Tưởng niệm 50 năm ngày Saint-John-Perse ra đi (20/9/1975): Lời giới thiệu cho một tập thơ dịch sắp ra mắt “Những ngọn gió” (Vents) của Saint-John Perse

Nhân 80 năm ra đời tác phẩm, 50 năm ngày tác giả vĩnh biệt cõi trần.

Hoàng Hưng

 

 

Saint-John Perse (31 tháng 5 năm 1887 – 20 tháng 9 năm 1975), tên thật là Alexis Saint Leger, là nhà thơ Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1960.

Là nhà ngoại giao quan trọng của nước Pháp, tháng 6 năm 1940 đã chạy trốn sang Mỹ khi phát xít Đức sắp xâm chiếm Pháp, ông có trải nghiệm sâu sắc về “thế giới mới” từ một bản ngã thuộc “lục địa già”.

Nước Mỹ chính là bối cảnh và nguồn cảm hứng cho trường ca Những ngọn gió (Vents) của tác giả.

Saint-John Perse sáng tác Vents vào năm 1945, khi ông đang ở trên một hòn đảo nhỏ ở bang Maine trong mùa hè thứ sáu của cuộc đời lưu vong.

Trong bài thơ dài gồm 4 Phần (hay có thể coi là 4 Bài ca), ta thấy ông đã băng qua Hoa Kỳ từ Đông sang Tây. Để rồi đi xa nữa, ra tới quần đảo Thái Bình Dương hoang dã.

Những ngọn gió ào ạt thổi qua bài thơ là “những sức mạnh” quét sạch cái cũ, cái già nua, khuôn sáo sách vở ngàn năm, những cái đã chết của “thế giới cũ” (của châu Âu già nua bị trọng thương, mà tượng trưng là phía Đông), đưa ông vào đời sống thực mới mẻ đầy sức phồn sinh (tượng trưng là phía Tây).

Mở đầu là sự bùng nổ dữ dội của “những cơn gió lớn”, được coi là những sức mạnh nguyên thủy với sự man rợ tột độ và cuốn trôi mọi thứ trên đường đi của chúng. Một trật tự cổ xưa bị cuốn trôi hoàn toàn bởi luồng gió khổng lồ này, những con người bị cơn bùng nổ này cuốn đi như thể vừa thức dậy sau cơn mê chết người.

“Những sức mạnh lang thang cày xới mặt đất tràn ngập những nghi lễ và mê tín… Những ngọn gió làm xáo trộn kho lưu trữ hành động của con người (…), thải ra những tác phẩm chậm chạp, những tác phẩm xác ướp, đuổi đi những quy ước, những nghi lễ tùy tiện và những thể chế của sự bất động được coi là động lực… Những ngọn gió tách cái chậm chạp khỏi cái sống động; chúng phá rối mọi hình thức cố định cản trở trào lưu của sự trở thành, nghiền nát những trầm tích thối rữa của kiến ​​thức sách vở (…)”

Từ đó mà thiết lập dự án xây dựng, thông qua việc giải mã, một cách diễn giải mới về thế giới (“Tất cả phải được làm lại. Tất cả phải được nói lại. Và lưỡi hái của cái nhìn lướt trên tất cả những gì đã có!”), ngụ ý một góc nhìn mới, một cuộc điều tra thực sự về một sự thật ẩn giấu, sâu sắc hơn những gì đạt được bằng kiến ​​thức lý trí. Cuộc điều tra này dẫn đến nhu cầu khám phá những lãnh thổ mới, một sự khởi hành, và lời kêu gọi được nhắc lại: “Đi thôi! Đi thôi! Lời người đang sống!”

Cuộc phiêu lưu của Những ngọn gió chính là cuộc viễn chinh tinh thần của con người đi tìm sự hiểu biết về chính mình trong một cuộc truy tầm bất tận.

Bài thơ kêu gọi tiến về phía Tây, một phía Tây như nhà văn-triết gia Henry David Thoreau ám chỉ: “Chúng ta đi về phía Tây giống như đi về tương lai, với một tinh thần kinh bang và phiêu lưu”.

Và đây là phía Tây trong Những ngọn gió: những người đi “mặt hướng về Tây” đến được những “đất mới”. Những đất này “giống như mùi hương xác thịt… trên chiếc giường của những sinh thể đẹp nhất thế giới này”.

