Sartre đã biện hộ cho trí thức như thế nào?

(Đọc Biện hộ cho trí thức của Jean-Paul Sartre)

Dương Thắng

“Giá trị lớn nhất của Biện hộ cho trí thức là nó không định nghĩa trí thức như một danh hiệu, mà như một chức năng, một quá trình, một thái độ. Đó là thái độ của sự tự vấn không ngừng, sự can đảm vượt qua lĩnh vực chuyên môn để can dự vào các vấn đề chung, và lòng trung thành với sự thật trước mọi áp lực.”

(Bùi Văn Nam Sơn, “120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Từ biện minh cho sự hiện hữu đến biện hộ cho trí thức: một khao khát làm người”. Trong Jean-Paul Sartre, Biện hộ cho trí thức, Phạm Anh Tuấn và Đinh Hồng Phúc dịch, Công ty TNHH Sách Thật – Nxb Hội Nhà văn, 2025, tr. 28)

1. Sartre đã qua đời cách đây 65 năm, vào ngày đưa tang ông hơn năm mươi nghìn người đã đi theo linh cữu đến nghĩa trang Montparnasse. Không lâu sau, đó là cái chết của Louis Aragon, rồi Raymond Aron và Michel Foucault. Những cái chết ấy dường như đánh dấu sự kết thúc của một thời đại. Sự kết thúc của một thế giới trí tuệ nơi mà tranh luận tư tưởng giữ vị trí thống trị. Tấm màn đã khép lại trên cái sân khấu nơi mà suốt gần một thế kỷ đã hiện hữu một “nhân vật” mang tính biểu tượng rất đặc thù của nước Pháp – một hình tượng đã không tồn tại ở bất kỳ quốc gia nào khác – “người trí thức”.

2. Làm sao để có thể phục dựng lại bức tranh huyền thoại về một thế hệ trí thức Pháp lẫy lừng đứng trên đỉnh cao trí tuệ ở thời kỳ đó và một điều quan trọng hơn là những huyền thoại này, những gương mặt trí thức lẫy lừng này ngày hôm nay còn có thể tiếp tục nói điều gì có giá trị với chúng ta? Cơ hội ấy sẽ xuất hiện từ việc bạn đọc lại ba bài diễn thuyết mà Sartre trình bày tại Nhật Bản vào tháng 9 và tháng 10 năm 1966, rồi được xuất bản khá muộn 6 năm sau đó ( 1972) ở dạng một tập sách mỏng với tiêu đề Plaidoyer pour les intellectuels (Biện hộ cho giới trí thức). Năm 2025 này – kỷ niệm 120 năm ngày ra đời và 65 ngày mất của Jean-Paul Sartre – bản dịch tiếng Việt cuốn Biện hộ cho trí thức (do hai dịch giả Phạm Anh Tuấn và Đinh Hồng Phúc chuyển ngữ) đã ra mắt bạn đọc, đi kèm với một lời giới thiệu về Sartre rất sâu sắc và tràn đầy cảm xúc của triết gia Bùi Văn Nam Sơn (lời giới thiệu dành tặng cho nhà văn quá cố Phan Huy Đường, người suốt đời thần tượng Sartre, tác giả cuốn Tư duy tự do đậm ảnh hưởng của Sartre).

3. Chuyến đi thăm Nhật Bản 28 ngày (từ 18 tháng 9 đến 16 tháng 10 năm 1966) có ý nghĩa đặc biệt đối với Sartre. Lúc đó ông đang ở đỉnh cao vinh quang. Kể từ thời Giải phóng, cha đẻ của chủ nghĩa hiện sinh và văn học “dấn thân” đã chiến đấu trên mọi mặt trận: chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Algérie, chiến tranh Việt Nam. Đó là thời kỳ của cuộc đại chiến chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, chống chủ nghĩa tư bản và xã hội tư sản. Thời kỳ mà Sartre là “người đồng hành cách mạng” nhiệt thành của Đảng Cộng sản Pháp. Sartre sử dụng mọi thể loại: tiểu luận triết học, kịch, tiểu thuyết, diễn thuyết cũng như mọi công cụ: truyền đơn, kiến nghị, mít-tinh, biểu tình để thực hành sứ mệnh của một nhà văn, một triết gia “dấn thân”. Không ngày nào trôi qua mà tên ông không xuất hiện trên mặt báo. Và việc từ chối giải Nobel năm 1964 chỉ càng làm tăng thêm tiếng tăm, vốn đã lừng lẫy của ông.

