Đứa con của Desiree

Kate Chopin, https://www.katechopin.org/pdfs/desirees-baby.pdf

Hiếu Tân dịch

Nói đến Mỹ, người ta nghĩ ngay đến một giống người luôn khát khao tự do và công lý, và sớm hơn ai hết, họ đã từng hiện thực hóa nó dưới ánh mặt trời này. Nhưng đó chỉ là mặt sáng, mặt dương, mà nhiều người đã biết. Còn một mặt khác, mặt tối, mặt âm mà không phải ai cũng biết. Nó đây.

Truyện viết năm 1892 nhưng ngán thay, ở thời điểm này nó vẫn không hề là chuyện cũ.

H. T.

Kate Chopin (1850-1904)

1.

Một ngày đẹp trời, Madame Valmonde tới L’Abri thăm Desiree và đứa con mới sinh của cô. Cứ nghĩ đến Desiree với đứa bé mới sinh là bà lại buồn cười. Như chỉ mới hôm qua, cái ngày ông nhà chạy xe qua cổng nhà Valmonde nhìn thấy nó đang nằm ngủ dưới bóng cây cột đá to, nó còn nhỏ hơn một bé sơ sinh. Con bé thức dậy trong tay ông và kêu “dada”. Đấy là tất cả những gì nó có thể làm, hoặc nói. Có người nghĩ con bé có lẽ đi lạc ở đó, vì nó mới ở tuổi chập chững biết đi. Phần đông tin rằng nó bị một đám người Texas cố ý bỏ rơi, chiếc xe mui bạt của họ lúc cuối ngày còn qua phà Coton Mais, bên dưới đồn điền. Madame Valmonde bỏ qua mọi suy đoán, chỉ nghĩ rằng Chúa lòng lành đã gửi Desiree đến làm đứa con yêu thương của bà vì biết bà không có con đẻ. Con bé lớn lên xinh đẹp và hiền dịu, trìu mến chân thành, được Valmonde hết mực thương yêu. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi cậu Armand nhà Aubigny chạy xe qua thấy cô nàng đứng đó, tựa lưng vào cây cột mà cách đây 18 năm cô đã nằm ngủ dưới chân, đã đem lòng yêu ngay. Đó là cách yêu của đám đàn ông con trai nhà Aubigny – như thể bị đốn ngã bởi một phát súng lục. Điều đáng ngạc nhiên là trước đó cậu chưa hề yêu cô, dù cậu đã biết cô từ năm lên 8 khi cha cậu đem cậu từ Paris về, sau cái chết của mẹ cậu. Tình yêu cuồng nhiệt bừng dậy trong cậu hôm đó, hôm cậu thấy cô đứng ở cổng, cuốn đi như một trận tuyết lở, hay như một đám cháy trên cánh đồng, hay như bất cứ thứ gì chúi đầu lao đi băng qua mọi trở ngại. Ông Valmonde trở nên thực tế và muốn mọi sự phải được xem xét kỹ: đó là, nguồn gốc mờ tối của cô gái. Armand nhìn sâu vào mắt nàng và khôg quan tâm. Cậu được nhắc rằng cô áy không có một cái tên. Một cái tên thì hệ trọng gì khi cậu có thể cho cô một cái họ lâu đời nhất và danh giá nhất ở Louisiana. Cậu đặt mua một giỏ đồ sinh lễ từ Paris, và cố nén cơn nóng lòng chờ nó đến; rồi hôn lễ được cử hành.

