Hoạ sỹ Bùi Quang Ngọc, người-đương-đại

Như Huy

1. Khái niệm “diễn ngôn” của Foucault thật ra, có thể diễn giải là dùng để nói về một địa bàn của các giọng điệu xung đột, mà ở đó, nhất thời, có một giọng điệu trội lên và đè bẹp đi các giọng điệu khác. Sự trội lên của cái giọng điệu nào đó phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện, cả khách quan cả chủ quan, mà điều kiện quan trọng nhất đó là cái mà Foucault gọi là hệ thức (episteme) của thời đại, tức điều cũng giống với khái niệm hệ hình (paradigma) của Thomas Kuhn. Sự chuyển giao thời đại, theo Foucault, đó là sự chuyển giao từ hệ thức này sang hệ thức khác, và theo đó, từ các diễn ngôn này sang các diễn ngôn khác.

Chẳng hạn tính hiện đại là một hệ thức, và nó lên cao nhất trong chủ nghĩa hiện đại. Chính chủ nghĩa hiện đại mở ra các diễn ngôn mới mẻ, chẳng hạn về sự văn minh đối lập với lạc hậu, về sự cách tân đối lập với cổ lỗ và nguyên trạng, vân vân. Thế rồi, tính hiện đại lại bị tính hậu (hay phản) hiện đại thay thế, và rồi các diễn ngôn khác lại tiếp tục mở ra

2. Có một điểm cần lưu ý ở đây. Đó là khái niệm chân thể (Truth). Sự thay đổi hệ thức và theo đó là sự nổi lên của các diễn ngôn không nên được hiểu là cuộc đấu của cái đúng chống lại cái sai, của cái tinh chất hơn chống lại cái thô sơ hơn. Cách hiểu này, thực chất, cũng là một diễn ngôn. Trái lại, khi nhìn thế giới bằng con mắt của Bergson hay Heidegger, tức con mắt vượt khỏi quan niệm thời gian như một chuỗi tuyến tính của các điểm, mà như một thể thống nhất với chính không gian (theo Heidegger) hoặc như một tính cường độ nhất thể luôn đang mở ra và tăng giảm (theo Bergson), ta sẽ thấy sự nổi lên của các diễn ngôn hay sự xuất hiện của cả các hệ thức hay hệ hình khác nhau, thật ra chỉ là sự vận động của MỘT CHÂN THỂ, theo những cách khác nhau, phụ thuộc vảo các “duyên khởi” khác nhau.

Chẳng hạn, các công thức của Newton thật ra không phải là điều gì “thô sơ” hơn công thức của Einstein mà chỉ là một cách đọc về sự vận hành của vũ trụ, giống y hệt cách đọc của công thức Einstein. Đây là hai khoảnh khắc của chân thể (ereignis), theo Heidegger, và hai cường độ của vận động (theo Bergson), và cả hai đều NÓI ĐÚNG về thế giới. Việc nhìn nhận Newton “lạc hậu” hơn Einstein chính là một quan điểm dựa trên diễn ngôn về lạc hậu và cách tân, và diễn ngôn này dựa trên hệ thức của thời hiện đại.

3. Từ góc nhìn này, ta hiểu rằng, các diễn ngôn thật ra có hiệu lực chân thể ngang nhau. Sự nổi lên của diễn ngôn này, đồng thời chính là sự bị đè bẹp của diễn ngôn khác. Điều này cũng không có nghĩa rằng diễn ngôn nào đó sẽ thống trị mãi mãi. Sử học, và chính môn khảo cổ học tri thức (bắt đầu từ Nietzsche, đến Heidegger và sau này, đến Foucault) là công cụ để nhận ra các diễn ngôn bị đè bẹp đó. Lấy ví dụ trong sử học, chính môn vi lịch sử đã tìm ra các diễn ngôn bị môn lịch sử chính thống đè bẹp, còn trong phê bình nghệ thuật, chính môn tâm phân học đã tìm ra các diễn ngôn ẩn giấu (bị đè bẹp) trong các tác phẩm, chẳng hạn của Francis Bacon.

Để sử dụng chính phương cách dựa trên hệ thức hiện đại, tức hệ thức dựa trên cách quan niệm thời gian tuyến tính một chiều bắt nguồn từ thời Hy Lạp, ta có thể nói rằng, ở đây, trong sự nổi lên và mất đi của các diễn ngôn trong dòng thời gian tuyến tính, có hai lực trái nhau. Một lực đi về phía sau của dòng thời gian, khi các diễn ngôn cũ đã không phù hợp với hệ thức mới, và bị các diễn ngôn của hệ thức mới – tức là các diễn ngôn đi về phía trước của dòng thời gian – thay thế.

