Liễu Trương
Vào thời miền Nam (1954-1975), Nguyễn Mộng Giác là một nhà văn trẻ được độc giả biết đến qua những truyện đăng trên các tạp chí Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức, và đã góp mặt trên văn đàn miền Nam với những tác phẩm như: Nỗi băn khoăn của Kim Dung (tiểu luận, 1972), Bão rớt (tập truyện, 1973), Tiếng chim vườn cũ (truyện dài, 1973), Qua cầu gió bay (truyện dài, 1974), và Đường một chiều (truyện dài) được Giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam 1974.
Ở hải ngoại văn nghiệp của Nguyễn Mộng Giác tiếp tục với những tác phẩm được lần lượt xuất bản như: Ngựa nản chân bon (1984), Những đợt sóng ngầm (1984), Bão nổi (1985), Xuôi dòng (1987), Bèo giạt (1988). Nổi tiếng nhất là hai bộ trường thiên tiểu thuyết: Mùa biển động (1986) và Sông Côn mùa lũ (1991). Tác phẩm Sông Côn mùa lũ được sáng tác khi tác giả còn ở quê nhà, nhưng lại được xuất bản sau Mùa biển động ở hải ngoại.
Vậy có hai không gian để sáng tạo đối với Nguyễn Mộng Giác, cũng như đối với các nhà văn di tản: không gian của quê hương và không gian của nơi di trú. Nhưng Nguyễn Mộng Giác lại có một không gian sáng tạo thứ ba ở giữa hai không gian trên, do cuộc vượt biên đưa đẩy.
Năm 1981, Nguyễn Mộng Giác quyết định từ giã quê hương, đi tìm tự do bằng một con đường đầy phiêu lưu, nguy hiểm: đường biển. Sau năm ngày lênh đênh ngoài biển cả, lòng đầy lo âu, sợ hãi, Nguyễn Mộng Giác và nhóm người đồng hành được một chiếc tàu Tây Đức vớt và đưa vào hòn đảo Kuku của Nam Dương, trong khi chờ một chiếc tàu khác đưa đến đảo Galang để làm thủ tục đến một nước đón nhận di dân. Đối với Nguyễn Mộng Giác, thời gian hai tháng ở lại Kuku là một may mắn. Sống trên một hòn đảo còn vẻ đẹp hoang sơ, giữa trời biển mênh mông, tâm hồn chơi vơi, không biết ngày mai sẽ ra sao, Nguyễn Mộng Giác bỗng cảm thấy một nhu cầu thôi thúc, cấp bách: nhu cầu viết. Tại sao phải viết? Trong khi tương lai bất định, vấn đề xuất bản, phát hành sách hoàn toàn mờ mịt, ảo tưởng. Nhưng Nguyễn Mộng Giác cảm thấy cần viết vì đời sống ở quê nhà vẫn còn ám ảnh kẻ ra đi. Nguyễn Mộng Giác kể: “Trước mặt là biển xanh mênh mông. Tôi viết say sưa hết truyện ngắn này đến truyện ngắn khác… Cái gì khiến tôi say sưa viết như thế?… Hỏi viết cho ai? Viết cho tôi. Viết làm gì? Chẳng biết để làm gì, muốn viết thì viết, không viết thì cứ ấm ách nên viết để giải tỏa, thế thôi. Viết thế nào? Chưa bao giờ trong đầu tôi hiện lên câu hỏi ấy… Viết là một nhu cầu tự nhiên và bức bách không thể không có, không viết mới là trái tự nhiên.”*
Thế là nhà văn cầm bút trở lại, viết nhiều, viết nhanh và cho ra đời nhiều truyện ngắn mà những độc giả đầu tiên là những người vượt biên có mặt trên đảo Kuku. Về sau các truyện ngắn được tập hợp thành một tập truyện có tựa đề Ngựa nản chân bon. Cũng trên đảo Kuku, Nguyễn Mộng Giác bắt đầu viết trường thiên tiểu thuyết: Mùa biển động.
Khi đời sống đã ổn định trên đất Mỹ, nhìn lại những tác phẩm của mình, Nguyễn Mộng Giác cho biết về truyện ngắn, ông vừa ý nhất là tập truyện Ngựa nản chân bon với lời tựa của Võ Phiến, xuất bản năm 1984 và tái bản 4 lần ở hải ngoại.
