Truyện Phạm Đình Trọng
MƯỜI
Nắng đã ngập hết mảnh sân. Lão Hưỡu và ba người khách phương xa đã chuyển vào trong nhà ngồi. Con chó vàng đang nằm ở thềm chợt chồm dậy chạy ra cổng vẫy đuôi mừng đón một bà già cắp thúng bước vào cổng. Hai người Mỹ cũng hấp tấp ra cổng đón bà. Cô phiên dịch theo ra chưa kịp lên tiếng thì lão Hưỡu đã lanh lảnh:
– Bà Đằm ơi, bà mua hết cả rau dưa mắm muối ngoài chợ về làm lễ cúng rằm tháng bảy xá tội vong nhân hay sao mà đi lâu thế để hết đoàn khách này đến đoàn khách khác chờ đỏ con mắt, chờ dài cần cổ, chờ mỏi chờ mòn. Mà toàn khách quí, khách sang, khách cao cấp ở trung ương, ở nơi xa nhất trên thế giới về chứ có phải khách hàng xóm láng giềng chạy sang uống chén nước tán câu chuyện gẫu đâu.
Bà Đằm vui vẻ:
– Tôi biết ở nhà có ông tiếp khách giúp tôi rồi nên tôi chẳng cần vội. Tôi tiếp khách làm sao mồm mép được như ông.
Bà Đằm hạ giọng như nói riêng với lão Hưỡu:
– Ông cũng biết con tôi còn bơ vơ tận đẩu tận đâu, còn ăn mày, ăn xin thiên hạ, còn cù bất cù bơ đầu đường xó chợ nên rằm tháng bảy năm nào tôi cũng làm cái lễ tươm tất cho những linh hồn bơ vơ như con tôi. Tối nay mời bố con ông sang đây ăn rằm với mấy mẹ con bà cháu nhà tôi.
Lão Hưỡu phẩy tay:
– Chuyện đó tính sau. Bây giờ bà vào tiếp khách đi. Khách đang chờ để được nói chuyện với bà đấy.
Bà Đằm đặt thúng đi chợ xuống thềm. Bà Mary đến bên thân thiện nhìn bà Đằm với vẻ thăm dò và hóng đợi. Bà Đằm gật đầu chào người đàn bà Mỹ. Cô phiên dịch vừa cất lời: Cháu giới thiệu với bà… , bà Đằm liền nói ngay:
– Thôi, cô khỏi giới thiệu. Nghe cả làng, cả chợ đồn ầm lên, tôi biết hết rồi. Người Mỹ kéo đoàn lớn đoàn nhỏ đến rình rập phá nhà tôi để tìm xác máy bay của họ chứ gì. Họ phá trong chiến tranh, phá bằng bom đạn ròng rã mấy năm trời chưa đủ sao? Họ coi cục sắt rỉ xác máy bay cuả họ còn quan trọng hơn ngôi nhà yên ấm của mẹ con bà cháu tôi sao?
Tom đến bên bà Mary, gật đầu chào bà Đằm. Bà Đằm im lặng hờ hững nhìn Tom rồi hướng mắt về phía ông Hưỡu, gọi:
– Ông Hưỡu ơi, ông mồm mép tép nhảy giúp tôi mời khách vào nhà rồi nước nôi chuyện trò với khách chứ tôi chẳng có gì để nói với họ.
Lão Hưỡu bảo:
– Khách uống đầy bụng nước nhà bà rồi. Chỉ còn đầy bụng tâm sự của khách cần san sẻ với bà thì chưa được san sẻ mà thôi.
Bà Đằm thở dài:
– Còn nỗi niềm, còn mất mát của tôi thì ai san sẻ cho đây! Ngôi nhà cũ của ông bà chúng tôi để lại, máy bay họ đã làm sập rồi. Ngôi nhà này của con cái chúng tôi vừa xây lên họ lại cam tâm phá nữa sao?
Bà Mary ríu ran nói với bà Đằm. Tiếng cô phiên dịch:
– Tôi biết bà có người con mất ngoài mặt trận. Xin bà nhận ở tôi lời chia sẻ chân thành vì tôi cũng có đứa con duy nhất đi vào chiến tranh và không trở về.
Bà Đằm nói giọng hờn trách:
– Cảm ơn lời chia sẻ của bà. Cuộc chiến tranh ở nơi cách xa nước Mỹ cả một chiều âm dương. Khi ở chúng tôi là ngày, là dương thì ở nước Mỹ là đêm, là âm. Cuộc chiến tranh ở xa nước Mỹ như vậy rõ ràng không phải vì nước Mỹ, không phải để bảo vệ nước Mỹ, sao bà lại để cho đứa con duy nhất của bà bị đưa đẩy vào cuộc chiến tranh cách xa nước Mỹ ngàn dặm vậy?
Bà Mary rưng rưng nước mắt, giọng nghẹn ngào:
– Vâng. Tôi biết cuộc chiến tranh nước Mỹ theo đuổi trên quê hương, trên mảnh vườn, mảnh sân nhà bà không vì nước Mỹ, không mang lại điều gì tốt đẹp cho nước Mỹ. Chỉ mang lại những mất mát quá lớn cho Việt Nam và cho cả nước Mỹ. Cuộc chiến tranh làm bà mất cả chồng cả con và tôi cũng mất đứa con trai duy nhất. Từ nỗi đau của tôi, tôi đến với nỗi đau của bà. Xin bà nhận lời chia sẻ chân thành của tôi và tôi cũng mong nhận được sự chia sẻ cao quí của bà.