4. Thế nhưng ngay tại nước Pháp quê hương ông- quyền lực trí thức và quyền uy học thuật của Sartre cũng bắt đầu lung lay dữ dội – trước hết là những phủ nhận đến từ những người theo chủ nghĩa cấu trúc, họ cho rằng lịch sử không còn là chìa khóa tốt nhất để hiểu các hiện tượng xã hội. Còn tạp chí Tel Quel, quy tụ một nhóm trí thức trẻ tài năng, từ lâu đã quay lưng lại với văn học dấn thân của Sartre. Vào năm 1962, trong La Pensée sauvage (Tư duy hoang dã), Claude Lévi-Strauss đã tiến hành một cuộc phê phán mang tính hệ thống nhắm vào triết học hiện sinh. Triết học hiện sinh cũng bị Michel Foucault giáng những đòn chí mạng trong Les Mots et les choses (Từ và Vật, 1964). Sau cùng, đó là sự chống đối đến từ những người đồng chí marxist của Sartre – tiêu biểu là Louis Althusser – người đã đề xuất một cách đọc mới các văn bản kinh điển.

5. Trước những thách thức đa dạng này, những thách thức đều mang dấu ấn của “sự phủ nhận lịch sử”, Sartre cảm thấy mình buộc phải lên tiếng đáp trả. Ông đã thực hiện điều đó qua một cuộc phỏng vấn lớn với Bernard Pingaud, đăng trên tạp chí L’Arc. Nhưng lời đáp trả thích đáng nhất chính là ba bài diễn thuyết mà ông trình bày tại “xứ sở Mặt Trời mọc”. Có thể nói không ngoa rằng đó là sự biện hộ đi kèm với những minh họa rực rỡ dành cho hình tượng trí thức dấn thân mà ông đã hóa thân vào đó trong hai thập niên, đồng thời cũng là bài ca vĩnh biệt cái “tượng đài lịch sử” đó.

6. Nếu như từ giữa giữa thập niên 1960, ở trên đất Pháp quê hương ông, những chỉ trích/phê phán nhắm vào Sartre ngày càng dày đặc, dữ dội và quyết liệt, thì sự đón tiếp dành cho Sartre và Beauvoir tại Nhật Bản lại hoàn toàn khác, nó trở thành một sự kiện văn hóa lớn, thu hút sự chú ý đặc biệt của giới trí thức Nhật Bản đến mức giới truyền thông đã dùng danh hiệu “Beatles của Trí thức” để nói về Sartre và Beauvoir. Nhờ vào hồi ký của Asabuki Tomiko, người đã tháp tùng hai triết gia trong suốt chuyến đi, chúng ta biết rằng thành công của những buổi diễn thuyết vượt xa mọi điều mà ngay cả ngày hôm nay người ta cũng khó có thể hình dung ra.

7. Buổi diễn thuyết đầu tiên, tổ chức tại Đại học Keio ở Tokyo, diễn ra trong một giảng đường nơi tám trăm người chen chúc bên trong; buổi nói chuyện này còn được truyền lên nhiều màn hình ở không dưới mười hai phòng kế bên, cho phép sáu nghìn người nghe khác theo dõi trực tiếp. Đối với buổi diễn thuyết thứ hai, hai nghìn chỗ ngồi đã được rút thăm trong hơn ba mươi nghìn yêu cầu tham dự. Một lượng khán giả mà không một triết gia Pháp nào có được cho đến tận ngày nay. Ánh hào quang của tư tưởng Pháp trên thế giới vào lúc đó thực sự đã đạt tới đỉnh cao. Là người thừa kế của phong trào Khai sáng xa xôi, tư tưởng của thế hệ trí thức Pháp đó vừa rất cụ thể vừa mang tính phổ quát cao.

