“Ta về’, sẽ về đâu?

Ngu Yên

(Cách đọc: Nếu bạn chỉ muốn đọc để giải trí, thì đừng đọc phần luận chú. Nếu bạn muốn vào sâu, thì đọc phần luận theo thứ tự mỗi khi thấy đính hiệu.Ví dụ: [L1] … [L4].)

126 câu thơ 7 chữ, xứng đáng gọi bài thơ này là một trường ca. Một trong vài bài thơ dài được phân tích và phê bình nhiều lần bởi một số nhà phê bình chuyên và nhiều nhà bàn thơ tản mạn mang tính nghiệp dư. Hầu hết là khen ngợi sau khi giải thích những ý nghĩ tương đối dễ nắm bắt và những ngụ ý, ẩn dụ quen thuộc tạo nên sự dễ dàng cảm nhận.

Đó là bài thơ Ta về của nhà thơ Tô Thùy Yên .

Nếu là một bài thơ có giá trị thật hoặc có giá trị bị hoài nghi thì công việc phân tích phê bình bài thơ đó sẽ được tiếp tục qua nhiều thế hệ, ví dụ như chúng ta tiếp tục tìm hiểu và phê bình Tống biệt hành của Thâm Tâm, hoặc cao hơn là Kiều của Nguyễn Du. [L1]

Trường hợp Ta về, liệu các thế hệ về sau có thỏa thuận với những phê bình của thế hệ cùng thời với tác giả? Kinh nghiệm văn học cho thấy, những phê bình giữa những người cùng thời, tuy có trải nghiệm giao du trực tiếp, có kiến thức lâm sàng, có thể nói là biết nhiều bí mật, nhưng thông thường khi bước vào phê bình văn học, chữ nghĩa bỗng dưng sẽ thiếu thẳng thắn và ít trung thực, đôi khi có người phê bình nịnh, đọc mà thương ôi. Sao họ không hiểu: thời gian sẽ phanh phui sự thật? Nói thật nghen, giả dối trong sáng tác thì có thể chấp nhận, nhưng giả dối trong phê bình thì “forget not forgive.” (Quên thì có thể nhưng tha thứ thì không.)

Tôi không có ý như nhà thơ Xuân Diệu nói: Tôi là con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi. Tôi muốn xét lại bài thơ Ta về như một con chim hót vì nó là con chim thì phải hót. [L2]

126 câu thơ của Ta về không phải là dài vì không ai đánh giá bài thơ theo chiều dài và số lượng chữ, nhưng liệu có dư thừa không? Hoặc thiếu?

Ý tưởng và tứ thơ có gì mới lạ hay chỉ là sự lặp lại với sáng kiến chưa đủ cánh bay để trở thành sáng tạo?

Sự độc đáo của thơ nằm ở đâu trong bài thơ này?

Liệu bài thơ được chiếu cố vì vị trí đắc địa trong thời gian, không gian, bối cảnh, lòng người hay vì giá trị thi ca?

Liệu khi năm tháng qua xa dần, Ta về được các thế hệ trẻ nhìn như một bài thơ đời dài hay chỉ là “Một thuở trần gian bay lướt qua”?

Hình mạo của Ta về

Hai câu thơ đầu tiên dẫn vào phần chính của bài thơ mang dạng câu mưỡu:

Tiếng biển lời rừng nao nức giục

Ta về cho kịp độ xuân sang.

Hai câu mở ra nội dung với hai ký hiệu đáng quan tâm. “Ta về” là cụm từ nhấn mạnh và sẽ được sử dụng trùng điệp như đầu mối để tỏa ra tứ và ý thơ.

Trong khi “xuân sang”, theo nghĩa đen, tức là người đó đang trở về vào cuối mùa đông, đang cố gắng đi sao cho kịp mùa sang xuân. Nhưng ở nghĩa ngụ ý, “xuân sang” biểu tượng cho điều gì? Cụm từ này nằm ngay ở mưỡu giới thiệu. Dù cố ý hay vô tình, nhà thơ cho người đọc lý do tìm hiểu “xuân sang” như biểu tượng hay ẩn dụ hay là một điều gì chủ yếu để tác giả xây dựng bài thơ. Nếu “xuân sang” là ngụ ý thì bài thơ này gây ra sự tò mò, có khả năng thu hút người đọc tiếp tục tìm hiểu, thủ thuật này đóng góp vào phần tăng giá trị cho bài thơ. Nếu “xuân sang” chỉ ở nghĩa đen, thì bài thơ kém đi chất sáng tạo.