Ngựa nản chân bon gồm 13 truyện viết trên đảo Kuku. Nhiều truyện phản ánh đời sống ở quê nhà với những ràng buộc, áp đặt của chế độ mới. Như truyện Một ngày như mọi ngày kể chuyện một nhà văn có một đời sống chật vật, cần có tiền để mua thuốc hút, cà phê dù thuộc loại rẻ tiền nhất, để có được nguồn hứng mà viết; nhà văn bèn bòn mót trong nhà những đồ vật còn sót lại để đem đi bán. Một hôm ông ta tìm ra một đề tài lý thú, và thử sắp đặt viết một truyện ngắn, truyện này có vẻ nhiều hứa hẹn, nhưng khi viết đến phần kết ông ta bỗng nhận thấy những điều nói ra đều bị cấm kỵ. Truyện đó xem như hỏng, phí giấy quá, nhưng còn vớt vát được là dồn những tờ nháp bẩn đó đem bán. Đời sống khó khăn khiến con người trở nên bần tiện.
Hoặc truyện Thư gởi cho đám mây xa kể chuyện một người bà bất thần bị lôi đi vượt biên với đứa cháu. Số là người bà muốn đưa tiễn cháu lên ghe để vượt biên, nhưng vào lúc đó có tiếng súng nổ, người bà sợ hãi ôm cháu trong một cử chỉ che chở, rồi cùng cháu leo lên ghe. Không ngờ những người trên ghe hấp tấp ra khơi, bà không kịp xuống khỏi ghe, thế là bà cùng vượt biên với đứa cháu. Khi đến đảo, bà thúc giục cháu viết thư về cho mẹ, nhắc nhở mẹ cháu làm chuyện này chuyện nọ, như thể bà còn sống ở quê nhà, bà không biết rằng những chuyện bà tha thiết, gắn bó đều không còn quan trọng nữa đối với đời sống của bà kể từ nay.
Truyện đáng chú ý nhất và dài nhất là truyện Ngựa nản chân bon, về chủ đề chết.
Trên hòn đảo tị nạn, bốn nhân vật ngồi uống trà: một linh mục, một trung úy, cựu sinh viên triết học, một ông giáo và một cụ cán sự công chánh đã nghỉ hưu. Linh mục vừa làm lễ an táng trên núi cho một người đàn ông, bên quan tài người góa phụ khóc lóc thảm thiết. Không khí chết chóc vẫn còn vây quanh bốn người khi họ xuống núi, ngồi uống trà trong cái lán của linh mục. Họ bàn về cái chết, mỗi người kể một câu chuyện riêng để tỏ lập trường, thái độ của mình về sự sống chết, về thân phận con người. Trong các kinh linh mục đọc trong lễ an táng có câu: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta thì dù có chết sẽ được sống lại, và ai sống mà tin ta thì không phải chết đời đời”. Linh mục cho biết người chết và “goá phụ” thật ra là một cặp trai gái yêu nhau, trốn gia đình đi vượt biên, chưa làm lễ cưới. Người phụ nữ không có đạo nên than khóc: “Làm sao sống lại đây!”
Người trung úy nóng lòng muốn biết linh mục có bực mình không khi nghe người phụ nữ than khóc như thế. Ông nhà giáo thì hỏi “Cha có tin ở sự sống lại không?” Câu hỏi gây thích thú cho mọi người.
Viên trung úy với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết nói thẳng: “Tôi không tin”, và cho rằng những câu hỏi: Từ đâu ta đến đây? Sống để làm gì? Chết sẽ về đâu? là những câu hỏi mang dấu hiệu của nữ tính, của tuổi già. Anh ta nói chỉ nên thu xếp ngay trong đời này, đừng chờ đợi gì cả. Nếu không chọn được lúc mình sinh ra thì có thể chọn lúc mình chết. Những người dám tự vẫn là những người tự tin mình.
