Ái Điểu
1-
Năm tôi học lớp Mười Một thầy Ngư dạy Văn làm chủ nhiệm. Thầy cận thị nặng, đeo cái kính tròng trắng, gọng đen. Thời đó rất ít người mang kính.
Thầy cho chúng tôi biết bút danh của thầy là Hải Đăng. Thầy nói thêm là thầy có thơ đăng trên báo tỉnh.
Mấy con bạn quỷ quái nói mắt thầy nhỏ xíu, lờ đờ như mắt con cá ương; đâu có giống ngọn đèn biển.
Chúng nó còn xầm xì: Thầy ở một mình nhưng chắc đã có vợ ở ngoài đó.
2-
Má tôi nói tôi là gái mà có tánh đàn ông; cộc lốc không dịu dàng, đằm thắm.
Dông trong cát, cá dưới sông, rau củ trên phù sa nuôi tuổi mười tám của tôi phổng phao, hoạt bát như Cô gái vót chông Tây Nguyên. Con Hương thường đánh vào đít tôi rồi hát bậy: Ai nhanh tay bóp vào mông em.
Tôi có máu văn nghệ, thích đủ thứ. Thơ, văn, hoạ, nhạc… tôi đều mê chơi tới bến.
Nhờ thùng sách ông nội giấu trong thời đốt sách mà tôi không lạ những tác giả miền Nam cũ.
Nhờ giờ văn ở trường tôi học, biết những tác giả miền Bắc.
Nhất là nhờ chất giọng thủ đô mê hồn của thầy Ngư trong giờ Văn.
Thầy cuốn tôi dâng cao theo tâm trạng của Katia, Dasa, Rotsin… trên Con đường đau khổ. Thần tượng Paven Coocsaghin qua Thép đã tôi thế đấy rực sáng ngọn lửa soi đường cho tôi.
Ăn cơm độn, mặc áo vá là chuyện tầm thường; chúng tôi không nghĩ đến. Chúng tôi vui sống trong hào quang của lý tưởng cao cả.
Mọi người bình đẳng, giống nhau trong sự thiếu thốn vật chất. Nhiều đứa bạn còn tự hào về cái nghèo của gia đình mình.
Con người có hạnh phúc bằng ảo tưởng. Sau này, khi sống gần với những người nghiện tôi thấy họ sảng khoái khi có ảo giác nhờ chất kích thích. Tuổi trẻ chúng tôi cũng có niềm vui sống qua ảo ảnh của một thế giới bình đẳng, hạnh phúc trong tương lai.
Tôi như ngọn cỏ khô, cháy lên những ngọn lửa ước mơ. Như đoá hoa hoang dã hé nụ đợi chờ.
Đến bây giờ, tôi vẫn thấy đó là những ngày tháng êm đẹp nhất đời mình.
3-
Tôi làm lớp phó nên thầy chủ nhiệm thường gặp riêng. Nhiều lần thầy đến nhà để giao, bàn việc lớp.
Một buổi tối, trong thời gian chờ giấy báo nhập học của trường Cao đẳng Sư phạm thì thầy Ngư đến nhà.
Thầy hỏi: Có ba má ở nhà không? Tôi đáp: Dạ, ba má em đi lên kinh tế mới, chắc chiều mai mới về.
Thầy nói: Thầy ghé nhà từ biệt ba má và em. Mai thầy về quê, chừng hai tháng mới về trường lại. Thầy nói thêm: Lúc đó em đi học xa rồi.
Tôi nói: Dạ, em học gần nhà thôi, trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh đó thầy.
Mùa hè đã qua mà trời vẫn oi bức. Điện chỉ có vào ban đêm nhưng cũng thất thường. Đêm có, đêm không. Có khi đang sáng rồi mất điện. Đêm nay chắc là không có điện.
Thầy ngồi yên trong bóng tối, không nói. Tôi cũng không biết nói gì, đến bàn thờ thắp cây nhang.
Chập lâu, thầy nói, giọng khác với thường ngày: Thầy sẽ sớm trở lại ngôi trường, trở lại căn nhà này thôi. Thầy không thể sống khi xa nơi đầm ấm này. Và… nhất là thầy không thể thiếu em.
Tôi không bất ngờ sự tỏ rõ tình cảm của thầy Ngư. Tôi nói: Dạ. Rồi yên lặng.