Hình mạo một bài thơ nằm ở cấu trúc và thuật truyền đạt. [L3] Bất kỳ bài thơ nào cũng có cấu trúc riêng của nó. Cấu trúc đó do tác giả chủ ý xây dựng hay tự nhiên viết mà thành hình từ thói quen theo truyền thống hoặc theo tiềm thức. Tương tựa như dựng truyện và kể chuyện.

Ta về có cấu trúc tự nhiên và truyền thống. Sự tình xảy ra theo quá trình của một người đàn ông hồi hương sau một thời gian xa cách quê nhà, trải nhiều sóng gió, nay trở về, gặp lại người cũ, cảnh xưa với tâm sự bi quan và một nhân sinh quan chán nản buông thả. Không tìm ra một câu thơ nào diễn đạt nỗi hy vọng hoặc mong chờ một tương lai ánh sáng. Hy vọng luôn làm bài thơ mở ra phần kết, cho người đọc những gì để tiếp tục mong chờ, suy nghĩ. Đối với một bài thơ có kết thúc đóng hoặc chìm, phải có một nội dung, một thân thể với khả năng quyến rũ, tạo sức thú vị nổi bật cho người đọc. Ta về có một kết thúc chìm. Không lôi cuốn được sự tiếp tục của người đọc.

Ta về như hạc vàng thương nhớ

Một thuở trần gian bay lướt qua.

Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,

Đành không trải hết được lòng ta.

Hết. Không còn gì nữa. Tác giả đã chấm dứt tâm sự. Người đọc có thể cảm giác ngậm ngùi. Người đồng cảm có thể vấn vương lâu hơn rồi thôi.

Phần kết của một bài thơ rất quan trọng vì chữ nghĩa đó, lời lẽ này, là những dòng thơ cuối cùng mà người đọc dễ ghi nhớ và dễ bị ám ảnh.

Ta về” tác giả sử dụng cụm từ này để mở đầu cho mỗi đoạn thơ. Bài thơ ngoài trừ hai câu mưỡu, tiếp theo là mười lăm đoạn thơ, mỗi đoạn có tám câu và bốn câu thơ kết, cũng mở đầu bằng cụm từ “Ta về”. Sự lặp lại “Ta về” củng cố chủ đề “sự trở về” một cách mạnh mẽ. Như một cách đóng đinh giữ chặt sự nối kết giữa lưu lạc và nguồn cội, giữa bể dâu và tổ ấm. Hỏi thật nghen, tại sao bạn nhớ bài thơ Ta về? Có phải vì bạn phải đọc, phải nghe nhiều lần cụm từ Ta về?

Tâm tư của Ta về

Tôi nghĩ, tuy Ta về không có một kết thúc bắt mắt nhưng có thân bài, nội dung lôi cuốn một cách đằm thắm và chiêm nghiệm. Làm cho người đọc xao xuyến vì cảnh ngộ, nhất là những người đọc có cùng hoàn cảnh hay chuyện đời tương tự. Đồng thời, là một văn bản văn chương có trình độ thẩm mỹ cao. Ai mà không cảm được: Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng / Trọn đời nỗi nhớ sáng không nguôi. “Vết phỏng”, “lưu hồn”, “nỗi nhớ”, có cách nào diễn đạt hay hơn không?

Hay là:

Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà!

Tình xưa như tuổi già không ngủ,

Bước chạm khua từng nỗi xót xa.

Điểm hay trong sáng tác

Hầu hết những ai đọc bài thơ này từ một độc giả bình thường đến nhà phê bình chuyên nghiệp, tôi chắc họ sẽ đồng ý với nhau, đây là một bài thơ đầy cảm xúc. Nhiều cảm xúc hơn những bài thơ cùng thể loại. [L4]

1. Cảm xúc

Có nhiều đoạn, nhiều câu thơ gây cảm động. Tâm sự riêng trở thành tâm sự chung, chia sẻ và đồng cảm một cách mạnh mẽ. [3] Một số tứ thơ tuyệt, vừa đẹp, vừa xúc động, như:

Ta về một bóng trên đường lớn.

Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…

Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?

Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.

Ta gọi thời gian sau cánh cửa.

Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.

Ta nghe như máu ân tình chảy

Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.

