120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Bài diễn thuyết thứ nhất: Thế nào là một trí thức?(*)

Jean-Paul Sartre

Phạm Anh Tuấn dịch

1

HOÀN CẢNH CỦA TRÍ THỨC

Chỉ cần xem xét những trách móc về trí thức ắt hẳn có thể buộc họ nhiều tội lớn. Cũng thật ngạc nhiên là những lời chỉ trích họ ở khắp nơi đều giống hệt nhau. Ở Nhật Bản, chẳng hạn, khi tôi đọc nhiều bài đăng trên các báo, tạp chí của Nhật, được dịch sang tiếng Anh cho phương Tây, tôi cứ tưởng như xưa nay mình vẫn hiểu, rằng sau thời Minh Trị thì đã có sự tách rời giữa quyền lực chính trị và giới trí thức; sau Thế chiến II, nhất là giai đoạn 1945-1950, hình như người ta cho rằng trí thức đã nắm quyền lực chính trị và đã làm nhiều điều gây bất bình. Cũng vào giai đoạn này, nếu đọc báo chí của nước tôi thì thấy có vẻ như trí thức đã thống trị ở nước Pháp và đã gây ra những thảm họa: đó là giai đoạn tái quân phiệt hóa xã hội vì chiến tranh lạnh, cả ở Nhật cũng như ở Pháp sau đại họa súng đạn (nước tôi gọi là thắng trận còn các vị gọi là bại trận). Giới trí thức tuyệt nhiên chẳng hiểu gì về cái tiến trình này. Ở đất nước của các vị hay ở đất nước chúng tôi người ta đều lên án trí thức vì cùng những lí do như nhau, lí do nào cũng kịch liệt và mâu thuẫn. Ở Nhật thì người ta nói rằng trí thức sinh ra là để bảo tồn và truyền thừa văn hóa, do đó về bản chất trí thức là những người bảo thủ, song họ nhầm lẫn về chức phận và vai trò của họ và thế là họ đã thành ra chỉ nhìn thấy cái ác trong lịch sử nước mình, phê phán và tiêu cực, không ngừng công kích chính quyền. Do đó họ đã nhầm lẫn tất tật, điều này có lẽ cũng không nghiêm trọng lắm giá như trong những hoàn cảnh hệ trọng, họ đã không lừa dối cả Nhân dân.

Lừa dối Nhân dân! Lừa dối nhân dân nghĩa là: làm sao cho nhân dân quay lưng lại với những lợi ích của chính mình. Nói vậy nghĩa là ở trong cùng một địa hạt, trí thức và chính quyền đều sử dụng một quyền lực nào đó? Không, hễ trí thức tự gạt bỏ thái độ bảo thủ về văn hóa, là cái định nghĩa hành động và chức phận của họ, thì y như rằng người ta chỉ trích họ là rơi vào thái độ bất lực: ai lắng nghe trí thức đây? Vả lại, trí thức do bản tính là yếu đuối: họ không sản xuất và chỉ sống bằng đồng lương, điều này tước bỏ ở họ mọi khả năng tự vệ, cả trong xã hội dân sự lẫn trong chính giới. Thế là họ bị xem là những kẻ vô tích sự, những kẻ hay dao động; do không có quyền lực kinh tế hoặc quyền lực xã hội, nên trí thức tự coi mình là một tầng lớp tinh hoa, họ được hỏi ý kiến để phán xét đủ mọi thứ, thế nhưng họ đâu có phải tinh hoa. Đây chính là nguyên nhân của thái độ đạo đức chủ nghĩa hoặc lí tưởng chủ nghĩa nơi họ (họ suy nghĩ như thể họ đã đang sống trong tương lai xa xôi và phán xét thời cuộc của chúng ta bằng quan điểm trừu tượng về tương lai).

Phải bổ sung thái độ giáo điều của họ; trí thức tự qui chiếu tới những nguyên tắc không phải ai cũng hiểu thấu được, trừu tượng, nhưng lại đòi quyết định người khác phải làm gì. Dĩ nhiên ở chỗ này có người đang nghĩ tới học thuyết Marx; như thế là rơi vào một sự mâu thuẫn mới mẻ nữa, bởi lẽ học thuyết Marx về nguyên tắc là đối lập lại với thái độ cổ xúy đạo đức chủ nghĩa. Sự mâu thuẫn này cũng chẳng gây phiền phức gì cho trí thức bởi lẽ thái độ mâu thuẫn này là do người khác phóng chiếu lên họ mà thôi. Dù sao đi nữa, người ta đem đối lập thuyết duy thực của những chính sách đối lập lại với thái độ đạo đức chủ nghĩa này: trong khi trí thức phản bội lại chức năng của họ, lẽ sống của họ, và tự đồng nhất mình với cái “tinh thần luôn luôn phủ định”, thì giới chính trị, ở đất nước chúng tôi (Pháp) lẫn ở đất nước của các vị (Nhật Bản), đã tái thiết lại đất nước bị chiến tranh tàn phá, họ làm điều này một cách khiêm tốn, họ chứng tỏ cho thấy một chủ nghĩa duy nghiệm khôn ngoan, nó đích xác gắn liền với các truyền thống và, trong những trường hợp nhất định, là với những thực tiến mới mẻ (và những lí thuyết) của thế giới Tây phương. Nhìn bằng quan điểm này, ở Âu châu người ta đi xa hơn ở Nhật Bản. Ở Nhật Bản, người ta coi trí thức như là một cái không mong muốn nhưng phải chấp nhận [un mal nécessaire]: người ta cần đến họ để bảo tồn, truyền thừa, làm giàu có nền văn hóa; có những trí thức nào đó bao giờ cũng là những con chiên ghẻ, chỉ cần chống lại sự ảnh hưởng của họ. Ở nước chúng tôi, người ta loan báo cái chết của trí thức: do ảnh hưởng của những quan niệm của Mĩ, người ta tiên đoán sự biến mất của những kẻ tự cho rằng mình cái gì cũng biết: sự tiến bộ của khoa học gây ra một hệ quả, đó là trí thức đại học sẽ được thay thế bằng các nhóm nghiên cứu chuyên môn hóa một cách nghiêm ngặt.

Bất chấp những mâu thuẫn trong những phê phán nhằm vào người trí thức, liệu có thể tìm thấy một ý nghĩa chung trong đó hay không? Có thể. Chỉ xin được nói thế này, đó là mọi sự phê phán đều bắt nguồn từ một sự trách cứ có tính căn bản: trí thức là kẻ lớ xớ vào những chuyện chả liên quan đến mình và họ có tham vọng thách thức toàn bộ những sự thật được thừa nhận rộng rãi và những cách hành xử nhân danh một quan niệm có tính tổng thể về con người và xã hội – ngày nay quan niệm ấy là không thể có, do đó nó trừu tượng và sai lạc – bởi lẽ các xã hội phát triển được định nghĩa là nó phải đa dạng hóa cực độ về các phương thức sống, về các chức năng xã hội, về những vấn đề cụ thể. Như vậy, đúng thật là trí thức là kẻ lớ xớ vào những chuyện chả liên quan gì đến mình. Điều này rất đúng ở đất nước chúng tôi, đến nỗi từ “trí thức” được áp dụng cho những cá nhân đã từng rất nổi tiếng hiểu theo nghĩa tiêu cực của từ này khi xảy ra vụ án Dreyfus. Đối với phe chống Dreyfus, thì việc tuyên bố trắng án hay kết tội viên đại úy Dreyfus là chuyện của tòa án binh và, xét cho cùng, liên quan đến các tòa án binh, đến Bộ Tổng tham mưu: phe bênh vực Dreyfus, bằng việc khẳng định Drefus vô tội, đã tự đặt mình ở vị thế vượt quá thẩm quyền của họ. Do đó, khởi đầu, trí thức là hễ ai xuất hiện ra như một kiểu người sau khi đã có được sự nổi tiếng nào đó bằng các công trình trí tuệ (khoa học chính xác, khoa học ứng dụng, y học, văn học, v.v.) và họ tận dụng sự nổi tiếng này để vượt quá thẩm quyền của mình, để phê phán xã hội và các quyền lực được xác lập nhân danh một quan niệm có tính tổng thể và giáo điều (mơ hồ hoặc cụ thể, cổ xúy đạo đức hay cổ xúy chủ nghĩa Marxiste) về con người.

