Tino Cao

Đã hai mùa mưa bão trôi qua từ buổi chiều Thầy Tuệ Sỹ rời cõi tạm, 24.11.2023. Hai năm, trên lịch chỉ là hai tờ giấy mỏng, nhưng khi nhớ đến Thầy, khoảng thời gian ấy lại như một lớp sương mới phủ lên một ngọn núi trầm mặc đã nhuốm màu thời gian. Người ta không còn thấy Thầy trong những buổi đối thoại ấm áp tình thầy trò, trong khoảnh khắc Thầy ngồi bên dương cầm chơi bản Sonate Ánh trăng của Beethoven, hay qua những trang sách Thầy trước tác cả một đời. Thế nhưng, sự vắng mặt ấy lại khiến ảnh hưởng của Thầy hiện rõ hơn trong cách ta nghĩ về tự do, về ngôn ngữ và phẩm giá con người.
Tiểu sử của Thầy, nếu gói gọn trong vài dòng, nghe rất giản dị. Thế danh Phạm Văn Thương, sinh tại Pakse, trên đất Lào, giấy khai sinh ghi năm 1943 để được đi học sớm, tuổi thật là 1945. Gia đình gốc làng Nghĩa Ninh, huyện Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Từ rất nhỏ Thầy đã bước vào cửa chùa, làm Sa di, theo học Phật học ở Huế, rồi miền Trung, rồi Sài Gòn. Những cái tên Từ Đàm Huế, Hải Đức Nha Trang, Quảng Hương Già Lam sau này quay về trong cuộc đời Thầy nhiều lần như những trạm dừng của một chuyến hành trình dài vừa mang dấu ấn lịch sử, vừa mang dấu ấn của một đời học đạo.
Đầu thập niên 1960, khi Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn rồi Viện Đại học Vạn Hạnh được thành lập, Thầy là một trong những học tăng có mặt trong thế hệ đầu tiên. Thầy tốt nghiệp Viện Cao đẳng Phật học năm 1964, tốt nghiệp Đại học Vạn Hạnh năm 1965. Vài năm sau, Thầy được đặc cách phong giáo sư thực thụ tại Vạn Hạnh, dựa trên những công trình nghiên cứu về thiền quán pháp, trung quán luận, tánh không luận, lịch sử triết học Ấn Độ và lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Đó không chỉ là sự thăng tiến trong sự nghiệp của một nhà sư học giả mà chính là sự thừa nhận sớm dành cho một nội lực trí tuệ hiếm có.
Vạn Hạnh trong kí ức của nhiều người là nơi mà Phật học, triết học và nhân văn gặp nhau giữa một Sài Gòn đang gầm rú vì chiến tranh. Trong không gian ấy, Thầy vừa là nhà giáo, vừa là dịch giả, vừa là người đồng hành trong những cuộc tranh luận triết học kéo dài. Thầy đọc Hán, Phạn, Pali, Hoa, Anh, Pháp. Thầy bắc những nhịp nối giữa trung quán luận với triết học Kant, giữa tánh không luận với hiện tượng luận, giữa kinh điển Ấn Độ với những vấn đề rất cụ thể của xã hội Việt Nam thời chiến. Những bài giảng, những khảo luận, những số báo Tư Tưởng mà Thầy tham gia không chỉ là sản phẩm của một giới trí thức Phật giáo muốn mở cửa mà còn là nỗ lực của một thế hệ tìm một cách nói khác về khổ đau và giải thoát giữa tiếng bom rơi đạn nổ.
Rồi chiến tranh kết thúc. Bối cảnh chính trị xã hội đổi khác. Đại học Vạn Hạnh không còn tồn tại theo hình thái cũ. Đời sống trí thức Phật giáo bị dồn nén. Thầy không đi ra nước ngoài, cũng không chọn con đường im lặng rút lui, mà ở lại và tiếp tục viết, trong bầu không khí đã hoàn toàn khác. Năm 1978, Thầy bị đưa đi “học tập cải tạo” trong khoảng ba năm. Sau khi được thả, Thầy sống giữa sự giám sát thường trực, rồi đến một ngày đầu tháng 4 năm 1984, Thầy lại bị bắt với cáo buộc chống đối chính quyền.
Tháng 9 năm 1988, Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh tuyên án tử hình Thầy cùng Thầy Thích Trí Siêu, tức giáo sư Lê Mạnh Thát. Chỉ trong một phán quyết, một giáo sư của Đại học Vạn Hạnh – người từng đứng ở trung tâm đời sống học thuật Phật giáo – bỗng trở thành một tử tù. Bản án ấy không chỉ giáng xuống một con người mà còn gây chấn động trong cộng đồng Phật giáo và làm dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ các tổ chức nhân quyền quốc tế.
Trước áp lực không ngừng từ nhiều phía, án tử hình được giảm xuống chung thân, rồi còn hai mươi năm tù. Thầy bị chuyển qua nhiều trại, trong đó có Xuân Phước và Ba Sao. Sức khỏe suy kiệt theo từng năm, nhưng những báo cáo từ bên ngoài đều ghi nhận một điều không đổi: Thầy kiên quyết không nhận tội để được khoan hồng; và trong các buổi thẩm vấn, Thầy giữ vững lối lập luận của mình, trao đổi bằng lí trí, không nhượng bộ vì sợ hãi hay vì bất kì cảm xúc nào.
