Trần Mộng Tú, một dòng thơ tuôn chảy ngoài quê hương

 Liễu Trương

Nhà thơ Trần Mộng Tú

Thơ Trần Mộng Tú là một hiện tượng trên thi đàn hải ngoại, hiện tượng là vì dòng thơ này trải dài suốt 50 năm của nền văn học hải ngoại, không hề ngưng nghỉ; một dòng thơ khi thì thổ lộ tâm tình của một người nữ giàu tình cảm, khi thì hướng về ngoại giới để vui buồn theo mệnh nước nổi trôi.

Ngôn ngữ thơ của Trần Mộng Tú không uyên bác, không cầu kỳ, kiểu cách. Lời thơ của Trần Mộng Tú giản dị, hồn nhiên như thỏ thẻ tâm tình bên tai người đọc, kể lể buồn vui của cuộc đời.

Điều gì đã khiến một người nữ sáng tạo một dòng thơ qua những thử thách cũng như những cái đẹp của cuộc đời trong hơn nửa thế kỷ?

Câu hỏi này đưa chúng ta ngược dòng thời gian, trở về thời thơ ấu của tác giả. Những bài học thuộc lòng trong lớp cho cô bé Trần Mộng Tú cảm thấy cái đẹp của thơ văn, và sự say mê khởi đầu từ đó, rồi càng lớn những bài thơ học thuộc lòng càng nhiều hơn. Xảy ra một sự kiện giúp cô bé đi xa vào thế giới văn chương: Khi đất nước vừa chia đôi, gia đình Trần Mộng Tú di cư vào Nam; trong khi còn ở tạm dưới những căn lều dành cho người di cư, thì hành lý của gia đình bị thất lạc, thay vào đó là một bao tải đầy sách, không rõ của ai. Người sung sướng nhất là cô bé Trần Mộng Tú 11 tuổi, tình cờ được hưởng cả một kho tàng sách. Và cứ thế nỗi say mê văn chương lớn dần với tuổi đời, cho đến một ngày kia cô gái bắt đầu làm thơ. Nguồn sáng tạo đã thành hình.

Sống trong thời chiến, con người dễ gặp nguy cơ, hoạn nạn. Đó là trường hợp của Trần Mộng Tú. Đang tuổi thanh xuân, lòng mơ ước một tương lai tươi đẹp, thì chiến tranh tràn đến, cướp mạng sống của người yêu, người chồng, chấm dứt một cuộc hôn nhân ba tháng. Trần Mộng Tú đau xót, chỉ biết tìm đến chữ nghĩa để than khóc, để nói lên tình yêu và nỗi thương tiếc chồng:

Không bao giờ em quên

đường ba trăm cây số

em đi nhận xác anh

với trái tim thống khổ

 

Không bao giờ em quên

chiếc quan tài màu vàng

lá cờ ba sọc đỏ

anh nằm im lìm đó

chẳng một lời sau cùng.

(Huyệt m)

Em tặng anh hoa hồng

Chôn trong lòng huyệt mới

Em tặng anh áo cưới

Phủ trên nấm mồ xanh

 (Quà tặng trong chiến tranh, 7/1969)

Trần Mộng Tú cho khắc trên mộ chồng, nơi nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi – thời còn nghĩa trang này – bốn câu thơ như sau:

Áo cưới chàng may còn mùi vải

rượu hồng thiếp uống còn cay môi

xa nhau một phút ngàn thu vắng

nỗi buồn này biết làm sao nguôi

Trần Mộng Tú không nhớ đã làm những bài thơ đầu tiên vào lúc nào, nhưng chắc chắn những bài thơ đến với độc giả khởi đầu từ năm 1969, năm xảy ra sự mất mát lớn trong đời.

Kể từ đó, nguồn sáng tạo của Trần Mộng Tú ngày càng dồi dào hơn, phong phú hơn, để ngày nay trở thành một dòng thơ tuôn chảy không ngừng.

I Ba chủ đề trong thơ Trần Mộng Tú

Có thể nói, chiến tranh là điểm xuất phát nguồn thơ của một tâm hồn vốn đã say mê văn chương, và nguồn thơ đó được hình thành, mở rộng quanh ba chủ đề: mất mát, cô đơn trên xứ người và tình yêu muôn thuở.

