Thơ Vasyl Stus

VASYL STUS: HÀNH TRÌNH THI CA VÀ KHÁT VỌNG TỰ DO

Lê Thọ Bình

Vasyl Stus (1938–1985) là một trong những nhà thơ kiệt xuất của văn học Ukraina hiện đại, nhưng đồng thời cũng là biểu tượng của khát vọng tự do và sự bất khuất trước chế độ toàn trị.

Sinh ở Rakhnivka (vùng Vinnytsia), lớn lên trong bối cảnh Stalin hóa và chiến tranh, ông sớm ý thức được giá trị của tiếng nói cá nhân và sự thiêng liêng của lựa chọn nghệ thuật, một lựa chọn khiến ông phải trả giá bằng tù đày và cuối cùng là tính mạng.

Sự nghiệp thơ của Stus mang rõ hai chiều: cảm thức cá nhân nội tâm sâu xa và trách nhiệm lịch sử-dân tộc nổi bật.

Từ tập thơ đầu tay như “Круговерть” (Whirlpool) đến “Зимові дерева” (Winter Trees) rồi tới “Палімпсести” (Palimpsests), văn bản thơ của ông chuyển hóa dần từ hình tượng thiên nhiên, linh hồn cá nhân, sang sự phản kháng mãnh liệt với áp bức và ý thức trách nhiệm công dân.

Stus không chỉ là nhà thơ “ở trong” mà là nhà thơ “phản kháng”, phản kháng với im lặng, với cưỡng chế, với một hệ thống khép kín không cho tiếng nói cá nhân nào thoát ra. Trong bài viết “When silence is a crime” (“Когда молчание – это преступление» – “Khi im lặng là tội lỗi”), người ta lưu ý: ông đã viết rằng “silence is a crime” («Молчание – преступление», “Im lặng là tội ác”) khi người trí thức Ukraina bị đàn áp.

Điểm đặc sắc trong thơ Stus là việc ông khai thác ngôn ngữ Ukraina như một không gian khẳng định bản thân, đồng thời khai thác tư liệu văn hóa, lịch sử, mang đến một “ngôn ngữ phản kháng”.

Trong một bài viết, Stus mô tả “the silence of Kyiv” («тишина Киева», “sự im lặng của Kiev”) bằng hình ảnh mạnh mẽ: “Kyiv of the 1960s falls silent after seeing a pack of pioneers: ‘ashamed, it bowed its head’.” («Киев 1960-х годов замолкает, увидев стаю пионеров: ‘стыдясь, он опустил голову’», “Kiev những năm 1960 lặng đi khi nhìn thấy đoàn Nhi đồng, xấu hổ, nó cúi đầu xuống’.”)

Bên cạnh đó, ông còn đối thoại với thơ ca châu Âu: Rilke, Pasternak, Tsvetaeva. Chính sự kết hợp giữa cảm xúc cá nhân mãnh liệt và cấu trúc hiện đại giúp thơ ông vượt ra khỏi khuôn khổ điển hình của thơ “cộng hòa Xô viết” và trở thành tiếng nói toàn cầu.

Thơ Stus không chỉ nói về nỗi đau, mà nói về nỗi đau như sứ mệnh. Trong thời tù đày, những bài thơ của ông, dù bị kiểm duyệt, bị tịch thu, vẫn lan truyền qua thư gửi vợ, gửi bạn bè. Tập thơ

Palimpsests chính là biểu tượng của “những lớp ký ức bị ghì đè”, nơi ông viết bằng chính thân thể và linh hồn mình.

Một trích đoạn nổi tiếng của Stus được lưu truyền nhiều nhất là: “A stranger lives my life and wears my body – it starts to seem – he spends my years on earth instead of me.”

(«Чужой живет моей жизнью и носит мое тело – кажется – он проживает мои годы на земле вместо меня».

“Có một kẻ lạ sống cuộc đời tôi và mang thân xác tôi – dường như – hắn đang tiêu hao những năm tháng của tôi trên mặt đất thay cho tôi.”)

Đây không chỉ là lời than cho thân phận cá nhân, mà là lời phản kháng trước sự mất mát danh tính, mất mát quyền nói, trong một hệ thống nơi “xác bạn có thể ở đó nhưng linh hồn bạn đã bị giam giữ”.

Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là “thơ của bản thể bị tước đoạt”. Stus dùng thơ để đòi lại cái tôi, không phải bằng tiếng hét mà bằng sự kiên định. Một nhà nghiên cứu người Ukraina nhận xét: “In Stus’s poetry, the human being appears as a personhood – reflective, moral, and uncompromising.” («В поэзии Стуса человек предстает как личность – мыслящая, нравственная и непримиримая». “Trong thơ Stus, con người hiện ra như một nhân vị – một cá thể suy tư, có đạo đức và không khoan nhượng.”)

Chính ý niệm “nhân vị” này làm nên tầm vóc triết học trong thi ca của ông. Khi đối mặt với sự hủy diệt của cá tính trong chế độ độc đoán, hành vi viết, và viết bằng tiếng mẹ đẻ, trở thành một hành động cách mạng. Stus từng nói trong nhật ký: “I want my words to live longer than my body.” («Я хочу, чтобы мои слова жили дольше моего тела» – “Tôi muốn lời nói của mình sống lâu hơn thân xác này.”)

Thơ Stus là chứng nhân cho thời đại nhưng cũng là bản tuyên ngôn cho sự tự do của linh hồn. Khi những người cùng thế hệ chọn im lặng, ông chọn viết. Khi bị bắt, ông chọn tiếp tục viết. Và trong trại Perm-36 lạnh giá, giữa màn đêm của hệ thống trừng phạt, ông vẫn gửi gắm: “Even in chains, I am free – for I am faithful to myself.” («Даже в цепях я свободен – потому что я верен себе»- “Ngay cả trong xiềng xích, tôi vẫn tự do – bởi tôi trung thành với chính mình.”)

Khi Stus qua đời năm 1985 trong trại lao động ở vùng Perm, ở tuổi 47, nhiều người tưởng tiếng nói của ông sẽ bị chôn vùi. Nhưng không, những dòng thơ của ông đã vượt qua bức tường nhà tù, vượt qua biên giới, trở thành ánh sáng soi đường cho cả một thế hệ Ukraina tìm lại bản sắc dân tộc.

Hôm nay, khi thế giới đọc lại Stus, người ta không chỉ đọc để hiểu quá khứ, mà để nghe tiếng nói về nhân phẩm. Thơ ông không chỉ là lịch sử của đau thương mà còn là tuyên ngôn của sự kiêu hãnh: một dân tộc nhỏ bé có thể bị chà đạp, nhưng sẽ không bao giờ bị khuất phục.

Tên của ông giờ đã đi vào lịch sử: Đại học Quốc gia Donetsk mang tên Vasyl Stus; Giải thưởng Vasyl Stus Prize được trao cho những nhà văn, nghệ sĩ “tài năng và dũng cảm, dám nói tiếng nói của sự thật”. Di sản của ông là minh chứng rằng ngôn từ, nếu trung thực, có thể mạnh hơn bạo lực.

Vasyl Stus không chỉ là nhà thơ của Ukraina, mà là nhà thơ của nhân loại đang đi tìm tự do trong bóng tối. Ông nhắc ta nhớ rằng thi ca, trong bản chất sâu xa nhất, không phải là trang sức cho ngôn ngữ mà là sự cứu chuộc cho linh hồn.

Khi đọc lại những câu thơ của ông, ta không chỉ cảm nhận nỗi đau hay khát vọng, mà còn thấy chính mình trong đó, giữa giằng co của im lặng và lên tiếng, của cúi đầu và ngẩng mặt. #Stus chọn ngẩng đầu, chọn nói. Và chính vì thế, ông sống mãi.

Xin giới thiệu hai bài thơ của Vasyl Stus.

Bài 1:

Терпи

 

Nguyên tác (tiếng Ukraina):

Терпи, терпи- терпець тебе шліфує,

сталить твій дух- тож і терпи, терпи.

Ніхто тебе з недолі не врятує,

ніхто не зіб’є з власної тропи.

На ній і стій, і стрій- допоки скону,

допоки світу й сонця- стій і стій.

Хай шлях- до раю, пекла чи полону-

усе пройди і винести зумій.

Торуй свій шлях- той, що твоїм назвався,

той, що обрав тебе навіки вік.

До нього змалку ти заповідався

до нього сам Господь тебе прирік.

 

Bài 2:

Сто років як сконала Січ

 

Сто років як сконала Січ.

Сибір. І Соловецькі келії.