 

Ta về như đứa con phung phá

Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu.

Mười năm, con đã già như vậy.

Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu…

Một số hình ảnh có khả năng tạo sự ám ảnh. Không bằng những ý tưởng sâu thẳm nhưng bằng phong cách hành văn cùng ngữ pháp cao tay ấn, tạo ra tứ, hình và ý gây xao xuyến, thú vị, truyền cảm được nét và chất đẹp của thơ:

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy

Ruột mềm như đá dưới chân ta.

 

Ta về như tứ thơ xiêu tán

Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.

 

Đau khổ riêng gì nơi gió cát…

Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm

 

Ta nhặt mà thương từng phế liệu

Như từng hài cốt sắp vô danh

2. Ẩn dụ, hoán dụ, biểu tượng, ngụ ý

Về mặt ẩn dụ, là trọng điểm của thơ. Có thể nói: Thơ là ẩn dụ (bao gồm hoán dụ, biểu tượng, ngụ ý). Ta về, cơ bản là bài thơ tâm sự, kỷ niệm, mang tính hiện thực, lãng mạn, thể hiện chất thực tế: Ta về một bóng trên đường lớn / Ta về qua những truông cùng phá / Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ / Một đời được mấy điều mong ước / Người thức nghe buồn tận cõi xa, v.v. đồng thời chen lẫn những ẩn dụ, hoán dụ, biểu tượng, ngụ ý và điển tích.

Thơ chẳng ai đề vạt áo phai”, dụng ý từ câu ca dao “Mình về ta chẳng cho về, ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”.

Làng ta, ngựa đá đã qua sông” dụng tích con ngựa đá bên dòng sông Vĩnh Lại, do Trạng Trình dựng lên với câu sấm, khi nào ngựa đá qua sông, thì dân làng Vĩnh Lại sẽ công danh hiển hách. Đến đời Hậu Lê, quả thật ngựa đá qua sông. Nhưng kết quả dân làng phò nhà Lê bị quân Tây Sơn, Vũ Văn Nhậm tiêu diệt. Mang hình ảnh dân miền Nam bị thảm họa bởi nhà cầm quyền miền Bắc.

Ta về như đứa con phung phá”, dụng tích trong Thánh kinh, đứa con hoang đàng trở về.

– “Con gẫm lại đời con thất bát”, dụng ý từ câu: Thiên hạ bất chi như ý sự, thập thường cư thất bát (Trong thiên hạ, những việc không như ý mười điều hết bảy tám).

Ta về như nước Tào Khê chảy” dụng ý suối Tào Khê, trong câu: “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.

– “Ta về như hạc vàng thương nhớ”, dụng tứ Hoàng hạc lâu.

Ngoài trừ những câu thơ sát tính hiện thực, hầu hết các câu thơ còn lại đều là ẩn dụ hoặc ngụ ý.

Ẩn dụ văn chương là phẩm chất của thơ. Là một biện pháp tu từ dùng tên của một sự vật, hiện tượng này để gọi tên một sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng về đặc điểm, tính chất nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho cách diễn đạt. “Gợi cảm” là ký hiệu quan trọng nhất của ẩn dụ. Nếu không gợi được cảm thì gợi ý cũng chỉ khô lạnh vô tích sự trong thơ.

Mười năm, mặt xạm soi khe nước,

Ta hóa thân thành vượn cổ sơ

Cám ơn hoa đã vì ta nở.

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.

Lời thề truyền kiếp còn mang nặng

Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.

Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng

Chờ anh như biển vẫn chờ sông

vân vân.

3. Ngôn ngữ truyền đạt

Điểm mạnh và giá trị trong Ta về là phong cách truyền đạt của nhà thơ Tô Thùy Yên, cho thấy trình độ ngôn ngữ thơ và khả năng sáng tạo thể hiện qua chữ nghĩa.

Không cầu kỳ, không khó hiểu, chữ nghĩa đến thoải mái, sáng sủa và đẹp. Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ / Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ, nghe tàn cát bụi tháng năm bay / Cảm ơn hoa đã vì ta nở, Thế giới vui từ mỗi lẻ loi, v.v. Văn học thường tranh luận, có ngôn ngữ thơ hay không? Đa số câu trả lời là thơ xưa có, thơ nay không. Nhưng nếu đọc Ta về thì rõ ràng tài năng của nhà thơ Tô Thùy Yên âm thầm trả lời: Vâng, có một loại ngôn ngữ dành riêng cho thơ.