Và, nếu ta muốn có một ví dụ về một quan niệm tổng thể như vậy về người trí thức, tôi sẽ nói ngay rằng ta sẽ không gọi các nhà khoa học nghiên cứu sự phân hạch của bom nguyên tử để hoàn thiện các phương tiện của chiến tranh nguyên tử, là “trí thức”: họ là các nhà khoa học, có thế thôi. Nhưng cũng chính các nhà khoa học này, sợ hãi vì sức mạnh hủy diệt của các dụng cụ do họ góp phần chế tạo nên, nếu họ tập hợp lại và cùng kí một bản tuyên bố cảnh báo công luận về việc sử dụng bom nguyên tử, họ trở thành những trí thức. Thật vậy: 10 họ hành xử vượt quá thẩm quyền của mình: chế tạo một quả bom là một chuyện, phê phán việc sử dụng nó là một chuyện khác; 2họ tận dụng sự nổi tiếng hay năng lực chuyên môn đã được thừa nhận, để tác động mạnh mẽ tới quan điểm, qua đó ngụy trang cái vực thẳm không thể vượt qua, cái vực thẳm làm tách rời một mặt là tri thức khoa học của họ mà mặt khác là nhận thức chính trị của họ xuất phát từ những nguyên tắc khác, về cái dụng cụ do họ phát triển; (3) Thực ra, họ không lên án việc sử dụng quả bom mặc dù đã nhận ra những điều khiếm khuyết kĩ thuật, nhưng nhân danh một hệ giá trị rõ ràng là có thể tranh luận, coi sự sống con người là tiêu chuẩn tối cao.

Những nỗi bất bình căn bản này có giá trị gì? Chúng có tương ứng với một thực tế? Chúng ta không thể trả lời dứt khoát được mà không trước tiên xem thử thế nào đúng là một trí thức?

2

THẾ NÀO LÀ MỘT TRÍ THỨC?

Vì người ta trách cứ một trí thức là vượt quá thẩm quyền của anh ta, do đó có vẻ như anh ta là một trường hợp đặc thù trong tập thể những con người được định nghĩa qua những chức năng được thừa nhận về mặt xã hội. Chúng ta hãy xem như thế nghĩa là gì.

Mọi thực tiễn [praxis] đều bao gồm nhiều mômen. Mỗi hoạt động đều phủ định một phần cái gì đúng như nó là (phạm vi thực tiễn được đem lại như là tình huống phải biến đổi) vì cái gì không là [chưa có] (mục đích phải đạt tới), tái phân bổ những dữ kiện đầu tiên của tình huống để, xét cho cùng, tái tạo lại cuộc sống). Nhưng việc phủ định này làm phơi lộ ra và đi kèm với một sự khẳng định bởi vì ta hiện thực hóa cái gì không tồn tại  bằng cái gì tồn tại, sự nắm bắt này làm vén mở ra cái gì tồn tại xuất phát từ cái gì không tồn tại phải làm sao cho cụ thể nhất, vì sự nắm bắt phải tìm thấy, trong cái gì được đem lại, một phương tiện để hiện thực hóa cái gì vẫn chưa có (sự kháng cự lại việc yêu sách về một vật liệu được phơi lộ ra tùy thuộc sức ép mà nó phải chịu đựng). Như vậy thực tiễn chứa đựng tri thức thực tiễn bất cứ lúc nào nó vén mở, vượt bỏ, bảo toàn và đã làm biến đổi hiện thực. Quá trình tìm kiếm và chân lý thực tiễn ở cấp độ này, được định nghĩa như sự nắm bắt đối với cái tồn tại với tính cách nó chứa đựng tính khả thể của sự biến đổi được hướng tới nơi chính nó. Chân lý đến với cái tồn tại bắt đầu từ cái không-tồn tại, đến với hiện tại từ tương lai có tính cách thực tiễn. Theo quan điểm này, ý đồ được hiện thực hóa là cách kiểm đúng [vérification] cho những khả thể tính được phát hiện (nếu tôi đi trên một cây cầu bất kỳ để từ bên kia sông sang, vật liệu được chọn và được lắp ráp cho thấy một khả năng chịu lực như dự đoán). Do đó, tri thức thực tiễn trước tiên là sự phát minh. Để được phát hiện, sử dụng và kiểm đúng, trước hết những khả thể phải được phát minh. Theo nghĩa này, con người là dự phóngkẻ sáng tạo, bởi vì nó phát minh ra cái gì đã tồn tại từ cái gì vẫn chưa tồn tại, tức trở thành nhà khoa học, vì con người sẽ không thành công mà không xác định được chắc chắn những khả thể cho phép thực hiện được ý đồ, tức trở thành nhà nghiên cứu và người phản kháng (vì mục đích được đặt ra chỉ rõ một cách có tính cách lược đồ những phương tiện của nó, trong mức độ bản thân mục đích là trừu tượng, nó phải tìm kiếm những phương tiện cụ thể, điều này chung qui là phương tiện chỉ ra cụ thể mục đích và đôi khi làm phong phú mục đích khi đi chệch ra khỏi mục đích. Điều này nghĩa là con người phải đặt lại câu hỏi về mục đích qua các phương tiện và ngược lại, cho tới khi mục đích trở thành sự thống nhất toàn vẹn của các phương tiện được sử dụng). Chính vào lúc này, con người phải quyết định xem “như thế có đáng không”, nói khác đi, nếu một mục đích toàn vẹn, được nhìn nhận từ quan điểm tổng thể về cuộc sống, có đáng với qui mô của những biến đổi năng lượng để hiện thực hóa nó hay không, hay là, nếu muốn có thể nói thế này, liệu lợi ích có đáng để ta tiêu phí năng lượng hay không. Bởi vì chúng ta sống trong thế giới của sự khan hiếm, nơi mà bất kỳ sự tiêu phí nào cũng có vẻ như một sự lãng phí.

Trong các xã hội hiện đại, sự phân công lao động cho phép đem lại cho các nhóm khác nhau những nhiệm vụ khác nhau, mà khi kết hợp lại, tạo nên thực tiễn. Và, trong phạm vi chúng ta quan tâm, sản sinh ra những nhà chuyên môn của tri thức thực tiễn. Nói cách khác, sự vén mở thông qua và trong nhóm đặc thù này, là một momen của hành động, biệt lập và được đặt ra cho chính mình. Những mục đích được xác định bởi giai cấp thống trị và được hiện thực hóa bởi người lao động, nhưng việc nghiên cứu các phương tiện lại chỉ dành riêng cho một tập hợp những kĩ thuật viên, họ thuộc về cái mà Colin Clark gọi là khu vực thứ ba [secteur tertiaire] và là nhà khoa học, kĩ sư, bác sĩ, những luật sư, luật gia, giáo sư, v.v. Những người này, với tính cách những cá nhân, không khác biệt với những người khác vì mỗi người, dù làm công việc gì, đều làm vén mở và bảo toàn sự hiện hữu mà mình vượt bỏ bằng dự phóng làm biến đổi nó. Khác biệt duy nhất chỉ là chức năng xã hội được gán cho họ, nó nằm ở sự thẩm xét có phê phán đối với phạm vi những khả thể và tuyệt nhiên không có sự đề cao nào về những mục đích và sự hiện thực hóa những mục đích mà trong phần lớn các trường hợp (có những ngoại lệ: bác sĩ phẫu thuật chẳng hạn) lại không liên quan đến họ. Tất cả những kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn vẫn chưa phải là những trí thức, nhưng trí thức được tuyển chọn ở trong số người này – và không ở bất kỳ nơi nào khác.