І глупа облягає ніч

пекельний край і крик пекельний.

Сто років мучених надій,

і сподівань, і вір, і крові

синів, що за любов тавровані,

сто серць, як сто палахкотінь.

Та виростають з личаків,

із шаровар, з курної хати

раби зростають до синів

своєї України-матері.

Ти вже не згинеш, ти двожилава,

земля, рабована віками,

і не скарать тебе душителям

сибірами і соловками.

Ти ще виболюєшся болем,

ти ще роздерта на шматки,

та вже, крута і непокірна,

ти випросталася для волі,

ти гнівом виросла. Тепер

не матимеш од нього спокою,

йому ж рости і рости, допоки

не упадуть тюремні двері.

І радісним буремним громом

спадають з неба блискавиці,

Тарасові провісні птиці-

слова шугають над Дніпром.

***

Dưới đây là bản dịch tiếng Việt (Lưu ý: bản dịch mang tính tham khảo và không mang tính chính thức.)

Bài 1:

ĐỜI CHỊU ĐỰNG

Hãy chịu đựng, vì chính sự chịu đựng

mài giũa em thành đá cứng,

rèn linh hồn em thành thép,

vậy thì, chịu đựng đi, chịu đựng.

Không ai cứu nổi em khỏi khổ đau,

không ai đẩy em rời con đường của chính mình.

Trên đó, hãy đứng, hãy giữ lấy, đến tận cùng, khi mặt trời tắt sáng,

hãy đứng,

và đứng.

Dẫu con đường đưa tới thiên đàng,

hay đẩy em xuống địa ngục,

hay quăng em vào tù tội, ơi

hãy bước qua tất cả,

và học cách vượt qua bằng chính mình.

Hãy mở lối, con đường mang tên em,

con đường đã chọn em từ muôn kiếp.

Từ tấm bé em đã hẹn cùng nó,

và Thượng Đế,

cũng đã định phần em – phải đi đến tận cùng.

 

Bài 2:

TRĂM NĂM KỂ TỪ KHI SICH SỤP ĐỔ

 

Trăm năm rồi – Sich đã chết.

Siberia lạnh và những phòng tu Sôlôvêtski,

đêm ngu si bủa vây mọi nẻo,

tiếng khóc vang nơi địa ngục.

Trăm năm của hy vọng bị nghiền nát,

của tin yêu, của máu, của bao linh hồn,

những đứa con bị đóng dấu vì yêu,

trăm trái tim cháy đỏ – trăm ngọn lửa rừng.

Nhưng từ bùn lầy,

từ túp lều xơ xác,

những kẻ nô lệ lớn lên thành con trai,

những người con chính nghĩa của Mẹ Ukraina.

Ngươi sẽ không còn gục ngã nữa,

hỡi đất hai mạch bền gan,

đã bị cướp bóc qua bao thế kỷ,

nhưng không kẻ thống trị nào

dìm nổi ngươi bằng xiềng Siberia,

hay ngục tối Sôlôvêtski.

Ngươi vẫn quằn đau,

vẫn bị xé thành muôn mảnh,

nhưng rồi, kiêu hãnh và bất khuất,

ngươi đã vươn lên vì tự do.

Ngươi lớn dậy trong cơn thịnh nộ,

và giờ, chẳng còn yên nghỉ,

sẽ lớn lên mãi, lớn mãi,

cho đến ngày

cánh cửa nhà tù gục ngã.

Khi ấy,

trong cơn mưa giông rực sáng,

tia chớp trút xuống từ trời cao,

những con chim báo tin của Taras

bay vút qua sông Dnipro,

mang theo tiếng hát của tự do.

 

Lời bình:

Trong “Đời chịu đựng”, sự khổ đau trở thành hành trình khai sáng, “rèn linh hồn thành thép”. Còn “Trăm năm kể từ khi Sich sụp đổ” là khúc bi tráng của dân tộc bị xiềng xích, nhưng vẫn vùng dậy từ tro tàn.

Cả hai bài thơ đều vang lên như tiếng chuông, vừa u buồn, vừa kiêu hãnh, của một thi sĩ đã chết trong ngục vì không khuất phục, để lại di sản tinh thần sánh cùng những vĩ nhân như Solzhenitsyn hay Mandelstam.

(Bài viết năm 2020, nay mới đăng) – L. T. B

This entry was posted in Thơ and tagged , . Bookmark the permalink.