Điểm không hay trong sáng tác

Đây là phần nhạy cảm nhất trong cõi phê bình của những tâm trí chạy trốn sự thật nhưng họ không biết rằng, phê bình văn học không tìm đến sự thật, không nhất thiết nói đúng là đúng, nói sai là sai, theo kiểu lấy dao viết văn lên đá như cách nói của Phùng Quán. Không, phê bình văn học chủ quan và trung thực với chủ quan. Thà thành thật nói sai hơn là nói nịnh, nói dối. Có bao nhiêu nhà phê bình bị thiến như Tư Mã Thiên?

Phê bình văn học và nghệ thuật có nhiệm vụ sáng nhất là vạch ra những mù mờ, những gì có khả năng lầm lẫn cho người đọc, người thưởng ngoạn được thấy rõ hơn, được cảm thụ tốt đẹp hơn về đối tượng. Phê bình văn học không có nhiệm vụ khen chê mà chỉ trung thực trình bày bằng khả năng hiểu biết về học thuật, cảm thức, luận lý về tác phẩm.

Khả năng hiểu biết? Ai dám nhận mình biết tất cả? Vì vậy, nếu là chim thì phải hót, nếu là quạ, thì phải kêu những âm thanh khó nghe.

1. Cảm xúc trong Ta về là giá trị nổi bật của bài thơ. Cảm xúc này thể hiện qua tứ, ý, hình, và chữ nghĩa. Tuy nhiên, trong Ta về có rất nhiều hình ảnh, ý tứ lặp lại, đã được sử dụng mỏi mòn, cho dù thay đổi bằng chữ nghĩa khác, ý nghĩa và giá trị tứ thơ vẫn quá quen thuộc, khó mang đến sự thú vị của sáng tạo thơ. Ví dụ như: Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ / Khách cũ không còn, khách mới thưa… hoặc: Núi lở sông bồi đã lắm khi / Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau. Nhiều tứ-hình thơ như vậy thường tạo ra nhàm chán. Hình ảnh mái đầu sương điểm thấy trong thơ tiếng Hán của Nguyễn Du; hình ảnh hạc vàng bay không trở lại, thấy trong Hoàng hạc lâu. Phải công nhận, nhân sinh quan về đời sống của đa số người Việt bị ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng và triết lý Trung Hoa. Đa số người Việt ít yêu thích động não ý tưởng và tư duy vì vậy vấn đề cập nhật với tư tưởng thế giới ngày nay của người Việt rất sơ sài. Không biết thì không thể sáng tác cái không biết. Nói chung, không có mấy sáng tạo đáng giá trong Ta về. Mới và lạ không thấy trong Ta về. Nhà văn Murakami định nghĩa sự độc đáo là sự mới lạ của riêng mình. Và sự độc đáo là giá trị cao nhất của sáng tạo. Sáng tạo là giá trị cao nhất của sáng tác. Tôi thực sự không thấy nét độc đáo đó trong Ta về.

2. Cấu trúc trong Ta về chuẩn trên phương pháp cân phương với vần nhịp êm ả, đều đặn. Có ưu điểm phù hợp với khí hậu buồn bã, đau lòng, cảm động… phù hợp với ý và tứ thơ. Đồng thời diễn đạt được tình cảm và ý nghĩ của tâm trí người thất thế.

Sự lặp lại của cụm từ “ta về” và nhịp phách đều đặn của mỗi câu 7 chữ, của mỗi đoạn 8 câu, của âm bằng trắc xen kẽ ở cuối mỗi câu và của cước vận, không cho phép bài thơ có được những biến chuyển trong khí hậu, không thể hiện được những bất ngờ gây ngạc nhiên, không thay đổi được tốc độ trong quá trình của bài thơ. Bài thơ mất đi khả năng linh động và sống động. Sử dụng thể thơ truyền thống 7 chữ vần nhịp cần phải có một số tứ thơ mới lạ, hoặc hình ảnh nổi bật, hoặc ý thơ khác thường để dẫn đưa người đọc một cách lôi cuốn.

Đọc Ta về, nếu đọc lớn tiếng, nếu đọc thâu vào băng rồi nghe lại, sẽ nghe ra sự êm ả, vần điệu, đều đều, nếu không chú tâm thu hút những hình ảnh, ngữ pháp và cú pháp, bài thơ có cơ hội bị bỏ dở giữa chừng. Các bạn có thể cãi rằng, bài Ta về sáng tác vào tháng 7 năm 1985, tất nhiên nhịp điệu và không khí phải lỗi thời.