Vị linh mục bèn kể một câu chuyện như một lời đáp với các bạn. Hồi đó linh mục làm cha xứ trong một họ đạo. Một hôm có một người đàn bà chạy đến mời Cha mau mau đến giải tội cho người chồng đang hấp hối. Linh mục đến nơi, ngôi nhà nghèo nàn, lụp xụp, nhưng lạ thay, trong nhà đầy sách, nơi nào cũng có sách. Lên đến trên gác thì thấy một người đàn ông khoảng sáu mươi tuồi nằm dài trên sàn nhà, đã chết vì tự thắt cổ. Người vợ kể lể, phân bua: khi bà thấy cái cảnh rùng rợn ông thắt cổ, bà vội cắt dây thòng lọng, đưa ông nằm xuống thì nghe ông thều thào như ông muốn xưng tội, thế nên bà mới mời Cha đến. Vị linh mục cho biết ông ấy đã chết nên không thể giải tội được, linh mục sợ hành động trái với nguyên tắc giáo lý. Nhưng bà vợ cứ năn nỉ và nói chắc ông chồng có viết đâu đó trong một bản thảo về ý muốn xưng tội. Linh mục đành ban phép giải tội và tìm kiếm bằng chứng trong các giấy tờ vương vãi khắp phòng, và linh mục khám phá người đàn ông là một nhà văn, một nhà tư tưởng, và nhận thấy người đàn ông tự vẫn bằng cách đứng trên một chồng sách quý và hất chồng sách ngã về một hướng để cho cái dây siết cổ. Những cuốn sách quý đó là bộ Tứ thư, những sách kinh Phật, bản Đạo Đức Kinh, bản Kinh Coran của Hồi giáo, bộ Tư bản luận của Karl Marx, bộ Cựu Ước và Tân Ước của Thiên Chúa giáo, v.v.
Linh mục nói với người trung úy (và lặp lại chữ “thu xếp” của người này): ông nhà văn đã bỏ cả đời đọc những cuốn sách đó để tìm hiểu: Ta từ đâu đến? Sống để làm gì? Chết về đâu? để “thu xếp” cho đời mình, nhưng ông ấy đã tìm được gì chưa? Lời đáp ở trong các bản thảo của ông rải rác trong căn phòng chăng? Các bản thảo được viết ngay ngắn, sắp xếp theo thứ tự, và bản thảo cuối cùng là một tờ giấy với một dấu hỏi và một dấu than lớn. Nhà tư tưởng tìm kiếm suốt đời, về già thì bế tắc nên ông tìm đến cái chết trong sự sáng suốt, tự chủ. Ông hy vọng cách chết của ông mang một thông điệp.
Viên trung úy không đồng ý với lập luận của linh mục và cho rằng chữ viết là “đồ nguội”, là “điều đáng ngờ”. Nhưng nhìn nhận cách chết tự ý của ông nhà văn là cao cả. Rồi viên trung úy kể một chuyện tự vẫn mình đã mục kích. Khi xảy ra biến cố 30 tháng tư, trung úy gặp lại hai người em, một thuộc hải quân và một thuộc không quân. Anh em mừng rỡ vì qua thời chiến không ai bị gì, vẫn còn nguyên vẹn, nay được gặp lại nhau. Trong một thành phố Sài Gòn rộn rịp vì cuộc đổi đời, ba anh em ngồi gần hiệu kem Givral xem thiên hạ qua lại, và thình lình thấy tận mắt một trung tá của Việt Nam Cộng hòa mặc quân phục, rút súng tự bắn vào đầu trước toà nhà Quốc hội. Viên trung úy kết luận: không thể chấp nhận cuộc sống không có ý nghĩa, dường như ông trung tá muốn nói với bạn bè và kẻ thù rằng tuy thất bại ông phải được kính nể như một địch thủ nghiêm chỉnh. Và theo viên trung úy đó là một cách “thu xếp” cuộc đời.
Đến lượt ông nhà giáo cho biết ông nghĩ gì về cái chết. Ông vốn dạy học trong một trường trung học ở Sài Gòn. Vào thời có quân đội Mỹ, đời sống đắt đỏ, vật giá leo thang, đồng lương giáo sư của ông không đủ nuôi gia đình. Ông bèn bỏ nghề dạy học, nhờ sự giới thiệu của người em rể, ông vào làm quản lý trị sự cho tờ nhật báo Tranh Đấu. Sau biến cố tháng tư, tất cả chủ nhiệm, chủ bút, ban biên tập của tờ báo đều biến mất, còn lại ông giáo, ông bị đi tù. Vì tờ báo Tranh Đấu thuộc phái thủ cựu, ông giáo bị tra hỏi ngày đêm về CIA, trong khi công việc của ông là mua giấy, lo in ấn tờ báo. Thế là ông giáo bị buộc tội viết báo cho CIA, theo lệnh của CIA, ông ở tù 3 năm. Trong tù ông giáo được biết có một nhà văn tuyệt thực và bị biệt giam, đám người trong tù thấp thỏm theo dõi tin tức, không bao lâu có tin người biệt giam không có nước uống, rồi dần dần lại có tin người biệt giam xin ăn trở lại. Ông giáo kết luận: không nên siêu hình hóa cái chết. Cái lỗi của chúng ta là muốn dùng cái chết để làm một cái gì đó. Ta mặc cả với thần chết.