Ngày 1 tháng 9 năm 1998, Thầy được trả tự do tại trại Ba Sao, tỉnh Nam Định. Trên chuyến tàu trở về Nam, Thầy đề nghị dừng chân và nghỉ lại tại tịnh cốc của trưởng lão hòa thượng Thích Thiện Siêu trong khuôn viên chùa Hải Đức, Nha Trang. Chiều ngày 2 tháng 9, tôi cùng một vài vị ở chùa Hải Đức, trong đó có thượng tọa Thích Phước An, ra ga Nha Trang đón Thầy trở về sau mười năm tù tội.
Thầy lưu lại Hải Đức khoảng ba tháng. Khi những thủ tục an ninh và sự can thiệp khó dễ từ Ban Tôn giáo và chính quyền địa phương tỉnh Khánh Hòa khiến việc lưu trú của Thầy ở chùa Hải Đức trở nên bất khả, Thầy buộc phải rời Nha Trang và trở về tu viện Quảng Hương Già Lam ở Gò Vấp, Sài Gòn, an cư tại Thị Ngạn Am. Từ đây, trong những năm tháng dằng dẳng bị quản thúc, Thầy chuyên tâm vào dịch kinh, biên khảo, viết luận, giảng dạy, và tiếp tục mạch suy tư của mình về A-hàm, về lịch sử tư tưởng Phật giáo, về triết học và về thân phận con người Việt Nam sau những biến động của thế kỉ.
Nhìn từ bên ngoài, đời sống ấy có vẻ như của một vị lão tăng ẩn mình nơi góc chùa. Nhưng bên trong, đó là giai đoạn những trải nghiệm khắc nghiệt của chiến tranh, cải tạo, án tử hình và ngục tù được lắng xuống thành những tầng suy nghiệm sâu. Từ những tầng ấy, Thầy tiếp tục đặt ra cho thời đại những câu hỏi thiết yếu: con người là gì khi bị dồn đến giới hạn; tự do còn lại ở đâu khi mọi hệ thống quanh ta sụp vỡ; và điều gì trong niềm tin có thể đứng vững trước những thử thách tàn nhẫn của lịch sử.
Tôi biết đến văn chương của Thầy muộn hơn rất nhiều so với những năm Vạn Hạnh. Mãi tới cuối tháng 12 năm 1999, sau lễ Giáng sinh, tôi mới có cơ hội lần đầu cầm trên tay những cuốn sách của Thầy. Khi ấy tôi đang ở Pau, một thành phố nhỏ miền Nam nước Pháp, bên chân dãy núi Pyrénées, biên giới với Tây Ban Nha. Trong một buổi họp mặt bạn bè ở nhà một người chị gốc Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954, sang Pháp du học trong thời chiến rồi ở lại Pháp, chúng tôi nói chuyện với nhau khá nhiều về Thầy. Thầy khi đó vừa ra khỏi tù chưa lâu. Những người bạn quanh tôi xem Thầy như một trong những trí thức hiếm hoi dám giữ vững tư thế kẻ sĩ trong bối cảnh bị chèn ép và đồng thời là một nhà tu hành không chịu để niềm tin của mình bị sử dụng như một thứ bình phong.
Tối hôm ấy, họ mang ra một chồng sách của Thầy, những cuốn xuất bản tại Pháp. Tôi nhớ mình ngồi xuống trước một chiếc bàn gỗ, lần lượt đọc bìa, đọc mục lục, đọc vài trang mở đầu. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái thế giới chữ của Thầy, không phải chỉ qua lời kể mà qua chính câu chữ. Trong số đó có truyện ngắn “Piano Sonata 14”.
“Piano Sonata 14” không phải là một truyện ngắn theo nghĩa thông thường. Không có những nút thắt cốt truyện gay cấn. Không có những cao trào được dựng lên rồi giải tỏa. Thầy viết truyện như chính Thầy đang chơi dương cầm một bản sonate, để từng nốt rơi xuống và tan dần vào khoảng tối của tâm tưởng. Tu viện trong truyện, những bước chân, khoảng sân, góc phòng… đều được phác họa bằng vài nét rất mờ, nhưng chính sự mờ ấy lại khiến không gian hiện lên sâu và lan vào người đọc một cách tự nhiên, như sương đêm thấm vào áo. Tôi đọc và cảm thấy ở đó không chỉ là hình ảnh của một người xuất gia mà còn là sự chuyển động của một nội tâm đứng trên ranh giới giữa bình an và bão tố.
