Nguyễn Vy Khanh
Nguyễn Xuân Hoàng
Nguyễn Xuân Hoàng giáo sư Triết và nhà văn, nhà báo. Sau biến cố 30-4-1975, ông bị 4 năm tù “cải tạo” đã vượt biên (trại tị nạn Bataan, Phi Luật Tân) và ban đầu định cư tại Virginia Hoa-Kỳ năm 1985, sau chuyển về miền Nam California và sinh sống trọn vẹn với nghề làm báo: tổng thư ký cho nhật báo Người Việt (California, 1986-1987) và tổng thư ký tạp chí Thế Kỷ 21 (California, 1989-1994) của cùng công ty Người Việt. Trong Ban chủ biên tạp chí Văn Học, California từ năm 1994 và làm chủ-nhiệm chủ-bút tạp-chí Văn bộ mới từ số đầu tháng 1-1997 (trước đó, năm 1996, ông làm chủ bút giúp Mai Thảo duy trì được 2 số và Mai Thảo mất ngày 10-1-1998) cho đến số cuối 124 năm 2008. Thiên cư lên miền Bắc California, ông làm Tổng thư ký tuần báo Việt Mercury (San Jose, từ số ra mắt ngày 19-1-1999 đến số cuối ngày 11-11-2005), chủ bút tuần báo Việt Tribune 2006-2010, và có một thời gian làm giảng viên môn văn-học Việt-Nam tại đại học California-Berkeley. Ông mất ngày 13-9-2014 tại San Jose, California sau một thời gian trọng bệnh (1).
Tác-phẩm đã xuất bản ở ngoài nước: Người Đi Trên Mây (tiểu thuyết; Westminster CA: Người Việt, 1987); Sa Mạc (tiểu thuyết; Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989); Căn Nhà Ngói Đỏ (tạp ghi; Văn Nghệ, 1989); Bụi Và Rác (tiểu thuyết, tức Người Đi Trên Mây 2; Thanh Văn, 1992).
Các tác-phẩm của Nguyễn Xuân Hoàng được tái bản từ những bài đã in trên các tạp-chí văn-học (Lời Nhà xuất-bản đầu tập tùy bút Bất Cứ Lúc Nào, Bất Cứ ở Ðâu), tựa đề thay đổi (Giáng Sinh thành Giáng Sinh Hãy Chờ khi in lại trong Căn Nhà Ngói Đỏ năm 1989; Tự Truyện Một Người Vô Tích Sự (7-1987, biên tập lại 11-2009), v.v.) và bộ tiểu-thuyết 3 tập Người Đi Trên Mây đã hoàn thành 2 tập được viết lại từ Kẻ Tà Đạo và Khu Rừng Hực Lửa. Khi giới thiệu truyện ngắn Một Người Ngồi Trong Ghế Bành cho tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta (Sóng, 1974), nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng cho biết đã “thêm bớt sửa đổi trong truyện cho in ở tuyển tập này với ấn bản trong Sinh Nhật 1968″ và theo ông “Có lẽ truyện được ưa thích của mỗi người viết là truyện chưa hề viết, một truyện sẽ được viết” (tr. 458).
*
Về sáng tác, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vẫn như thời trong nước, ông viết bút ký, truyện ngắn và luôn thao thức hoàn thành bộ trường thiên tiểu thuyết – nhưng dở dang và đã xuất bản được hai tập: Người Đi Trên Mây (1987) và Bụi Và Rác (1992, viết xong tháng 10-1986). Vào những tháng cuối đời, ông từng viết tiếp tập 3 tựa đề Lửa, về thời ở Mỹ, nhưng đã xóa bỏ không xuất-bản. Người Đi Trên Mây bản viết lại “hoàn toàn mới” tập Kẻ Tà Đạo đã xuất-bản trước 1975 – như tác giả đã xác nhận khi được nhà báo Vĩnh Phúc phỏng vấn (2).
Người Đi Trên Mây với nhân vật chính là Trần Lâm Thăng, một nhà giáo, một trí thức, sống một cuộc đời thăng trầm, không thỏa mãn nhưng không tuyệt vọng, sống thời cả nước đang phải đối đầu với một cuộc chiến không chủ động trong hai thập niên 1960-1970. Một giáo sư triết học trở thành người vô định, thụ động với đời mới – một một kẻ tà đạo / “an advocate of immorality”!
