, gửi đến ông lá bài của tình bạn. Bộ ba Tường, Toàn, Khánh thì quen tai quen mắt quá rồi, quan trọng là Tường còn kết thân với đủ nhân vật tài hoa thời Nhân Văn Giai Phẩm. Tường sống với họ, cùng trao đổi, tự học, thưởng lãm tài hoa, chứng kiến buồn vui, khổ đau của từng người bạn và lưu trữ đủ loại ký ức giữa người với mình. Tôi cho đấy là cách tự làm dày cuốn sách đời. Cho dù bạn bè vắng khỏi đất này, miễn là Tường còn nhớ, còn thương, luyến mê tình bạn thì họ vẫn sống, cùng hiện hữu trong cơ thể ông.

Dương Tường sống trong ngõ Phan Huy Chú, phòng làm việc của ông rất nhỏ, có cửa sổ nhìn ra ngõ, quanh nhà toàn sách là sách, vài ba tấm ảnh, ít tranh vẽ. Tuổi tác rút dần sức người, Tường yếu đi, mắt lòa hẳn nhưng vẫn muốn chống gậy dạo phố, sau mấy lần ngã bệnh ông chịu án trong án. Nhìn ông, tôi biết ông thèm ra ngoài lắm, thèm đi dạo nơi này nơi kia, ngồi với ai đó ở quán café vỉa hè, ngồi đông cũng được mà vài ba người cũng ối sự vui. Tôi là một drop-out, là tạo vật của cô độc, Dương Tường thì thích người, sợ cô độc, sợ phải một mình, nhất là trong tình trạng tuổi già, mắt hỏng, chẳng thể tự làm cho mình bất cứ điều gì, đến việc đọc còn phải nhờ người đọc cho nghe. Tường lúc nào cũng bần thần, lủi thủi, lúc nào cũng ngóng xem có ai đến chơi không. Miễn là có ai đó, chẳng cần thân thiết hay hợp cạ, cứ đến nhà hỏi chuyện là Tường khoái chí, tay cứ với, quờ tứ tung, cố nắm lấy bàn tay người khách, nỗi buồn tạm dứt. Tường quen nhiều nên nói tên là ông biết, rồi kể kỷ niệm giữa mình và họ. Không đọc được nữa nhưng Tường vẫn quan tâm đến sách vở, lâu lâu lại hỏi các cuốn sách mới, ai viết thế nào, in lại hay tái bản, viết có hay không. Ai viết cho ông cái gì là ông cười tít, đăng báo thì đòi vợ con mua cho bằng được và ngay lập tức, mua về lại phải đọc cho ông, bài hay thì đọc nhiều lần, bài dở chỉ nghe một lần, vẫn thấy vui. Có hôm, tôi qua nhà, Tường khoe một bài người ta viết về ông trong khi lần trước tôi đến ông đã loay hoay cố tìm, bắt tôi đọc liền tại chỗ. “Sao? Gì cơ? Thế nào?” Dương Tường hay nói toáng thế lúc tôi hoặc ai đó ngoài quanh ông nói chuyện gì đó, ông ngồi ngẩn người nên mọi người phải thuật lại. Tôi ngờ là Tường vẫn máu nghe chuyện, luôn cố nghe, xem ông có biết không để mồi mấy câu, cùng theo vào cuộc chuyện. Tường tính đa cảm nên sợ mình bị quên khỏi cuộc chuyện. Cũng bởi đa cảm, hay nhớ, dễ buồn nên đôi lúc tôi thấy ông sụt sùi, khóc nấc giữa quán café mỗi khi nhớ tới một người bạn thân qua đời nhiều năm.

Lắm lúc, Dương Tường như một cậu bé ngây ngô, thích khoe, thích được nhận quà. Đợt ông in Chết chịu, rồi cuốn Kiều, gặp ai ông cũng kể, cũng khoe, ai xin cũng tặng, khuôn mặt Tường lúc đấy tươi rói, cười đến đỏ bừng hai má. Thỉnh thoảng, tôi cũng tặng ông ít sách. Chẳng quan tâm sách bỏ đó hay được chuyển thành một buổi đọc chuyện đêm khuya nhưng cầm được cuốn sách là ông rất vui, ve vuốt, mân mê mãi. Bữa đó, nếu tôi mở nhạc Trịnh, đun một ấm trà, đốt một điếu thuốc thì Tường càng thú. Giữa tôi và Dương Tường giống nhau về ngoại hình và sự đa cảm, trọng tình nhưng tôi thì tuyệt sầu, trọng tình một cách máu lạnh. Bởi sự tương đồng trong lối giao tiếp đợi chờ nên hai người có rất ít chuyện để kể, quá nửa cuộc chuyện trôi trong im lặng, Tường không nhìn thấy tôi còn tôi quan sát ông trong im lặng. Tường hỏi thì tôi kể, tôi nói thì Tường ngồi nghe, rồi ông xin thêm điếu thuốc, uống chén trà chả hớp được giọt nào thì bảo tôi rót thêm.

“Trời hôm nay đẹp nhỉ!” Dương Tường nói thế.

“Bầu trời xanh lắm, ngoài kia đang hắt nắng, lâu lâu có lá vàng rơi.” Tôi bảo vậy.

“Hồi xưa, bé, mỗi lần học khuya bác lại nghe thấy tiếng rao bán quà đêm ngoài phố, khuya mấy vẫn có người đi, giờ thì ít nghe.”

“Tiếng rao vẫn còn nhưng không ai rao miệng nữa. Họ thâu vào máy rồi bật lên, xe đạp thay bằng xe máy, đồ ăn bây giờ cũng tạp hơn thời của bác.”

“Hồi đó, mỗi lần lên Hà Nội, Phan Vũ lại nhờ bác giữ thư tình.” Một lần nọ Dương Tường bảo vậy. Tôi nghe, im lặng, chợt, Tường ngần ngừ, không kể thêm gì nữa. Tường không kể, tôi cũng không hỏi, cõi tư tình riêng của người là điều cao quý, chỉ nên trao lại, giữ lấy chứ không nên nghe lỏm, ai kể thế nào thì biết thế đó. Tường nhìn sang tôi nhưng không thấy, chỉ ang áng, mường tượng một dấu bóng trắng hình người.

Khuôn mặt già theo tuổi, cổ nhỏ, da mỏng chỉ thấy xương, Dương Tường giao tiếp với cuộc đời bằng âm thanh, nghe tiếng đoán người, nhìn người qua những hình dung mờ nhạt trong trí nhớ, một tuổi trẻ rộng ngợp khắp tứ phương giờ hẹp lại, ngắn ngủi và quẩn quanh mấy tầng nhà, chân tay chậm, giọng nói, tiếng nói cũng run rẩy, còn trái tim ông vẫn tươi, luôn sẵn lòng cho mọi cái nắm tay, siết chặt tay mình vào tay người như sưởi ấm. Lần chào khách nào Tường cũng mong họ quay lại, gặp thêm nhiều lần nữa. Tường đón khách bằng nụ cười, vươn bàn tay tìm bàn tay, tiễn khách cũng bằng nụ cười lẫn lời ới hẹn sẽ còn gặp nhau.

Tình yêu một lần là để đời, còn tình người, một đời là không đủ, nhưng còn nhớ, còn mong người là còn duyên sống. Biết đâu được ngày mai, thân ta sẽ tang trắng giữa thung lũng tuyết.

12.2021

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.