Nỗi buồn chiến tranh và… kỷ nguyên gì

Thái Hạo

Văn học Việt Nam* từ 1945 đến 2000 được chia làm 2 giai đoạn, theo tiến trình chính trị – xã hội: trước và sau 1975.

Không phải kiến thức gì hàn lâm cao siêu cả, sách giáo khoa viết và học sinh phổ thông được dạy. Trước 1975 là nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Nhân vật chính của nó là con người quần chúng/ đại chúng/ quảng trường – không có chỗ cho đời sống cá nhân; cảm hứng của nó là sử thi, ngợi ca, ta thắng địch thua… Và cũng vì thế mà mặc dù có thành tựu và đã “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị” nhưng nó trở nên phiến diện, một giọng, một chiều, là “nền văn học phải đạo”.

Sau 1975 nó bắt đầu trở mình theo mệnh lệnh của hoàn cảnh mới. 10 năm đầu, do vẫn bị trượt theo quán tính, nên tính sử thi và “ăn mày dĩ vãng” vẫn đậm, tuy nhiên đã xuất hiện những tiếng nói cảnh tỉnh về những tiêu cực, về số phận cá nhân, về những mất mát của chiến tranh, sự tha hóa của con người. “Đất trắng” của Nguyễn Trọng Oánh hay kịch Lưu Quang Vũ xuất hiện trong giai đoạn này.

Sau đại hội VI của Đảng CSVN “cởi trói cho văn nghệ”, văn học chuyển mình mạnh mẽ, từ chút cảnh tỉnh ban đầu nó chuyển mạnh sang phản tỉnh, từ con người quần chúng nó đi sâu vào con người cá nhân, cảm hứng sử thi được thay thế bằng dòng văn học thế sự, đời tư… “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh ra đời trong giai đoạn này. Nó không còn nhìn chiến tranh như một bản anh hùng ca nữa, mà trần trụi và đau đớn, với những mất mát, sang chấn, sự hủy hoại…

Tác phẩm này đã phải chịu những long đong, bị đánh, bị đấu tố, bị thu hồi. Nhưng rồi, cái gì có giá trị thật với đời sống và với văn học thì sẽ tự sống được mà không cần ai bảo kê. Nó trở lại với văn đàn bằng các giải thưởng và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, làm vinh dự cho nền văn học Việt Nam như một tiếng nói nhân bản, đứng cạnh nhiều tác phẩm ưu tú của nhân loại về đề tài chiến tranh…

Những tưởng sóng gió đã phải qua đi từ lâu và người ta phải thấy vui mừng về một tác phẩm mang tên “văn học Việt Nam”, nhưng không, “sự ám ảnh của quá khứ” vẫn còn đeo đẳng trong những đầu óc bị mắc kẹt với các định kiến và đường biên nhỏ hẹp của tư tưởng địch ta, công thần, hãnh tiến…

Việc ông tướng về hưu Nguyễn Thanh Tuấn tỏ ra đau buồn và gay gắt tố cáo khi “Nỗi buồn chiến tranh” mới đây được vinh danh là một điển hình cho não trạng ấy (vào đọc hàng trăm bình luận còn choáng hơn!). Ông viết trên facebook (xin trích nguyên văn, không sửa lỗi chính tả): “Một đêm không ngủ khi đọc tin “ Nổi buồn chiến tranh “ được vinh danh ? Là Chiến sỹ Giải phóng tôi yêu cầu BTC phải thu hồi sự vinh danh này !” “Phải chăng trào lưu xét lại lịch sử đang lộng hành ở mọi cấp và “tự diễn biến” đã không còn là lực lượng suy thoái trong Đảng mà đã và đang công khai thách thức dư luận và những ai bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ XHCN ở nước ta ?”

Ông Tuấn quên mất rằng, từ lâu Nỗi buồn chiến tranh đã được đưa vào sách giáo khoa để dạy cho học sinh phổ thông – như một thành tựu của văn học Việt Nam, như bộ 2000, bộ 2006 và gần nhất là bộ sách theo chương trình 2018 vừa mới biên soạn xong cho học sinh lớp 12.

Trong bộ sau cùng này (Kết nối tri thức và cuộc sống), ở bài “Khả năng lớn lao của tiểu thuyết”, “Nỗi buồn chiến tranh” được trích 2 đoạn cùng với các hướng dẫn đọc, trong đó có câu hỏi: “Trong hồi ức của Kiên, chiến tranh đã hiện lên với “khuôn mặt” như thế nào? Theo hiểu biết của bạn, đây có phải là “khuôn mặt” duy nhất của chiến tranh không? Vì sao?

Rõ ràng, người soạn sách đã rất công tâm và trung thực, gợi mở để học sinh phải đi tìm những khuôn mặt khác của chiến tranh, cái khuôn mặt đầy những tự hào, khí thế ngút trời, trước Nỗi buồn chiến tranh.

Trong khi hàng triệu học sinh phổ thông suốt mấy chục năm qua đã biết đến Nỗi buồn chiến tranh như một thành tựu đáng tự hào của Văn học Việt Nam, thì lạ thay, đến tận hôm nay, một ông tướng nghỉ hưu vẫn tỏ ra đau đớn khôn tả khi tác phẩm ấy được vinh danh, rốt cục thì ông tướng đang sống trong kỷ nguyên gì?

Chú thích:

Đọc status và các bình luận trên trang ông Nguyễn Thanh Tuấn, mời bấm vào đây

*Có ý kiến cho rằng nên thêm 2 chữ “cách mạng” vào, thành “Văn học cách mạng Việt Nam”. Tôi hiều và đồng ý một phần, tuy nhiên không phải việc thêm vào này đã bao chứa được hết thực thể của văn học VN giai đoạn 1945-2000, vì giai đoạn sau 1975 thì 2 chữ “cách mạng” đã không còn trùng khít nữa. Có những tác giả và tác phẩm của giai đoạn sau 1975 đã chịu những oan khuất và bất công, do đi chệch dòng!

Văn học Việt Nam từ 1945-2000 có 3 mảng lớn: Văn học cách mạng, văn học miền Nam (VNCH) và văn học hải ngoại, đấy là chưa nói đến văn học của các dân tộc ít người. Vì thế, xin nói rõ, tôi viết “Văn học Việt Nam từ 1945 đến 2000 được chia làm 2 giai đoạn” là nói theo cách “chính thống”, dùng chính nó để phản bác quan điểm của ông Nguyễn Thanh Tuấn (một người tự nhận là “chính thống”), chứ không phải quan điểm của tôi.
Quan điểm của tôi là, Văn học Việt Nam là một thực tếđa chủ thể, gồm văn học cách mạng (vô sản), văn học Việt Nam Cộng Hòa, văn học Việt Nam hải ngoại, văn học của các dân tộc ít người. Và đến lúc chính thống cần phải ghi nhận đầy đủ, không thể phủ nhận hay lãng tránh mãi.

                                                                                                                            T. H

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.