Không. Có những bài thơ trước đó, thậm chí làm trong thể thơ cũ kỹ ục bát mà mỗi lần nghe vẫn rung động.

Bài nào?

Đọc lớn tiếng nghe mới thích:

Đêm mưa làm nhớ không gian,

Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…

Tai nương nước giọt mái nhà

Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn.

Nghe đi rời rạc trong hồn

Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…

Rơi rơi… dìu dịu rơi rơi…

[…]

(Buồn đêm mưa, Huy Cận sáng tác 1940)

3. Quên hay thiếu sót?

Khi mở đầu, chúng ta quan tâm đến cụm từ “xuân sang”. Nhân vật chính trong bài thơ hối hả trở về cho kịp “độ xuân sang”. “Xuân sang” là biểu tượng gì? Ngụ ý gì?

Đọc suốt bài thơ, không tìm ra câu nào, chữ nào cho thấy “xuân sang” là ước mơ gì? Là hy vọng nào? Chỉ thấy “Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ”. Thậm chí không phải là cuối đông, cần gì hối hả cho kịp độ xuân sang, dù đi bộ? Như vậy “xuân sang” không phù hợp vào đâu cả, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tác giả đưa cụm từ “xuân sang” vào câu mưỡu giới thiệu, để làm gì? Hay đây là một sơ suất? Hay là thiếu sót, quên giải quyết?

4. Nhất quán và sự dư thừa

Ta về là bài thơ diễn tả tâm sự, như chúng ta biết, của một người tù đang hồi hương. Vì vậy hầu hết các đoạn thơ đều truyền đạt về cảm giác, cảm xúc của hồi ức và của phản ứng với hoàn cảnh. Phạm vi diễn đạt khá bị giới hạn. Do đó, tình cảm của nhân vật chính dễ bị lặp lại dưới những hình thức, hình ảnh, chữ nghĩa khác nhau, dễ dẫn đưa đến sự dư thừa. Tinh thần nhất quán phải được kiểm tra sau khi bài thơ hoàn tất, cần một thời gian để tự biên tập.

Muốn biết dư thừa hay không, chỉ cần lấy đoạn thơ, câu thơ đó ra khỏi bài thơ mà ý nghĩa và giá trị của tổng thể không bị ảnh hưởng, thì đúng là thừa.

Ví dụ:

Ta về như sợi tơ trời trắng

Chấp chới trôi buồn với nắng hanh.

Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng?

Phải, ôi vàng đá nhắn quan san?

 

Lời thề truyền kiếp còn mang nặng

Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.

Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ.

Mười năm, ta vẫn cứ là ta.

Ý và tình cảm của đoạn thơ này sẽ được lặp lại ở những đoạn phía sau, nhưng không hay bằng. Không có đoạn thơ này, bài thơ không mất mấy nhưng bù lại bớt lê thê.

Đánh giá tổng thể

Nhìn chung, bài thơ Ta về có một số khuyết về tác thuật, cần được quan tâm, tuy nhiên năng lượng cảm xúc của bài thơ này vượt lên và đạt mức cao độ, khiến cho những lỗi về kỹ thuật hoặc nghệ thuật không còn là mối quan tâm của thưởng ngoạn, cho dù vẫn là những khó khăn cho văn học.

Trong thời đại của tác giả, Ta về được chấp nhận rộng lớn vì bối cảnh xã hội và chính trị. Có thể nói, có bao nhiêu người lính miền Nam bị đi tù cải tạo, thì có bấy nhiêu người yêu mến và ủng hộ Ta về. Có bao nhiêu vợ con, bằng hữu của những tù nhân chính trị, sau bao nhiêu năm tù được được thả ra, là bấy nhiêu người đau đớn với Ta về. Có bao nhiêu người chống cộng nhiệt huyết, là có bấy nhiêu người ngây ngất với Ta về. Họ đều rung cảm với chấn thương không chỉ cá nhân mà bao gồm cả xã hội. Họ thành thật run lên với: Ta về, một bóng lẻ loi trên đường lớn / trở về như bóng chim muộn màng / cúi đầu tóc bạc màu sương / trở về như bóng ma hờn tủi / trở về không trải hết được lòng.