Nghe cô phiên dịch nói lại lời bà Mary, bà Đằm chuyển ánh mắt từ khoảng không xa vắng về gương mặt bà Mary, từ hờ hững, không bận tâm đến những người khách xa lạ, bà Đằm chăm chăm nhìn bà Mary, nét mặt rưng rưng xúc động. Hai bà mẹ có chung một nỗi đau chiến tranh. Nhắc đến nỗi đau của bà mẹ này cũng động chạm đến nỗi đau của bà mẹ kia. Nỗi đau đã đưa hai bà mẹ lại gần nhau, chia sẻ với nhau. Lúc này bà Đằm mới thực sự quan tâm đến bà Mary. Bà Đằm nhẹ nhàng hỏi:
– Con bà mất từ bao giờ?
Bà Mary nói:
– Con tôi mãi mãi không trở về từ chuyến bay đêm hai mươi sáu, tháng mười hai, năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai. Cái đêm định mệnh đó đã gắn phần đời còn lại của tôi với đất nước Việt Nam này. Từ đêm đó tiếng Việt Nam không rời khỏi tâm trí tôi.
Bà Đằm kêu lên:
– Trời ơi! Lại cái đêm tai họa đó. Tôi mất chồng, mất nhà, mẹ con tôi thành mẹ góa con côi không chốn dung thân cũng vào đêm tai họa đó. Chiếc máy bay đã bị bắn tan xác rồi vẫn còn gieo đau khổ cho mẹ con tôi. Có phải bà đi tìm chiếc máy bay đó?
Bà Mary khẽ lắc đầu:
– Không! Tôi đi tìm con chứ không tìm máy bay. Con tôi dù đã chết, nó vẫn là con tôi. Tôi phải đi tìm nó, bà ạ. Chiếc máy bay chỉ là cục sắt phế thải. Nó có thể chỉ cho tôi biết chỗ con tôi trở về nước Chúa. Tôi lần tìm dấu vết xác chiếc máy bay chỉ để tìm con tôi, đón con tôi về với tổ tiên của con tôi.
Bà Mary ôm lấy bà Đằm:
– Tôi biết mất mát của bà lớn hơn tôi rất nhiều. Tôi chỉ mất một đứa con đã thấy cuộc đời còn lại như phải một mình vượt qua sa mạc mênh mông, hun hút. Bà mất chồng, mất con, mất nhà, mất tất cả những chỗ nương tựa cả vật chất và tình cảm. Cái sa mạc bà phải vượt qua còn xa hun hút gấp bao nhiêu lần. Nỗi đau khổ của cuộc đời bà phải nhận còn lớn hơn nỗi đau khổ của tôi gấp nhiều lần. Nỗi đau khổ đó của bà lại do đứa con tôi mang lại, do nước Mỹ mang lại cho bà. Tôi xin bà độ lượng tha thứ cho tôi, tha thứ cho nước Mỹ lầm lạc của tôi.
Bà Đằm nắm tay bà Mary vỗ về:
– Mất mát đau thương ập xuống cuộc đời tôi, tôi đành chịu đựng, đành chấp nhận chứ tôi không nuôi thù hận. Có thù hận mới có tha thứ. Tôi không thù hận thì cũng không có điều gì tôi phải tha thứ. Bà đến với tôi là tấm lòng đến với tấm lòng, không phải nợ nần đến trang trải nợ nần. Xin bà bình tâm, an lòng, đừng suy nghĩ buồn phiền.
Hai bà mẹ ôm nhau lặng đi, bà nào nước mắt cũng dâng lên, lặng lẽ tràn ra. Bà Đằm cầm hai cánh tay bà Mary, đẩy bà Mary ra trước mặt, nhìn vào đôi mắt xanh của bà Mary, nói:
– Đã là chiến tranh thì bên nào cũng chết chóc đau thương, bà ạ. Một trận đánh thắng mang lại cho những người đàn ông sự vui mừng, sung sướng thì vẫn mang lại cho những người đàn bà ở cả hai phía cuộc chiến nỗi đau mất chồng, mất con. Bên thắng dù có chết ít hơn vẫn là chết chóc, vẫn có những người mẹ mất con, người vợ mất chồng, như bà mất con, như tôi mất cả chồng, cả con. Vì thế, chiến tranh với đàn bà chúng ta ở bên nào cũng phải nhận phần thua thôi, bà ơi!
Nghe cô phiên dịch nói lại lời bà Đằm, bà Mary bỗng thấy người đàn bà quần đen áo nâu bé nhỏ mà có tấm lòng rộng lớn, người đàn bà da màu đất đai, tóc màu đen mun mà gần gũi, thân thiết quá, bà Mary to lớn liền úp mặt vào ngực bà Đằm gầy guộc:
– Vâng. Vâng. Chiến tranh với đàn bà ở bên nào cũng phải nhận phần thua.
Bà Đằm lại nói:
– Bà bảo tôi tha thứ cho bà nhưng nỗi đau của tôi đâu phải do bà gây ra. Bà đâu có lỗi. Bà cũng là đàn bà phải nhận phần thua trong cuộc chiến như tôi mà thôi. Tôi với bà đều là thân phận đàn bà thua thiệt đó thì phải hiểu nhau, chia sẻ với nhau, bà ạ!
Bà Mary nói rì rầm làm cho cô phiên dịch như phải áp má vào má bà Mary mới nghe được để dịch lại cho bà Đằm:
– Tôi đến Việt Nam tìm đứa con đã mang chết chóc đến cho Việt Nam nên tôi đến đây với mặc cảm tội lỗi và với lương tâm day dứt. Được gặp bà, tâm hồn tôi đã được cứu rỗi. Bà đã giải thoát cho tôi. Bà đã vất bỏ tảng đá đè nặng trên ngực tôi bao lâu nay, cho lòng tôi lại được nhẹ nhõm đôi chút. Tôi cảm ơn bà.