 “Những nhà Cải cách lớn” đi “giày vuông và gót thấp, mũ không chỏm không xa tanh, và áo choàng thẳng nếp”; họ tuyên bố “tình trạng của những người chết không hề là điều băn khoăn của chúng ta”, họ đòi phá tan “Thánh đường Sách”, “Khúc tình ca khuê các” và những “vẻ duyên dáng đã chết của ngôn ngữ”.

“Nổi loạn chống lại các hệ thống, dứt khoát bác bỏ chủ nghĩa vật chất, trung thành với niềm tin vào trực giác. “Ta thải hồi ngươi, logic, ở đó đàn gia súc của ta đã què quặt bởi xích xiềng”, thải hồi phương pháp tiến hành lý trí và kiến thức sách vở.  Ưa thích các luật của vũ trụ bảo đảm sự “nối lại” con người với môi trường và “một kiến thức cao hơn”. Ông đón chào các ngọn gió, giông bão “như luồng thổi hứa hẹn”. “Cất bỏ các rào giậu, các cột mốc” … Chối bỏ mọi hình thức “sắp đặt”. Giữa “mọi vật được tháo niêm”, toàn thế giới hành tiến trong Những ngọn gió: “các thần linh… bước đi trong gió”, đất đai “hành tiến về phía Tây”, “những con nước cao hơn tiến về khơi xa”. “Đi thôi” và “hối hả”.

Những ngọn gió là bài thơ về sự mở theo mọi nghĩa: tuổi trẻ, tự do, sự năng động, cuộc sống ngoài trời, sức khoẻ thể chất và tinh thần, v.v. Hàng trăm lần các tính từ “mới”, “tương lai”, “trẻ”. Mở ra những chân trời nhìn từ trên cao với “những dòng sông mà ta bay trên cao”, những “đồng bằng chạy trốn”, “nguyên cả những đô thành trên các đĩa bay của chúng”…

Hiệu quả hơn mọi thư viện của thế giới hợp lại, “người đàn bà khoả thân”, “rất đẹp và trong trắng” “nói với chúng ta bằng các dấu hiệu và sự thông tuệ của cái nhìn”.

Sự hăng hái và tinh thần phiêu lưu đối lập với sự nhút nhát và thất bại. “Và những áng văn xuôi vĩ đại của mùa đông, chúng là cuộc săn sói của Thế giới Mới trên những sợi len của Thế giới Cũ”. “Đô thành cao dưới sét đánh, Đô thành đại phong cầm dưới ánh chớp” với những “đám đông”, “phố” và “bến tàu”…

(trích luận văn về Vents của nhà phê bình văn học Pháp Renée Ventresque).

Những ngọn gió, cũng như các thi phẩm (không nhiều) của Saint-John-Perse (Éloges-Tụng ca, Anabase, Exil-Lưu đày…) có vị trí đặc biệt trong Thơ hiện đại Pháp và thế giới.

Tác phẩm đã nhận được lời ca ngợi từ những đỉnh cao thơ Pháp như Paul Claudel:

“Tôi đã đọc, với sự tôn trọng và ngưỡng mộ, bộ sưu tập đáng kinh ngạc những chân trời, những viễn cảnh bao la và đông đúc, của Những ngọn gió. Nước Pháp đã mất một cố vấn [tức nhà ngoại giao] có giá trị, nhưng đã chinh phục được một nhà thơ rất vĩ đại».

Tác phẩm đã được coi như thiên sử hùng thi về nhân loại, cuộc du hành mang tính biểu tượng của Những ngọn gió gợi nhớ đến Odysseus của Homer, Éneide của Virgile, loại “sử thi không có nhân vật anh hùng” kiểu như Thần khúc của Dante, Truyền kỳ các thế kỷ của Hugo, Lá cỏ của Whitman.

Hơn thế nữa, có người nhận ra “nhân vật anh hùng” trong Những ngọn gió chính là tác giả của nó; và vượt qua cả ý nghĩa lịch sử,  tác phẩm là “sự trả lời [những tội ác lịch sử ] Auschwitz và Hiroshima bằng sự tụng ca những sức mạnh lớn của vũ trụ, những cuộc thiên di của con người và những cuộc chinh phục của tinh thần” (ý kiến của nhà nghiên cứu Colette Camelin).

