Thập tam khai thị nghệ Việt đương đại: Khái niệm gợi mở về tư duy “xé khung” trong nghệ thuật đương đại

Tobi Trần – Giám tuyển Độc lập

Trong hơn ba thập kỷ vừa qua, nghệ thuật đương đại Việt Nam đã vận động trong một tình thế vừa khát vọng vừa nghịch lý. Nó khát vọng được bước ra ngoài giới hạn của mỹ thuật chính thống, vừa muốn hòa nhịp với các diễn ngôn quốc tế nhưng đồng thời cũng bị cột chặt bởi những khung kiểm duyệt, những định chế mỏng manh và những hình thức tiêu thụ nửa vời.

Từ đó, khái niệm “xé khung” bắt đầu xuất hiện như một nhu cầu không chỉ mang tính hình tượng mà còn là một chiến lược tri thức khi xé khung để thoát khỏi những vòng lặp lại, xé khung để phá vỡ logic an toàn và quan trọng hơn cả đó là xé khung để đặt nghệ thuật Việt Nam vào trạng thái tự phản tư.

Khi nói đến mười ba yếu tố xé khung (thập tam khai thị), chúng ta không nói đến một bộ tiêu chí khô cứng, càng không phải là bảng gạch đầu dòng để nghệ sĩ gạch bỏ mà đó là mười ba chiều kích của một nỗ lực phê bình, nơi nghệ thuật được nhìn như quá trình vận động liên tục giữa tri thức, xã hội, thị trường và ký ức.

Nếu tư duy theo hướng này thì mỗi yếu tố sẽ trở thành một “trục căng dây” nhưng không buộc chặt vào nghệ sĩ mà giúp định vị những khoảng không gian mới để thực hành nghệ thuật đương đại.

Điểm mở đầu của sự xé khung nằm ở khái niệm hậu cái đẹp. Ở Việt Nam từ trước đến nay, mỹ thuật vẫn thường gắn với cái đẹp, đôi khi là cái đẹp thuần khiết hay đôi lúc lại là cái đẹp chính trị được nhà nước định hướng. Nhưng trong ngữ cảnh đương đại, cái đẹp không còn là cứu cánh duy nhất khi tác phẩm không thể dừng ở việc gây ấn tượng thị giác mà phải tạo ra hệ quả như hệ quả xã hội, hệ quả tri thức hay hệ quả cảm xúc lâu dài.

Một dự án nghệ thuật cộng đồng, dù có thể về mặt thị giác là thô ráp hoặc có khi còn bị coi là “xấu” vẫn có thể được đánh giá quan trọng hơn hẳn một bức tranh được vẽ khéo léo nếu nó có thể tạo ra biến đổi trong nhận thức tập thể. Cái đẹp ở đây không biến mất nhưng bị đặt lại vào hệ quy chiếu mới với những câu hỏi của đương đại:

– Đẹp để làm gì ?

– Đẹp cho ai ?

–  Đẹp như một hệ quả chứ không phải đích đến.

Khi được đặt trong logic đó, vấn đề phương pháp sẽ trở nên quyết định. Nghệ sĩ Việt Nam thường dừng ở hình thức như tranh to, sắp đặt hoành tráng, video chiếu liên tục… nhưng lại thiếu phương pháp luận rõ ràng. Nghệ thuật đương đại, nếu muốn có chỗ đứng phải thể hiện tiến trình tư duy, cách đặt giả thuyết, cách khai thác dữ liệu và cách xử lý đối thoại.

Một tác phẩm trở nên “đương đại” không bởi nó mang công nghệ mới, chất liệu mới… mà bởi nó làm hiện diện cả quá trình nghiên cứu thực hành nghệ thuật trong chính kết cấu nội tại của nó. Ở đây, xin được khẳng định một điều rằng phương pháp luôn quan trọng hơn vật liệu hay công nghệ vì nó phản ánh cách nghệ sĩ hiểu đầy và đủ vị trí của chính mình trong các tầng tri thức đương đại.

Từ đó sẽ nảy sinh đến vấn đề đặt vị khi nghệ sĩ không còn là một cá nhân bay lơ lửng mà phải xác định rõ mình đang nói từ đâu, đối thoại với với ai và cho mục đích nào.

Trong một xã hội được tổ chức như Việt Nam hiện tại, nơi các trục quyền lực bao gồm nhà nước, thị trường, các tổ chức phi chính phủ và quốc tế đều đan xen thì việc đặt vị không chỉ là tuyên ngôn nghệ thuật mà còn là một động tác chính trị. Không đặt vị đồng nghĩa với trượt vào vô trách nhiệm khi tác phẩm dễ trở thành món trang trí cho các phòng khách giàu có xa hoa hoặc thành đạo cụ “đa dạng văn hóa” để gắn mác với quốc tế.

Một nghệ sĩ có ý thức đương đại buộc phải nhìn thấy hệ thống quyền lực đang bao quanh mình và tác phẩm chính là nơi để phơi bày hoặc thương lượng với hệ thống ấy.