Thầy giáo nhưng “thụ động”, chấp nhận số phận, nghề nghiệp: “Thế nào là thành công trong nghề dạy học? Câu ấy khó mà trả lời. Những ngày đầu tiên khi mới ra trường, được bổ nhiệm về Biên Hòa, tôi đã gặp ngay một khó khăn lớn. Học sinh tôi và tôi không cách biệt bao nhiêu về tuổi tác. Và bài học tôi thu được của nhà trường thật khác xa với bài giảng trong lớp. Tôi càng cố gắng hòa hợp với học sinh tôi, tôi càng bị đồng nghiệp nhìn tôi bằng con mắt khó hiểu. Tôi thực sự lo lắng cho học sinh. Và tôi biết rằng họ cũng quan tâm đến sự lo lắng của tôi. Nếu trong những năm về sau, khi đổi sang một trường khác tại Sài Gòn, một trường trung học lớn nhất Việt Nam, mà tôi có được chút ít thành công, chẳng qua là vì những học sinh của tôi – hoặc là họ thông minh chăm chỉ, hoặc là họ thực sự cố gắng – khiến họ có được điểu họ quyết tâm hơn là do tôi…” (tr. 20).
Cuộc đời Trần Lâm Thăng tóm gọn trong nhiều nghi vấn, dở dang hơn là trọn vẹn, hạnh phúc. Xuất đi từ một “tiểu sử” ngổn ngang như đất nước Việt, ông đi vào tình ái và hôn nhân như một nhà thám hiểm (tài tử) mà phương tiện khi có khi không và tưởng là chủ động mà thụ động. Lan, người vợ và là mẹ của hai đứa con ông – mà không hẳn là người tình đầu đời như ông vẫn xác tín: “Tôi là con thú hoang, tự chiến đấu để sinh tồn, tự liếm vết thương trên thân thể mình do kẻ khác gây ra để chữa trị. Cho đến khi tôi gặp Lan. Tôi nhìn thấy cái phúc hậu bên ngoài của chị ta, tôi nhận thấy được sự chăm sóc có phần quá đáng của chị cộng với cái khí hậu lạnh lẽo của một thành phố miền núi, tôi hiểu thế nào là nỗi cô đơn và sự cần thiết phải có một người khác phái bên cạnh mà từ lâu tôi thiếu… Tại sao lại có cái thứ tình ái đầy bóng tối như thế? Tại sao có được tình yêu trong tay mà tôi không hãnh diện ngửng mặt nhìn trời, lại cúi mặt xuống đất mà đi?”. Khi đã về với nhau: “Mẹ chúng nó, người đàn bà lớn lên trong một gia đình mà đồng tiền ngự trị trên tất cả, đã có lần nói với tôi rằng nếu phải đổi tất cả danh dự và phẩm giá con người để có được trong tay cái tài sản trở thành người giàu nhất Saigon cô ta sẽ không do dự đặt danh giá dưới gót chân mình” (tr. 179).
Rồi – và song hành –, có những bóng hồng Bích, Quỳnh và Uyên. Đậm đà nhất là Quỳnh, cô tiếp viên hàng không: “Hơn ai hết, Quỳnh hiểu tôi là kẻ không có gì trước mặt, cũng chẳng có gì sau lưng. Vậy mà Quỳnh không gìn giữ cho mình, nàng gửi hết cho tôi trái tim trẻ trung và nóng bỏng của cô. Quỳnh làn thức dậy trong tôi những tế bào tưởng sẽ chỉ mãi mãi ngủ quên do sức ép của những biến cố dồn dập lên đời tôi” (tr. 71).
Uyên yêu trong vị trí có thể và bảo vệ Trần Lâm Thăng “Uyên khỏe mạnh, trẻ trung, nồng nàn đi bên cạnh một người đàn ông là tôi buồn nản, hoài nghi và nhạt nhẽo”.
Khi chính thức ly dị Lan, “may” vẫn còn Uyên và Quỳnh. Đã là thảm kịch của tình yêu: “Rồi chị Quỳnh sẽ hiểu. Yêu nhau mà không lấy nhau được đến nỗi phải chia tay, hoặc phải đi tìm cái chết… thì tình yêu ấy vẫn tồn tại. Thảm kịch của tình yêu chính là người nầy dửng dưng dưới mắt người kia trong khi vẫn sống bên nhau”. Tôi nhớ lại một truyện ngắn của nhà văn Anh, ông Somerset Maugham, mà có lần tôi đã thấy trên kệ sách trong phòng này… (tr. 245).
Cuối cùng, Thăng nhìn nhận: “Tôi là người thụ động, nhưng tôi có một quan niệm về quyền sở hữu tuyệt đối đặc biệt là trong tình yêu. Khi tôi yêu ai và biết người kia cũng yêu tôi thì tôi cho rằng họ đã là của tôi rồi. Tôi biết là tôi sẽ phản ứng mạnh nếu người đó không thuộc về tôi. Nói cách khác tôi có thể bỏ rơi họ, chứ họ không thể bỏ rơi tôi. Trước tình yêu tôi do dự không phải vì tính toán mà vì sợ bị từ chối. Điều ám ảnh tôi chính là tôi luôn luôn có trong đầu cái ý nghĩ một ngày nào đó sẽ hết được yêu”.
Lúc khác: “Tôi choàng tay qua vai Quỳnh. Tôi muốn che chở một tình yêu. Không phải, chính tình yêu của Quỳnh đã che chở tôi. Chính tình yêu ấy đã giữ tôi khỏi ngã…”.