Đã bốn tuần rồi Madame Valmonde chưa thăm lại Desiree và đứa bé. Lúc đến gần Abri, lần nào cũng thế bà rùng mình khi thoạt nhìn thấy nó. Nhìn nơi này người ta thấy buồn thảm, vì nhiều năm rồi không có bóng dáng dịu dàng của một bà chủ. Ông già Aubigny đã cưới và chôn bà vợ của mình ở Pháp, và bà ấy yêu mảnh đất của bà đến nỗi không nỡ rời bỏ nó. Mái nhà dốc xuôi xuống và đen như một chiếc khăn thầy tu, trùm ra ngoài những hành lang rộng bao quanh ngôi nhà trát vữa stucco vàng. Những cây sồi lớn, thâm nghiêm mọc gần nhà, và những cành dày lá, vươn xa của chúng che bóng như một tấm vải phủ quan tài. Cậu Aubigny cũng có quy tắc của cậu, dưới quy tắc ấy những người da đen của cậu đã quên thế nào là vui vẻ, như thời ông chủ cũ dễ tính và thoải mái còn sống. Người mẹ trẻ phục hồi chậm chạp, nằm duỗi dài trên chiếc đivăng, trong bộ đồ mutxơlin trắng và những đăng ten. Đứa bé nằm cạnh nàng, gối lên cánh tay nàng và áp vào ngực nàng ngủ. Bà vú người da vàng ngồi cạnh cửa sổ tự quạt cho mình. Madame Valmonde nghiêng thân hình đẫy đà của bà trên nàng và hôn nàng, trong giây lát âu yếm bà ôm nàng trong tay. Rồi bà quay sang đứa bé. “Thằng bé này mà là mới đẻ đây à!” bà kêu lên bằng một giọng làm giật mình. Tiếng Pháp là thứ tiếng được nói ở Valmonde ngày ấy. “Con biết là nhất định má phải ngạc nhiên”, Desiree cười, “thấy nó lớn nhanh thế. Đúng là con lợn sữa. Má nhìn chân nó này, tay nó, và cả những móng tay nữa – những móng tay thật sự. Zandrine vừa mới phải cắt cho nó sáng nay. Không đúng à, Zandrine?” Người đàn bà cúi mái đầu quấn khăn một cách kính cẩn. “Dạ đúng, thưa bà”. “Và cái cách nó gào”, Desiree tiếp tục “Thật điếc tai. Hôm kia Armand từ mãi nhà La Blanche cũng nghe thấy nó.” Madame Valmonde không lúc nào rời mắt khỏi thằng bé. Bà bế nó lên và đi ra gần cửa sổ, chỗ sáng nhất. Bà xem xét kỹ thằng bé, rồi nhìn Zandrine vẻ dò hỏi, bà này đang quay mặt đi, mắt nhìn chăm chăm phía cánh đồng. “Phải, thằng bé đã lớn lên, đã thay đổi”. Madame Valmonde nói chậm rãi khi bà đưa trả thằng bé về chỗ cũ. “Armand nói gì?”, mặt nàng đỏ ửng, nóng bừng vì hạnh phúc.

3

“Ôi, con nghĩ Armand phải là ông bố hãnh diện nhất giáo khu, chủ yếu vì nó là con trai để mang họ anh ấy, dù anh ấy không nói – anh bảo rằng con gái anh ấy cũng yêu. Nhưng con biết là không đúng. Con biết anh ấy nói thế chỉ để con vui. Và, má ơi”, nàng kéo đầu Madame Valmonde lại gần mình, thầm thì nói thêm, “anh ấy không trừng phạt người nào trong bọn họ – không một ai – từ ngày sinh thằng bé. Ngay cả Negrillon, nó giả vờ bị bỏng ở chân để trốn việc – anh ấy chỉ cười và bảo Negrillon là thằng đểu. Ôi má ơi, con hạnh phúc quá, đến nỗi phát sợ.” Những điều Desiree nói đều đúng. Việc lấy vợ và sau đó có con đã làm cho bản tính hống hách, độc đoán và quá quắt của Armand Aubigny dịu đi rất nhiều. Đấy là điều khiến Desiree hiền dịu hết sức vui mừng, vì nàng yêu gã vô cùng. Khi gã cau mày là nàng run lên, nhưng vẫn yêu. Khi gã mỉm cười, nàng cảm thấy không cần cầu xin Chúa ân sủng gì hơn nữa. Nhưng từ ngày yêu nàng, khuôn mặt âm u, điển trai của Armand không thường xuyên cau có nữa, Lúc thằng bé được khoảng ba tháng tuổi, một đêm Desiree thức dậy và tin chắc rằng có cái gì đó trong không trung đe dọa sự yên bình của nàng. Lúc đầu nó quá mơ hồ không nắm bắt được. Chỉ là một chút lo âu; một vẻ gì bí mật trong số những người da đen, những cuộc viếng thăm không chờ đợi từ những người láng giềng xa không nói được lí do thăm viếng. Rồi một sự thay đổi lạ lùng, đáng sợ trong tính khí của chồng nàng, mà nàng không dám đòi gã giải thích. Khi nói với nàng, đôi mắt gã lảng tránh, trong đó ánh sáng yêu thương ngày trước dường như đã tắt ngấm. Hắn luôn vắng nhà, và khi về, tránh sự có mặt của nàng và đứa con, mà không hề giải thích. Và dường như chính linh hồn quỷ Satan đã nhập vào cách hắn đối xử với những người nô lệ. Desiree đau khổ tưởng chết. Một buổi chiều nóng nực, nàng ngồi trong phòng, trong chiếc áo choàng tắm, thẫn thờ luồn ngón tay qua những lọn tóc nâu dài óng mượt. Thằng bé mình trần nằm ngủ trên chiếc phản gỗ của nàng như trên ngai vàng lộng lẫy với tấm màn bằng xa tanh nhăn nheo của nó. Một trong những thằng bé lai một phần tư đen của nhà La Blanche – cũng ở trần – đứng quạt chầm chậm cho thằng bé bằng một chiếc quạt lông công. Đôi mắt Desiree trống rỗng và buồn bã dán chặt vào đứa con, trong khi nàng cố sức xuyên qua màn sương dày đặc mà nàng cảm thấy đang bọc kín nàng. Nàng nhìn hết từ đứa con đến thằng bé đứng bên, nhìn đi nhìn lại. “Á” một tiếng kêu nàng không thể kìm khỏi phát ra một cách vô thức. Máu như đông lại trong huyết quản nàng, một chất sền sệt lạnh ẩm tràn trên mặt nàng.