Dấu ấn những triết lý sức mạnh của Nietzsche, trực giác của Bergson, siêu nghiệm của Thoreau, cho đến tinh thần shamanism (vu thuật của các pháp sư thổ dân Indian)… trong Những ngọn gió đã được nhiều người phân tích.

Những sáng tạo về sự kết hợp Thơ và Văn xuôi qua nhịp điệu, âm tiết, thanh điệu, kết hợp Thơ và Kể chuyện… đã được nhiều người nghiên cứu.

Bài thơ thực sự được tác giả “chọn”, và ông thừa nhận niềm yêu thích đối với nó trong Toàn tập Tác phẩm của mình, bởi vì ông đã đặt rất nhiều tâm huyết vào đó, bởi vì nó đến từ một thi pháp phát triển đến cực điểm.

Nhưng với người đọc thông thường, ngay cả người bản ngữ, thì… không dễ!

Bài thơ này có lẽ ít được độc giả Pháp tiếp cận nhất vì theo chính yêu cầu của tác giả, lần đầu tiên nó được xuất bản chỉ trong một ấn bản sang trọng, khổ lớn và kiểu chữ lớn, phiên bản giới hạn được đánh số đầy đủ (2425 bản, Gallimard,1946).

“Sự khó hiểu của bài thơ, được chính tác giả xác nhận, là điều hiển nhiên: sự phong phú về mặt văn bản và cấu trúc, chiều sâu của các chủ đề tạo nên một thực tế khách quan cho yêu cầu mà người đọc (và dĩ nhiên là người dịch tiềm năng) phải đối mặt khi tiếp cận với khối tác phẩm chín muồi của Perse…

Những ngọn gió đưa người đọc qua những đỉnh cao của tác phẩm, và đem niềm đam mê cao cả của một người canh gác tâm linh đối lập với mọi sự lười đọc, ngái ngủ và đôi mắt mệt mỏi, đến mức mối liên hệ của người đọc đương thời với bài thơ đầy tham vọng này có thể nằm trong mệnh lệnh bắt nguồn từ hình ảnh “Đại bàng trên đầu người ngủ”.

(Nhận xét của nhà nghiên cứu Loïc Céry)

Bản thân tác giả đã xác nhận sự khó hiểu nằm ở lối liên tường, liên kết rất riêng biệt giữa các ý, các từ ngữ (hết sức bất ngờ, “nhảy vọt”) và ở ngôn ngữ. Có thể gọi đó là lối “làm tiếng Pháp” của tác giả (nhại ý Trần Dần: “làm thơ là làm tiếng Việt”), và đó cũng là thử thách rất lớn đối với những người “cả gan” chuyển ngữ thơ ông!

Và đó cũng chính là đóng góp của tác giả vào việc làm giàu ngôn ngữ dân tộc, như có thể tạm ghi nhận ở những khía cạnh sau:

  • Làm giàu từ vựng:

Perse làm mới lại từ vựng tiếng Pháp bằng cách sử dụng nhiều từ vựng đa dạng—khoa học, cổ xưa, hàng hải, hương xa và thậm chí là thần thoại; sáng tạo ra những từ mới, tạo ra một ngôn ngữ thơ vừa rộng mở vừa cao siêu.

  • Cú pháp và nhịp điệu:

Ông sử dụng các câu dài, cuộn chảy, điệp từ và phép ẩn dụ góp phần tạo nên nhịp điệu gần như nghi lễ

  • Tầm nhìn thơ ca và sự kết hợp ngôn ngữ:

Thay vì sử dụng lời nói hàng ngày, Perse xây dựng một ngôn ngữ huyền thoại và phổ quát, nơi biểu tượng và trừu tượng hòa quyện. Từ ngữ của ông không chỉ mô tả—mà còn gợi lên và triệu hồi hình ảnh, định hình lại cách tiếng Pháp có thể diễn đạt thực tế và trí tưởng tượng.

Nhưng “làm ngôn ngữ” không vì ngôn ngữ, Những ngọn gió nói về Sứ mệnh cuả Nhà Thơ.

Tác giả đã có lần tuyên bố về sứ mệnh này: “Chuyển hoá thế giới và làm lại cuộc sống bằng ngôn ngữ”.