Bà Đằm bảo:
– Bà đến được đây với tôi là quí rồi. Được gặp bà, tôi cũng nhẹ bớt được nỗi lòng. Bà cũng mất mát, đau khổ như tôi, chẳng lẽ tôi lại oán trách bà sao? Chia sẻ được với bà, tôi cũng được nhẹ nhõm trong lòng, tôi cũng cởi bỏ được phần nào nỗi đau buồn đè nặng trong lòng tôi. Bà vào đây, tôi có lời nói với ông nhà tôi một tiếng để cho ông nhà tôi cũng được nhẹ nhõm, thanh thản.
Bà Đằm cầm tay bà Mary dẫn vào nhà. Bật công tắc cho mấy ngọn đèn trên bàn thờ đỏ lên, bà Đằm dẫn bà Mary đến trước bàn thờ, chỉ vào ảnh con trai:
– Đấy, thằng con trai duy nhất của tôi đấy. Thằng con trai có bổn phận phải hương khói thờ cúng cha mẹ, ông bà tổ tiên đấy. Nó không về, trốn việc hương khói để bây giờ tôi lại phải hương khói cho nó. Thằng con trai phải sinh con đẻ cái để duy trì dòng dõi đấy. Nó không về, chẳng bao giờ tôi có đứa cháu nội. Tôi chỉ còn đám cháu ngoại. Trong ảnh, trông nó còn như đứa trẻ con. Lần đầu tiên mặc bộ đồ lính nó liền chụp ảnh gửi về cho tôi. Năm đó nó vừa bước vào tuổi mười tám mà trông vẫn như đứa trẻ con.
Chỉ vào bức ảnh phía trên, người đàn ông trung niên nhưng mái tóc còn xanh dày, sức vóc còn tràn trề trên gương mặt căng đầy, giọng bà Đằm rì rầm như nói với người trong ảnh:
– Ông nhà tôi đây. Bỏ mẹ con tôi, ông đi năm ông chưa đến năm mươi tuổi. Đàn ông ở tuổi đó mới biết nhìn ra những việc lâu dài, mới bắt đầu biết lo toan những công việc của ngày mai. Ông đang toan tính bao việc lớn, bao việc lâu dài. Giáp tết tát ao, ông sẽ chặt mấy bụi tre già ngâm xuống ao. Qua tết ông sẽ lên mạn ngược mua con trâu tơ để có thêm sức lao động, có thêm công điểm. Những việc đó, chỉ đàn ông mới nhìn ra được, mới làm được. Nhà có người đàn ông, như con thuyền có người cầm lái. Như ngôi nhà có nóc, có mái. Ông còn tính cả việc đốt vài lò gạch. Sửa lại ngôi nhà. Làm riêng một gian để sẵn đấy cho thằng con trai, đợi khi nào nó được về phép sẽ cưới vợ cho nó ngay. Nhưng nó chẳng bao giờ được một lần về phép. Đám cưới chẳng bao giờ có. Đứa con gái nó yêu chưa được làm vợ một ngày mà cả đời mồ côi chồng. Chỉ còn tháng nữa là tát ao, là chặt tre, thế mà ông đột ngột bỏ mẹ con tôi. Con đi năm sáu tám. Bố đi năm bảy mươi hai. Chỉ có mấy năm bom đạn, nhà tôi mất hai người đàn ông là trụ cột vững chãi, là nóc, là mái êm ấm của ngôi nhà này.
Cô phiên dịch rút từ lọ cắm nhang ra mấy nén nhang. Bà Đằm gọi:
– Mạnh ơi. Bao diêm đâu con?
Mạnh mang bao diêm Thống Nhất đến, đánh diêm, châm vào cây đèn dầu, đặt lên bàn thờ. Cô phiên dịch đốt nhang, đưa cho bà Mary mấy nén. Bà Đằm cũng lấy nhang đốt. Ba người đàn bà tay nâng những nén nhang lênh đênh sương khói, lãng đãng mùi trầm đứng trước bàn thờ. Bà Mary và cô phiên dịch cùng vái theo bà Đằm và đứng lặng nghe bà Đằm khấn:
– Ông ơi! Lúc sống ông đã chẳng làm điều gì ác, chẳng làm hại ai. Dù nhà mình cũng thiếu thốn nhưng ông vẫn nhường cơm sẻ áo cho người thiếu thốn hơn. Bây giờ về cửa Phật, tấm lòng ông càng rộng rãi hơn. Bà mẹ Mỹ đây đến nhà mình tìm đứa con trai. Như mấy năm trước tôi đi tìm thằng Đằm nhà mình. Tìm không thấy con, chắc khi chết tôi không thể nhắm được mắt. Nếu đứa con bà mẹ Mỹ này đang nằm trong đất nhà mình, xin ông mở lòng cho bà được đón con bà về, để bà ấy không phải suốt đời đau khổ như tôi.
Bà Đằm vái và cắm nhang vào bình. Bà Mary vẫn nâng mấy nén nhang trước mặt lầm rầm khấn và đứng lặng một lúc mới cắm nhang. Bà Đằm gọi:
– Mạnh ơi! Con vẫn chưa lắp ngọn đèn sáng cho mẹ à?
Mạnh bảo:
– Có khách nên con chưa làm được. Bức tường chỉ còn chút xíu nữa là xong mà còn phải bỏ dở vào tiếp khách.