Sự đồng cảm rộng rãi đối với Ta về khiến sự thành công của bài thơ mang tính chính trị và xã hội. Sự xuất hiện của bài thơ đúng thời điểm, đúng lịch sử, đúng lòng người khiến bài thơ được ngợi ca, cũng là một việc công bình. Sự ngợi ca này đến từ phía văn học, dân chúng miền Nam và dân hải ngoại nhiều hơn là văn học miền Bắc và dân miền Bắc. Cũng là chuyện hợp lý.

Sự độc đáo trong thơ bắt đầu từ ý nghĩ sâu sắc, thâm thúy hay mới lạ được cảm xúc thúc đẩy vào tứ thơ khác thường với chữ nghĩa đặc thù mới hoặc khác lạ cho riêng tứ thơ đó. Xét về văn học, không thể chối cãi Ta về là một bài thơ hay. Sự vắng mặt của khả năng độc đáo khiến bài thơ không được xếp vào thượng hạng.

Rồi mai nay, khi những thế hệ trẻ lớn lên, họ không mấy trải nghiệm bối cảnh xã hội / chính trị Bắc Nam, không mấy cảm nhận được ý thức cụ thể về tù đày / cải tạo / lòng tàn ác; thì Ta về chỉ là một bài thơ của một người tù trở về nhà. Bên cạnh những bài thơ của người tù trở về từ các trại giam của Đức Quốc Xã, trong Thế chiến thứ Hai. Nhưng đó là chuyện của các thế hệ sau. Có thể họ sẽ tiếp tục bình phán.

Thế hệ cùng thời với tác giả, tôi chỉ có thể nói, trung thực, “Làm được một bài thơ như Ta về đã là việc hiếm hoi.

 

Ngu Yên, 31 tháng 8, năm 2025. Boston-Houston.

Luận chú:

[L1]

Mỗi giai đoạn, mỗi thế hệ, sẽ cập nhật những tư tưởng mới, những lý thuyết văn học mới, những khám phá mới, do đó những nhà phê bình mới sẽ nhìn những bài thơ xưa dưới tầm mắt khác. Đây cũng là một cách đo lường chính xác của một bài thơ tồn tại qua nhiều thế hệ. Như sự trường tồn của Đoạn trường tân thanh.

Đã làm nhà phê bình thì không ít sẽ nhiều động chạm đến người sáng tác. Có lẽ, đa số người ta hiểu lầm phê bình văn học là thẩm phán văn chương. Một thứ quyền lực gia trưởng. Không phải, là một loại hầu bàn văn chương không có tiền típ.

Phê bình văn học không nhằm mục đích tìm kiếm dứt khoát một chân lý duy nhất (sự đúng/sai). Nó hướng đến việc thấu hiểu và kiến ​​tạo ý nghĩa thông qua việc đọc kỹ lưỡng và tập trung vào một văn bản văn chương, từ đó dẫn đến một dạng kiến ​​thức chuyên biệt và phân tích với những phương pháp nghiêm túc.

Mặc dù một số nhà phê bình ủng hộ những cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn chung, phê bình văn học là một lĩnh vực riêng biệt, thông qua các phương pháp diễn giải và phân tích, nó tiết lộ và xây dựng kiến ​​thức chứ không chỉ đơn thuần là phơi bày một chân lý đã tồn tại từ trước. Trong bối cảnh và tư tưởng ngày nay, hai chữ “chân lý” không còn mấy giá trị. Cơ sở của văn học không có đúng và sai, chỉ có chỉ có giá trị nền và giá trị thay đổi từng thời kỳ. Trong quá trình phê bình, giá trị của nó nằm ở việc thách thức những giả định, vạch trần những điểm mù và tinh chỉnh sự hiểu biết. Mối quan hệ giữa phê bình và chân lý rất phức tạp và thay đổi tùy thuộc vào loại phê bình được đưa ra.

Nền phê bình văn học ở nước ta không rạng rỡ lắm vì ít người tham dự với tài năng sắc bén và nhất là lòng trung thực có sức can đảm xô sau lưng. Chưa kể phê bình còn bị dụ dỗ và bị áp lực bởi tình, tiền và danh.

[L2]

Tôi là người làm thơ, khá lâu, không có nghĩa là khá hay, nhưng có nghĩa là ăn nằm với thơ gần 60 năm, tất nhiên, thơ mà tôi nhìn thấy, nghĩ về, có căn cước riêng. Căn cước như thế nào là một chuyện khác.