4.

Nàng cố nói với thằng bé lai, nhưng lúc đầu không thốt nên lời. Khi nghe gọi đến tên mình, nó ngẩng nhìn lên và thấy bà chủ chỉ tay ra cửa. Nó bỏ chiếc quạt to mềm xuống, vâng lời lẻn đi, nhón chân trên sàn nhà bóng loáng. Nàng vẫn ngồi bất động, mắt dán chặt vào đứa con, sắc mặt lộ rõ vẻ sợ hãi. Ngay lúc đó chồng nàng bước vào phòng, không nhìn đến nàng, đi thẳng đến chiếc bàn và bắt đầu lục lọi giấy tờ. “Armand” nàng gọi gã bằng một giọng lẽ ra phải khiến gã đau nhói, nếu gã là một con người. Nhưng gã không để ý. “Armand” nàng lại gọi. Rồi nàng đứng lên và lảo đảo bước về phía gã. Nàng nắm chặt cánh ta gã, hổn hển lần nữa, “Armand, anh nhìn con của chúng ta đi. Điều này có nghĩa gì? Nói cho em đi”. Gã lạnh lùng nhưng nhẹ nhàng gỡ những ngón tay nàng khỏi cánh tay gã, hất bàn tay nàng ra. “Nói cho em biết điều ấy có nghĩa là gì,” nàng gào lên tuyệt vọng. “Nó có nghĩa là,” gã trả lời nhẹ nhàng, “đứa bé không phải là da trắng, nó có nghĩa là cô không phải da trắng”. Nhận thức chớp nhoáng về lời kết tội này có ý nghĩa gì đối với nàng đã cho nàng một can đảm phi thường để chối bỏ nó. “Đó là nói dối, không phải sự thật. Em là da trắng, Hãy nhìn tóc em, nó màu nâu, và mắt em màu xám. Armand, anh biết nó màu xám. Và da em trắng,” nàng nắm lấy cổ tay gã, “Hãy nhìn tay em, nó trắng hơn tay anh, Armand,” nàng cười điên dại. “Trắng như bọn La Blanche,” gã trở lại dữ dằn, và bỏ đi để mặc nàng một mình với dứa con của hai người. Khi đã có thể cầm được một cây bút trong tay, nàng gửi một bức thư tuyệt vọng cho Madame Valmonde. “Má ơi, họ bảo rằng con không phải là da trắng. Armand đã nói với con rằng con không phải da trắng. Vì Chúa má hãy nói với họ rằng điều đó không đúng đi. Chắc chắn má phải biết rằng điều đó không đúng. Con sẽ chết. Con phải chết. Con không thể đau đớn đến thế, mà vẫn sống.” Thư trả lời đến, ngắn gọn “Desiree con yêu của má: Về nhà đi, về với Valmonde; về với má của con luôn yêu con. Đưa con của con về.” Khi lá thư đến tay Desiree nàng cầm nó sang phòng làm việc của chồng, đặt nó mở trên bàn làm việc nơi gã vẫn ngồi. Nàng trông giống như một tượng đá: im lặng, trắng toát, bất động sau khi nàng dặt nó ở đấy.