8. Bài diễn thuyết thứ nhất của Sartre nhằm trả lời cho câu hỏi: Trí thức, họ là ai? Theo Sartre, ban đầu, đó là những “kỹ thuật viên của tri thức” (technicien du savoir) – những người nhờ vào uy tín và danh tiếng, tức là nhờ vào quyền uy học thuật mà họ đã đạt được trong lĩnh vực chuyên môn của mình – khoa học, y học, văn học – đã dám can dự vào những gì “không phải việc của mình”. Trái ngược với những nhà nghiên cứu thuần túy – những người không bao giờ dám vượt ra ngoài lĩnh vực chuyên môn hẹp của mình – nhà trí thức mang tinh thần phê phán cần phải rời bỏ môi trường chuyên môn êm ả và quen thuộc của mình để bước vào đấu trường công cộng. Anh ta vì thế luôn ở vị thế lệch pha, bởi đã rời xa giai cấp xuất thân nhưng đồng thời vẫn bị những kẻ bị trị – chính là những người anh ta muốn bảo vệ – nghi ngờ.

9. Từ đó xuất hiện cái “ý thức bất hạnh” (“conscience malheureuse”), vốn đặc trưng cho nhà trí thức kiểu Sartre. Việc hiểu khái niệm này, như triết gia Bùi Văn Nam Sơn nhấn mạnh (tr. 15) là chìa khóa để mở ra toàn bộ lập luận trong Biện hộ cho trí thức. Nếu như ở Hegel thuật ngữ này nói về một ý thức tôn giáo siêu hình thì ở Sartre đó lại là ý thức của người trí thức hiện đại bị giằng xé bởi vị thế giai cấp và vai trò phê phán. Sartre viết: “Giai cấp thống trị mơ hồ về họ chỉ muốn xem trí thức như là một kỹ thuật viên của tri thức hay một viên chức nhỏ trong hệ thống kiến trúc thượng tầng […], các giai cấp bị trị thì lại không sản sinh ra họ” (tr. 115) và rằng “trí thức không nhận được sự ủy nhiệm của bất kỳ ai và không được trao địa vị bởi bất kỳ quyền lực nào” (tr. 116). Vì thế đối với Sartre “ý thức bất hạnh” không phải là một “định mệnh vĩnh viễn” về phương diện tinh thần mà là một tình trạng lịch sử mà người trí thức phải tự vượt để hướng tới một xã hội trong đó trí thức với tư cách một tầng lớp tách biệt sẽ biến mất.

10. Sau khi đưa ra định nghĩa về nhà trí thức, Sartre làm rõ chức năng của anh ta: vạch trần những mâu thuẫn trong chính sự tồn tại của mình, bởi đó là những mâu thuẫn của toàn bộ xã hội. Nhà trí thức, thông qua mâu thuẫn riêng của anh ta – mâu thuẫn trở thành chức năng của anh ta – bị đẩy đến chỗ phải tạo ra cho mình, và thông qua đó cho tất cả mọi người, một sự giác ngộ. Theo một nghĩa nào đó, anh ta trở thành người canh giữ những mục đích nền tảng (tinh thần khai phóng, phổ quát hóa, và do đó nhân bản hóa con người). Và bằng một nỗ lực tự phê phán không ngừng, nhà trí thức phải trở thành “người canh giữ nền dân chủ”. Nhà trí thức là kẻ can dự vào những gì không phải việc của mình, và tạo ra những ảnh hưởng tích cực nhờ quyền uy học thuật mà anh ta đạt được trong lĩnh vực chuyên môn (ở Việt Nam thì trường hợp Ngô Bảo Châu, Phan Đình Diệu hay Hoàng Tụy là những ví dụ mẫu mực cho nhận định này của Sartre).

11. Dĩ nhiên, sau này Sartre đã nhìn ra và tự mình phê phán sự bất lực vốn có của vị thế ấy, và đã quyết liệt muốn trở thành một “trí thức tả khuynh” thực sự, người muốn kết hợp lời nói với những hành động đấu tranh thực tiễn, chẳng hạn ra đứng ngoài đường bán báo La Cause du peuple hoặc Libération. Một kiểu hành động mà hôm nay có thể khiến người ta mỉm cười vì vẻ ngây thơ của nó, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của một ý chí không thể phủ nhận muốn làm cho hành động của mình luôn phù hợp với những lời nói của mình. Một sự trung thực đáng để chúng ta suy ngẫm.