Những mất mát lớn trong đời

Mất mát tình yêu, hôn nhân, nhưng dư âm của chia ly và nỗi nhớ nhung vẫn còn đó:

Tôi xa người nắng buồn trên vai

Môi tôi mùi thuốc còn thơm hơi

Người xa tôi một dòng sông trắng

Dãy núi bên kia có ngậm ngùi

Tôi xa người như xa quê hương

Những dấu thân yêu mất cuối đường

Người nhặt hộ tôi hoa dĩ vãng

Lau giùm dòng lệ ở vết thương

 

Người xa tôi gió cũng lặng thinh

Tôi rung nỗi nhớ ở quanh mình

Người như suối chảy qua rừng vắng

Cả một dòng sông đứng lại chờ.

(Cả một dòng sông đứng lại chờ)

Bên cạnh mất mát riêng tư, có một mất mát vô cùng lớn lao: mất mát quê hương:

Khi tôi đi một mặt trời vừa rụng

Một kinh thành vừa sụp đổ sau lưng

Một quê hương vừa thở nhịp cuối cùng

Một dân tộc vừa ly khai dân tộc

(Bài thơ viết ở Pendleton, California, 21/4/1975)

Hãy tưởng tượng ra em

ở nơi không định tới

em tủi như chim khuyên

khóc trong lồng son mới

(Hãy tưởng tượng ra em, tháng 7/1975)

Tình hoài hương làm nặng lòng kẻ ra đi:

Mỗi độ xuân về tôi nhớ lắm

những ngày xuân cũ trên quê hương

nhớ người tình cũ, ngôi chùa cũ

hoa mẫu đơn nở đỏ bên tường
(Mẫu đơn)

Quê hương xa

thật là xa

dòng sông

ngọn núi

chỉ là chiêm bao.

(Gió Đông)

Đốm nhang cháy đỏ như quầng mắt

khói có bay về tận cố hương

vườn người, tôi chiết cành xuân thắm

nhớ quê vết cắt trượt xuống hồn.

(Chiết cành)

Trong ký ức của kẻ ra đi, tháng Tư được khắc sâu như một dấu hiệu của mất mát, của chia ly:

Em nằm im lặng nghe đêm thở

Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm

Anh ạ, em nghe tháng Tư khóc

Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen

(Đêm Tháng Tư)

Anh ạ, tháng Tư sương mỏng lắm

Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê

Hay sương thành lệ tra vào mắt

Mờ khuất trong em mọi no về.

(Vết thương)

Cô đơn trên xứ người

Ngay lúc mới đặt chân đến xứ người đã có những ngỡ ngàng buốt lạnh, khiến tâm hồn cảm thấy lạc lõng:

Khi tôi đến… Ôi! một tôi đổi khác

Áo khăn người nghe lạ tủi trên thân

Chăn chiếu người đắp mãi vẫn lạnh căm

Ly nước ngọt trên môi nghe muối mặn

(Bài thơ viết ở Pendleton, California, 21/4/1975)

Và lạc lõng giữa những người khác chủng tộc:

Hãy tưởng tượng ra em

ở một căn nhà lạ

mình em một ngôn ngữ

mình em một màu da

mình em một màu mắt

mình em một lệ nhoà.

(Hãy tưởng tượng ra em, tháng 7/1975)

Khi cuộc sống đã ổn định trên xứ người, gia đình đầm ấm, vẫn có một nỗi cô đơn ray rứt tâm hồn, không chia sẻ được với ai:

Chúng tôi ở Bellevue

hai người một căn nhà hạnh phúc

hai người cùng chung một đất nước

chỉ có một tôi hay buồn

chỉ có một tôi ôm nỗi nhớ quê hương.

(Cuối năm tự truyện)

đêm đêm

khi ngọn đèn đã tắt

chàng ngủ say cùng những

vị á thánh và những anh hùng

nàng thức dậy

ôm trái tim cô đơn

của người tạm trú

(Cũng có hôm như thế)

Em cô đơn

như một thân cây

còn sót lại sau đám cháy rừng

chung quanh em

những tàn tro lạnh ngắt

(Cháy rừng)

Tình yêu muôn thuở

Trong ngôn ngữ tình yêu của Trần Mộng Tú chỉ có người nữ lên tiếng với người yêu. Nhìn từ phía người nữ thì tình yêu muôn mặt, muôn màu, đủ cung bậc.