Mạnh bắc thang và cầm chiếc đèn neon dài trèo lên thang, lắp đèn vào máng trên tường cao, lập tức gian nhà bừng sáng. Bà Mary nhìn Mạnh làm, quay sang bảo bà Đằm:
– Ngôi nhà của bà lại có trụ cột vững vàng, lại có nóc, có mái êm ấm. Tôi mừng cho bà.
Mạnh cất thang đi rồi vào quét dọn bàn thờ. Bà Đằm chỉ tay về phía Mạnh:
– Vâng. Trụ cột của ngôi nhà này đó. Người đàn ông trụ cột của gia đình tôi bây giờ là con rể tôi đấy bà ạ. Nó là bạn của con trai tôi ngoài mặt trận. Nó đã chứng kiến cái chết của con trai tôi. Nó đã chôn cất con trai tôi ở thung lũng có con suối trong mát hiền hoà và chính nó dẫn tôi đến tận nơi chôn cất đó mà tôi không tìm thấy con tôi. Nó nhận ra chính xác những dấu mốc ghi nhớ nơi để con tôi nằm lại mà khi đào lên chẳng thấy gì. Nó ngờ rằng ngày đó kinh nghiệm không có, sức lực không còn, chỗ cao, xa suối, đất rắn không có sức đào huyệt nó đã chọn chỗ đất mềm gần suối. Mùa lũ, con suối nhỏ hiền hoà thành dòng thác dữ đã cuốn đi những gì nó gửi lại bên dòng suối rồi.
MƯỜI MỘT
Mạnh lau chùi khung ảnh Đằm. Nhìn gương mặt Đằm trong ảnh, đôi mắt mở to như ngơ ngác, Mạnh lại nhớ đôi mắt Đằm mở trừng trừng nhưng vô hồn trong giây phút Mạnh ly biệt Đằm. Gương mặt trong ảnh mờ dần để hiện dần lên rõ nét gương mặt Đằm lúc nằm lại trảng Chuồn Chuồn. Mạnh bên xác Đằm với đôi mắt mở trừng trừng. Mạnh đưa tay vuốt mắt Đằm rồi cứ nhìn trân trối vào mặt Đằm.
Mạnh cầm xẻng bới đất đào huyệt ngay cạnh chỗ Đằm nằm. Dưới lớp đất mỏng là sỏi đá, là những rễ cây nhằng nhịt len lách trong khe đá, bám ghì vào đá. Chiếc xẻng nhỏ và sức đã kiệt, không thể bới đất ở đây để chôn Đằm. Phải tìm chỗ đất thấp gần suối, đất mềm mới bới đất được. Mạnh đưa mắt nhìn về phía có tiếng róc rách bền bỉ của con suối. Tầm nhìn của anh bị chặn bởi những lùm cây rậm rì. Anh nhận ra cạnh lùm cây, xác một đồng đội nằm gục bên đống ruột xổ ra, tràn cả ra cỏ. Mạnh bò đến nhận mặt đồng đội và kêu lên: Trời ơi, bác sĩ quân y trung doàn, Trần Xuân Sang!
Mạnh cố bò lên một mỏn đá để có tầm cao nhìn xa ra chung quanh. Bóng của dãy núi phía tây đổ thành mảng thẫm xuống dải rừng chân núi. Dải rừng trải dài đến trảng cỏ xanh mướt với dòng suối âm thầm, bền bỉ. Cỏ nguồn nước vô tận của dòng suối, trảng có luôn xanh tốt và đất không khô cứng. Rải rác trên triền cỏ có những tảng đá xám như đàn trâu nằm nhẩn nha nhai cỏ trong buổi chiều thong thả. Giữa những tảng đá đen, Mạnh nhận ra mỏm đá trắng nhô cao. Nắng xiên khoai xế chiều lấp lánh trên đỉnh mỏm đá trắng. Vách núi phía sau mỏm đá trắng là một thác nước trắng xóa. Đó là nguồn nước của dòng suối làm nên màu xanh của trảng có và sản sinh ra đàn chuồn chuồn nhiều như lá rừng. Chiều xuống chuồn chuồn bay rợp trảng cỏ và trảng cỏ ngàn đời vô danh bỗng có tên trảng Chuồn Chuồn từ khi có những người lính âm thầm tạo ra lối mòn vắt ngang trảng cỏ trong thung lũng Em Ơi.
Mạnh lại nhìn đăm đăm vào mỏn đá trắng trên triền cỏ xanh cố khắc ghi một dấu mốc trong trí nhớ. Phải để Đằm nằm lại nơi có dấu mốc không thể thay đổi để sau này còn nhớ tìm đến. Mỏn đá trắng kia chính là dấu mốc đáng tin cậy. Mạnh tụt xuống mỏn đá, bò về chỗ Đằm. Nằm thở cho đỡ mệt rồi Mạnh bắt đầu công việc lôi bạn đến trảng Chuồn Chuồn cạnh dòng suối gần mỏn đá trắng phía chân núi. Việc đầu tiên phải tìm sợi dây để lôi Đằm đi. Mạnh mở ba lô của Đằm, lôi chiếc võng ra, rút sợi dây võng. Nhét lại võng vào ba lô rồi dồn hai chiếc ba lô của hai đứa vào làm một, đeo lên lưng. Mạnh vòng sợi dây võng qua hai nách Đằm và cột sợi dây vào thắt lưng mình. Để Đằm nằm bên phải, bên chân lành, Mạnh nằm trên đất, bám hai tay vào cây rừng, kéo mình lết về phía trước, lôi Đằm đi theo.