Điều lạ nhất là cách Thầy để cho im lặng tự nói. Những chỗ tưởng như không có gì, chỉ là bóng đêm, khung cửa sổ, âm thanh nhỏ nhẹ, lại là nơi người đọc cảm thấy một sức nặng vô hình. Nơi “Piano Sonata 14”, tôi không thật sự nghĩ về âm nhạc mà lại liên tưởng đến độ lặng. Thầy viết như người đặt từng câu xuống rồi rút tay ra ngay lập tức để cho khoảng trống tự định hình không gian của nó. Bối cảnh tu viện, những bước chân, những đêm dài… tất cả được khắc họa bằng vài nét rất nhẹ, nhưng chính sự nhẹ ấy lại hé mở chiều sâu của một đời sống nội tâm từng trải qua nhiều biến động. Không phô diễn triết lí nào nhưng người đọc vẫn cảm nhận được ở đó một kinh nghiệm tinh thần đã được chưng cất qua nhiều năm tháng.
Tối ở Pau năm ấy, tôi ngồi rất lâu mà không nói được lời nào. Có một nỗi buồn rất dịu len vào, không phải nỗi buồn vì chiến tranh hay vì bất công, mà là nỗi buồn khi biết rằng có những tâm thức đã đi rất xa vào vùng tối của con người, rồi trở về và chỉ kể lại bằng vài đường nét mong manh. Giây phút đó, tôi hiểu rằng với Thầy, văn chương không phải là thứ để minh họa cho triết học, cũng không phải là phương tiện tuyên truyền cho bất kì lập trường nào. Văn chương là một cách Thầy để cho người đọc chạm tay khẽ khàng vào những miền sâu thẳm mà chữ nghĩa thường không chạm tới.
Vài năm sau, đầu 2004, tôi đến thăm Thầy ở Thị Ngạn Am trong khuôn viên Quảng Hương Già Lam, nơi Thầy bị quản thúc sau biến cố Lương Sơn tháng 10 năm 2003. Đây là lần thứ hai tôi gặp Thầy, nối tiếp lần đón Thầy trở về và buổi vấn an ngắn ở chùa Hải Đức Nha Trang khi Thầy vừa được phóng thích sau mười năm tù. Lần gặp ở Già Lam dài hơn, đủ để trò chuyện. Trước mặt tôi không phải một nhân vật được bao phủ bởi nhiều huyền thoại mà là một người gầy gò, tĩnh lặng và an nhiên đến lạ. Ánh mắt Thầy sáng trong và chất chứa sự sâu lắng của một người đã đi qua nhiều biến cố mà không để chúng xô lệch phần cốt lõi bên trong. Giọng Thầy nhỏ và nhẹ, pha chút tiếng Huế, nhưng rõ, mỗi câu đều dường như đã được gạn lọc rất lâu từ những suy tưởng trước khi thốt ra. Thầy nói chuyện triết học với sự đơn giản của người đang nói về một con đường quen thuộc. Những khái niệm lớn vào trong lời Thầy đều trở nên nhẹ nhàng. Điều làm tôi bối rối nhất chính là sự bình thản ấy, một sự bình thản mà lịch sử tưởng như không thể tạo ra, chứ đừng nói giữ được.
Rời Thị Ngạn Am buổi hôm đó, tôi mang theo cảm giác rằng phần sâu nhất của đời Thầy không nằm trong những sự kiện mà báo chí từng nhắc mà nằm trong cách Thầy đứng trước chính cuộc đời mình. Một người từng bị kết án tử hình, từng trải qua nhiều năm tù, từng chứng kiến bao lần thay đổi của lịch sử, mà vẫn có thể ngồi trong một am nhỏ, kiên nhẫn giảng giải một đoạn kinh, một khái niệm, một ý niệm về tự do. Ở đó có cái gì gần với huyền ảo, nhưng không phải huyền bí tôn giáo. Nó gần với cảm thức rằng có những người đã đi qua đến tận bên lề của cái gọi là thực tại, nhìn rõ bộ mặt bấp bênh của nó, rồi quay về với một cái nhìn trong sáng hơn.
Có thể nói, điều đọng lại mạnh nhất từ Thầy không phải là những danh xưng hay tước vị mà là một kiểu hiện diện rất lạ. Hiện diện bằng học thuật, bằng văn chương, thi ca, nhưng ngay cả khi ta tạm gác những thứ đó sang một bên, vẫn còn lại một điều khó bỏ qua. Thầy đã giữ được cho mình một vùng tự do nội tâm mà không một quyền lực nào đụng tới được. Chính vùng tự do ấy giúp Thầy đi qua những năm Vạn Hạnh, những trại cải tạo, những phiên tòa, những ngày tù, những năm quản thúc… mà không biến thành một con người cay đắng hay gãy đổ.
Hai năm sau ngày Thầy rời cõi thế gian, nhìn lại hành trình ấy, tôi không thấy có bất cứ sự cần thiết nào phải tô đậm thêm màu huyền thoại lên cuộc đời Thầy. Tôi chỉ thấy một điều, rằng trong một thế kỉ đầy bạo lực và đổ vỡ, vẫn có những đời người như một hành trình suy tưởng kéo dài, từ tuổi trẻ ở Vạn Hạnh Sài Gòn cho đến những ngày ở Thị Ngạn Am. Dòng tư tưởng ấy không chỉ hiện ra trong những công trình học thuật có nền tảng vững chắc mà còn được tinh luyện trong những truyện ngắn tiết chế đến mức chỉ một vài nét cũng đủ bật lên cả một nội giới như “Piano Sonata 14”. Nó vang trong những câu thơ mang nỗi ray rứt thâm trầm, “lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế, một kiếp người ray rứt bụi tro bay”, hay “thời gian đi khấp khiểng, để rụng phấn rơi hồng, tơ nắng dài tâm sự, bồi hồi mộng vẫn không”… Nó có mặt trong những bài viết của Thầy về tự do và phẩm giá con người. Ở những nơi ấy, Thầy đều giữ một giọng điềm tĩnh đến mức mỗi luận điểm đều mang theo trọng lượng của chính những năm tháng Thầy đã sống và chịu đựng, nhưng chưa bao giờ sợ hãi hay lùi bước.