Để hiểu rõ hơn trí thức là gì, hãy xem họ đã xuất hiện như thế nào ở nước Pháp. Cho tới khoảng thế kỉ XIX, chính là các giáo sĩ – người của Giáo Hội – được xem là người có tri thức. Các nam tước lẫn nông dân đều không biết đọc sách. Đọc sách là việc của giáo sĩ. Nhưng Giáo hội có một quyền lực chính trị (như được chứng tỏ bằng thỏa thuận của Chúa do Giáo hội áp đặt cho các lãnh chúa phong kiến và đã biết làm cho thỏa thuận này được tôn trọng trong phần lớn các trường hợp). Giáo hội, với tính cách như vậy, là người bảo vệ một ý thức hệ, ý thức hệ Kitô giáo, là người thể hiện và giáo dục ý thức hệ này cho các tầng lớp khác. Linh mục là người trung gian giữa lãnh chúa và nông dân; ông ta cho phép họ thừa nhận mình với tính cách họ có (hoặc tin là có) một ý thức hệ của chung. Ông ta bảo tồn những tín điều, truyền lưu truyền thống và chuyển đổi cho phù hợp. Với tính cách người của Giáo hội, ông ta không thể nào là nhà chuyên môn của tri thức. Ông ta nêu một hình ảnh có tính huyền thoại về thế giới, một thần thoại có tính chất toàn thể, đồng thời thể hiện ý thức giai cấp của Giáo hội, định nghĩa vị trí và số phận của con người trong một vũ trụ hoàn toàn thiêng liêng, nêu cụ thể tôn ti trật tự xã hội.

Nhà chuyên môn của tri thức thực tiễn xuất hiện cùng với sự phát triển của giai cấp tư sản. Giai cấp thương gia này, ngay từ khi được tạo nên, đã bắt đầu xung đột với Giáo hội, và những nguyên tắc của Giáo hội (giá cả công bằng, lên án thói cho vay nặng lãi) gây cản trở cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thương mại. Tuy vậy giai cấp tư sản vẫn chấp nhận và bảo toàn ý  hệ của giới giáo sĩ, không bận tâm tới việc định nghĩa ý thức hệ của chính mình. Nhưng nó chọn ra những người trợ giúp kĩ thuật và người bảo vệ từ trong số những con đẻ của nó. Những đội tàu thương mại kéo theo sự tồn tại của những nhà khoa học và những kĩ sư; kế toán kép dựa vào những người tính toán, dẫn đến sự ra đời của các nhà toán học; kinh doanh bất động sản và các giao kèo kéo theo như gia tăng nhân bội những luật sư, y học phát triển và môn giải phẫu học là nguồn gốc của chủ nghĩa hiện thực tư sản trong các môn nghệ thuật. Vậy là những chuyên gia về các phương tiện này sinh ra và ở trong giai cấp tư sản: họ không phải là một giai cấp cũng không phải là một tầng lớp tinh hoa: hoàn toàn hòa vào công cuộc to lớn đó là chủ nghĩa tư bản thương mại, họ cung cấp cho nó những phương tiện để nó tự duy trì và tự mở rộng. Những nhà khoa học thực tiễn này không phải là người bảo vệ một ý thức hệ bất kỳ và dĩ nhiên chức năng của họ không phải để đem lại một ý thức hệ cho giai cấp tư sản. Trong xung đột gây đối lập những nhà tư sản với ý thức hệ của Giáo hội, họ ít khi can thiệp: những vấn đề được trình bày ở cấp độ của những giáo sĩ và qua những giáo sĩ; giữa họ với nhau, những ai nhân danh tính phổ quát có tính cách tổng hợp vào thời điểm mà sự phát triển của thương mại sẽ biến giai cấp tư sản thành một thế lực phải hợp nhất. Những cố gắng của họ để điều chỉnh ý thức hệ thiêng liêng cho phù hợp với những nhu cầu của giai cấp đang phất lên đẻ ra đồng thời cuộc Cải cách (Tin lành Kháng cách là ý thức hệ của chủ nghĩa tư bản thương mại) và phong trào chống Cải cách (của những người thuộc dòng Tên gây thù địch với những người tư sản trong Giáo hội cải cách: nhờ họ, khái niệm cho vay nặng lãi nhường chỗ cho khái niệm tín dụng). Những người có tri thức đã trải nghiệm những xung đột này, họ nội tâm hóa chúng, họ cảm nhận được những mâu thuẫn nhưng vẫn chưa phải là những tác nhân chủ yếu của những mâu thuẫn đó.

Thật ra, không có bất kỳ sự điều chỉnh nào về ý thức hệ thánh thiêng có thể thỏa mãn giai cấp tư sản chỉ tìm thấy lợi ích của nó trong sự giải thiêng ở tất cả các khu vực có tính cách thực tiễn. Thế nhưng, đó chính là – vượt xa khỏi những xung đột giữa những người trong Giáo hội – những gì mà những kĩ thuật viên của tri thức sản xuất ra mà không tự ý thức được khi họ làm cho giai cấp tư sản thấy rõ thực tiễn của chính mình và khi họ xác định địa điểm và thời gian xảy ra sự lưu thông hàng hóa. Một cách qui tiến theo thời gian, người ta thế tục hóa một khu vực thánh thiêng, Thượng Đế được chuẩn bị để trở về lại cõi trời: bắt đầu từ cuối thế kỉ XVII đó là Thượng Đế bị che khuất [Dieu caché]. Lúc này, giai cấp tư sản cảm nhận được nhu cầu phải tự khẳng định chính mình như giai cấp dựa trên một quan niệm tổng thể về thế giới, nghĩa là xuất phát từ một ý hệ: đó là ý nghĩa của những gì người ta gọi là “sự khủng hoảng của tư tưởng ở Tây Âu”. Ý hệ này, không phải do những người của Giáo hội xây dựng nên, mà do những chuyên gia của tri thức thực tiễn: những luật gia (Montesquieu), những văn nhân (Voltaire, Diderot, Rousseau), những nhà toán học (d’Alembert), một viên quan trưng thuế của triều đình (Helvétius), những thầy thuốc, v.v. Họ thế chỗ của những thầy tu và tự gọi mình là những triết gia, theo nghĩa là “những người yêu sự Thông thái”. Sự Thông thái, chính là Lý tính. Ngoài những công việc chuyên môn của họ, vấn đề là phải sáng tạo một quan niệm suy lý về Thế giới, để bao gồm và biện hộ cho những hành động và những yêu sách của giai cấp tư sản.