4. Triết gia Ý G. Agamben (“What Is the Contemporary?”. Trong What is an Apparatus? And Other Essays, David Kishik và Stefan Pedatella dịch. Stanford: Stanford University Press, 2009, tr. 45) có một quan niệm thú vị về con người đương đại, mà ông hiển ngôn viết ra như sau:

“The ones who can call themselves contemporary are only those who do not allow themselves to be blinded by the lights of the century, and so manage to get a glimpse of the shadows in those lights, of their intimate obscurity.”

Tạm dịch:

“Kẻ xem bản thân là đương đại chỉ là những kẻ không để mình bị chói mắt trước ánh sáng của thế kỷ, và như vậy, sẽ tìm cách để có một cái nhìn loáng thoáng vào cái bóng tối của thứ ánh sáng ấy, tức vào cái miền u thẳm thân thuộc của những ánh sáng ấy.”

Nói đơn giản, một người-đương-đại không phải là người sống vui tươi thành toại trong thời đại của mình, như cách hiểu thông thường, mà là một người dấn thân và chịu đựng vị trí vừa ở trong, vừa ở ngoài thời đại trực tiếp của mình. Có thể dùng chữ lạc-thời ở đây để nói về người đương-đại. Lạc-thời, là hiểu theo cái nghĩa rằng một người-đương-đại đích thực luôn không thuộc về/không lắp vừa cái thời đại mà họ đang sống. Tất cả những ai phù hợp hoàn toàn với thời đại của họ, chẳng hạn: yêu đúng thứ nghệ thuật đang phổ biến, diện đúng thứ thời trang đang phổ biến, nói đúng các chủ đề đang phổ biến, đến đúng các tụ điểm vui chơi đang phổ biến, vân vân, thì không bao giờ có thể là con người đương đại đích thực bởi một lý do đơn giản: những người này đã không có được một khoảng cách cần thiết với chính cái thời đại mà họ đang sống, để nhờ đó, họ có thể trở nên một sự hiện hữu ngay nơi rìa biên xa nhất của cái thời đại ấy, tức sự hiện hữu nguy hiểm nhất, như một câu thơ của Hữu Thỉnh trong Trường ca biển: “Điều này giống như sống trên mũi giáo”.

5. Chưa bàn đến nội dung, mà chỉ nói tới mô thức con người đương đại theo cách Agamben định nghĩa, ta đã thấy ở đây một dạng tồn tại mà tôi muốn dùng khái niệm phản-diễn ngôn, tức một thứ tồn tại vừa là thế này, vừa là thế khác, vừa ở trong, vừa ở ngoài, hay nói đúng hơn là một thứ tồn tại theo mẫu không-thế này, cũng chẳng thế kia (neither nor). Dạng tồn tại này thực tế là một mẫu mà khung thời gian tuyến tính không thể nắm bắt bởi lý do đơn giản: tồn tại kiểu ấy không phải là một điểm trong dòng thời gian, mà nó thật ra là không-ở-đâu trong cái dòng ấy. Có thể nói theo Heidegger, cái tồn tại ấy không ở trong thời gian, mà nó chính là bản chất của thời gian. Còn nói theo Bergson, cái tồn tại ấy không phải là một ẩn dụ về không gian, hiểu như là một hành động được quyết định dứt khoát như một điểm then chốt, sau khi đã cân nhắc nhiều quyết định khác, mà đó là một sự tăng giảm cường độ theo mẫu của một giai điệu âm nhạc (*) mà ở đó ta không thể phân biệt nốt này với nốt khác, sự chuyển điệu này với sự chuyển điệu khác mà không phá bỏ đi tính thống nhất về giai điệu của toàn thể.