Hai năm hay hai mươi năm rồi sẽ cũng trôi qua. Nhưng đối với những ai từng một lần để cho văn chương và tư tưởng của Thầy dẫn mình đi, những con số ấy không còn quan trọng nữa. Điều quan trọng hơn là mỗi khi chúng ta tự hỏi mình: liệu có thể sống như thế không, sống mà không đánh mất phần sâu nhất của mình trước bạo lực và sợ hãi?
———————————————
Piano Sonata 14
Tuệ Sỹ
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện. Đây không phải là lần đầu tiên chú về trễ, và cũng không phải là người duy nhất về trễ như vậy. Các chú ranh mắt, hoặc vô tình hoặc cố ý, và bằng cách nào đó, đã làm cho một chấn song của cửa sắt gẫy hết một đầu, chỉ cần kéo nhẹ qua là lách mình vào lọt. Rồi sau đó nắn lại, cánh cửa sắt vẫn lầm lì như không hề biết đến những cuộc vi hành ngoài luật lệ thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Sư trưởng của tu viện không hề hay biết. Ông vẫn tin ở sự cứng chắc của nó, như tin vào sự hiện diện vừa hữu tình vừa vô tình của mình ngự trị khắp tu viện, giám thị mọi sinh hoạt của các sư tăng trong một thứ kỷ luật nghiêm khắc mà ông cho là đương nhiên. Không ai nói cho ông biết gì hết. Mọi người đều chuẩn bị sẵn cho mình những lối ra vào cần thiết. Cánh cửa lại không bao giờ biết nói.
Nhưng lần đầu tiên Nghi vượt ra ngoài giới nghiêm của tu viện không phải ngang qua cái cổng bao dung ngầm đó. Chú đi bằng ngõ sau. Đó chỉ là một hàng rào bằng kẽm gai, không có trồng dâm bụt hay một thứ hoa lá nào, chỉ cần cúi rạp mình xuống, cẩn thận vén các tà áo, có thể ra vào như không. Phía sau tu viện này là một vườn rau chạy dọc sát rào của nó. Băng qua vườn rau khoảng hai chục thước là một con đường đất, rộng vừa đủ cho hai chiếc xe đạp tránh nhau.
Bấy giờ là tháng cuối của mùa nghỉ hè. Sau giờ tĩnh niệm thường lệ mỗi tối, Nghi ra phía sau tu viện để tiểu, vì chỗ này có nhiều bụi chuối kín đáo. Nhìn dòng nước lấp lánh dội lên đám cỏ, chú nghe trong người khoan khoái, tâm hồn như mở rộng. Những luống cải xanh mát của khu vườn trước mắt đẹp hẳn lên. Chú nghe luồng trăng bạc như sương khuya lấp lánh đang nhảy múa chập chờn trên các luống cải. Âm hưởng ngọt ngào và quyến rũ. Cây cối im lìm trong một cảnh tượng thanh bình và trang nhã. Lắng tai nghe kỹ hơn, chú nhận ra âm hưởng đó từ phía bên kia con đường đất lan truyền đến. Ăn cắp chuối trên bàn Phật, hay lẻn qua vườn rau nhổ bậy vài bụi cải cho những cuộc kiết tập kín đáo, với bánh tráng mỏng và nước tương dầm ớt thiệt cay, đó không phải là chuyện hiếm có giữa các chú tiểu. Mặc dù Nghi chưa lần nào được giao phó công tác hái trộm rau, nhưng lẻn chui qua bên ấy là một việc hết sức tự nhiên.
Lúc này thì cái âm hưởng quyến rũ kia cũng tự nhiên một cách vô tình khiến chú rạp người xuống, chui qua hàng rào kẽm gai, băng qua vườn, sang tuốt con đường đất. Nơi đây chú có thể phân định phương hướng phát ra âm thanh chuẩn xác hơn. Vào giờ này, không chỉ là con đường vắng vẻ, mà cả một khu vực cũng hoàn toàn vắng vẻ. Suốt con đường về phía tay trái phỏng chừng đó, duy nhất chỉ có một ngôi nhà ẩn sau nhiều bóng cây rậm rạp. Chú rẽ phía trái, rõ ràng đang có người chơi đàn trong đó.