Họ sẽ dùng phương pháp phân tích, đó không gì khác chính là phương pháp nghiên cứu đã từng chứng tỏ trong các môn khoa học và kĩ thuật ở thời đại đó. Họ sẽ vận dụng phương pháp đó vào những vấn đề của lịch sử và xã hội: đó là thứ vũ khí tốt nhất chống lại những truyền thống, những đặc quyền và những huyền thoại về giai cấp quí tộc, phương pháp này dựa trên một sự dung hợp bất cần sự suy lý [un syncrétisme sans rationalité]. Tuy nhiên, sự thận trọng sẽ khiến họ ngụy trang những đả kích cay độc gặm nhấm những huyền thoại của giai cấp quí tộc và chế độ thần quyền bằng những sự dung hợp vẻ ngoài. Để lấy chỉ một dẫn chứng thôi, tôi sẽ viện dẫn ý niệm về Tự nhiên, sự thỏa hiệp giữa đối tượng nghiêm ngặt của các khoa học chính xác và thế giới do Thượng Đế sáng tạo nên. Tự nhiên là cả cái này và cái kia: Tự nhiên thoạt đầu là ý niệm về một sự thống nhất tổng thể hóa và có tính cách dung hợp của tất cả những cái gì tồn tại – điều này đưa chúng ta liên hệ ngược trở lại với một Lý tính thần thánh; song đó cũng là ý niệm cho rằng tất cả đều tuân theo những qui luật và Thế giới được tạo nên do những những chuỗi nhân quả với số lượng vô hạn và mỗi đối tượng của nhận thức là kết quả ngẫu nhiên do sự gặp gỡ của rất nhiều chuỗi, điều này tất yếu dẫn đến việc thủ tiêu Đấng Tạo hóa [Demiurge]. Chẳng hạn, núp dưới cái khái niệm được lựa chọn rõ ràng này, người ta có thể là người theo Ki-tô giáo, nhà thần luận, người theo phiếm thần luận, người vô thần, người duy vật, tức là hoặc người ta che đậy tư tưởng sâu xa của mình dưới cái vẻ ngoài nói trên mà người ta tuyệt nhiên không tin, hoặc người ta tự lừa dối chính mình, là người có tín ngưỡng và đồng thời là người vô tín ngưỡng. Phần lớn các triết gia đã ở trong trường hợp sau, với tính cách những chuyên gia của tri thức thực tiễn, mặc dù tất cả đều bị ảnh hưởng bởi những niềm tin đã được khắc sâu từ tấm bé.

Do đó, công việc của họ cốt ở việc đem lại cho giai cấp tư sản những vũ khí chống lại chế độ phong kiến và khẳng định giai cấp của mình trong ý thức kiêu hãnh về chính mình. Khi mở rộng ý niệm về qui luật tự nhiên [loi naturelle] sang lĩnh vực kinh tế – sai lầm không thể tránh khỏi nhưng có tính nền tảng –, họ biến kinh tế thành một khu vực thế tục hóa và đến từ bên ngoài con người: các qui luật là không thể bẻ cong, thậm chí ta không thể ước ao biến đổi chúng, đã khiến người ta bắt buộc phải phục tùng; kinh tế làm thành một bộ phận của Tự nhiên: trong kinh tế người ta cũng sẽ chỉ ra lệnh cho Tự nhiên bằng cách tuân theo nó. Khi các triết gia yêu sách về tự do, họ chỉ yêu sách sự độc lập về tư tưởng vốn là cần thiết cho những nghiên cứu có tính cách thực tiễn (trong lĩnh vực hoạt động của họ lúc đó), nhưng với giai cấp tư sản thì sự yêu sách này trước hết nhắm tới sự bãi bỏ những cản trở của chế độ phong kiến đối với thương mại và chủ nghĩa tự do [libéralisme] hay tự do cạnh tranh trong kinh tế. Theo cách như vậy, chủ nghĩa cá nhân tỏ ra đối với giai cấp tư sản như là cách khẳng định về sự sở hữu hiện thực, mối quan hệ không qua những trung gian giữa người sở hữu và tài sản sở hữu, tương phản với quyền sở hữu phong kiến ở chỗ, sở hữu phong kiến trước hết là mối quan hệ giữa những con người. Thuyết nguyên tử xã hội [atomisme social], kết quả của sự áp dụng tư tưởng khoa học của thời đại vào lĩnh vực xã hội: giai cấp tư sản dùng thuyết này để gạt bỏ những “cơ quan” xã hội [organisms sociaux]. Sự bình đẳng của tất cả mọi nguyên tử xã hội là một hệ quả tất nhiên của ý hệ duy khoa học chủ nghĩa [idéologie scientiste] vốn dựa trên Lý tính phân tích: những người tư sản dùng thuyết này để loại bỏ những quý tộc, bằng cách đem đối lập họ với những con người ở phần còn lại. Thực vậy, ở thời đó thì giai cấp tư sản, như Marx nói, tự xác nhận mình đứng thay cho giai cấp có tính cách toàn thế giới.

 Nói ngắn, những “triết gia” [philosophes] chỉ làm mỗi việc của những người mà ngày nay người ta vẫn chỉ trích, đó những trí thức [intellectuels]: họ sử dụng các phương pháp của mình cho một mục đích khác với mục đích lẽ ra họ phải đạt được, nghĩa là cho việc tạo nên một ý hệ của giai cấp tư sản, ý hệ đó dựa trên chủ nghĩa khoa học cơ giới luận và phương pháp phân tích. Có nên nhận diện họ như là những trí thức đầu tiên được không? Được và không được. Trên thực tế, chính những nhà quý tộc ở thời đó đã chỉ trích họ là không đâu xen vào những chuyện chả liên quan gì đến mình. Và các giáo sĩ cấp cao cũng chỉ trích họ. Nhưng giai cấp tư sản thì không. Đó là do ý thức hệ của họ không được rút ra từ hư vô: giai cấp tư sản tạo ra nó ở trạng thái thô và lộn xộn trong và qua thực tiễn thương mại của nó; nó nhận ra rằng nó đã cần đến ý thức hệ này để tự ý thức được về chính mình qua những dấu hiệu và những biểu trưng; để giải thể và đập vỡ những ý thức hệ của các giai cấp xã hội khác. Do đó, các “triết gia” xuất hiện ra như là những trí thức “hữu cơ’ hiểu theo nghĩa mượn của Gramsci: xuất thân từ giai cấp tư sản, họ tự gánh vác trách nhiệm diễn đạt cái tinh thần khách quan của giai cấp này. Sự hòa hợp hữu cơ này do đâu mà ra? Trước hết, giai cấp sinh ra họ, họ gánh vác những thành công của giai cấp của họ, bị thấm nhuần những tập tục và tư tưởng của giai cấp của họ. Kế đó và trên hết, tương ứng với sự vận động của nghiên cứu khoa học, của thực tiễn, và của giai cấp mới trỗi dậy là: tinh thần tranh luận, bác bỏ những nguyên tắc của quyền uy và những kìm hãm đối với thương mại tự do, tính phổ quát của những qui luật khoa học, tính phổ quát của con người đối lập lại với chủ nghĩa đặc quyền phong kiến, toàn bộ những giá trị và những ý niệm này – chúng rốt cục dẫn đến hai công thức: mọi người đều là tư sản, mọi người tư sản đều là con người – mang một cái tên: đó là thuyết nhân bản tư sản.

Đó là một thời đại hoàng kim: sinh ra, được giáo dục, được đào tạo nên trong giai cấp tư sản, những “triết gia”, cùng nhất trí, đã đấu tranh để xác định hệ tư tưởng của thời đại này. Thời đại này đã lùi xa rồi. Ngày nay giai cấp tư sản đã ở vị trí quyền lực nhưng tuyệt nhiên không thể tiếp tục coi nó là giai cấp phổ quát. Chỉ nguyên điều này là đủ để làm cho “thuyết nhân bản” của nó bị lỗi thời. Ý thức hệ này càng tự túc tự mãn ở thời của chủ nghĩa tư bản gia đinh thì lại càng không phù hợp với thời đại của những độc quyền. Tuy nhiên, nó vẫn còn đứng vững: giai cấp tư sản vẫn tiếp tục dai dẳng tự nhủ mình là nhân bản chủ nghĩa, phương Tây tự đặt tên cho mình là thế giới tự do, v.v. Nhưng ở trước nửa cuối của thế kỉ XIX, và đặc biệt là từ vụ Dreyfus, những con cháu của các triết gia đã trở thành những trí thức. Điều này nghĩa là gì?

Họ luôn được tuyển mộ trong những kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn. Nhưng muốn định nghĩa họ, cần phải tính đếm được những đặc điểm hiện có của phạm trù xã hội này.

1° Kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn được tuyển dụng từ cấp trên [en haut]. Nói chung, anh ta không còn thuộc về giai cấp thống trị nữa, nhưng giai cấp này chọn anh ta xét trong sự hiện hữu của anh ta khi quyết định những công việc cho anh ta: dựa vào tính chất cụ thể của công việc kinh doanh của anh ta (chẳng hạn tùy theo giai đoạn của quá trình công nghiệp hóa), dựa vào những nhu cầu xã hội được xem xét tùy theo những khả năng lựa chọn đặc thù và những lợi ích của công ty (một công ty chọn một phần trong số những người chết theo tỉ lệ giá trị thặng dư mà nó dành cho sự phát triển của y học). Việc làm, xét như vị trí phù hợp với năng lực theo nhu cầu tuyển dụng và vai trò phải đảm nhận, xác định trước [a priori], được mong đợi cho tương lai của một người đàn ông trừu tượng: bao nhiêu vị trí bác sĩ, giáo viên, v.v. cho năm 1975, đối với toàn bộ một phạm trù thanh thiếu niên điều này vừa có nghĩa một sự cấu trúc hóa của trường những khả thể, những nghiên cứu phải thực hiện, và mặt khác, là một số phận: trên thực tế, thường thì vị trí công việc phải trông đợi họ, thậm chí trước khi có họ, xét như hiện hữu có tính cách xã hội của họ; thực thế, vị trí công việc thật ra chỉ là sự thống nhất của những chức năng mà họ phải đảm nhận mỗi ngày. Như vậy giai cấp thống trị quyết định số lượng kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn theo lợi nhuận, đó là mục đích tối thượng. Đồng thời nó quyết định tỉ lệ giá trị thặng dư sẽ dành cho lương của họ, theo sự phát triển của công nghiệp, của hoàn cảnh, của những nhu cầu mới xuất hiện (sản xuất dây chuyền, chẳng hạn, kéo theo một sự phát triển đáng kể của quảng cáo, từ đó ra đời một số lượng không ngừng gia tăng chuyên gia tâm lý học, chuyên gia thống kê, chuyên gia sáng tạo ý tưởng quảng cáo, nghệ sĩ, để hiện thực hóa những điều trên, v.v., hoặc việc chấp nhận human engineering [kĩ thuật phân tích nhân tố con người] kéo theo sự cạnh tranh trực tiếp giữa chuyên gia tâm lý học và chuyên gia xã hội học). Ngày nay thì sự tình đã rõ: công nghiệp muốn đặt tay vào đại học, nó muốn bắt đại học phải từ bỏ thuyết nhân bản cũ kĩ lỗi thời và thế vào đó là những lĩnh vực nghiên cứu chuyên môn hóa, với mục đích cung cấp cho các doanh nghiệp những người kiểm soát các sản phẩm, những cán bộ trung cấp, nghề quan hệ công chúng, v.v.

2° Sự đào tạo ý hệ và chuyên môn cho kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn cũng được xác định bởi một hệ thống được tạo nên từ cấp trên (cấp một, cấp trung, cấp cao) và tất yếu mang tính cách tuyển chọn. Giai cấp thống trị điều khiển ngành giáo dục theo cách để đem lại: a) ý hệ mà nó xét thấy phù hợp (cấp một và cấp trung); tri thức và những thực tiễn giúp các chuyên gia có đủ năng lực để thực hiện các chức năng của mình (cấp cao).

Do đó, giai cấp thống trị dạy hai vai trò a priori: nó đào tạo họ thành những chuyên gia nghiên cứu đồng thời là những người phục vụ cho sự thống lãnh của nó, nghĩa là những người bảo vệ truyền thống. Vai trò thứ hai tạo nên – để dùng một cách diễn đạt của Gramsci – những “công chức của hệ thống thượng tầng kiến trúc”; với tính cách như vậy, họ được trao một quyền lực nhất định, đó là “thực thi những chức năng cấp phụ thuộc vào quyền thống lĩnh xã hội và chế độ chính trị” (người kiểm soát sản phẩm cũng là cảnh sát, giáo sư là những người được tuyển chọn, v.v.). Họ được giao trách nhiệm, một cách không minh nhiên, là truyền đạt những giá trị (điều chỉnh, khi cần, để phù hợp với những yêu cầu của thực tế) và tùy theo trường hợp, chống lại những luận cứ và những giá trị của tất cả các giai cấp khác, bằng cách sử dụng những hiểu biết chuyên môn của mình. Ở cấp độ này, họ là những tác nhân của một thứ chủ nghĩa đặc quyền ý thức hệ [particularisme idéologique], khi thì công khai (chủ nghĩa dân tộc hung hăng của những nhà tư tưởng nazi), khi thì che đậy (thuyết nhân bản tự do, nghĩa là tính phổ quát giả tạo). Cần lưu ý, ở cấp độ này, họ được giao trách nhiệm can dự vào những gì không liên quan đến họ. Tuy nhiên tuyệt nhiên chẳng nơi nào sẽ nghĩ đến việc gọi họ là những trí thức: điều này là do họ, một cách thái quá, đang khiến cho người ta tưởng cái gì là những qui luật khoa học thì thực ra chỉ là ý thức hệ thống trị mà thôi. Ở thời đại của những thuộc địa, những bác sĩ thần kinh thực hiện các công trình được cho là có tính cách nghiêm ngặt để xác lập sự thấp kém hơn [infériorité] của người Phi châu (chẳng hạn) về giải phẫu học và sinh lý học của bộ não của họ. Do đó, họ góp phần vào việc duy trì thuyết nhân bản tư sản: tất cả mọi người đều bình đẳng trừ người dân ở thuộc địa, họ chỉ có vẻ ngoài của con người mà thôi. Những công trình khác thậm chí còn xác lập sự thấp kém hơn của phụ nữ: nhân loại được làm từ những người tư sản, người da trắng và đàn ông.

3° Các mối quan hệ giai cấp chi phối một cách tự động sự lựa chọn những kĩ thuật viên của tri thức: ở Pháp, công nhân hầu như không được đưa vào cách phân loại xã hội này bởi vì con trai của một công nhân gặp những khó khăn lớn hơn để học đại học: người ta thấy ở đó nhiều nông dân hơn bởi vì các cuộc di dân từ nông thôn gần đây diễn ra hướng tới các vị trí công chức nhỏ trong các thành phố. Nhưng trên hết đó là con cháu của tiểu tư sản. Một chế độ học bổng (giáo dục được miễn phí nhưng cần phải sống) cho phép chính quyển đề ra chính sách này chính sách kia trong tuyển sinh tùy theo những hoàn cảnh. Ngoài ra cần nói thêm là ngay cả với giai cấp trung lưu thì toàn bộ những khả năng lựa chọn bị giới hạn một cách nghiêm ngặt bởi những nguồn lực gia đình: sáu năm học ngành y cho con, đó là gánh nặng quá lớn với ngân sách của tầng lớp trung lưu và dưới trung lưu. Như vậy mọi thứ đều được xác định một cách nghiêm ngặt cho kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn. Xuất thân, nói chung, từ tầng lớp trung lưu, được khắc sâu ngay từ tấm bé ý hệ đặc quyền [idéogie particulariste] của giai cấp thống trị, cho nên bằng mọi cách người ta xếp anh ta làm việc trong giai cấp trung lưu. Điều này nghĩa là, nói chung, anh ta không có bất kỳ mối tiếp xúc nào với những người lao động và tuy vậy anh ta lại đồng lõa với sự bóc lột họ bởi giới chủ bởi vì, trong mọi trường hợp có liên quan, anh ta sống dựa vào giá trị thặng dư. Theo nghĩa này, sự hiện hữu xã hội của anh ta và số phận của anh ta bắt nguồn từ bên ngoài: anh ta là con người của những công cụ, con người công cụ, con người của các tầng lớp công cụ; các hoạt động của anh ta liên quan đến những mục đích có tính cách toàn bộ, không phải là những mục đích của anh ta.

