Nguyễn Lam Điền
1/ Hôm trước nhân cái triển lãm thơ văn kháng chiến ở Đường sách Nguyễn Văn Bình, có dịp xem bản thảo tập thơ Việt Bắc. Lòng bâng khuâng nhiều cảm khái. Nhớ lại hồi mới vào đại học, có lần nói chuyện với dượng Bảy ở Gò Vấp, ông nhắc chuyện Tố Hữu làm thơ, đặc biệt ông nhắc hai câu: “Thương cha thương mẹ thương chồng/ thương mình thương một thương ông thương mười; và câu Yêu biết mấy lần đầu con tập nói/ tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin”, và cười nheo cả đôi mắt già nua lại. Lúc đó mình băn khoăn lắm, bởi hành trang mang theo không có tập thơ Tố Hữu, mà hồi phổ thông ở quê đọc thơ Tố Hữu cũng hông nhớ cái bài này. Nay tự dưng nghe ông dượng già nhắc lại với nhiều ngụ ý, mà mình cứ ngẩn ra không biết ông dượng đọc thơ vậy là có đúng không có chính xác không.
Đến chừng giáo sư Google ra đời, lục tìm mấy câu viết về ông Xit-ta-lin trên ấy thì thấy người ta chép sai biệt nhiều quá. Tìm trong mấy tập thơ Tố Hữu in về sau này thì hoặc là không có bài khóc ông Xít-ta-lin, hoặc là có nhưng mấy câu thơ ấy lại không giống như hồi dượng Bảy đọc. Hầu hết các tập thơ in sau tập Việt Bắc năm 1954 nếu có in bài Đời đời nhớ ông (nội dung khóc ông Stalin – Lam Điền) thì bạn đọc sẽ gặp câu này: “Yêu biết mấy, nghe con tập nói/ Tiếng con thơ gọi Sta-lin”. Trong khi cái ấn tượng khi lần đầu tiên mình nghe cụm từ “tiếng đầu lòng con gọi” thì phải nói cái ý “tiếng đầu lòng” nó ghê gớm hơn nhiều. Nhưng rồi cũng đến lúc tìm thấy quyển Việt Bắc in lần đầu năm 1954, nơi trang 69 có in rõ dòng thơ: “Yêu biết mấy, nghe con tập nói/ Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin”. Có thế chứ, quả nhiên ông dượng Bảy của mình nhớ dai. Hehe
Nhưng liền đó là một mối băn khoăn nảy ra: Sao lại có sự sai biệt từ “tiếng đầu lòng con gọi” thành “tiếng con thơ gọi” như vậy cà? Phải chăng là tác giả đã sửa? Hay tay biên tập viên nào đã sửa trong các ấn bản in sau năm 1954? Về văn bản học, cái này khó tìm biết. Cho đến khi mắt thấy tập bản thảo đánh máy, với nét bút bi màu đỏ gạch bỏ đúng mấy chữ “đầu lòng con” và thay thế bằng “con thơ” để từ câu “Tiếng đầu lòng con gọi” thành “Tiếng con thơ gọi”, thì mình hoát nhiên hiểu ngay cái sai biệt ấy hẳn là bắt đầu từ chỗ này đây, nhất là khi nghe được lời nhận định: thời ấy nếu thọc bút sửa thơ Tố Hữu thì chỉ có một người, là chính Tố Hữu.