Đêm đen quá, điểm sáng duy nhất trong phòng là đốm lửa của cây nhang thắp trên bàn thờ tổ tiên.
Tôi không thấy được mặt thầy.
Thầy đốt thuốc. Ánh lửa của que diêm bùng cháy soi rõ khuôn mặt. Chỉ một lúc diêm tắt, đốm lửa nhỏ của điếu thuốc không đủ để thấy gì.
Thầy đến ngồi cạnh tôi, nói: “Tình yêu của anh trao cho em không thể diễn tả bằng lời. Em là ngọn lửa trong tim anh, ánh sáng trong đêm tối, và hy vọng khi gặp khó khăn. Anh muốn ở bên em mãi mãi.”*
Que diêm lại tàn. Thầy Ngư đốt que khác. Thầy đưa ngọn lửa yếu ớt sát mặt tôi. Thầy nói: anh muốn ngồi nhìn mãi khuôn mặt của em.
Tôi khẽ nghiêng đầu né ánh mắt của thầy đang nhìn mắt tôi.
Thầy đốt tiếp diêm và thì thầm vào tai tôi: “Khi anh nhìn thấy em cả thế giới như dừng lại. Anh không thể kiềm chế cảm xúc nữa. Anh muốn yêu em. Và cũng muốn em yêu anh.”*
Rồi từng que, từng que thầy Ngư đốt hết hộp diêm.
Không thể nào có ánh sáng trong đêm nữa. Lúc đó tôi cảm giác được bàn tay của thầy tìm tay tôi, tìm bờ vai trần của tôi.
Tôi nghe rất rõ hơi thở của thầy.
Sáng sớm hôm sau, khi tôi thức dậy, thầy đã đi rồi.
Chuyến xe ngựa xuống thị trấn lúc trời chưa sáng. Tôi có nghe tiếng mỏi mệt, đều đặn của vó ngựa. Nhưng tôi không dậy, không tiễn thầy.
Tôi có cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Tôi nhặt những mẩu thuốc hút, những que diêm đã cháy đen, tàn tro của những ngọn lửa đựng vào chiếc hộp diêm.
Tôi đóng lại, bỏ vào một cái hộp nhựa, gói kỹ lưỡng thêm một lớp bao nylon và cất trong ngăn hông của tủ thờ.
Những ngọn lửa nhỏ, chỉ còn tro tàn, vĩnh viễn nằm trong lăng mộ.
Mùa hè cuối cùng của tuổi trẻ tôi đã đi qua như vậy đó.
4-
Chuyến xe ngựa cuối cùng của buổi chiều đầu thu oi bức đưa tôi trở về nhà nội.
Vẫn là chiếc xe ngày cũ. Vẫn là những bước chạy mệt mỏi, chậm đều. Lão xà ích nhìn tôi một lúc rồi nói: Chắc cũng hơn mười năm cháu mới về lại quê nhà.
Tôi nói: Dạ. Rồi ngẩn ngơ nhìn những ngọn gió nối tiếp thổi cát bay mịt mù.
Bà cô già nắm tay dắt tôi và thằng Cầm – con tôi – vào căn phòng ngày xưa. Cô nói: Con thắp nhang cho ông bà, người khuất mặt biết con đã trở về. Cô nói tiếp: Khi con đi, cô cất giữ những kỷ niệm của con trong tủ thờ.
Tôi mở tủ. Mấy cuốn vở ghi chép, có một cuốn lớp ba, cái huy hiệu Đoàn. Và chiếc hộp đựng tàn tro của những que diêm đêm ấy.
Tôi mở vở ra coi. Những dòng chữ xấu xí, ngờ nghệch mà sao tôi thương quá.
Tôi đưa cho thằng Cầm. Nó nói: Má viết xấu quắc. Rồi hỏi: Cái hộp diêm đựng đồ chơi của má hồi nhỏ à?
Tôi nói: Đó là ký ức của má lúc còn trẻ. Vui mà con. Đừng oán trách quá khứ, nhưng cũng đừng sai lầm lần thứ hai.
Tôi dẫn thằng Cầm ra con rạch sau nhà. Nước từ rạch sẽ chảy vào sông, ra biển.
Tôi thả cái hộp diêm đựng tàn tro của những ngọn lửa nhỏ, của tuổi trẻ tôi xuống nước.
* Đoạn văn này không phải của tôi.