Tôi là người làm thơ rồi lại săm soi phát biểu ý kiến về thơ người khác, gần giống như một người lấy vợ khá lâu, rồi đi ra ngoài so sánh vợ người khác với vợ mình, khẩu nghiệp hơn nữa là phát biểu về nhan sắc và tính tình của vợ người ta. Phải chăng có gì lấn cấn, có gì không phải đạo lý? Như vậy, những người độc thân, chưa có vợ, có hợp lý để làm công việc bình phẩm hay không?

Tất cả những ý tưởng đại loại kiểu này là do sự sợ thúc đẩy suy nghĩ. Những ràng buộc của xã hội, quen biết, bạn bè, trong trường hợp này, có thêm văn chương, khiến cho, như nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã nói. “Viết lách” là vừa viết vừa lách. Tôi tưởng như lái xe Honda giữa phố Sài Gòn đêm Giáng Sinh, vừa lách vừa chống chân vừa rồ ga. Biết bao lâu mới đến?

Tôi không biết có dân tộc nào khác có những từ tương đương với “viết lách” nhưng dân tôi giỏi lách hơn viết. Bốn ngàn năm lách làm sao không chuyên nghiệp?

Liệu vô thức “viết lách” sẽ tự động điều khiển tôi lách được bao nhiêu khi xét lại bài thơ Ta về, một việc làm có lẽ không cần thiết cho những người đọc thơ, nhưng cần thiết cho văn học.

Đến đây, có phải người đọc nghĩ rằng tôi sắp sửa quần thảo với Ta về vì những quan điểm không hài lòng, hoặc khám phá ra điều gì cần phải nói? Không, tôi chỉ có cảm giác thích và không thích khi đọc bài thơ này nhiều lần. Chưa biết rõ ràng, sâu xa những lý do. Từ khá lâu, tôi đã có ý định tìm hiểu sâu về bài thơ bằng cách đọc từng đoạn, ghi lại cảm nhận, theo kiểu đi đến đâu, nghĩ gì, thì nói đến đó, rồi mới ngắm nghía xét tổng thể, lý luận đôi điều cần viết, phần còn lại lách những gì không có hại cho văn học mà tạo ra phức tạp cho tình cảm. Đồng thời tôi làm bài tập, homework, về một lý thuyết phân tích và phê bình, một phương pháp không hàn lâm, nhắm vào những người đọc chỉ muốn nhức đầu vừa phải.

[L3]

Các nhà thơ sáng tác tiếng Việt ít quan tâm đến cấu trúc của một bài thơ. Họ thường xuyên làm theo thói quen đã có từ học đường, một loại cấu trúc truyền thống. Cấu trúc ở đây là nghệ thuật sắp xếp bài thơ để truyền đạt. Các bạn sẽ thấy rõ hơn tầm quan trọng của cấu trúc nếu các bạn tìm hiểu thêm về Cấu Trúc luận (Structuralism) và Phản Cấu Trúc luận (Deconstruction – Derrida).

Tương tự như nhà nào ở cũng được. Nhưng ở nhà tân thời khác với nhà truyền thống. Nếu không, bạn mua nhà mới để làm gì?

[L4]

Từ cuối thế kỷ 18 ở Tây phương, khi chủ nghĩa Lãng mạn (Romanticism) thành hình, sáng tác văn học đề cao cảm xúc. Cho dù về sau, nhiều chủ nghĩa khác thay thế và sửa đổi những phần cực đoan của chủ nghĩa Lãng Mạn, nhưng “cảm xúc” vẫn là nguồn và động lực sáng tác, nhất là thi ca.

Một bài thơ dù khó khăn hình tứ chữ nghĩa nếu quả thật phát xuất từ cảm xúc thì vẫn là bài thơ có thể hiểu, có thể chia sẻ. Nếu ý tưởng là trí tuệ của bài thơ thì cảm xúc là trái tim mà thơ cần phải có. Về quan điểm này, bài thơ Ta về đoạt giải cảm xúc.

Tuy nhiên cảm xúc trong một bài thơ đòi hỏi một sự cân bằng nào đó với ý tưởng. Trí tuệ và trái tim phải cân xứng, hòa hợp trong tứ thơ, tức là thể xác của thơ.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.