2/ Hôm rồi mình rơi vào một cuộc truy tìm thơ Trần Đăng Khoa. Bắt đầu từ việc phát hiện trong sách giáo khoa lớp 1 hiện nay có in bài Kể cho bé nghe, nhưng chỉ in đến câu: “Dùng miệng thổi cơm/ là cua là cáy. Mình thấy quái lạ, còn mấy câu nữa sao không dạy luôn. Hóa ra cái thắc mắc bâng quơ vậy mà thành lớn chuyện. Bởi theo trí nhớ suy tàn của mình thì mấy câu tiếp theo của bài Kể cho bé nghe ấy nó thế này: “Bắn tàu Mỹ cháy/ là khẩu súng trường/ người em yêu thương/ là chú bộ đội/ chăm ngoan học giỏi/ là bạn thiếu nhi/ ngu xuẩn nhất nhì/ là tổng thổng Mỹ”. Mình còn nhớ bài thơ này in trong tập Thơ Trần Đăng Khoa mình đã tự tay mua hồi còn ở quê, dễ chừng là 1 trong 2-3 cuốn sách đầu đời của mình. Hồi ở quê trên xã mình (chẳng hiểu sao hễ từ xóm làng ven xã mà đi về trung tâm xã thì dân mình gọi là “đi lên xã”, hoặc “lên trên xã”) có cái Hiệu sách nhân dân. Kế bên hiệu sách là tiệm hớt tóc của ông… (ông gì mình quên tên mất rồi, nhưng đại khái tiệm ông này thuộc hàng sang trọng, mỗi khi bố mình đi hớt tóc thì dẫn mình theo, còn nếu mình tự đi hớt tóc thì hớt chỗ ông già gần xóm, xoàng hơn nhiều). Lần đó mình đi với bố, mình hớt tóc xong trước, đến lượt bố ngồi vào ghế thì mình chạy qua hiệu sách đứng xem, thấy quyển thơ Trần Đăng Khoa, chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, nhưng lúc bố hớt xong qua hiệu sách kêu mình về thấy mình đứng nhìn nhìn các sách, bố hỏi con có muốn mua quyển nào không, mình mừng quá nói ngay, mua quyển thơ Trần Đăng Khoa đi, vậy mà bố mua thiệt. Đem về đọc thấy nhiều bài hay hay, ngồ ngộ, bài Kể cho bé nghe thì thường, mình chỉ thấy nó thuộc vào loại câu ngắn, dễ nhớ, và quả nhiên nhớ lúc nào không hay.
Nhưng bây giờ thì khác, vào Google tìm toàn văn bài Kể cho bé nghe thấy một loạt văn bản lạ hoắc, đại khái sau câu “là cua là cáy” thì tiếp theo thế này: “Chẳng vui cũng nhảy/ Là chú cào cào/ Đêm ngồi đếm sao/ Là ông cóc tía/ Ríu ran cành khế/ Là cậu chích choè/ Hay múa xập xoè/ Là cô chim trĩ”… Cuối bài còn ghi chú năm sáng tác là 1969. Quái lạ, ở đâu ra cái đoạn thơ mới toanh này? Bèn tìm lại các tập thơ Trần Đăng Khoa đang có ở nhà, thì quả thật đúng là bấy lâu mình không… cập nhật thơ Trần Đăng Khoa. Bởi theo như tập Trần Đăng Khoa tinh tuyển thơ (NXB Đồng Nai, in năm 2002) thì mấy câu cuối đã đổi lại y như trên đây. Trong tập Trần Đăng Khoa thơ chọn lọc (NXB Văn học, in năm 2002) thì đoạn cuối cũng là mấy câu “Chẳng vui cũng nhảy…. là cô chim trĩ”, và ghi năm sáng tác là 1969 như vậy.
Vậy là cái đoạn thơ mình từng đọc từng thuộc kia hiện không còn lưu truyền nữa. Ai đã khai tử nó, nếu không phải là chính tác giả Trần Đăng Khoa – người có thẩm quyền tuyệt đối trong chuyện này? Và mình bần thần nhớ lại tập thơ ngày xưa, mua và đọc thuộc từ hồi chưa đi học. Thế rồi may mắn làm sao, trong lúc dọn dẹp, mình lại tìm thấy tập thơ ấy, đúng cái tập Thơ Trần Đăng Khoa (bìa có hình con cò và cây mía, Kim Đồng xuất bản năm 1982) từng mua tại hiệu sách trên xã ở quê bên cạnh tiệm hớt tóc thuở bố mình còn sinh thời. Bèn hí hửng giở ra xem lại, thì quả thật bài Kể cho bé nghe từng có đoạn cuối như mình đã nhớ, và huyền bí ở chỗ: cuối bài thơ, năm sáng tác ghi là “1968 (11 tuổi)”. Chao ôi, chính cái đoạn thơ ghê gớm thần thánh ấy, ra đời trong cái năm lịch sử cũng ác liệt thần thánh ấy, cộng với điều gì nữa, để chính tác giả Trần Đăng Khoa quyết định viết lại 8 câu khác hẳn, vào năm 1969 tức một năm sau khi công bố bài thơ nguyên gốc?
Cái kiểu như Trần Đăng Khoa và Tố Hữu trên đây, có thể xem là tác giả tự làm một cuộc tháo chạy khỏi thơ mình. Xem ra, dù nhiều đến 8 câu như bài Kể cho bé nghe hay ít hơn như bài Đời đời nhớ ông ở trên, cái cuộc tháo chạy ấy đâu phải lúc nào cũng ngoạn mục.