Mới lê được một đoạn ngắn, Mạnh lại thấy một đồng đội, mặt non choẹt của đứa trẻ con mới lớn, nằm ngửa bên bụi mua, mắt trợn ngược, mồm há hốc, méo xệch. Mạnh vuốt mắt, cố sức kéo đồng đội nằm lại ngay ngắn và lẩm bẩm: Thằng Bằng! Lê Viết Bằng, liên lạc viên đại đội, đứa em út của đại đội! Bằng ơi! Anh đưa Đằm đến trảng Chuồn Chuồn, chỗ mỏn đá trắng rồi sẽ quay lại đưa em về đó. Lại bám hai tay vào cành, vào gốc những bụi cây nhỏ, kéo lê mình đi. Lại một đồng đội nằm vắt ngang một phiến đá. Mạnh kéo bạn xuống mặt đất bằng, lại lẩm bẩm gọi tên người bạn lính xấu số: Đặng Đình Đức, tiểu đội trưởng tiểu đội một, trung đội ba. Đức ơi, đợi tao một chút. Tao sẽ quay lại đưa mày đến trảng Chuồn Chuồn với Đằm.
Lê đến trảng cỏ gần dòng suối, Mạnh nằm hào hển thở một lúc mới tháo sợi dây võng đã lôi Đằm đi với mình. Cố nhô lên xác định vị trí mộ Đằm nằm trên đường thẳng kéo dài từ thác nước trong vách núi qua mỏm đá trắng qua dòng suối và cách bờ suối khoảng chục mét, Mạnh rút dao găm ra, chặt cây, dọn bãi và lấy xẻng bới đất. Mới bới được rãnh sâu chừng hơn gang tay, dài vừa bằng thân người, Mạnh lại nằm thở cho lại sức rồi mới bới đất tiếp. Ba lần nghỉ thở lấy sức mới bới được hố sâu chưa đến một mét. Sau lần nghỉ thứ tư, Mạnh hì hục đẩy Đằm xuống hố. Thân Đằm đã lọt xuống hố nhưng hai chân cứng đơ vẫn gác trên miệng hố. Mạnh lê lên phía đầu Đằm, cúi xuống kéo đầu Đằm nhích lên cho chân Đằm lọt xuống hố. Sức yếu quá, cả người Mạnh ngã dúi xuống hố, đè lên người Đằm. Gục xuống hố không nhúc nhích rất lâu, tưởng như Mạnh sẽ mãi mãi nằm đó với Đằm, không bao giờ tỉnh lại nữa. Thật lâu sau, Mạnh mới lóp ngóp bò lên.
Đưa được Đằm lọt hoàn toàn xuống hố, sửa dáng nằm cho Đằm ngay ngắn, Mạnh mới nhận ra túi áo Đằm bên ngực trái cộm lên bởi chiếc ví. Lấy chiếc ví trong túi áo Đằm ra, Mạnh thấy trong ví có tấm ảnh người con gái có mái tóc dài óng ả chảy xuống ngực. Mặt sau ảnh có hai hàng chữ với hai màu mực và hai nét chữ khác nhau. Màu mực tím học trò, có chỗ đã bị nhòe và nét chữ con gái: Anh Đằm ơi. Anh cho Lành theo anh trên mọi ngả đường để anh luôn có mọi điều Lành nhé. Em Lành của anh. Hàng chữ bên dưới, màu mực Hồng Hà xanh đen, nét chữ cứng cỏi của con trai: Lành yêu của anh. Vững lòng chờ anh nhé. Thế nào anh cũng về với Lành của anh.
Cất ví vào túi áo mình, Mạnh chậm chạp lấp đất từ phía chân Đằm lấp lên. Lớp đất mỏng đã phủ kín thân Đằm. Mạnh định lấp đất lên mặt Đằm thì giật mình thấy đôi mắt Đằm lại mở to như nhìn đăm đăm lên vòm trời chiều. Mạnh nhìn vào đôi mắt Đằm, lẩm bẩm:
– Đằm ơi, vuốt mắt cho cậu, mình đã thầm nhắc lại điều cậu vẫn nói với mình rồi mà. Phải có một thằng sống về làm con của cả hai gia đình, làm con của hai người mẹ. Cậu không về được thì nhất định mình phải về. Cậu cứ yên tâm. Còn điều gì cậu muốn nói với mình nữa không mà không thể nhắm mắt vậy?
Mệt quá, Mạnh lăn ra đất, nằm ngửa bên cạnh Đằm. Mấy con chuồn chuồn rập rờn bay trước mắt Mạnh. Mạnh lại lấy từ túi áo ra chiếc ví của Đằm, xoay người lại, gạt đất trên ngực Đằm, nhét lại chiếc ví vào túi áo Đằm và lẩm bẩm:
– Mình định mang di vật của cậu về cho gia đình. Nhưng thôi, phải để ảnh người yêu của cậu ở lại với cậu chứ nhỉ. Có phải cậu muốn nhắc mình điều đó không? Chiếc ví da cùng với con dao găm cũng sẽ là bằng chứng để sau này mình nhận ra cậu, mình để lại với cậu, cậu yên lòng chưa? Nhưng mình sẽ giữ lại chiếc ba lô cùng bộ quần áo lính và chiếc võng trong ba lô của cậu. Cậu ở lại trảng Chuồn Chuồn trong thung lung Em Ơi chờ ngày mình trở lại tìm cậu nhé. Thế nào mình cũng quay lại tìm cậu. Yên tâm, nhắm mắt lại Đằm nhé!