Xuyên qua khung cửa sổ, chú thấy một mái tóc chảy dài, nghiêng nghiêng theo âm điệu to nhỏ và tiết điệu buông lơi của tiếng đàn. Trên cao một chút, bóng đèn sữa đục được ủ trong một ánh sáng ấm áp của chính nó. Tiếng đàn đột ngột dừng lại. Chú ngơ ngác. Nhưng bóng người đã hiện rõ trên khung cửa. Chú muốn bỏ chạy, lại e là vô lễ, hoặc có thể là bị nghi ngờ. Lỡ người ta sang mách bên chùa, nhất định chú bị phạt nặng. Hàng xóm cũng hay lên chùa than phiền các chú phá phách, và các chú có khi bị phạt tập thể.
Đợi một lúc, không thấy người đó động tĩnh gì cả, Nghi dợm chân muốn chạy. Nhưng tiếng nói từ bên trong vọng ra:
– Ai đó?
Nghi không biết phải trả lời mình là ai. Lại có tiếng hỏi:
– Điệu bên chùa phải không?
Cô này nhất định là người Huế. Giọng nói nghe kiểu cách, nhưng dịu dàng. Nghi có cảm tình ngay.
– Dạ.
– Chừng ni điệu còn đi mô khuya rứa?
Nghi không trả lời ngay, và không chút ngần ngại, đẩy cánh cổng đi vào.
Cổng chỉ khép hờ.
– Dạ, nghe đàn. Chạy đi coi thử.
Gương mặt chú hiện rõ qua ánh đèn đang hắt ra ngoài. Chỏm tóc lệch qua một bên, phủ mép trán. Đôi mắt sáng ngây thơ dưới hàng mi dài và cong. Chú đưa tay lên vuốt chỏm tóc.
– Dạ, thưa cô.
– Điệu chun qua rào hả?
Chú cười. Chớp hai hàng mi tinh nghịch. Nụ cười của trẻ thơ, trong trắng và hồn nhiên, nhưng quá nhỏ nhoi và khiêm tốn giữa một thế giới đòi hỏi quá nhiều sự trang nghiêm và kính cẩn. Tuổi thơ hiếm hoi cho một tâm hồn tập sự săn đuổi những ước mơ ngoài tầm với bắt của con người.
Cô cũng mỉm cười theo chú, đưa tay hất ngược mái tóc về phía sau:
– Điệu vô trong ni đi.
Cô bước sang trái mở cánh cửa. Chú lách mình bước vào. Căn phòng, ngoài cái bàn nhỏ và một cái kệ sách, chỉ có một vật lạ đối với Nghi là cây đàn kê sát vách tường nhìn nghiêng ra khung cửa sổ. Chú đi thẳng lại đó, níu hai tay lên thùng đàn, cúi nhìn chăm chú những phím đen trắng chen nhau sắp thành một hàng thẳng. Sự thích thú hiện rõ trên đôi mắt. Cô ngồi xuống, trên cái băng ngắn đặt trước cây đàn và tựa một nửa người lên dãy phím.
– Điệu đi tu chi rứa?
– Dạ. Nghi ở với Thầy.
Chú thừa dịp, đặt cả bàn tay lên phím đàn và ấn xuống. Âm thanh so le nhau cùng tấu lên. Khi cất tay, chú nghe chúng ngân dài, lẫn vào thùng đàn như đang chìm sâu vào trong bóng tối hun hút phía sau.
– Điệu thích đàn không?
– Thầy cấm. Mấy Thầy lớn bên chùa lén học, bị Thầy bắt được phạt hoài.
– Mấy Thầy lớn?
– Dạ lớn lắm. Lớn bằng cô.
– Chú tên chi?
– Dạ.
Chú nhích người ra, đứng nhìn thẳng xuống phím đàn, nắm chặt bàn tay phải, chĩa ngón trỏ thọc lên một phím đen. Ngón tay bị trợt sang, thọc luôn xuống phím trắng. Hai âm thanh nối nhau, to nhỏ không tề chỉnh.
– Điệu muốn học đàn hả?
Tiếng đàn chạy lui vào vách tường, có lẽ vậy. Chú nhón gót chân nhìn.
Nhưng lưng đàn dựa sát vách.
– Thầy la chết.
– Thì cứ chun qua rào như tối ni. Thầy biết mô.
– Đâu được.
Bỗng nhiên chú xoay người lại.
– Thưa cô, Nghi về.
Và chú tự động đến mở cửa, cắm đầu chạy thẳng. Bóng người lại xuất hiện qua khung cửa sổ. Nhưng chú không quay đầu nhìn lại.
Băng qua vườn cải, rồi lách mình chun qua hàng rào, chú chạy thẳng về phòng. Trong bóng tối của căn phòng, chợt có tiếng nói:
– Mi chết?
Tiếp theo, có tiếng người lăn trên giường, tiếng vỗ chát và tiếng hô:
– Ê, làm gì kỳ vậy.
Nghi biết đó là giọng của chú Đảm. Còn kia chắc là chú tiểu Mùi. Chỉ có chú này mới hay ngủ mớ kiểu đó.