Và nụ hôn kết thúc một đoạn đời Trần Lâm Thăng: “Chúng tôi hôn nhau cái hôn nhòa nhạt nước mưa dưới một bầu trời thấp, ẩm đục, giữa một thành phố vắng vẻ và lạnh lẽo, trong tiếng còi hụ của đêm giới nghiêm sau cùng” (tr. 249).
Người Ði Trên Mây còn là bức tranh của Sài-Gòn, của miền Nam trước 1975. Nơi đó, các chính khách, các nhà trí thức, tai mắt cũng như bí mật thay nhau xuất hiện trên cùng sân khấu. Các chính khách như ông Phan, “đồng đội cũ” của người cha Trần Lâm Thăng, tài phiệt như ông Lý ba vợ,… Các văn nghệ sĩ, trí thức trong vai các nhân vật Đình, Nhật, Phùng, Ký, Vinh, Giang,… – người đọc tinh ý sẽ biết là có thật.
“Thụ động” chấp nhận số phận, nghề nghiệp như ông dễ bị ông Lý, ba vợ mắng cho: “Cậu là hình ảnh hoàn toàn đối nghịch với tôi thời mới lớn. Ở vào tuổi cậu, tôi đã biết đạp chân dưới đất, còn cậu bây giờ như người đi trên mây. Tôi biết tôi mê tiền và tôi đã hiểu cái giá để có nó, còn cậu, cậu dám coi thường đồng tiền, cho nên cậu chưa hiểu cái giá của nó” (tr. 126).
Chính ông cũng tự thú khi gặp Vinh, bác sĩ nhà văn về Sài-Gòn để ra Tòa Mặt trận vì một truyện ngắn: “Chưa đụng nhau trên một chiến trường có súng đạn, có máu đổ và có người chết, tôi vẫn đang còn là một thiếu sót lớn. Thứ triết học nhà trường mà tôi đã được nhập môn, cả thứ triết học mà một vài ông nào đó tự nhận là triết gia khi mới lõm bõm chữ nghĩa trong đầu qua một vài cuốn sách… chỉ là bọt bèo và rác rến của thứ “tư tưởng” đã mòn nhẵn. Vâng, có lẽ thế. Đông nói đúng. Tôi là một người hạnh phúc khốn khổ” (tr. 173).
Nếu phải so sánh thì Kẻ Tà Ðạo sắc nét dòng ý thức và đậm đà cảm tính và hiện sinh dám sống hơn Người Ði Trên Mây viết ở hải-ngoại – tác giả đâu đó đã cho biết “Tôi nhớ in hình lúc quen Uyên tôi chưa bao giờ nghe cô gọi tôi là người đi trên mây. Uyên chỉ gọi tôi một lần là kẻ tà đạo”. Không khí tiểu thuyết sau đã được “cập nhật” và làm mới!
Bụi Và Rác “viết về Những Ngày Sài Gòn sau 30 tháng Tư 1975. Sách viết xong năm 1986 sau ngày tác giả đến Mỹ. Nhà xuất bản Thanh Văn, California, in năm 1992. Tác giả nói với VOA, Bụi Và Rác mặc dù có những nhân vật và sự kiện có vẻ như người thật việc thật, nhưng đây là tiểu thuyết, không phải là hồi ký” (Lời giới thiệu).
Những năm 1975-1985, Trần Lâm Thăng đã sống cuộc đời thăng trầm nhưng không tuyệt vọng song hành với cuộc đổi đời của cả nước. “Với cô Uyên, tôi bước vào thế giới quyền lực của ông Phan”, nhưng cuối cùng thì Quỳnh làm vợ Trần Lâm Thăng: “Chỉ có Quỳnh mới làm cho tôi tin được nơi con người sự chia sẻ và tận tụy. Quỳnh chọn tôi như chính tôi đã chọn Quỳnh. Cô đơn thương độc mã đến với tôi. Trước mặt không có chi, sau lưng cũng chẳng có gì. Quỳnh tự lập”. Và khi đã rơi vào cùng cực địa ngục trần gian: “Quỳnh không phải chỉ là cái phao của đời tôi. Quỳnh còn là cái mẫu ánh sáng duy nhất trong đêm tối của hồn phách tôi. Tôi ngã xuống đời Quỳnh. Cái lạnh lẽo của tôi tan trong khí hậu nhiệt đới của Quỳnh. Chính là nhờ Quỳnh, tôi khám phá ra tôi, nhận ra sự yếu đuối và cả sức mạnh của mình…”
Cộng quân cưỡng chiếm miền Nam, quá khứ, sự nghiệp một sớm một chiều trở thành tiền kiếp, kỷ niệm để nhắc nhở, nhung nhớ! Ban đầu, chỗ dạy học vẫn còn nhưng đã hết như trước: “Chúng tôi chia tổ ra họp nhau làm giáo án trước giờ đứng lớp. Bài giảng phải có “mấy bước,” bước đầu nói gì, làm gì, “bước kế” hỏi gì, giảng gì … Giáo án, đó là giấc mộng hài hước của người dạy học sau “cách mạng”. Nhà giáo hóa đỏ và “sứ mạng giáo dục” trở thành công cụ cho cái mác “cách mạng”, Trần Lâm Thăng tự vấn “Tôi lẩn thẩn tự hỏi không biết mình sẽ làm gì trong những ngày sắp tới, nhưng tôi biết chắc chắn công việc đứng trên bục gỗ này không còn thuộc về tôi nữa. Bao lâu tôi còn đứng ở chỗ này, tôi sẽ còn tiếp tục nói dối. Nói dối đã là điều đáng khinh, nếu tất cả những điều dối trá ấy lại được thốt ra trong sự thành thật của tôi thì sự khinh bỉ ấy không biết cách nào đo lường được…”.