12. Bài diễn thuyết thứ ba tìm cách trả lời câu hỏi: “Nhà văn có phải là một trí thức không?”. Bởi, xét cho cùng, dường như nhà văn thoát khỏi mâu thuẫn thường thấy ở các bác sĩ, kỹ sư hay nhà khoa học – mâu thuẫn giữa tri thức thực hành và ý hệ đặc trưng của những người trí thức, tức là những kẻ “can dự vào những gì không phải việc của mình”, nhưng lại có thể làm vậy nhờ vào uy tín trong lĩnh vực chuyên môn. Nhưng trách nhiệm của nhà văn còn to lớn hơn thế rất nhiều, bởi vì anh ta không chỉ dấn thân với tư cách cá nhân: viết luôn là viết cho người khác, tức là trình hiện một khía cạnh của thế giới để người đọc phải trả lời trước nó. Nhà văn là người mô tả một tình huống theo một cách khiến người đọc không thể phớt lờ nó, và buộc người đọc phải đảm nhận trách nhiệm tuyệt đối của mình trước tình huống ấy.

13. Chính ở đây, Sartre xác định “chức năng xã hội” của nhà văn: đó là đặt người đọc đối diện với tình huống của chính mình, sao cho họ buộc phải tự do lựa chọn với tất cả sự sáng suốt. Dấn thân văn học (engagement littéraire) vì thế khác hẳn các hình thức dấn thân khác. Nó khác với dấn thân đấu tranh chính trị (militant), vốn biến văn chương thành công cụ tuyên truyền, và vì vậy hoàn toàn quy phục các chuẩn mực của lĩnh vực chính trị. Trong tuyên truyền, mục đích là tác động trực tiếp lên ý thức của người khác, bằng mọi phương tiện, để buộc họ chấp nhận một hệ thống ý tưởng hay luận điểm. Trái lại, dấn thân văn học chính là đặt tự do của người đọc đối diện với chính sự choáng ngợp của tự do ấy, tức là buộc họ phải tự mình lựa chọn một lập trường trước tình huống được phơi bày.

14. Theo Sartre, nhà văn cần phải viết cho những người đương thời để họ có thể hành động, và lựa chọn vị trí ngay trong hiện tại. Nhà văn dấn thân – tức là người chấp nhận rằng mọi văn chương đều đã luôn mang tính dấn thân – sẽ từ chối cả hai cực đoan: hoặc đóng vai trò là tuyên truyền chính trị, hoặc rao giảng một thứ đạo đức luận vĩnh cửu – để tham dự vào cuộc đấu tranh của hiện tại và soi sáng cho thời đại của mình. Sartre đã viết: “Trong khi các trí thức khác thấy chức năng của họ nảy sinh từ mâu thuẫn giữa yêu cầu phổ quát của nghề nghiệp và tính đặc thù của giai cấp thống trị thì nhà văn lại tìm thấy trong công việc của mình nghĩa vụ phải gắn bó với thế giới sống động của con người, đồng thời gợi ý về sự phổ quát hóa như là sự khẳng định cuộc sống ở chân trời. Theo nghĩa này nhà văn không phải là một trí thức ngẫu nhiên như các người khác mà là trí thức từ ngay bản chất” (tr. 205)

15. Với ba bài diễn thuyết tại Nhật với chủ đề “Biện hộ cho trí thức”, Sartre đã trao cho trí thức một sứ mệnh kép: tự phê phán chính vị thế của mình và nỗ lực hướng tới một xã hội trong đó sự phân hóa trí thức/quần chúng sẽ dần biến mất. Tác phẩm vì thế là một lời kêu gọi – vừa nghiêm khắc vừa thiết tha – về trách nhiệm chính trị của tư duy trong thời hiện đại. Không nghi ngờ gì nữa, hình tượng nhà trí thức Pháp – từ Zola đến Sartre – nay đã thuộc về một dĩ vãng lịch sử. Nhưng nó vẫn để lại dấu ấn sâu đậm và lâu dài trong lịch sử ấy, đến mức ngày nay, người ta không còn than phiền về sự vắng mặt của trí thức, mà lại than phiền về quá nhiều kẻ “chơi trò trí thức”. Và giờ đây khi đọc lại những trang viết từ 60 năm trước của Sartre chúng ta vẫn có thể tin rằng ánh sáng của kỷ nguyên Khai sáng vẫn chưa tắt hẳn và chúng vẫn luôn được mời gọi quay trở lại để góp phần cảnh giới và tỉnh thức nhân loại.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.