Những ngày kế tiếp Nghi hình như quên bẵng vụ chui rào của mình. Chú vẫn đùa giỡn, vẫn chăm chỉ làm công việc một chú tiểu trong chùa. Bổn phận hành điệu của chú là châm trà, lau bàn ghế và quét dọn trong phòng của sư trưởng. Không ai biết tuổi thơ trôi qua như vậy đang ấp ủ sự gì. Sự thành kính khi bưng ấm trà để vào khay. Sự ngăn nắp khi treo sâu tràng hạt vào tủ kính. Khi sửa lại ngay ngắn một bình hoa, một cây viết trên bàn, một quyển sách mà sư trưởng đang học dở. Tất cả những thứ đó không phải là kiểu cách mà người ta có thể nhìn thấy trong đôi mắt đen láy kia.
Hằng ngày, chú lại phải học về ý nghĩa của sự vô thường, khổ đau và giả tạo đang đè nặng kiếp người. Mắt chú vẫn trong sáng. Nụ cười vẫn hồn nhiên. Thân tứ đại giả hợp, như cây bên bờ sông, như cỏ bên bờ giếng. Tất cả đều là mộng tưởng, thì chắc gì cái vô thường và khổ não kia của kiếp người không là mộng tưởng. Nhưng chú thích học những thứ đó. Thích nhìn sự giả tạo đó qua những hàng chữ nhỏ ngay ngắn và chú lại càng thích nắn nót sao cho chúng được ngay ngắn trang nghiêm như chữ viết của sư trưởng.
Đêm trăng cũng thường quyến rũ chú. Những đêm như thế, chú hay ra phía sau tu viện, ngồi bó gối thu hình trong bóng cây. Nội cả tu viện này, chỉ có sư trưởng mới để ý. Vì sư biết rằng, đó là lúc chú đang ngồi khóc một mình. Thỉnh thoảng bắt gặp, sư dẫn chú về phòng. Căn phòng cho các chú tiểu ngủ chung. Chỉ có bốn chú, hơn kém nhau vài tuổi. Sát góc phòng là bàn thờ nhỏ. Đó là bàn thờ đặc biệt sư trưởng lập riêng cho chú. Bây giờ thì các chú nhỏ kia đã ngủ hết. Sư đốt lên một ngọn nến. Giữa bàn thờ hiện rõ ảnh bán thân của một thiếu phụ, tuổi khoảng trên ba mươi, gương mặt hao hao giống chú. Sư đốt nhang cắm vào bát và nói rất nhỏ:
– Má con vẫn ở bên con đó. Con không thấy, nhưng má con thấy. Con đừng khóc như vậy nữa mà má con buồn. Ngồi đó với má. Lát nữa tắt đèn mà ngủ.
Sư trở ra. Chú ngồi xuống. Nhìn ảnh. Nhìn ngọn nến bập bùng. Một năm có biết bao lần như vậy. Hằng ngày chú vẫn chăm chỉ học, vẫn hăng say đùa giỡn với chúng bạn và thỉnh thoảng vẫn thường ngồi khóc một mình. Ngọn nến do đó cũng lần hồi truyền vào da thịt chú sự nóng cháy kín đáo giữa cảnh khuya tịch mịch trang nghiêm đầy thành kính đó.
Chú tắt cây nến. Thay vì leo lên giường ngủ, chú bước ra ngoài, đẩy nhẹ cánh cửa và khép lại. Phía sau tu viện, trăng vẫn sáng. Vườn cải bên kia vẫn im lặng.
Buổi chiều, thầy trị sự sai các chú tiểu chuyển đống ngói ở sân trước ra đây, dự định lợp lại miếu thờ bà Ngũ Hành. Dạo này, các sư trong chùa hay cãi nhau kịch liệt. Nhất là thầy trị sự cứ bị phản đối và bị sư trưởng khiển trách hoài. Thầy cho là các thứ kim, mộc gì đó trong đất tu viện khắc nhau. Thầy nảy ra ý kiến thờ bà Ngũ Hành để mọi việc êm thắm. Miễu của bà được xây từ lâu rồi, trước khi có mặt thầy trị sự và có luôn cả trước sư trưởng. Tu viện này vốn là một ngôi chùa tư được nhường lại cho Giáo Hội, làm chỗ tu học cho các sư trẻ. Nhưng các sư này đa số lại hay nghịch. Về đây chưa bao lâu, họ đã lật úp bát nhang của bà và viết vào vách miễu ngày chỗ bà ngự bốn chữ “Bà đã đi rồi”. Trải qua hai đời sư trưởng và bốn đời trị sự, nay đến thầy trị sự này mới có ý định mời bà về lại. Nghe thầy trị sự giải thích tại không có bà nên tu viện hay xảy ra những chuyện tranh chấp tư tưởng, các chú nhỏ lại càng không muốn bà trở lại. Vì các sư nếu cãi nhau nhiều sẽ bị phạt nhiều, bù vào chỗ họ hay ăn hiếp các chú. Nhất là chú Đảm và chú Mùi bị thầy trị sự phạt quỳ nhiều nhất, nên muốn thầy bị sư trưởng quở trách thích đáng. Hai chú nhỏ này rủ Nghi tối nay, đợi khi các sư ngủ hết, hè nhau ra đái lên đống ngói thật nhiều để bà không dám về. Họ giấu chú Tiểu Đài, vì chú này được thầy trị sự thương, sợ mách lại.