Cuộc sống bình thường cũng đã mất: “Tôi lo sợ. Một mình giữa bốn bức tường. Cái mụt nhọt mưng mủ đã bị phá. Cái trí nhớ đã được phục hồi. Nhưng tôi không đủ trầm tĩnh để cái đầu tôi có phút giây yên ổn. Như một trận động đất lớn cả một đất nước sụp xuống, sụm xuống, lún xuống, chìm xuống. Và ngôi nhà tôi ở cũng bị chôn vùi trong lòng đất. Cha mẹ tôi lần lượt qua đời. Các cháu tôi bị đưa vào trại cải tạo. Anh tôi vừa nằm xuống. Cả gia đình vừa đưa anh ra nghĩa địa về đã bị đuổi nhà. Và tôi bị giữ ở đây, gán ghép cho tôi một thứ tội mới chỉ nhú trong đầu tôi. Cả một dân tộc không ai nghĩ một điều gì khác hơn là con thuyền và biển cả. Làm mồi cho cá mập, làm nạn nhân cho bọn hải tặc Thái, làm người tù trong các nông trường… hoặc là đến bến bờ tự do!”.
Trong một cái xã hội bạo động, độc đoán như ở miền Nam sau 1975, đi lại không còn là tự do thì vượt biên – hoặc nghi ngờ có ý định, sẽ phải vào tù: “Tôi bị mất tự do, nhưng tôi không phải là người cô đơn. Những chấn song sắt kia, cái căn phòng giam hôi hám này, những bữa ăn nghèo nàn thiếu thốn trăm thứ… không đè ép nổi tôi. Những người bạn tù sống khốn khổ gấp trăm lần tôi, dạy tôi bài học kiên nhẫn. Và trái tim tôi luôn luôn ấm áp vì bạn tù và vì hình ảnh Quỳnh lúc nào cũng nồng nàn trong trí nhớ tôi”. Trong những cái nhà tù kiểu… “cách mạng” này, dĩ nhiên sẽ có những tiếp xúc kiểu … mới: “Cha Nhật là một cán bộ cao cấp đã đến tận nơi thăm anh, khuyên anh viết bài phản tỉnh về những cuốn sách của mình, trước khi ông có thể dùng quyền thế của mình cứu anh, nhưng Nhật khăng khăng một mực từ chối. Anh nói anh đã thành thật khi viết những điều anh suy nghĩ, anh thấy những điều ấy cho đến nay chưa sai, vậy thì việc gì mà phải phản tỉnh” (…) “ Tôi nói với ai, câu gì. Tôi phải có thái độ ra sao trước thời thế đang đổi thay. Tôi biết mình đâu phải con kỳ nhông, cứ thay đổi màu da tùy theo nơi nó ẩn nấp. Ở tù thế mà hay. Tôi biết mình đang ở đâu, và đang nói chuyện với ai”.
Thăng có gia thế và quan hệ chìm nổi, chằng chịt, có cán bộ nằm vùng như Mười Tân: “Có lần Mười Tân nói thứ người như tôi giống như bóng ma chập chờn trong một nghĩa trang những đêm tháng Bảy. Cái bóng ma ấy chẳng làm hại được ai, nhưng chắc chắn xã hội không cần. Ông ta nói đúng. Tôi nghĩ như vậy, nhưng ông nói có phần quá đáng. Tôi cũng thấy sự có mặt của ông khác tôi, nhưng là khác một cách tai hại. Dưới những quyết định của ông, bao nhiêu người đã chết. Cái lý tưởng mà ông theo đuổi, đã được xây trên bao nhiêu xương máu của người khác. Có bao giờ ông nghĩ lại để thấy rằng cuộc chiến đấu của ông thật sự mang lại cái gì sau khi đã chôn vùi những con người có lý tưởng khác ông…”.