6. Rõ ràng là cái dạng tồn tại kiểu này là rất khó cắt nghĩa và nhận ra theo hệ thức hiện đại, tức một hệ thức đặt cơ sở vào tính phản tư và vào sự tiến bộ. Tuy nhiên kể cả với hệ thức hậu hiện đại đi nữa, với đặc tính cơ sở là sự phân mảnh và phi-thời cũng không thể cắt nghĩa được dạng tồn tại này, bởi đặc tính nhất thể và là-thời gian của kiểu tồn tại ấy sẽ giải huỷ mọi cắt nghĩa về phân mảnh và phi-thời. Đây chính là một mẫu tồn tại mà Nguyễn Trãi thật ra đã viết rõ trong hai câu thơ nổi tiếng của ngài “Hé (khép) cửa đêm chờ hương quế lọt/Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan” – mà ở đó hành vi không mở toang cửa để đón hương quế và vừa quét hiên vừa sợ bóng hoa tan mất đã cho thấy rõ tính phi/phản hiện đại của chúng ở khoảnh khắc lưng chừng – vừa không chờ hương quế, vừa chờ hương quế, và vừa quét hiên nhà, vừa sợ bóng hoa tan mất (thế thì sao không ngừng quét? Ơ kìa —> một suy tư Tây phương hiện đại thực chứng logic hẳn sẽ hỏi vậy).

7. Với tôi, thực hành nghệ thuật của hoạ sỹ Bùi Quang Ngọc chính là một kiểu tồn tại lưng chừng như vậy. Xét về hành trạng, ông là hoạ sỹ thuộc khoá đầu tiên khi trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội mở lại tại Hà Nội sau kháng chiến chống Pháp (không tính khoá kháng chiến tổ chức trong rừng Việt Bắc). Ông từng đỗ thủ khoa đầu vào và là một hoạ sỹ hứa hẹn đầy tài năng. Sau tai nạn Nhân văn – Giai phẩm, ông về Quảng Ninh sống và làm việc như một hoạ sỹ vẽ tranh tường. Thời đổi mới, ông xuất hiện trở lại như một hoạ sỹ vẽ chân dung bậc thầy, cùng với các bức bố cục không giống bất kỳ một hoạ sỹ Việt Nam nào cùng hay trước thời, với kỹ thuật điêu luyện và cách nhìn thế giới độc đáo, bán trừu tượng. Đây cũng là lúc ông bắt đầu sự nghiệp phê bình nghệ thuật, và thành tựu lớn của ông là giải nhì (không có giải nhất) của Hội Mỹ thuật Việt Nam cho tác phẩm phê bình nghệ thuật viết về danh hoạ Nguyễn Gia Trí.

Có thể nói cái tồn tại lưng chừng (in-between) của Bùi Quang Ngọc đã làm chính ông khó được nhận ra trong con mắt những người cùng thời với ông. Ông như một hiện diện đơn độc, mà nỗ lực duy nhất không phải là hoà nhập vào các diễn ngôn, hoặc chính thống, hoặc phản chính thống của thời đại của ông, mà chỉ là – như Agamben nói – gắng tìm cách để “có một cái nhìn loáng thoáng vào cái bóng đổ của thứ ánh sáng ấy, tức vào cái miền u thẳm… “.

Khi các hoạ sỹ Việt Nam đua nhau dùng các yếu tố dân gian để tạo nên một thời đại mới của nghệ thuật tạo hình hội nhập quốc tế, Bùi Quang Ngọc mải mê với các bức sơn dầu bán trừu tượng vẽ đông người, không ai rõ chân dung. Khi các hoạ sỹ Việt Nam đua nhau làm các tác phẩm đương đại như sắp đặt trình diễn, phù hợp với thời đại mới hội nhập nghệ thuật đa phương tiện quốc tế, Bùi Quang Ngọc tạo ra loạt chân dung bè bạn – những nhân vật mà ông cảm phục, đều ít nhiều liên quan đến Nhân văn – Giai phẩm, mà mỗi chân dung, đều vừa tuyệt đẹp về bút pháp và linh hồn (facture) vừa toả sáng những nỗi niềm của chính ông trước thời đại khổ đau.

Với tôi, Bùi Quang Ngọc như một người luôn đi trệch khỏi mọi trào lưu, và lặng lẽ, hình như, cứ chìm dần vào bóng tối, xa dần với những tiếng tung hô hợp mốt…

Thế nhưng,

Hãy cẩn trọng, cái cộng đồng và thời đại nông nổi, chuộng face hơn portrait, chuộng avatar hơn bản sắc, chuộng status hơn state of mind này.