Sau bữa cơm tối, họ đã chuẩn bị uống nước thật nhiều để đái cho thật nhiều. Nhưng các sư chưa ngủ mà hai chú đó đã ngủ say hết. Nhớ mật ước, quên cả cơn khóc vừa rồi, quên má và quên sư trưởng, chú phăng phăng leo lên đống ngói đứng đái, xoay người tứ phía y hệt như tưới rau. Chú cảm thấy hứng thú vô cùng. Và chợt nhớ mấy người trước chui qua vườn cải.
Đái xong, chú chạy thẳng về phía hàng rào, chạy suốt sang con đường đất, và chạy luôn một mạch vào nhà có người đánh đàn hôm nọ. Và chú chợt nhớ mình chưa biết tên cô.
Ánh sáng còn hắt ra ngoài cửa sổ. Nghi thấy cô đang cúi đầu trên sách, hai tay vo tròn cây viết, vòng lên đầu quyển. Chú vịn tay leo lên khung cửa sổ.
– Thưa cô.
Cô giật mình, quay phắt người lại. Hai mắt mở to kinh ngạc. Nghi thấy hai con mắt đó dễ thương hết sức. Không đợi cô trả lời, Nghi hỏi luôn:
– Nghi chưa biết tên cô.
Cô mỉm cười. Nghi thấy cái gì ở cô cũng khác má mình hết. Nhất là nụ cười. Nghi không nhớ má chú đã cười như thế nào. Thậm chí không nhớ rõ là có cười lần nào không. Ảnh thờ trong phòng thì không bao giờ cười. Ngày thường, Nghi không hề để ý xem các cô lên chùa khi nói chuyện với các sư họ cười như thế nào. Các vong linh thờ sau điện Phật cũng có người cười. Mỗi khi các chú được sai lau ảnh, chú Đảm thường hay la lên:
– Người chết cũng cười tụi bây ơi.
Chú Mùi lẩn quẩn đâu đó, chạy lại nói:
– Ê ! Coi chừng quả báo chết mi không được cười đa nghen. Quả báo rụng răng hết.
Nụ cười của cô, Nghi thấy cũng dễ thương như đôi mắt của cô.
– Như Khuê. Được chưa? Điệu ni coi rứa mà hoang hè.
Nghi nhảy vào trong. Thất vọng, thất vọng nhìn cây đàn đã bị đậy nắp phím. Chú nhớ lại tiếng đàn hôm trước. Cô có thể đọc trên mắt chú thấp thoáng sự tìm kiếm, vì chúng chập chạp lướt trên thùng đàn. Mặt thùng màu nâu bóng loáng, mà mắt chú thì lúc nào cũng sáng, và bây giờ chúng lại lấp lánh trong sự tìm kiếm mơ hồ.
– Muốn đàn hả?
– Cô đàn chớ Nghi đâu biết đàn.
– Để cô dạy cho, Thầy điệu không biết mô.
Chú nghiêng đầu ra khung cửa. Nghe ngóng. Bên phải là sân cỏ nhỏ, chạy lùi về phía sau nhà. Góc rào kia là một cây hòe. Trước mắt, rải rác vài khóm hoa mà Nghi không biết là thứ hoa gì. Như Khuê cũng đến đứng dựa cửa sổ nhìn ra với chú. Cô nhắc:
– Cô dạy Nghi học đàn
– Học liền hả cô? Thích thiệt. Nghi dở đàn.
Quả tình, Nghi đang khoái chí. Chú quay lại với cây đàn. Rảo mắt nhìn quanh, rồi đặt tay vào hai núm sắt. Khắp cả cây đàn, chỉ có hai cái núm đó là Nghi thấy có thể nắm được. Nắm và kéo, mảnh gỗ bật lên, nhưng kéo không ra. Phần trên nắp phím vẫn không động đậy. Chú dở ngược lên, định giật mạnh. Như Khuê chận lại:
– Coi, hư của người.
Cô đẩy nhẹ nắp phím thụt vào thùng đàn. Nghi cao hứng. Mười ngón tay bấu luôn cả vào phím. Chúng thi nhau chạy nhảy tứ tung. Âm thanh rộn rã.
– Bữa ni học chi kịp. Khuya rồi. Bữa khác, Nghi nhớ qua thiệt sớm.
– Dạ đâu có được. Giờ đó Nghi phải trả bài cho thầy. Mà qua hoài, thầy biết phạt chết.