Trước hết, tình yêu không bao giờ chết, một trong những bài thơ có tính biểu tượng mang tựa đề: Xuân thơm như mật, nói về người nữ bị chôn vùi dưới tuyết, được người yêu đến gạt tuyết và đưa ra ngoài để cùng nhau hưởng một mùa xuân thần tiên.

Tình yêu không có định nghĩa, hãy cứ yêu, không cần tìm hiểu.

Tình yêu được ví với một chùm nho nguyên vẹn:

Có người nói với em tình yêu giống như một chùm nho

mỗi lần yêu là mỗi lần mất đi một trái…

 

Khi anh đến

anh có mang cho em

một chùm nho mới

một chùm nho chưa mất một trái nào.

(Chùm nho tình yêu)

Tình yêu đắm đuối:

Anh ôm em

bằng nguyên cả vòng tay

cho em nếm

mùa xuân trên môi

nhìn cánh chim bay

trong mắt

ngực anh loang mùi rượu

hoàng hoa

cho em thở hơi xuân chất ngất

(Khu vườn mùa xuân)

Tình yêu vội vàng vì thời gian quá ngắn ngủi:

Hãy yêu nhau ngay bây giờ

đừng đợi ngày mai

vuốt tóc trắng rồi ước gì ta trẻ lại…

Yêu đi anh!

nụ hôn em còn nồng

ly rượu còn đầy

mặt trời còn đó…

(Rượu còn đầy, mặt trời còn đó)

Tình yêu không đem lại thỏa mãn:

Đêm qua trở gối nghe mưa

Tình như chăn hẹp không vừa ấm tôi

Co hoài vẫn hụt một nơi

Tôi kéo vuông chiếu buông rơi đóa sầu

(Mưa Seattle)

Tình yêu mong manh:

Ôi tình yêu như giọt sương buổi sáng

làm sao em giữ được đến buổi chiều

(Thời gian và tình yêu)

Tình yêu đem đến mãn nguyện:

Hồn em giờ rất lạ

Một chiếc bình đầy anh

(Hồn em giờ rất lạ)

Tình yêu không có tuổi:

Anh sẽ đến buổi chiều hay buổi sáng

Ngày hôm nay hay ở thế kỷ sau

Em vẫn đợi vì tình yêu không tuổi

Người yêu ơi! Anh đến tự hướng nào.

(Thời gian và tình yêu)

Tình yêu trong thơ Trần Mộng Tú như những nốt nhạc có đủ cung bậc trong một tấu khúc.

II Những nét đẹp trong thơ Trần Mộng Tú

Thông thường một nhà thơ hướng sự sáng tạo cái đẹp theo mỹ cảm của mình. Trong trường hợp Trần Mộng Tú, mỹ cảm tạo nên hai hình ảnh: hình ảnh một thế giới được thi vị hóa và hình ảnh bất biến của một dòng sông.

Trần Mộng Tú dùng một phương pháp tu từ gọi là nhân cách hóa để thi vị hóa thế giới quanh mình. Theo đó, thiên nhiên, thảo mộc, bốn mùa, đồ vật, v.v. trở nên gần gũi, thân mật với con người:

Cũng có lúc tôi hôn lên vách núi

Đứng lặng yên nghe tiếng núi thầm thì

(Trời cuối năm ở Issaquah)

Biển căng ngực và núi rền tiếng thở

(Sợi tóc)

 

Núi cúi đầu khoanh tay

ngắm đóa sen vừa nở

(Cõi ngoài)

Những chiếc lá cháy xém

cúi nhìn dĩ vãng

(Cháy rừng)

hoa tỷ muội cười

ròn rã trên vai em

mặt trời hồng hôn lên

cả hai bên má

(Khu vườn mùa xuân)

Tuyết đứng ngoài hàng rào

ngó qua khung cửa sổ

có tiếng khúc khích cười

của những thanh củi nhỏ

(Mùa Đông)

Nắng trẻ hơn tuổi em nhiều

chạy đuổi nhau qua triền dốc

Những con ong kêu vang vang

mùa hè cười trong mái tóc

(Mùa Hạ)

Mùa thu đang gõ cửa

Mở đi anh… cánh rừng.