Trong Những ngọn gió, ông mô tả Nhà Thơ như một vị shaman:

“Như một Pháp sư dưới những vòng tay sắt của gió:

                  Trang phục để làm phép rảy máu mới – áo dài nặng màu lam đêm, những dải lụa đỏ xẫm, và áo choàng nếp dài nặng đầu ngón tay.

                  Chàng đã ăn cơm người chết; trong những tấm liệm bằng vải bông chàng đã cắt may cho mình quyền sử dụng. Nhưng lời chàng là nói với người đang sống; bàn tay chàng ở bồn nước tương lai”.

Ông khẳng định sứ mệnh “dị giáo”, “báo bão” của Thi Sĩ:

“Và anh, Thi sĩ, bị can vắng mặt và bốn lần tái phạm dị giáo, mặt vẫn còn trong gió, hãy hát lên bản thánh ca bão tố”.

Trong bài thơ còn nổi lên ý niệm về “sự cách biệt” của “Người Mê Hoặc” (tức Nhà Thơ)

                   “Như vậy, khi Người Mê Hoặc, đi qua các con đường con phố,

                    Đến với những người cùng thời trong trang phục thông thường,

                    Và rũ bỏ mọi trách nhiệm công,

                    Người rất tự do và nhàn tản, với nụ cười niềm nở,

                    Được Trời giữ cho sự cách biệt và phiên bản của các sự vật.

                    Và có thể vào một buổi sáng, giống như sáng hôm nay,

                    Khi trời Tây mang hình ảnh những cơn lũ lớn,

                    Người Mê Hoặc tìm lời khuyên từ những chuyển động này trên giường của gió”.

Có thể tham khảo thêm suy nghĩ về Thơ của Saint-John-Perse được diễn đạt trong đoạn sau đây trích ở Diễn từ nhận giải Nobel:

“… Thực ra, mọi sáng tạo của tư duy khởi thủy đều là “thơ” theo nghĩa đen, và trong chừng mực có một sự tương đồng giữa phương thức cảm nhận và phương thức trí tuệ, thì ngay từ khởi thủy cả nhà thơ và nhà bác học đều đã theo cùng một nghiệp.

… Thế nhưng, còn hơn là một phương cách nhận thức, Thơ trước hết là phương thức sống – và sống trọn vẹn. Nhà thơ tồn tại trong con người sống nơi hang động, nhà thơ lại sẽ sống trong con người thời hạt nhân, vì chất nhà thơ đó là phần không thể thiếu của con người. Ngay cả tôn giáo cũng sinh ra từ Thơ, một đòi hỏi tinh thần, thế rồi nhờ có Thơ mà cái tia lửa thiêng trời phú sẽ được gìn giữ mãi trong hòn đá lửa người. Khi các huyền thoại sụp đổ, cái linh thiêng đi tìm nơi trú ngụ trong Thơ, có thể tiếp tục sống trong Thơ. Hệt như trong các đám rước cổ, những người rước Bánh nhường cho những người rước Đuốc đi trước, đó chính là sức tưởng tượng của Thơ thắp lên niềm đam mê kiếm tìm ánh sáng đến vô cùng của con người. Hãy nhìn niềm kiêu hãnh của con người bước đi dưới gánh nặng sứ mệnh vĩnh cửu! Hãy nhìn con người bước đi dưới gánh nặng nhân loại khi một chủ nghĩa nhân văn mới, một sự hợp nhất thực thụ về tâm trí, được mở ra trước mắt con người… Trung thành với sứ mệnh của mình, chính là sự đào sâu vào bí ẩn con người, Thơ hiện đại dấn thân vào một sự nghiệp mà càng đeo đuổi thì càng khiến con người được hoàn toàn là chính mình”.

(bản dịch của Phạm Toàn)

Cũng trong diễn văn này, ông tuyên bố nhà thơ là “lương tâm bất an của thời đại mình”, người mang trong mình những bí ẩn nguyên sơ.

80 năm sau khi Những ngọn gió chào đời, 50 năm sau khi Saint-John-Perse ra đi, những người làm thơ-đọc thơ Việt Nam hôm nay có không ít điều để học từ tác phẩm-tác giả giàu tính triết lý và văn phong sang trọng, ít được biết đến này.

Vào Hạ, đón Thu 2025

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.