Đêm đã khuya. Mặc dù đây chỉ là một khu ngoại ô cách trung tâm Sài Gòn không mấy xa, nhưng vào giờ này, có lẽ cả xóm đã ngủ hết. Nhà cửa thưa thớt, cách nhau vài chục thước. Thêm nhiều cây cối và tàn rộng khiến cho chúng càng thêm biệt lập và khuất nhau. Chú tiểu ở chùa, quen sự tự nhiên của mình đối với khách thập phương lai vãng, nên không biết thế nào là thân hay sơ. Biết mặt và biết tên, chừng đó như đã để đủ trở thành bà con ruột thịt. Nghi lúc nào cũng cao hứng, Như Khuê tự nhiên thấy mình đã thân thiết với chú vô cùng. Cô muốn hôn lên đôi mắt thần tiên của chú. Cửa chùa không biết có vĩnh viễn khép kín nổi con người có cái phong vận như thế. Nhưng chắc cũng có mấy ai có thể nhìn suốt qua đôi mắt kia mà thấy được bóng dáng của huyễn mộng phù sinh. Cô đâu biết, và chưa bao giờ thấy sự thành kính của chú và đôi mắt mông lung như khói trầm. Dù vậy, ngay lúc này, cô thấy rõ hơn ai hết, có lẽ vậy, sự nóng cháy đam mê trong đôi mắt thần tiên đó. Thế mà cô cũng chưa bao giờ thấy được sự nóng cháy của một ngọn nến lẻ loi giữa đêm khuya tịch mịch. Cô bỗng thấy trong thâm tâm mình bây giờ y hệt như một họa sĩ vẽ trúc đã mọc đầy trúc trong bụng. Cô mong cho sự nóng cháy kia không sớm bị dập tắt dưới những kỷ luật lạnh lùng nơi tu viện. Cô có cảm giác mười đầu ngón tay của mình đang vuốt nhẹ lên mặt hồ với những lượn sóng nhỏ.
Cô ngồi lại trước cây đàn. Bàn tay trái mở rộng, đầu ngón trái và ngón út cũng ấn nhẹ lên hai phím đen, ngón trỏ và ngón áp út điểm đều đặn trên các phím đen trắng bất thường. Nghi chưa bao giờ thấy ở đâu có sự dịu dàng bao la như những ngón tay đó của cô bây giờ. Chú đưa tay lên vuốt chỏm tóc. Bất chợt, chú cũng xòe rộng bàn tay trái, đập lên các phím đàn. Như Khuê vừa đàn vừa la:
– Đừng phá. Để người ta đàn cho mà
Nghi rút tay lại. Chạy vòng qua phía tay phải của cô. Nhìn một lúc, chú lại thò tay phải ra, đập một lượt bốn phím trắng.
– Phá hoài hà. Không đàn nữa.
Chú đứng lui, núp sau lưng cô. Như Khuê đứng dậy. Cô nhìn thấy chú ngơ ngác, thất vọng.
– Nghi mấy tuổi?
– Mười hai.
– Học ở mô?
– Nghi sắp lên đệ lục. Nghi đi học buổi sáng. Ngoài trường Hồ Ngọc Cẩn đó, cô biết không?
– Hằng ngày Nghi có hay ra khỏi chùa đi chơi không?
– Cô hỏi nhiều vậy. Nghi mỏi chân rồi.
Chú chống tay, nhảy lên ngồi trên khung cửa sổ.
– Đâu có được. Phải có Thầy dẫn mới được đi. Còn không thì trốn đi như tối nay đó.
Như Khuê cười. Chú tiểu này quả có lí lắc thật. Cô thích được nắm chỏm tóc của chú mà vuốt dài xuống, Cô đứng tựa mình lên khung cửa và nhìn lên bầu trời. Trăng khuya, lác đác vài ngôi sao. Một ngôi sao… xa quá…
– Nghi buồn ngủ chưa.
– Chưa. Nghi thức suốt đêm 30 rạng mùng 1 tết.
– Chi rứa.
– Tại quen. Hồi trước, má Nghi dẫn Nghi tới Thầy, rồi đi đâu mất. Tết năm đó, nhớ má Nghi không ngủ được.
Mấy tháng sau nghe thầy nói má Nghi chết rồi. Ở đâu không biết. Nghi có bàn thờ má trong phòng.
Như Khuê nghe cánh tay chú đụng vào người, Cô nhìn lại. Chú đang kéo chỏm tóc sang một bên.
– Nghi muốn về chưa?
– Chừng nào cô buồn ngủ Nghi về. Thầy chắc tưởng Nghi ngủ trong phòng. Ủa. Nghi về chớ. Mai mốt cô qua chùa chơi.
Chú nhảy ngay xuống đất và chạy thẳng ra cổng. Như Khuê đứng nhìn bóng trắng khuất ngoài hàng rào bông bụp.
Ngang qua thiền thất, Nghi thấy sư trưởng bắc ghế ngồi nhìn ra phía trước cổng. Cổng sắt đã khép kín. Con đường kéo dài bất tận. Tiếng đàn buông lơi và chạy suốt, mất hút ngoài kia. Nghi lén nhìn sau lưng sư trưởng và sư trưởng thì nhìn vào bóng tối của con đường vì sư biết đó là Piano Sonata 14 với tiến nhịp của sustenuto, chậm nhưng vĩnh viễn chìm sâu trong bóng tối như những làn sóng nhỏ ôm bóng trăng mà ngủ vùi trên bến cát.
Cho đến lúc, Nghi cũng biết được rằng, đó là bản Piano Sonata 14…
Nguồn: Tuệ Sỹ. Tuệ Sỹ Văn tuyển, tập III. NXB Phương Đông, tháng 7/2015, tr. 216-229.