Cô học trò công an Nhị Hà – học trò ờ trường khi Thăng đi làm trở lại và phải dạy môn học khác, bám sát Thăng khi ông đã vào tù. Năm tháng cha mẹ chết cũng có… vấn đề đối với chế độ CS: “Tôi hiểu và tôi giật mình. Cái chết dính vào một biến cố thời sự cũng là một vấn đề. Tại sao chết vào năm Mậu Thân là năm mà Hà Nội gọi là Tổng tấn công và Nổi dậy? Tại sao không chết vào một năm trước đó hay một năm sau đó? Đằng nào cũng chết. Nhưng sao hai người chết đúng vào hai thời điểm dễ gây thắc mắc”.
Tìm đường vượt biên, không thành, lại trở về Sài-Gòn với những thói quen và nơi chốn cũ đã nhiều đổi thay. “Đó là thời gian tôi quen một số bạn mới. Những người đầu đường xó chợ. Những người từ ngoài Bắc vào thuộc loại không sống nổi ở ngoài đó. Những người vừa ở cải tạo ra. Những người đàn bà không biết ngày mai. Những đứa con gái phung phí đời mình trong cái xã hội tuyệt vọng. Những người nuôi một mối căm thù muốn lật đổ chế độ. Những lý thuyết gia của một chủ nghĩa hoàn toàn không cộng sản mà cũng chẳng tư bản. Tôi nghe đến một thứ tên gọi là chủ nghĩa bình sản”. Và “Tôi chưa chết. Nhưng tôi thấy mình đã không còn sống. Cái xác sống. Tôi chỉ là cái xác sống”. “Tôi nhớ Quỳnh, nhớ con. Tôi như một thứ cây, mà nhựa sống đã bị rút hết, đứng khô héo dưới một thời tiết hạn hán.”
Trần Lâm Thăng đã hơn một lần phê phán: “Càng có nhiều quyền lực chừng nào họ càng có trách nhiệm lớn lao chừng nấy trong vụ làm mất nước. Máu của cả một dân tộc đổ xuống, xương của nhiều thế hệ xếp lại để cho cả bọn mua bán quyền lực đưa đẩy đến ngày Ba Mươi Tháng Tư Bảy Lăm. Chính cái tham vọng chính trị và quyền lực của bọn cầm đầu Bắc Bộ Phủ họp với cái tham vọng địa vị và tiền bạc của bọn trong phủ Đầu Rồng đã làm nên cuộc chiến thắng vĩ đại cho bên kia, cái thất bại nhục nhã cho bên này. “Chính cái thứ người như anh, sống lửng lơ bên lề xã hội, sống như cơm nguội và nước lạnh với cuộc đời đã góp phần vào sự tan nát này!” Đâu phải một ngày mà sự thể nó trở thành thế kia. Lâu lắm rồi, một khi “triều đình” không biết nỗi khổ của dân đen, thì cái thế tất yếu của thất bại đương nhiên là phải đến”.
Thảm cảnh dễ thấy: “Cách mạng là đoàn tụ cho người này, chia ly cho người nọ, là sự hãnh tiến cho cái đám lau nhau này, và sự cúi đầu nghiến răng của đám kia. Cách mạng có phải là giật ngôi nhà của người này, đuổi họ ra đường để cho một tay tự xưng là từng đổ máu xương cho chủ nghĩa dọn vào. Cách mạng có phải là làm trống trải những căn nhà – kể cả những căn nhà không còn có gì để làm trống trải thêm nữa – để làm đầy những căn nhà khác. Cách mạng có phải là hạ thấp mức sống của một xã hội đang không cao gì cho lắm xuống bằng một xã hội mà cuộc sống đã bị ngưng đọng suốt hai mươi năm?”
Con người như Mười Tân là thứ “con người theo đuổi một thứ lý tưởng mà ông tự cho là cao đẹp tự mãn về sự chiến thắng của một chủ nghĩa như đã tìm được đáp số cho một bài toán mà dân tộc đã đặt ra cho mình. Đáp số ấy, buồn thay, tôi nhìn kỹ, nó chẳng qua chỉ là cái âm bản của một tấm phim mà phần dương bản là cái ông đã cùng với các đồng chí ông đem chính máu xương của mình và đồng đội mình ra để tiêu diệt thôi”.
Bản thân dĩ nhiên hết bình thường: “Tôi không yêu nổi chính con người tôi, tôi còn có thể yêu nổi được ai. Và như vậy nếu không ai yêu tôi, không yêu nổi tôi, điều đó cũng chẳng có chi là lạ. Những biến cố chính trị và thời sự có tác động đến nếp sinh hoạt tôi, nhưng hình như vẫn không làm thay đổi con người tôi: Tôi dửng dưng với tôi. Tôi nhàm chán tôi…”
Nguyễn Xuân Hoàng kể chuyện Sài Gòn và miền Nam bị xâm lăng, chiếm đoạt, có những điểm và việc như người khác đã đề cập, kể lại, nhưng cũng nhiều cái rất riêng. Như khi Trần Lâm Thăng bị bỏ tù – nhà ngục tối đen nhưng tâm trí muốn vượt thoát hiện tại lồng trong những nghĩ-lại về thân phận con người trong lịch-sử, trong một cuộc chiến và những trôi nổi của cuộc đời bản thân. Thời hậu 1975 là thời của nghi ngờ, cái hiện tại chồng lên quá-khứ như nhân quả và hiện sinh, cho nên“Tôi học được bài học là không biết gì, không tin gì, không thấy gì hết…”.