Gã im lặng lướt mắt qua những dòng chữ viết. Gã không nói gì. “Em phải đi à, anh Armand?”, nàng hỏi với giọng sắc nhọn trong chờ đợi đau đớn. “Phải. Đi.” “Anh muốn em đi à?” “Phải. Tôi muốn cô đi.” Gã nghĩ Đức Chúa Toàn năng đã xử độc ác và bất công với gã, và dù sao gã cũng đáp trả ngài đúng như thế khi gã đâm một nhát vào linh hồn vợ gã. Hơn nữa gã không còn yêu vợ nữa vì vết thương vô thức nàng đã gây ra cho nhà gã và tên tuổi gã. Nàng quay đi như bị giáng một đòn choáng váng, bước chậm chạp về phía của, hi vọng gã có thể gọi nàng quay lại. “Tạm biệt, Armand,” nàng nức nở. Gã không tra lời. Đó là đòn cuối cùng của gã giáng vào số phận nàng. Desiree đi tìm con nàng. Zandrine đang bế nó đi dọc hành lang mờ tối. Nàng đỡ lấy đứa con từ tay nguòi vú mà không lời giải thích, rồi bước xuống các bậc tam cấp, bước đi dưới những cành cây sồi sống. Đó là một buổi chiều tháng Mười, mặt trời vừa lặn. Trên những cánh đồng lặng lẽ những người da đen đang hái bông. Desiree chưa thay bộ quần áo trắng mỏng và đôi dep nàng đang đi. Nàng để đầu trần và những tia mặt trời rọi một ánh vàng lên mái tóc màu nâu của nàng. Nàng không đi theo con đường lớn bằng đất nện dẫn đến đồn điền ở xa của Valmonde. Nàng bước qua cánh đồng hoang nơi những gốc rạ sắc cứa bàn chân thanh mảnh của nàng, và xé toạc váy nàng. Nàng mất hút trong đám sậy và liễu mọc dày dọc hai bên bờ nhánh sông sâu lờ đờ chảy, và nàng không xuất hiện trở lại.

Vài tuần sau, một cảnh tượng quái đản diễn ra ở L’Abri. Ở giữa một sân sau được quét dọn sạch sẽ có một đống lửa lớn. Armand Aubigny ngồi trong một hành lang rộng nhìn bao quát toàn bộ quang cảnh; chính gã phân phát cho một đám nửa tá da đen những vật liệu giữ cho ngọn lửa cháy sáng. Một chiếc nôi xinh xắn đan bằng cành liễu được trang trí thanh nhã đặt trên giàn thiêu ấy, bên trong chất đầy những tã lót đắt tiền. Rồi có những áo dài lụa, nhung và xa tanh, người ta bỏ thêm vào đó cả đăng ten, đồ thêu; những mũ và găng tay phụ nữ, vì giỏ đồ sinh lễ ấy thuộc loại thượng hảo hạng.

6.

Món đồ cuối cùng phải thiêu là bó nhỏ những lá thư, những nét chữ ngây thơ vô tội mà Desiree gửi cho gã trong những ngày vợ chồng nồng ấm. Dưới đáy cái ngăn kéo mà gã lấy bó thư này ra, có một tàn tích nữa. Nhưng đó không phải của Desiree, nó là một phần thư từ mà mẹ gã gửi cho cha gã. Gã đọc. Bà cảm ơn Chúa vì tình yêu của người chồng là phúc lành mà Chúa ban cho bà – “Nhưng trên hết mọi điều,” bà viết, “ngày và đêm em cảm ơn Chúa đã sắp xếp cuộc sống của chúng ta để Armand thân yêu sẽ không bao giờ biết rằng mẹ nó, người hết lòng thương yêu nó, thuộc về một chủng tộc chịu số phận khốn khổ phải mang cái nhãn nô lệ.”

This entry was posted in Văn and tagged , . Bookmark the permalink.