Trí thức xuất hiện chính là ở cấp độ này.

Tất cả những gì bắt nguồn từ người lao động xã hội mà giai cấp thống trị đã tạo nên thành kĩ thuật viên của trí thức thực tiễn ở nhiều cấp độ đều phải chịu một sự mâu thuẫn như nhau.

1° Anh ta đã là một người theo “thuyết nhân bản” ngay từ tấm bé: nghĩa là người ta đã làm cho anh ta tin rằng mọi người đều bình đẳng: Song, nếu anh ta tự xem xét chính mình, anh ta sẽ tự ý thức được rằng chính mình lại là minh chứng của sự bất bình đẳng của những hoàn cảnh của con người. Liệu anh ta có sở hữu một quyền lực xã hội có nguồn gốc từ một tri thức được đúc kết qua thực tiễn? Hiểu biết này, anh ta đã tiếp cận nó, dù là con của một người làm công ăn lương bình thường hay của một người làm công ăn lương cao hoặc con của một đại diện của những nghề nghiệp tự do, thành người kế tục: văn hóa đã ở trong gia đình của anh ta trước khi anh ta được sinh ra ở đó; như vậy xuất thân trong gia đình và xuất thân trong văn hóa đều hoàn toàn là một. Và, ví thử anh ta xuất thân từ các tầng lớp lao động, anh đã chỉ có thể thành đạt bởi lý do là một hệ thống tuyển chọn phức hợp và không bao giờ công bằng đã loại bỏ phần lớn những người bạn đồng cảnh của anh ta. Anh ta, dù sao chăng nữa, là người sở hữu một đặc quyền không được lý giải, thậm chí, hiểu theo một nghĩa nào đó, nhất là nếu như anh ta đã vượt qua một cách xuất sắc tất cả những thử thách. Đặc quyền này – hay là sự độc quyền đối với tri thức – là nằm trong thế mâu thuẫn triệt để với chủ nghĩa bình đẳng của người theo thuyết nhân bản. Nói cách khác, anh ta lẽ ra đã phải từ bỏ đặc quyền này. Nhưng vì anh ta  đặc quyền này, cho nên anh ta sẽ chỉ từ bỏ nó băng cách tự thủ tiêu chính mình, điều này mâu thuẫn với bản năng sinh tồn bắt rễ sâu trong phần lớn con người ta.

2° “Triết gia” của thế kỉ XVIII, như chúng ta đã thấy, có cơ hội là “trí thức hữu cơ[1]” của giai cấp của anh ta. Như thế nghĩa là ý thức hệ của giai cấp tư sản – nó đặt vấn đề nghi ngờ những hình thức lỗi thời của quyền lực phong kiến – có vẻ như sinh ra một cách tự phát từ các nguyên lý có tính phổ biến của công cuộc nghiên cứu khoa học, của ảo giác có nguồn gốc từ những gì giai cấp tư sản, chống lại giai cấp quí tộc muốn đặc quyền hóa mình bằng dòng dõi hoặc chủng tộc, đã đòi lại tính phổ quát, tự coi mình là giai cấp phổ quát.

Ngày nay, ý thức hệ tư sản, chính ngay từ ban đầu, đã nhiễm vào những kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn, bằng giáo dục và giảng dạy các môn “khoa học nhân văn” [humanités], lại đang ở trong thế mâu thuẫn với một vai trò khác có tính cách tự cấu tạo nên chính nó, vai trò nhà nghiên cứu của kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn, nghĩa là vai trò của tri thức của họ và của các phương pháp của họ: chính là qua đó mà họ là những con người có cương vị phổ quát [universaliste] bởi lẽ họ kiếm tìm những tri thức và thực hành có tính phổ quát. Nhưng nếu họ dùng các phương pháp của họ vào việc xem xét giai cấp thống trị và ý thức hệ của nó – mà đó cũng đều là của họ –, họ không thể tự che giấu mình rằng cả hai đều là theo chủ nghĩa đặc quyền một cách thầm lén. Và, từ đấy, trong những nghiên cứu của mình, họ phát hiện ra sự tha hóa bởi vì họ là những phương tiện cho các mục đích vẫn đang xa lạ với họ và người ta cấm họ đặt vấn đề nghi vấn. Sự mâu thuẫn này không bắt nguồn từ chính họ mà từ chính giai cấp thống trị. Ta sẽ thấy rõ hơn qua một dẫn chứng được rút ra từ lịch sử của các vị [Nhật Bản].

Năm 1886, Arinari Mori bắt đầu cải cách nền giáo dục công lập ở Nhật Bản: giáo dục tiểu học phải dựa trên ý thức hệ của chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc, nó phát triển ở trẻ em lòng trung thành với Nhà nước, sự tuân phục đối với những giá trị truyền thống. Nhưng Mori đồng thời đã tin chắc (chúng ta đang ở kỉ nguyên của Minh Trị) rằng nếu giáo dục bị giới hạn vào những quan niệm tiểu học này, Nhật Bản sẽ không sản sinh ra được những nhà khoa học và những kĩ thuật viên cần thiết cho sự trang bị công nghiệp của nó. Do đó, vì lý do này, cần phải cho phép giáo dục “bậc cao” một sự tự trị nhất định, phù hợp với nghiên cứu.

Kể từ đó, hệ thống giáo dục của Nhật Bản đã thay đổi một cách sâu sắc, nhưng tôi dẫn ra ví dụ này để cho thấy rằng, sự mâu thuẫn nơi những chuyên gia của tri thức thực tiễn, là được tạo nên bởi  những yêu sách của giai cấp thống trị. Thật vậy, chính giai cấp thống trị là kẻ tạo nên mô hình mâu thuẫn, ngay từ thời thơ ấu và sẽ biến họ thành những con người-mâu thuẫn, bởi vì ý thức hệ đặc quyền vâng lời một Nhà nước, một nền chính trị, các tầng lớp thống trị, bắt đầu xung đột, nơi họ, với tinh thần của nghiên cứu – tinh thần tự do và phổ quát chủ nghĩa – cũng lại bắt nguồn từ bên ngoài, nhưng là về sau khi mà họ đã được làm cho tuân phục rồi. Ở nước chúng tôi, mâu thuẫn cũng giống như vậy: người ta che giấu họ ngay từ tuổi thơ, bằng tính phổ quát giả, một hiện thực xã hội, ấy là sự bóc lột của một số đông hơn bởi một thiểu số: người ta che giấu hoàn cảnh thực sự của công nhân, nông dân và đấu tranh giai cấp, ẩn dưới cái tên gọi chủ nghĩa nhân văn; che đậy chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa chủng tộc, là ý thức hệ của những thực tiễn này, bằng một thứ chủ nghĩa bình đẳng dối trá; khi họ bắt đầu vào đại học, thì phần lớn đều đã được làm cho thấm nhuần, ngay từ thơ ấu, sự tự ti của phụ nữ; tự do, chỉ giai cấp tư sản mới sở đắc được, được giới thiệu với họ như là cái phổ quát có tính cách hình thức: mọi người đều đi bầu cử, v.v; hòa bình, tiến bộ, bác ái,  che đậy một cách khó khăn việc tuyển chọn để biến mỗi người trong số họ thành một “con người-cạnh tranh” [homme-concurrentiel], các cuộc chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc, cuộc xâm lăng Việt Nam bởi các lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ, v.v. Gần đây, nước chúng tôi đã bắt đầu nhận ra rằng cho họ học và lặp lại những lời vô bổ về sự “giàu có” là để che giấu họ rằng hai phần ba nhân loại đang sống trong tình trạng thiếu dinh dưỡng mãn tính. Điều này nghĩa là, nếu muốn tạo ra vẻ ngoài thống nhất cho những tư tưởng mâu thuẫn nói trên, như thế có nghĩa là giới hạn tự do nghiên cứu bằng những ý niệm sai rõ rệt, ngăn chặn tư tưởng tự do khoa học và kĩ thuật, bằng những tiêu chuẩn không bắt nguồn từ chính nó, và do đó đặt ra những ranh giới nằm ngoài nó, trong khi cố tin và cố làm cho tin rằng những tiêu chuẩn đó sinh ra từ nó. Nói ngắn, tư tưởng khoa học và kĩ thuật chỉ phát triển tính phổ quát của nó dưới sự kiểm soát, chẳng hạn, dù tư tưởng đó là có tính phổ quát, dù nó có một hạt nhân có tính phổ quát, khoa học bị phụ thuộc vào chủ nghĩa đặc quyền trở thành một ý thức hệ.