Và nhiều lần tự phán: “Tôi là một thứ rác rưới trong một xã hội bụi bặm. Tôi là một hạt bụi trong một xã hội rác rưới. Tôi rác rưới bụi bặm. Tôi bụi bặm rác rưới…” (…) “tôi còn nghiệm ra rằng thật ra tôi là một thứ người không biết yêu. Trong trái tim tôi, mọi thứ đều nhòa nhạt như thể tất cả đều chìm dưới một làn mưa. Cái nhìn của tôi bao giờ cũng phải lọc qua một tấm kính đục mờ”. Cuối cùng, Trần Lâm Thăng được một người “bạn” tình cờ quen hẹn ngày vượt biên.
Sa Mạc (1989) tiểu thuyết tự sự từ hoài niệm của Đặng Hồng Kha. Trước 1975, ông làm báo và đã in một “Tác phẩm đầu tay của anh là một tiểu thuyết vừa, viết bằng thứ văn chương lạnh lùng, ngắn gọn và rất ít tĩnh từ” (tr. 7). Miền Nam thua một bàn cờ và “Sài Gòn bắt đầu một thời đại hoài nghi”, Kha trãi qua nhiều năm tháng thất nghiệp, bị tù rồi cuối cùng vượt biên thành công. Được định cư tại Hoa-Kỳ, nơi đây “kẻ tà đạo” hụt hẫng, mất chỗ đứng, phải hoà nhập, làm lại từ những bất trắc và thử thách vừa của quá-khứ vừa của hội nhập hôm nay. Ông trở lại nghề làm báo, viết văn – nay bước đầu là viết truyện phim cho nhà sản xuất tên Phát. Sống ở Mỹ, Kha hòa nhập vào “xã hội” người Việt trong số có văn nghệ sĩ và bạn cũ ở California, nhưng ông sống ở đâu cũng như ở tạm, bên cạnh nhân-vật Kim – người mẫu trẻ hơn nhiều và đã hội nhập vào đời sống mới. Tạm bợ cả trong tình yêu, như trạm nghỉ chân: Trâm – người yêu một thuở – từng nhận xét rằng “Anh Kha yêu mình nồng nàn bằng một trái tim lãnh cảm” (tr. 38). Người mới như Kim thì hay gọi Kha là “Ông Xa Lạ” – có lúc “Kha vòng hai tay anh dưới lưng Kim, nâng cô lên, áp chặt thân thể anh vào thân thể Kim, như thể người ta đang lay-out một trang báo…” (tr. 202).
Qua vai Kha, tâm thức nhà văn muốn vượt ý thức nhân-vật, để hội nhập – điều xảy ra khi phải sống xứ người và không lựa chọn. Tuy vậy nhân vật Kha như đi tìm chính mình và vẫn luôn xa lạ, dửng dưng. “Kha thấy mình có những năm tháng vô ích, những tháng năm giống như chiếc xe mà cần số được gài ở trạng thái point mort, mặc dù máy vẫn nổ, nhưng xe không chạy” (tr. 101). “Kha giữ trong anh cái lý lịch do mình đẻ ra, thuộc lòng nó, rồi nhập tâm như một người bị bịnh ảo tưởng mình là một người khác. Anh yêu con người do anh bịa ra, …” (tr. 127). Rồi Kha cũng có lúc nhận ra cái khoảng không như là hậu quả: “Như chiếc phi cơ đang bay êm bỗng nhiên bị hụt hẫng trong một vùng chân không, Kha thấy mình đang bình thường bỗng thình lình ngã xuống một vực sâu thăm thẳm, tay chân quờ quạng không biết bám víu vào đâu. Mọi thứ, mọi việc đều trơn tuột ta loãng, tan hoang trăm nghìn mảnh nhỏ… Cái vực sâu không đáy kia, kỳ lạ thay, càng rơi xuống càng thấy hun hút hơn. Cái đáy vô tận của nó làm anh sợ hãi, run rẩy. Cái cảm giác của một người rơi trong khoảng chân không bị hút hết áp lực của không khí chới với giữa những vì sao, có lẽ cũng bơ vơ hãi hùng đến thế là cùng… ” (tr. 273). Một thứ cảm giác trở nên thường trực: “Anh đã sống, đã nhìn thấy sự sống. Anh đã kề cận nỗi chết, đã nhìn thấy cái chết bất ngờ hay cái chết chầm chậm, gần anh hay trước mắt anh. Và chung quanh anh mọi vật vẫn tiếp tục sinh sôi, nẩy nở, úa héo, tàn tạ, rồi hồi sinh. Anh hiểu là anh, nơi anh, trong anh, cũng đang diễn ra những đổi thay của một chu kỳ như thế… ” (tr. 277).