Mạnh đưa bàn tay phải run run vuốt mắt Đằm, tay trái thả từng vụn đất xuống đôi mắt đã nhắm lại trên gương mặt nhợt nhạt, méo mó. Những vụn đất, những sỏi đá lại lịch bịch rơi xuống mặt Đằm. Đất xóa dần khuôn mặt Đằm.
Lấp lại chưa hết chỗ đất đã bới lên thì Mạnh cũng gục xuống nấm đất mới, chìm vào cơn mê. Tỉnh lại trong tiếng nói lao xao, Mạnh mở mất nhận ra những đồng đội quen thuộc ở hậu cứ đang xúm quanh. Mấy người ở lại giữ hậu cứ thấy máy bay lên thẳng Mỹ đáp xuống thung lũng Em Ơi rồi thoảng trong hơi gió tiếng những loạt đạn AR15 rộ lên liền biết ngay rằng lại có lính ta rơi vào ổ phục kích của những họng súng AR15 rồi. Đơn vị trực chiến liền xuất quân đến nơi có tiếng súng AR15 giải cứu đồng đội. Từ ngày quân Mỹ ồ ạt đổ bộ vào Đà Nẵng, ngoài những cuộc hành quân lớn, máy bay lên thẳng bay rợp trời còn thường xuyên có những chiếc máy bay lên thẳng bay lẻ đổ những toán biệt kích xục xạo trong rừng và phục kích ở những lối mòn còn lưu dấu quân đi.
MƯỜI HAI
Mạnh kéo xe cải tiến ra đồng. Thắm và Lành đang khiêng bao tải ngô từ ruộng lên đường. Thấy Mạnh đến, Thắm hỏi dồn dập:
– Có phải người Mỹ họ đến nhà mình xin đào chiếc máy bay của họ rơi, hả anh? Mình phải phá nhà đi cho họ đào à? Mẹ có cho họ đào không?
Mạnh hỏi lại vợ:
– Nếu phải phá nhà đi, em thấy thế nào?
Thắm nhìn chồng thương xót:
– Tùy mẹ và anh. Làm xong nhà, anh sụt gần chục cân đấy, chỉ còn bộ xương. Em chỉ thấy tội cho cái thân xác anh thôi. Suốt đời hì hục xây xây, cất cất mà chẳng được ở ngôi nhà mình xây. Xây rồi lại phá, như dã tràng xe cát. Anh có nhớ những đêm mẹ thức đến gần sáng kì cạch đẽo gạch ở ngôi nhà cũ không? Lại có bữa mẻ gạch anh vừa đóng xong chưa kịp vào lò thì bão ập đến, thổi bay cả mái che nơi đóng gạch. Mấy ngàn viên gạch vừa đóng lại trở thành đất bùn. Anh có nhớ không? Gạch đã phải đóng đi đóng lại. Nhà cũng phải xây đi xây lại. Nhà phá đi, đêm đêm mẹ lại kì cạch đẽo gạch ở ngôi nhà bị phá, anh lại phơi nắng hì hục đóng gạch ngoài đồng. Nhớ lại công sức đổ ra cho ngôi nhà mà xót lắm!
Mạnh bảo:
– Trước đây còn cố được. Bây giờ còn sức đâu mà cố. Hai lần làm nhà, lần nào cũng cực. Lần sau cực hơn lần trước vì lần sau cố làm ngôi nhà thật to đẹp, thật đàng hoàng, bền vững để không còn phải làm nhà nữa. Thế mà, ngôi nhà lâu bền vừa làm xong lại có nguy cơ bị phá! Lại phải trở về từ đầu cái vòng trầm luân cơ cực phá phá, xây xây.
Lành khuyên:
– Anh Mạnh ơi, đừng phá. Ngôi nhà đẹp như mơ mà phá đi làm sao xây lại được ngôi nhà đẹp như vậy. Em có nằm mơ cũng không bao giờ dám mơ một ngôi nhà đẹp đến thế. Đất của mình. Nhà của mình. Mình có quyền quyết định. Không cho ai đào bới trên đất nhà mình là xong.
Được thể, Thắm cũng nói:
– Chị Lành nói đúng đấy anh ạ. Gian nan cùng cực đủ rồi mới có được cơ ngơi này. Sức lực đã đổ hết ra cho ngôi nhà. Anh bây giờ đâu còn tuổi lao động, đâu còn sức khỏe nữa. Anh là ông già gần sáu mươi tuổi rồi. Mẹ ngoài tám mươi tuổi rồi. Tuổi cần được nghỉ ngơi rồi.
Ba người cùng đi vào ruộng ngô, chuyển những bao ngô lên xe cải tiến. Mạnh vác bao ngô cuối cùng từ ruộng lên, vất vào xe rồi ngồi xuống mép cỏ bên đường, gọi:
– Lên đây ngồi nghỉ một tí rồi về, chị Lành ơi.
Ngửa hai bàn tay ra trước mặt nhìn vào bàn tay lợt lạt vì xi măng vôi vữa, Mạnh nói:
– Đúng là đã đến tuổi nghỉ ngơi rồi. Vác có mấy bao ngô mà đã thở không ra hơi. Bây giờ lại phải làm nhà nữa thì đúng là Trời đày.
Thắm đến ngồi cạnh Mạnh. Lành vén mái tóc dài phía sau ra trước ngực, ngồi xuống cạnh Thắm. Mạnh nói:
– Có lẽ tôi bị Trời đày thật, chị Lành ạ. Trời đày nên mới phải cả đời làm thân trâu ngựa cho cô Thắm này.