3° Dù các mục đích của giai cấp thống trị là thế nào đi nữa, hành động của kĩ thuật viên trước tiên là có tính cách thực tiễn, như thế có nghĩa là coi cái có ích là mục đích. Không phải là cái gì có ích cho một nhóm xã hội này hay một nhóm xã hội khác, mà là cái gì có ích mà không có sự qui định hay những giới hạn cụ thể. Khi một bác sĩ tiến hành những nghiên cứu để chữa trị bệnh ung thư, nghiên cứu của anh ta không nêu cụ thể, chẳng hạn cần phải chữa cho người giàu, bởi lý do là sự giàu có hay nghèo khó tuyệt nhiên không liên quan gì đến những tế bào ung thư. Tính bất qui định này về người bệnh tất nhiên được quan niệm như là tính phổ quát hóa của nó: nếu ta hiểu chữa cho một người (dĩ nhiên mang những đặc tính của những mối quan hệ thuộc về xã hội và nghề nghiệp nằm ngoài cuộc nghiên cứu, ta sẽ chữa cho tất cả. Song, thật ra người bác sĩ này, do hoàn cảnh, thấy mình bị rơi vào trong một hệ thống của các mối quan hệ được xác định bởi giai cấp thống trị theo sự hiếm gặp và theo lợi nhuận (nhưng quan trọng nhất của tầng lớp tư sản công nghiệp) và xét như các nghiên cứu của anh ta, bị giới hạn bởi nguồn tín dụng – nếu như anh ta tìm ra một phương thuốc chữa trị – với cái giá không kém hơn so với những biện pháp chữa trị ban đầu, sẽ trước tiên chỉ phục vụ một số lượng nhỏ (xin nói thêm là những phát minh của anh ta có thể bị che khuất, vì lý do kinh tế, bởi một tổ chức này hay tổ chức kia: một phương thuốc thuộc loại hạng nhất nhưng của Rumani chống các bệnh của tuổi già được thấy ở một số nước nhưng không có ở Pháp, chiểu theo sự kháng cự của những dược sĩ; những phương thuốc khác có mặt ở trong phòng thí nghiệm từ nhiều năm nhưng không thể mua được ở bất cứ đâu và công chúng biết mơ hồ về chúng, v.v.). Trong nhiều trường hợp, với sự đồng lõa của kĩ thuật viên của tri thức thực tiễn, các tầng lớp xã hội đặc quyền tranh thủ được tính tiện ích xã hội của những phát minh của họ và biến đổi nó thành lợi ích cho một thiểu số nhỏ mà lấn át đa số. Vì lý do này, những sáng chế mới mẻ từ bao lâu vẫn là những công cụ gây thất vọng cho đa số: đó là cái người ta gọi là sự bần cùng hóa tương đối [paupérisation relative]. Chẳng hạn một kĩ thuật viên, anh ta phát minh vì tất cả, rốt cục – chí ít trong một quãng thời gian hiếm khi có thể dự đoán được – chỉ là một tác nhân của sự bần cùng hóa đối với các tầng lớp lao động. Đó còn là điều để ta hiểu rõ hơn khi đề cập đến một cải tiến đáng kể của một sản phẩm công nghiệp: sự cải tiến này, quả thực, chỉ được giai cấp tư sản sử dụng để tăng lợi nhuận.

Như vậy kĩ thuật viên của tri thức là do giai cấp thống trị tạo nên, cùng với đó là sự mâu thuẫn giằng xé họ: một mặt, với tính cách những nhân viên và công chức cấp thấp của hệ thống thượng tầng kiến trúc, họ phụ thuộc trực tiếp vào những người quản lý (tổ chức “tư nhân” hoặc Nhà nước) và được xác định vị trí trong tính đặc thù, như một nhóm nào đó của khu vực thứ ba, mặt khác, với tính cách tính chuyên môn của họ bao giờ cũng mang tính phổ quát, những chuyên gia này là sự phản kháng đối với cả những đặc quyền mà người ta đã tiêm nhiễm vào họ và họ không thể phản kháng mà không tự phản kháng chính mình. Họ khẳng định rằng không có “khoa học tư sản” và tuy vậy khoa học của họ lại là tư sản bởi chính những giới hạn của họ và họ biết điều này. Thật ra, tuy thế, trong mọi thời điểm cụ thể của công cuộc nghiên cứu, họ đều làm việc trong sự tự do, điều này càng làm cho việc quay trở về lại với thân phận thực tế của họ trở nên cay đắng hơn.

Quyền lực không phải là cố tình không biết rằng hiện thực của kĩ thuật viên là sự phản kháng thường xuyên lẫn nhau giữa cái phổ quát và cái đặc thù và họ thể hiện, chí ít dưới dạng tiềm năng, cái mà Hegel gọi là “ý thức bất hạnh” [conscience malheureuse]. Qua đó, họ xem ý thức bất hạnh như là hết sức khả nghi. Quyền lực trách cứ kĩ thuật viên là “kẻ luôn luôn phủ định”; mặc dù đúng là anh ta biết rõ đây không phải là một đặc điểm của tính cách và sự hoài nghi là một biện pháp cần thiết của tư duy khoa học. Thật vậy, tư duy khoa học là duy truyền thống trong mức độ nó chấp nhận đoàn thể các môn khoa học, nhưng là có tính phủ định trong mức độ đối tượng tự hoài nghi chính mình và qua đó cho phép một sự tiến bộ. Thí nghiệm của Michelson và của Morlay đã dẫn đến hệ quả hoài nghi toàn bộ vật lý học Newton. Nhưng sự hoài nghi không phải đã được tìm kiếm. Tiến bộ trong đo các vận tốc (tiến bộ về kĩ thuật của các dụng cụ, gằn liền với nền công nghiệp), đã khiến họ nhất thiết phải chú ý tới đo tốc độ của Trái Đất. Biện pháp này làm vén mở một sự mâu thuẫn mà các nhà thí nghiệm trước đó đã không tìm kiếm; họ chỉ giả định về nó để dễ thủ tiêu nó hơn bằng một sự hoài nghi mới: sự hoài nghi này là do đối tượng áp đặt cho họ. Fitzgerald và Einstein xuất hiện khi đó không phải như những người phản kháng vì hoài nghi, mà như những nhà bác học đi tìm cái gì cần từ bỏ trong hệ thống để để tích hợp, với chi phí ít nhất, những kết quả của thí nghiệm. Đối với quyền lực, điều này không quan trọng: nếu họ đúng như là những phương tiện tự hoài nghi chính mình, họ sẽ từ đó hoài nghi những mục đích vừa được đặt ra trên lý thuyết vừa bởi giai cấp thống trị, và tính thống nhất tích hợp của các phương tiện. Do đó nhà nghiên cứu vừa là không thể thiếu vừa là khả nghi dưới con mắt của giai cấp thống trị. Anh ta không thoát khỏi cảm nhận được và nội tâm hóa sự hoài nghi này và ngay từ xuất phát đã thấy mình hoài nghi chính mình.