Kim đã đến với Kha – “Cái trẻ trung và tươi mát của cô thổi những trận mưa đầu mùa xuống vùng đất khô cằn là trái tim mòn mỏi anh”, nhưng Kha không trụ được lâu, “nhìn Kim như cái quá khứ đã mất”. Ngày kia, Kha trở lại tìm Kim để nói lời “cảm ơn” khiến cô ta ngạc nhiên thấy Kha “bất bình thường một cách rất tỉnh táo … lông bông lêu bêu như một người mất trí”. Và diễn biến câu chuyện ngừng lại!
Căn Nhà Ngói Đỏ (1989), đa phần là tự sự, những mảnh rời nhưng như kết nối mạng nhện! Tự Truyện Một Người Vô Tích Sự mở đầu cho tập truyện, kể lại thân thế và gia đình, cuộc đời của tác giả: “Tôi là đứa con thứ mười hai trong một gia đình mười ba anh chị em. Mười ba người con trong một gia đình, con số ấy đâu có nhỏ, phải không? Nhưng biết làm sao! Có ai trên đời này được quyền chọn nơi chốn, gia đình hay dân tộc để chào đời đâu. Tóm lại, tôi là một người Việt Nam ra đời ở miền Trung, trong thời chiến, dưới một mái nhà “đông dân” và “kinh tế gia cảnh” đang hồi sa sút…” (tr. 11).
Trong tập có bài tuỳ bút sâu sắc Huế Mà Ta Sẽ Trở Lại, tâm thức và ký ức sống động, đa nghĩa, người viết như là một Nguyễn Xuân Hoàng khác. “Thành phố ấy tưởng như đã chìm mất trong sự quên lãng ta, thật ra vẫn còn quanh quẩn nguyên vẹn trong pháo đài trí nhớ (…). Cả hai lần đến Huế, Huế đều dìm tôi xuống tận đáy vực của đau thương.
Lần đầu Huế là đôi mắt đen sâu như vực thẳm của tình ái. Lần sau Huế chính là ngọn lửa bốc cao tiếng khóc xót xa của một thời băng giá. Huế của địa ngục.
Như con chim sải cánh bay trên trời cao, ngó xuống tình cờ một thành phố ngổn ngang những di tích của một lịch sử, la liệt xác chết của một trận chiến ngu xuẩn, thấp tè những mái nhà tối tăm của một đời sống chậm chạp thiếu ăn và đen đúa.
Tôi bị cay mắt vì những cột khói mù của một thành phố cháy” (…)
“Thành phố Huế là khuôn mặt của Huế, những cái khác chỉ là tay chân. Cầu Trường Tiền và sông Hương là mạch máu và trái tim của Huế. Những chiếc cầu khác, những nhánh sông khác chỉ là những mạch máu nhỏ tiếp dưỡng và bồi bổ cho mạch máu lớn.
Thành Nội là vầng trán của Huế, trên đó người ta có thể nhìn thấy những nếp nhăn cổ tích, con đường hẹp ngập đầy bóng mát và lá úa của những tàn cây lớn đứng tuổi trước những thành quách rêu phong là dấu vết của một thứ quá khứ vàng son không bao giờ long lanh lại nữa” (…)
Và khi lên tiếng “Huế, Xin chào!: “Xin chào những trái cây còn non trong ngôi nhà cổ, nơi bóng tối nhiều hơn ánh sáng, chỗ nát tan nhiều hơn lành lặn, nơi tôi đã đến đốt một ngày dài kỷ niệm. (…) Xin chào những dấu đạn, những hố bom, những xác chết, những vườn không, nhà trống, những chia lìa và tủi nhục của một thành phố tai ương.
Xin chào những chùm hoa phượng nở đỏ như máu trong trường Đồng Khánh, trái tim của hăng nồng và sắt máu, xin chào mãi mãi những tâm hồn vĩ đại đã không ngừng nhúm ngọn lửa đấu tranh không ngừng chống mọi gian trá, bất công và đàn áp…” (tr. 160, 161, 171).
Văn phong bay bướm như con người của tác giả chúng, như những chuyện của Chàng và Nàng dù ông công khai tuyên bố chống lối gọi nhân vật là “Nàng” và “Chàng”. Qua nhân vật Kha, ông cho biết ông “bị ‘dị ứng’ với những chàng và nàng trong tiểu thuyết, anh khó hiểu về những nhân vật “không có công ăn việc làm”, gia cảnh lại mù mờ, không giàu mà vẫn tiêu tiền như nước, giang hồ kỳ hiệp….” (Sa Mạc, 1989, tr. 6). Và trên tạp-chí Văn Học CA số 127 (11-1996), ông đã chính thức khai pháo “khai tử” hai đại từ này để làm mới văn-chương mà ông đã cố tình từ năm 1986 trong Người Đi Trên Mây!