(Thu khúc)

Những đôi giầy ngước mắt nhìn chờ đợi

Thầm thì bảo nhau chắc đến phiên mình

(Chuyện của đôi giầy)

Hình ảnh thứ hai do mỹ cảm của tác giả tạo nên là hình ảnh một dòng sông. Đôi khi tác giả dùng lối ẩn dụ để gợi lên hình ảnh này:

Em hý hoáy làm thơ trên xa lộ

Dòng sông xe ngừng chảy giữa buổi chiều

Em hý hoáy làm thơ trên xa lộ

Dòng sông xe đọng lại giữa hoàng hôn

(Thơ trên xa lộ)

Đọc thơ Trần Mộng Tú ta thường thấy lấp lánh một dòng sông:

Khi tôi đi cả dòng sông đứng lặng

Những vai cầu khuỵu xuống buổi tiễn đưa

(Bài thơ viết ở Pendleton, California, 21/4/1975)

Con sông chẩy cả một thuyền quá khứ

Trong mắt em ngơ ngác đám lục bình

(Ngọn nến muộn màng)

Em ngước mặt uống ngụm trăng thơm ngát

Dòng sông đêm bên dưới vỗ chân quen

Anh cúi xuống uống giọt sương trong mắt

Đất rùng mình chim đập cánh bay lên

(Sông đêm)

Tháng sáu mở ra một nhánh sông

Con trăng mùa Hạ chìm dưới đáy

Em thả xuống nước cọng cỏ xanh

Dòng sông trăm năm chỉ là mộng…

 

Tháng sáu duỗi mình vào mùa Hạ

Gió thổi hoa lau bay mang mang

Anh theo dòng sông trôi với tình

Em đứng giữa bờ trăng ngơ ngác

(Trăng và tháng Sáu)

Người như suối chảy qua rừng vắng

Cả một dòng sông đứng lại chờ.

(Cả một dòng sông đứng lại chờ)

Tôi ở nơi này cách Việt Nam gần mười ngàn dặm

sao đứng trước cửa nhà vẫn thấy quê hương

thấy trăm con sông nhỏ

sông Nhuệ, sông Cầu, sông Thương, sông Đáy

sông Cửu Long, sông Hậu, sông Tiền

những con sông dài, ngắn, nông, sâu

những con sông xanh biếc

nước đã đổi sang mầu

nước của ô nhiễm như lòng người ô nhiễm

(Cuối năm tự truyện)

Ngần ấy con sông cũng đủ nói lên mỹ cảm của nhà thơ Trần Mộng Tú. Nhưng sao lại là dòng sông và tại sao hình ảnh đó lại dai dẳng đến thế và trở nên một ám ảnh?

Nếu giải thích theo phân tâm học thì đây là việc làm của vô thức. Freud cho biết con người không có chủ quyền mà chính vô thức điều khiển tất cả. Vô thức hướng tâm hồn của nhà thơ về hình ảnh một con sông. Vậy hình ảnh con sông ngự trị trong thơ Trần Mộng Tú hẳn phải có nhiều ý nghĩa.

Gaston Bachelard (1884-1962), nhà triết học Pháp về khoa học, đã từng nghiên cứu tương quan giữa trí tưởng tượng vật chất của con người với những yếu tố trong thiên nhiên như: nước, lửa, đất, không khí, để phân loại các trí tưởng tượng. Thơ Trần Mộng Tú nói về dòng sông tức nói về nước, và theo Bachelard, nước biểu hiện cho người nữ: vậy thơ Trần Mộng Tú là tiếng nói của người nữ và là một tiếng nói đầy nữ tính.

Nước trong thơ Trần Mộng Tú, ngoài nước của dòng sông, còn có nước mưa, mưa nhiều trong cảm xúc của nhà thơ, và nước mắt vì người nữ này rất giàu nước mắt.

Một ý nghĩa khác của dòng sông: dòng sông có giá trị biểu tượng cho thời gian, nước sông trôi đi như thời gian trôi qua. Trong thơ Trần Mộng Tú có nhiều khắc khoải về thời gian, về tuổi già.

Cuối cùng, chúng ta có thể cùng Trần Mộng Tú ca ngợi cái đẹp của thơ qua ống kính vạn hoa:

Chỉ có thơ là ống kính vạn hoa

ta lắc soi từ thời thơ dại

cho đến tuổi già

vẫn vạn hoa còn đó

trong cái không mầu chứa cả muôn mầu

trong vô ngôn vẽ ra ngàn cảnh giới

(Nỗi không)

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.