Môn khảo cổ học tri thức của Nietzsche, của Heidegger, hay của Foucault đã từng hơn nhiều lần làm lộ ra các mỏ quặng vàng kim cương tưởng chừng quên lãng, và đặt nó vào các ngôi vị chính xác của hệ phân cấp nguyên bản hơn hay ít nguyên bản hơn, nguồn gốc hơn hay ít nguồn gốc hơn – ấy là nói theo mô hình cắt nghĩa dựa vào thời gian tuyến tính; và các nghiên cứu vi lịch sử thì cũng đã hơn nhiều lần làm lộ ra các dạng tồn tại mà xã hội đương thời khi đang bị một hệ thức nào đó thống trị, không thể nhận ra – nhưng chính cái mô hình tồn tại đó lại vô cùng quan trọng bởi nó đứng ra ngoài mọi hệ phân cấp nhị phân để cho chúng ta thấy rõ hơn điều gì là bản chất của cõi sống.

Heidegger với bài viết tuyệt vời về đôi giày của Van Gogh, hay Carlo Ginzburg với nghiên cứu khai minh về tay thợ làm phô-mai Menocchio chính là các ví dụ nhãn tiền về các sự tái tiếp cận lịch sử và mở ra các viễn kiến quan trọng và mới mẻ cho chúng ta về điều gì mới là tầm quan trọng đích thực.

Hãy tin tôi, tôi tin chắc rằng, rổi sẽ đến lúc (không quá muộn đâu), một người-đương-đại như Bùi Quang Ngọc sẽ được hiện lên rõ ràng và rỡ ràng hơn trước chúng ta.

———

(*) Henri Bergson rất thích dùng ví dụ một giai điệu (melody) để nói về tính đồng bộ của thời tục (durré/duration). Tuy nhiên điểm thú vị là, dù phê phán Henri Bergson ở góc độ coi Bergson chưa đạt tới tầm bản thể học trong tiếp cận của ông này, chính Heidegger, trong Ở trong Đạo của ngôn ngữ (Unterwegs zur Sprache, 1959 | On the Way to Language) lại tiếp cận khái niệm melody (melos|μέλος) theo đúng cách mà Bergson bàn về thời tục – xét như cấu trúc đích thực của toàn bộ cõi sống.

Theo Heidegger, chữ melos có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại, nơi nó vốn mang nghĩa “chi thể” hoặc “bộ phận của cơ thể”, – rồi sau đó mới phát triển thành “đoạn nhạc”, “câu hát” hay “giai điệu”.

Gốc của melos nằm sâu trong ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy, từ âm tiết mel – hoặc melh₂– chỉ sự phân chia, mảnh rời, như cách một chi thể dẫu tách biệt nhưng vẫn thuộc về toàn thể.

Trong văn học và âm nhạc Hy Lạp cổ đại, melos không chỉ là một chuỗi nốt nhạc, mà là một đơn vị có cấu trúc, mang nhịp điệu và biểu lộ xúc cảm, như những khúc ca của Pindar hay Aeschylus.

Heidegger không dùng melos theo nghĩa tự vị. Ngài thông diễn nó ngược về cách hiểu nguyên thủy, gần gũi với thế giới Hy Lạp cổ đại tiền siêu hình học, để cho thấy cách thức mà chân thể – hiểu như là alētheia – tức sự hết bị che giấu được ngôn ngữ nói năng (Rede) làm cho xảy ra.

Với Heidegger, melos chính là sự nói ra bằng cách ngân nga (lưu ý, người Việt không đọc thơ, mà luôn “NGÂM” thơ). Nó không truyền tải thông tin, không mô tả cõi sống như danh sách của các vật riêng lẻ, mà để chính cõi sống như một toàn thể ngân lên thông qua người hát. Ngôn ngữ và nghĩa cụ thể ở đây không còn chỉ là công cụ, hay sự “đóng khung” thực tại theo các mẫu sẵn (Gestell), mà đã trở thành một sự biến (Ereignis) nhờ đó chân thể chớp nhoáng hiện ra.

Tóm lại, theo Heidegger, melos chính là phương tiện triết học-thơ ca, khiến cho chân thể xuất hiện ra. Nó là khúc ca làm cho thế giới không chỉ được nói đến, mà được ngân nga, được hiện ra ở góc độ bản chất nguyên lai.

Một số tác phẩm của hoạ sỹ Bùi Quang Ngọc:

Chân dung tự hoạ

Chân dung Bùi Xuân Phái và Nguyễn Gia Trí

Các phác thảo trừu tượng

Loạt tranh chợ/đám đông

This entry was posted in Nghệ thuật and tagged . Bookmark the permalink.