Ngoài các sáng tác và làm báo, ông đã để lại nhiều bài viết Sổ Tay Văn Học cho các tạp chí mà phần lớn chưa được xuất bản (ngoài 12 “Đoản văn viết ở Cali” trong Căn Nhà Ngói Đỏ) cũng như vào những năm cuối đời đã phụ trách “Nguyễn Xuân Hoàng Blog” trên mạng lưới voatiengviet.com.
*
Tính chất tự truyện hiện diện trong gần như toàn thể tác-phẩm của Nguyễn Xuân Hoàng trước và sau biến cố 30-4-1975. Có thể nói tiểu-thuyết của ông mang tính tự sự và đa phần sử-dụng ‘tiểu-thuyết mới’ cho công tác dài hơi này – sáng tác văn học xuất phát từ nội tâm, từ dòng ý thức, cũng là hành trình đi tìm mình, tìm và nhận chân yếu tính của cõi hiện hữu! Qua đó, người đọc cảm nhận được hình ảnh, tâm lý và thân phận của một thế hệ trí thức trong một cuộc sống nhiều biến cố và đổi thay. Khu Rừng Hực Lửa, Kẻ Tà Đạo, Người Đi Trên Mây, Bụi Và Rác và Sa Mạc hoặc các truyện kề như Tự Truyện Một Người Vô Tích Sự, Chuyện Kể Trên Đồi Cam, v.v. cho người đọc cảm tưởng tác giả chủ yếu viết về một người và một số nhân vật bao quanh, sống chung, gần, xa xưa và hiện tại; các tình tiết, biến cố và cả ý nghĩ, nhận xét được lập lại. Tên các nhân-vật có khác nhau nhưng tinh túy “nhân-vật” với những phẩm chất đồng điệu như cô đơn, bất lực, thất bại,… khiến nhà văn thao thức thành văn-chương. Thật vậy, ông đã thả vào trong tiểu thuyết của ông những sắc bén, ngọt ngào, những cao thượng hay hèn hạ trong từng nhân vật rất dứt khoát và rõ ràng và vì thế ông đã làm người đọc không phân biệt được đâu là tiểu thuyết đâu là tự sự. Nó bàng bạc nỗi đau nhân thế, nỗi đau chiến tranh, nỗi đau thân phận làm người chậm rãi mà thấm sâu. Nó làm người đọc muốn đọc lại, muốn suy gẫm, muốn đào sâu vào từng chi tiết. Nhưng lúc nào nó cũng làm người đọc nhẹ nhõm ở phút chót, phút giây kết thúc như là một số phận! Trong đời thường, Nguyễn Xuân Hoàng làm giáo sư, nhà văn, nhà báo, làm người Việt miền Nam trong thời bình rồi thời chiến và đời lưu vong, không ai có thể nghi ngờ ông không nhiều kinh nghiệm sống; vậy thì chỉ có thể hiểu rằng ông đã chọn tự thuật làm cách-thế hiện sinh và làm nhà văn, và là một cách triết lý và làm văn chương hữu hiệu nhất, như ý nhất, tuy rằng chưa hẳn ông đã đi đến cuối cuộc hành trình đi tìm văn chương và sáng tác – tập 3 của bộ trường thiên Người Ði Trên Mây vẫn chưa xuất bản.
Với Nguyễn Xuân Hoàng, có thể nói nhiều tác phẩm của ông không mang tính xác thực, cả không có đề tài hay thông điệp, có khi không cả cốt truyện (theo kiểu cổ điển), mà nhân vật thì chập chờn ẩn hiện, như những hiện diện dở dang, chưa thành, tình cờ đến rồi đi, có đó như không có đó, như tâm thức, như dòng ý thức, như cuộc hiện sinh,… nhưng ông đã chứng tỏ có cách thể hiện mới trong các sáng tác. Khá nhiều phân tích nội tâm với những câu văn bất ngờ, những ý nghĩ táo bạo, độc đáo, cả khi tác-giả dằng co giữa biến cố, nhân-vật với thời-gian không-gian,…
Với chúng tôi – lớp trẻ yêu thích văn chương có phần vì thao thức và tìm kiếm vào cuối thập niên 1960, Nguyễn Xuân Hoàng đã là một trong những mấu chốt và hy vọng. Niềm tin ấy vẫn chưa mất dù ông đã rời cõi thế ngày 13-9-2014, đã hơn mười năm!
Chú-thích
1- Các thân hữu đã ra tuyển bút Nguyễn Xuân Hoàng, Trong và Ngoài Văn Chương (50 người viết; Damau&Người Việt Books, 2014).
2- Nguyễn Xuân Hoàng từng hơn một lần xác nhận đã “viết lại” và đính chính nhân vật chính Trần Lâm Thăng là một cái ‘Tôi’ khác [X. Vĩnh Phúc. Đối Thoại…, 2001, tr. 82, 86]
[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Hạ, 2025, tr. 104-116]