Từ đây, có hai khả năng xảy ra:

1. Kĩ thuật viên của tri thức chấp nhận ý hệ thống trị hoặc tự giàn xếp với nó: Có khi, bằng toàn bộ sự ngụy tín [mavaise foi], anh ta bắt đầu từ cái phổ quát chứ không phải cái đặc thù; anh ta thực hành sự tự kiểm duyệt và trở thành kẻphi chính trị[apolitique], kẻ hoài nghi triệt để [agonostique], v.v. Cũng có khi sức ép do quyền lực gây ra đưa anh ta đến việc từ chối một thái độ hoài nghi có giá trị [une attitude de contestation valable], điều này khó có thể xảy ra mà không gây tổn thất lớn cho chức năng kĩ thuật viên của anh ta. Trong trường hợp này, người ta đành tạm nói rằng “đó không phải là một trí thức”.

2. Nếu anh ta thách thức [hay hoài nghi, phản bác: contestation] tính đặc quyền của ý hệ của mình và không thể bằng lòng với nó, nếu anh ta thừa nhận rằng anh ta đã nội tâm hóa nguyên tắc thẩm quyền bằng cách tự kiểm duyệt, nếu, do không chịu thừa nhận tình trạng bất ổn và tổn thương của mình, anh ta buộc phải đặt lại câu hỏi về ý hệ đã hình thành nên anh ta, nếu anh ta từ chối trở thành nhân tố phụ thuộc [subaltern] vào sự thống lĩnh [hégémonie] và phương tiện để đạt những mục đích mà anh ta biết mơ hồ hoặc anh ta bị cấm thách thức, khi đó nhân tố của tri thức thực tiễn trở thành một con quái vật [monstre], nghĩa là một trí thức,kẻ quan tâm đến những gì liên quan đến mình(ngoại tại: những nguyên tắc hướng dẫn cuộc sống của anh ta, và nội tại: vị trí mà anh ta sống trải trong xã hội) và chính vì điều này mà người ta nói rằng anh ta quan tâm đến những gì không liên quan đến mình.

Tóm lại, mọi kĩ thuật viên của tri thức đều là trí thức tiềm năng bởi vì anh ta được xác định bởi một sự mâu thuẫn không gì khác chính là sự đấu tranh liên tục bên trong anh ta giữa phương pháp kĩ thuật có tính phổ quát của anh ta và ý hệ thống trị. Nhưng thật ra một kĩ thuật viên trở thành trí thức không phải do một sự quyết định đơn thuần: điều này phụ thuộc vào lịch sử cá nhân của anh ta, vào cái gì đã từng giúp anh ta hồi phục khỏi tâm trạng căng thẳng đặc trưng của anh ta; xét cho cùng, toàn bộ những nhân tố hoàn tất sự biến đổi đều là một sự kiện có tính cách xã hội.

Trước tiên có thể dẫn ra quyền lựa chọn của các giai cấp thống trị và mức sống mà họ đảm bảo cho những trí thức của họ – đặc biệt là cho những sinh viên của nó. Dĩ nhiên mức lương thấp có thể rốt cục kéo theo một sự phụ thuộc nhiều hơn. Nhưng mức lương thấp cũng có thể khuyến khích sự hoài nghi khi vén mở cho kĩ thuật viên của tri thức vị trí hiện thực mà người ta dành cho họ trong xã hội. Ngoài ra, giới quản lý cũng thấy là không thể đảm bảo cho sinh viên đủ những vị trí việc làm xứng đáng như họ đã hứa hẹn: những ai không tìm được việc làm sẽ ở dưới mức sống mà người ta đảm bảo cho những kĩ thuật viên, dù mức sống đó có thấp đến đâu chăng nữa; lúc này họ mới cảm nhận được sự gắn bó với các tầng lớp xã hội ít được ưu tiên hơn. Bình thường ra, tình trạng thất nghiệp hoặc bị đẩy xuống những vị trí lương ít hơn hoặc thù lao ít hơn được đảm bảo qua một hệ thống tuyển chọn; nhưng người bị từ chối (người bị loại ra) không thể thách thức cách tuyển chọn mà không thách thức toàn bộ xã hội. Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, những giá trị cũ và hệ tư tưởng thống trị có thể bị các tầng lớp lao động thách thức dữ dội, điều này kéo theo những biến đổi sâu sắc trong các tầng lớp thống trị; ở đây, rất nhiều chuyên gia của tri thức tự biến đổi thành những trí thức bởi vì những mâu thuẫn xuất hiện ra trong xã hội khiến họ thức nhận được về sự mâu thuẫn của chính họ. Nếu, ngược lại, các giai cấp thống trị muốn tăng cường ảnh hưởng của ý hệ mà hi sinh ảnh hưởng của tri thức, thì chính họ càng làm tăng thêm sự căng thẳng nội tại và là nguyên nhân biến kĩ thuật viên thành trí thức: họ đã giảm vai trò của kĩ thuật, của khoa học và sự tự do ứng dụng các phương pháp cho đối tượng vượt quá giới hạn có thể chấp nhận. Ở đất nước của bạn [Nhật Bản], trong những năm gần đây, chính phủ đã buộc các giáo viên lịch sử phải bóp méo sự thật lịch sử. ngay cả trước đây họ chỉ quan tâm đến việc giảng dạy hoặc xác minh những sự kiện, đã thấy mình bị dẫn đến phải thách thức, nhân danh lương tâm nghề nghiệp và các phương pháp khoa học mà họ luôn áp dụng, hệ tư tưởng mà trước đây họ đã thụ động chấp nhận. Thông thường, tất cả những nhân tố này đóng đồng thời hai vai trò: cả loạt những nhân tố này, dù mâu thuẫn thế nào, nó phản ánh thái độ toàn thể của một xã hội hướng tới các nhà chuyên môn [spécialistes]; nhưng chúng chỉ dẫn đến sự tỉnh ngộ về một mâu thuẫn về mặt hiến pháp.

Do đó trí thức là người nhận thức được về thế đối lập, ở bên trong anh ta và trong xã hội, giữa việc tìm kiếm chân lý thực tiễn (với tất cả những tiêu chuẩn đòi hỏi) và hệ tư tưởng thống trị (với hệ thống những giá trị truyền thống của nó). Nhận thức này, tuy là có tính hiện thực,  phải  tạo ra hiệu quả ở người trí thức, trước hết là ở cấp độ của hoạt động chuyên môn của anh ta và của chức năng của anh ta, không gì khác chính là làm vén mở những mâu thuẫn có tính chất căn bản của xã hội, tức xung đột giai cấp và, bên trong bản thân giai cấp thống trị, sự xung đột có tính cách hữu cơ giữa chân lý mà nó đòi hỏi vì sự nghiệp của nó và những huyền thoại, những giá trị và những truyền thống mà nó duy trì và muốn lây nhiễm sang các giai cấp khác để đảm bảo quyền thống lĩnh của nó.

Là sản phẩm của các xã hội chịu đựng sự giằng xé, trí thức làm chứng cho xã hội bởi vì anh ta đã nội tâm hóa sự giằng xé của xã hội. Do đó, trí thức là một sản phẩm mang tầm vóc lịch sử. Theo nghĩa này, không xã hội nào có thể trách cứ về những trí thức của nó mà không tự buộc tội chính mình, vì mỗi xã hội tạo ra những ai thì nó chỉ có được những người đó.

(*) Trích Biện hộ cho trí thức của Jean-Paul Sartre, do Phạm Anh Tuấn và Đinh Hồng Phúc dịch, Công ty TNHH Sách Thật – Nxb Hội Nhà văn, 2025

[1] “l’intellectuel organique”: khái niệm do Antonio Gramsci (1891-1937) đưa ra để chỉ nhóm trí thức gắn bó một cách tự nhiên (“hữu cơ”) với một giai cấp cụ thể và tham gia vào việc tổ chức và phát triển hệ tư tưởng của giai cấp ấy.  (Nd)

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged , . Bookmark the permalink.