Thế nhưng, ngay khi tác phẩm ra đời thì nó đã lập tức bị hút vào nền kinh tế chú ý. Youtube, Facebook, Instagram, TikTok trở thành không gian tiêu thụ chủ yếu khi mà mọi thực hành bị giản lược thành ảnh chụp hay thành các đoạn video ngắn với những dòng trạng thái mang tính thu hút sự tò mò và gây sự chú ý.

Trong bối cảnh đó, việc xé khung đồng nghĩa với chống lại sự dễ dãi của cái nhìn nhanh, của mỹ cảm hời hợt. Một tác phẩm quan trọng có thể không hấp dẫn ngay trong ảnh hay có thể “khó đăng tải” nhưng nó buộc người xem phải hiện diện, phải tham dự, phải chú tâm. Điều này không chỉ là thái độ nghệ thuật mà còn là một lời phản kháng đối với hệ thống tiêu thụ bằng hình ảnh nhanh. Nếu không thoát khỏi nền kinh tế chú ý thì nghệ thuật đương đại Việt Nam sẽ mãi mãi chỉ là bữa tiệc của thị giác mà không có phần nội dung.

Ở một tầng vĩ mô khác, vấn đề hạ tầng tri thức tại Việt Nam đã lộ ra như một khoảng trống lớn từ suốt nhiều năm. Nền mỹ thuật Việt Nam thiếu hoàn toàn tạp chí phê bình, thiếu tư liệu và thiếu những diễn đàn học thuật để lý thuyết hóa thực hành. Rất nhiều các tác phẩm, các triển lãm diễn ra rồi trôi đi như bong bóng xà bông hoặc có khi vỡ tung biến mất mà không hề có sự tích lũy mà về lâu dài chúng ta hay gọi bằng hai từ “di sản”.

Vì thế, một yếu tố xé khung căn bản chính là xây dựng hạ tầng tri thức bao gồm những nhóm đọc, những dự án dịch thuật, những bộ thuật ngữ chuẩn, những hệ thống dữ liệu lưu trữ hay hệ thống đối chiếu học thuật hàn lâm. Không có những nền tảng đó thì “đương đại” mãi chỉ là một cái tên thời thượng chứ không thể thành lịch sử hay cái tên gọi đang trending là “di sản tương lai”.

Một điều rất quan trọng trong đời sống nghệ thuật tại Việt Nam đó là khi nói đến luật pháp và kiểm duyệt thì nghệ sĩ thường xem đó như gông cùm, như lằn ranh hạn chế… Nhưng nhìn dưới một góc độ khác theo đúng tính chất của nghệ thuật đương đại thì đó lại chính là một chất liệu tốt cho hành trình thực hành nghệ thuật của nghệ sĩ đương đại.

Một tác phẩm có thể khai thác chính những lỗ hổng trong pháp lý, sự mơ hồ trong cấp phép, sự ngập ngừng của kiểm duyệt như là một phần cấu trúc nội tại của tác phẩm. Thay vì né tránh thì nghệ sĩ có thể lấy kiểm duyệt như một tấm gương phản chiếu về bản chất chính trị xã hội của bối cảnh Việt Nam để tạo tác nên những hình thái nghệ thuật khác. Đây có thể là một dạng “điêu khắc pháp lý”, nơi sự ràng buộc không chỉ ngăn cản mà còn tạo ra hình thức mới.

Song song đó là vấn đề lao động nghệ thuật và đạo đức khi ý tưởng, khái niệm không thể đứng ngoài chuỗi sản xuất. Nghệ sĩ thuê thợ gia công hay cộng tác với kỹ thuật viên và sử dụng các tài nguyên đó trong quá trình thực hành nghệ thuật nhưng liệu nghệ sĩ có để mắt đến điều kiện lao động, đến quyền lợi của những người tham gia trong quá trình sản xuất đó hay không ? Một tác phẩm “đương đại” chỉ thực sự xứng đáng nếu nó sự công bằng ngay từ đầu quá trình sản xuất. Điều này giúp nghệ thuật tránh rơi vào thứ gọi là “thực dân nội bộ”, nơi nghệ sĩ ăn trên ngồi trốc còn người lao động sản xuất thì lại biến mất trong bóng tối.

Thêm một khía cạnh rất quan trọng nữa, đó là ký ức khi nghệ thuật đương đại Việt Nam có vấn đề lớn về hệ thống lưu trữ. Chúng ta có vô số thông tin tư liệu, hình ảnh rời rạc nhưng lại thiếu những kinh tuyến ký ức để liên kết chúng lại với nhau để tạo giá trị mang tính lịch sử hay di sản. Nếu không lưu trữ, không viết lại lịch sử, không làm lịch sử truyền khẩu thì nghệ thuật sẽ bị lặp lại trong trạng thái mất trí nhớ. Một nền nghệ thuật đương đại không thể trưởng thành nếu không có một lịch sử song hành.