Cụ cán sự hỏi ông nhà giáo có phải xem cái chết là tự nhiên không?
– Anh có sợ chết không?
Ông giáo quay hỏi vị linh mục và người trung úy. Vị linh mục đáp:
– Không, tôi tin sự sống đời đời trong nước Chúa.
Viên trung úy nói:
– Chưa sợ, tôi còn khỏe.
Còn cụ cán sự:
– Sợ chứ.
Ai nấy đều ngạc nhiên. Sợ chết mà sao lại vượt biên? Người già vốn mong manh gặp bão táp, đói khát trong cuộc vượt biên rất dễ chết, ở lại quê nhà vẫn hơn. Nhưng cụ cán sự nói ngay cụ sợ một cách chết khác còn ghê gớm hơn. Cụ cho biết cụ lớn hơn ba người kia đến 20 tuổi, đã sống qua 6 chế độ, từ kháng chiến chống Pháp đến ngày nay là thời cộng sản sau 1975. Bạn bè, thân thích đã chết nhiều, còn lại cụ và một người bạn thân sống dai dẳng đến ngày nay. Bạn cụ, chắc ba người đang nghe đều biết. Bạn cụ khi xưa rất nổi tiếng, rồi cụ đọc: “Hằng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều…” Ba người đều ồ lên, nhận ra bài Ngày tựu trường của Thanh Tịnh mà thuở nhỏ người học trò nào mà chẳng biết. Vị linh mục còn nói bài nổi tiếng đó ở trong tập Quê mẹ. Cụ cán sự kể khi nhỏ cụ và Thanh Tịnh là đôi bạn thân. Thấy Thanh Tịnh có tài, cụ cũng mơ được nổi tiếng như bạn, nhưng gặp toàn thất bại. Rồi gia đình cụ đổi đi nơi khác. Lớn lên cụ là một thanh niên yêu nước hăng say với kháng chiến, với tinh thần đấu tranh giành độc lập. Thế rồi sau 30 tháng 4, cụ sững sờ thấy thế hệ cán bộ trẻ lơi lỏng, tinh thần đấu tranh phai nhạt, cụ chờ gặp những người thuộc thế hệ mình để hiểu. Dịp may xảy đến: sẽ có một buổi nói chuyện nhân ngày kỷ niệm sinh nhật Hồ Chủ tịch, và may thay, báo cáo viên lại là Thanh Tịnh. Cụ cán sự vui sướng khi nghĩ sắp gặp lại bạn xưa, sẽ mời bạn về nhà một đêm nói chuyện cho thỏa thích.
Nào ngờ, trung tá Thanh Tịnh nay là một con người hoàn toàn khác xưa. Nay ông là một người chuyên ca tụng Bác Hồ một cách mù quáng. Cụ cán sự cho đó là một cách tự vẫn. Trung tá Thanh Tịnh đã chọn một cái chết chậm chạp, chết mà vẫn còn sống. Cụ nghĩ: “Bạn tự nguyện làm cái xác ướp để hầu cận một cái xác ướp khác”.
Cụ cán sự tự cho mình là “con ngựa nản chân bon”, như trong Chinh phụ ngâm, nhưng không chấp nhận cái chết dưới hình thức cái xác ướp vì thế mà cụ vượt biên. Ra đi để có một đời sống có ý nghĩa.
Khi nói về những truyện sáng tác trên đảo Kuku, Nguyễn Mộng Giác viết: “… chưa có thời kỳ nào trong đời tôi viết được nhiều như thời gian ở Kuku.
Cảnh ở Kuku quá đẹp… Nước biển trong vắt có thể nhìn rõ từng đàn cá bơi lội vẫy vùng dưới đáy. Rừng trên đảo gồm những cây thân cao vút mọc dày từ bờ biển lên đỉnh núi, cao và thẳng đến nỗi những cụm mây trắng cứ là đà ở lưng chừng thân cao…” (sđd. tr. 129)
Trước một cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt vời như thế, con người vừa thoát khỏi một chế độ khắc nghiệt, cảm thấy sung sướng được thở một không khí tự do bao la, một thứ tự do đưa đến sáng tạo. Ngựa nản chân bon là tác phẩm đầu tiên của thuyền nhân Nguyễn Mộng Giác viết ngoài quê hương, đánh dấu thời kỳ một nền văn học mới xuất hiện: văn học Việt Nam hải ngoại.
* Nguyễn Mộng Giác, Nghĩ về văn học hải ngoại, Nxb Văn Mới, California, 2004, tr. 99.