Thắm kêu lên:
– Trời ơi! Anh mà làm thân trâu ngựa cho em? Chẳng biết ai làm thân trâu ngựa cho ai!
Lành bênh Thắm:
– Anh Mạnh là người tốt số lắm đấy mà anh không biết. Con gái Thường Xuân ế đầy cả làng thế mà cô em tôi có đến hàng tá đàn ông toàn hạng danh giá học hành đỗ đạt cao, làm cán bộ nhà nước từ bên Hà Nội tới tấp tìm về Thường Xuân xin làm thân trâu ngựa cho em tôi mà không được đấy. Bác Đằm nhà tôi lại chỉ chọn người bạn của con bác, cô em tôi lại chỉ chấm anh thương binh về làng. Có ai tốt số được như anh Mạnh không nào?
Mạnh cũng ôn nghèo kể khổ:
– Chị Lành có nhớ túp lều của mẹ con tôi hồi tôi đeo ba lô về đây sau chiến tranh không? Đúng là túp lều vịt ngoài đồng. Trong lều chỉ kê được chiếc giường tre ọp ẹp. Nền đất còn lại chỉ trải vừa chiếc chiếu.
Thắm vội lên tiếng:
– Anh Mạnh ơi nhắc lại chuyện ấy làm gì, xấu hổ lắm.
Mạnh vẫn tiếp tục mạch chuyện:
– Trong chiếc lều vịt chỉ có mỗi chiếc giường ọp ẹp. Tôi về với Thắm, trải chiếu xuống đất nằm, nhường giường cho mẹ. Chiếc chiếu của vợ chồng trẻ trải sát chân giường bà mẹ già khó ngủ. Thật khổ cho cả bà mẹ già khó ngủ và khổ cả cho cặp vợ chồng trẻ đang thèm khát nhau. Người nằm dưới đất cứ phải nín thở nghe hơi thở của mẹ già nằm trên giường xem mẹ đã ngủ chưa. Người nằm trên giường đã khó ngủ lại cứ phải nghe tiếng thở như trâu kéo gỗ trên rừng ở ngay dưới chân giường. Vì thế mẹ tôi chỉ nằm nhà hai đêm đầu khi tôi mới về với Thắm. Từ tối thứ ba mẹ tôi không ngủ ở nhà nữa mà sang nhà chị Lành. Mẹ tôi bảo lão Hưỡu ra đường mồm mép như tép nhảy mà về nhà cứ câm như hến, chẳng nói với con gái một lời. Hai bố con như hai cái bóng trong cân nhà lặng ngắt như nhà hoang. Mẹ tôi còn bảo cô Lành cả ngày một mình lủi thủi gánh vác mọi việc của đàn ông, đêm về lại một mình trên chiếc giường trống trải thì tủi lắm. Mẹ bảo sang với cô Lành để nó có người trò chuyện và căn nhà có tiếng người, không phải nhà hoang. Nhưng thực ra là mẹ nhường giường cho vợ chồng tôi. Nhà chẳng ra nhà, giường chẳng ra giường mà cũng phải nhường nhịn cho nhau. Cực đến thế là cùng. Thương mẹ và thương cả thân mình mà phải làm thân trâu ngựa cố xây cho được ngôi nhà đấy chị Lành ạ.
Lành cười, nụ cười hiếm hoi trên gương mặt tàn úa:
– Thế là anh Mạnh được làm thân trâu ngựa một cách sung sướng chứ có ai bắt đâu.
Không còn ngăn chồng đừng kể chuyện cũ mà Thắm còn hoà vào mạch hồi tưởng cùng chồng khi hỏi Lành:
– Chị Lành có nhớ hồi anh Mạnh đeo ba lô tìm về làng mình không? Cái bô lô bụi bặm, dúm dó trên thân hình cũng dúm dó, xiêu vẹo, cả bộ mặt cũng dúm dó, nhàu nát, thất thểu trên đường làng, gặp ai cũng hỏi thăm nhà bà Đằm mẹ cô Thắm.
Thắm quay sang ánh mắt chan chứa yêu thương nhìn chồng:
– Nghĩ đến anh thương binh về làng ngày ấy mà gớm.
MƯỜI BA
Trên đường làng Thường Xuân, Mạnh đeo ba lô cắm cúi bước theo thằng bé cởi trần. Trời se lạnh mà thằng bé cởi trần dấp dính mồ hôi, nó chúi người về phía trước, thân tình cầm tay Mạnh kéo đi như buổi sớm nó kéo con trâu còn lơ mơ ngủ ra khỏi chuồng. Thằng bé dừng lại trước cổng tre, chỉ vào túp lều lụp xụp sau mảnh sân đất phía trong cổng và nói:
– Đấy, nhà bà Đằm mẹ bác Thắm đấy. Nhưng bây giờ chẳng có ai ở nhà đâu. Để cháu ra đồng tìm bà và bác Thắm cho chú. Cháu chạy nhanh thôi. Chú cứ đẩy cổng vào sân đợi chút.