Để đi xa hơn nữa, nghệ sĩ còn phải đối diện với thế giới dữ liệu khi thời hậu-internet sẽ không chỉ nói về việc dùng trí tuệ nhân tạo AI, chuỗi khối blockchain hay tác phẩm số mà là nhận thức về quyền lực dữ liệu khi ai sẽ kiểm soát, ai sẽ lưu trữ, ai sẽ xóa bỏ. Một tác phẩm đương đại có thể là một thực nghiệm về dữ liệu, nơi nghệ sĩ có thể biến dữ liệu thành chất liệu và đồng thời phơi bày chính trị dữ liệu như một vấn đề cốt lõi.

Ở cấp độ quốc tế, Việt Nam thường hướng về phương Tây cụ thể là Âu Mỹ như một chuẩn mực. Nhưng xé khung chính là xây dựng liên minh ngoại vi, kết nối với Đông Nam Á, Nam Á, châu Phi, Mỹ Latin. Đây không chỉ là chiến lược ngoại giao nghệ thuật mà còn là cách để phá vỡ trung tâm ngoại biên. Nghệ thuật Việt không cần phải được hợp thức hóa qua Paris, Berlin hay New York mới được coi trọng mà hoàn toàn có thể định vị trong một hệ đa cực khi mà “ngoại vi” trở thành nguồn sản sinh tri thức.

Một hướng khác nữa để mở ra con đường đương đại là từ tri thức thủ công. Nghệ thuật thủ công, truyền thống dân gian không phải đạo cụ bản sắc để làm màu với quốc tế. Nhưng nếu xem đó là phương pháp nghiêm túc thì nghệ sĩ có thể khai thác giá trị từ quy trình, triết lý lao động và quan hệ cộng đồng. Khi đó, nghệ thuật đương đại sẽ tìm được chiều sâu thực sự không phải bằng cách tô son cho cái cũ mà bằng cách dịch chuyển nó vào hệ hình mới.

Tiếp theo, nghệ thuật đương đại không thể tiếp tục giả định với một “khán giả lý tưởng” đầy mạnh khỏe, biết chữ và rành ngôn ngữ quốc tế. Việc mở ra hướng tiếp cận nghệ thuật cho những con người khác biệt như người khuyết tật, khiếm thính, mù chữ không chỉ là đạo đức mà còn tạo ra hình thức mới. Một triển lãm có thể sẽ khác đi hoàn toàn nếu được thiết kế cho một nhóm người khuyết tật, không vẹn toàn thì lúc đó mỹ học của tiếp cận sẽ trở thành một đường dây đầy sự sáng tạo và nhân văn.

Cuối cùng, phải xé khung ngay cả chuẩn đo lường về thành công khi thành công ở đây không chỉ là bán được tranh, được mời đi triển lãm quốc tế hay được phê bình khen ngợi mà thành công có thể là tạo ra được một cộng đồng học tập, một tư liệu sống hay một sự thay đổi nhỏ trong hành vi của xã hội, của con người hay của chính nghệ sĩ. Nếu không đo lại chuẩn thì nghệ thuật đương đại sẽ dễ bị cuốn vào vòng kim cô thị trường và danh tiếng.

Khi kết nối cả mười ba yếu tố trên, ta thấy “xé khung” không phải là sự phá vỡ hình thức đơn giản mà là một chiến lược tồn tại. Nó buộc nghệ sĩ và cả hệ sinh thái nghệ thuật phải bước ra khỏi an toàn, phải đối diện với hệ quả của chính hành động nghệ thuật.

Trong bối cảnh của Việt Nam, nơi mâu thuẫn, khoảng trống và sự nhập nhằng luôn tồn tại thì tư duy xé khung không phải là một lựa chọn mà là một con đường gợi mở để nghệ thuật đương đại thực sự tồn tại như một lực lượng phản tư xã hội.

13 GỢI MỞ “XÉ KHUNG” (13 FRAME-BREAKING FACTORS)

  1. Hậu cái đẹp (Post – beauty aesthetics)
  2. Phương pháp hơn hình thức (Methodology over form)
  3. Đặt vị và trách nhiệm (Positionality and accountability
  4. Thoát khỏi kinh tế chú ý (Resistance to the attention economy)
  5. Hạ tầng tri thức (Knowledge infrastructures)
  6. Pháp lý và kiểm duyệt làm chất liệu (Juridical framework and censorship as material)
  7. Lao động nghệ thuật và đạo đức (Artistic labor and ethics of production)
  8. Ký ức và lịch sử truyền khẩu (Memory architectures and oral history)
  9. Hậu Internet và dữ liệu (Post – internet and data politics)
  10. Chiến lược ngoại vi (Peripheral strategy)
  11. Thủ công và tri thức thực hành (Craft and practice-based epistemological)
  12. Khả năng tiếp cận của cá nhân khác biệt (Accessibility and non – normative bodies)
  13. Đo lường lại tiêu chuẩn thành công (Recalibrated metrics of success)

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.