Thằng bé chạy vụt đi. Mạnh nâng cánh cổng tre lên, đi qua mảnh sân khá rộng đến túp lều. Anh đẩy cánh cửa khép hờ bước vào trong lều. Một góc lều có chiếc giường tre với chiếc chiếu cũ trải ngay ngắn. Một góc lều có chiếc hòm gỗ có móc khoá. Mấy bộ quần áo đàn bà, toàn màu đen và nâu vắt trên sợi dây thừng căng ngang lều. Một bát nhang đặt trên miếng gỗ vuông nhỏ và mỏng treo vuông góc với vách lều trát bùn nhào rơm. Sau bát nhang, ảnh người đàn ông không còn trẻ nhưng cũng chưa già, mái tóc còn đen dày. Chui cửa ngách ra sau lều, Mạnh thấy chiếc chum sứt miệng bên cạnh mấy chiếc nồi nhôm lỏng chỏng. Một rổ tre chỏng chơ vài chiếc bát, vài đôi đũa. Chiếc ấm nhôm đặt trên ba hòn gạch vỡ chụm lại. Bên dưới ấm, giữa ba hòn gạch đen khói, chỉ có một dúm tàn tro. Với dúm tro mỏng đó thì những lần đỏ lửa của cái bếp đơn sơ cũng chỉ ngắn ngủi, thoáng chốc, đủ biết những bữa cơm nhà nghèo chẳng cần gì phải nhiều củi lửa. Trở vào lều nhìn lại toàn bộ gia tài trong lều, Mạnh băn khoăn, hoài nghi: Nhà Đằm đây sao? Có đúng nhà Đằm không? Nói về gia đình, Đằm vẫn nhắc đến ngôi nhà xây cổ kính từ đời các cụ xa xưa để lại và người cha còn sức vóc, còn đôn đáo mọi việc kia mà.
Vẫn chiếc ba lô trên lưng, Mạnh bước ra khỏi lều đứng trên mảnh sân rộng nhìn quanh. Trước sân, ba cây cau với dàn trầu xanh tốt. Mảnh vườn rộng nhưng cây cối ngả nghiêng, xơ xác. Một đống gạch cũ, loại gạch đặc chỉ có từ thời xa xưa, đẽo ra từ những mảng tường vỡ xếp bên cây mít cụt ngọn. Cạnh đấy là chiếc phuy chứa nước đúc bằng xi măng, loại phuy được đúc hàng loạt, chôn đứng xuống đất làm hầm tránh bom đạn thời máy bay Mĩ đánh phá miền Bắc. Mặt đất cạnh phuy nước lát mấy viên gạch làm chỗ rửa. Sau đống gạch, một khoảnh nhỏ vuông vức được quây lại bằng lá mía. Nhà tắm đơn sơ ở nông thôn miền Bắc ngày đó.
Có tiếng chân thậm thịch bên ngoài bờ tre. Ba người đàn bà, một già, hai trẻ, bà Đằm cùng với Thắm và Lành đội nón, mang cuốc cùng mấy đứa trẻ con líu ríu vào cổng. Ném nón, vất cuốc xuống sân, bà mẹ hấp tấp vừa chạy lại chỗ Mạnh, vừa líu ríu hỏi:
– Anh ở cùng đơn vị với em Đằm nhà tôi phải không? Em Đằm có về với anh không? Có em Đằm về với anh thì anh mới biết đường về đây chứ?
Còn cách Mạnh mấy bước, bà mẹ sững lại, đưa mắt nhìn quanh, tìm kiếm và bật lên tiếng gọi thảng thốt:
– Đằm ơi!
Tiếng gọi chìm vào tĩnh lặng. Sự tĩnh lặng như sự hồi đáp lạnh lùng cho tiếng gọi thảng thốt của bà Đằm. Trong tĩnh lặng vô vọng, phũ phàng, bà mẹ đưa hai tay về phía Mạnh, chân định bước tới nhưng hai đầu gối bỗng như nhũn ra, từ từ khuỵu xuống. Mạnh vội bước tới đỡ bà. Thắm và Lành cùng chạy đến ôm bà mẹ, dìu bà vào trong lều. Ba lô trên vai, Mạnh theo ba người phụ nữ chui vào trong lều chật chội. Thắm và Lành đặt bà mẹ ngồi xuống chiếc giường tre. Rời khỏi mẹ, Thắm vội dọn dẹp cho gian lều bớt bừa bộn. Vơ mớ quần áo vắt trên dây. Gạt hai chiếc ghế thấp ngồi ăn cơm vào sát vách. Cầm đôi quang gánh và mấy cái thúng chui cửa ngách, ra sau lều. Ngồi bên bà Đằm, Lành ngước lên, bảo Mạnh:
– Anh bỏ ba lô ra cho đỡ mỏi vai.
– Vâng! Mạnh trả lời nhưng dường như anh không để tâm đến lời Lành, không hiểu Lành nói gì nên anh vẫn đứng lặng, chiếc ba lô vẫn trên vai.
Bà mẹ vẫn ngơ ngác nhìn Mạnh. Trên gương mặt ngơ ngác ấy là những câu hỏi, là sự chờ đợi và cả sự tuyệt vọng, hoang mang. Thằng Đằm con tôi đâu? Đằm ơi, sao con chưa về với mẹ? Bạn con tìm về với mẹ mà không có con thì mẹ phải nhận lấy nỗi đau, nhận lấy mất mát của đời mẹ rồi. Gương mặt bà mẹ càng thất thần trước sự im lặng, trước nét mặt rầu rĩ của Mạnh.
Dù sự thật nghiệt ngã đến đâu cũng không thể lảng tránh, Mạnh nói sự thật tê tái với người mẹ đau khổ:
– Đằm không còn trở về nữa mẹ ạ. Đằm không về, con thay Đằm về với mẹ đây.
Chiếc ba lô lính bụi đường vẫn trên vai, Mạnh đến bên bà mẹ, bàn tay đã bới đất chôn Đằm cầm hai tay bà mẹ nâng lên rồi anh úp mặt vào hai bàn tay bà mẹ như chính anh cần được an ủi, cần được người mẹ che chở, vỗ về. Giọng Mạnh run rảy:
– Mẹ ơi. Đằm và con, hai đứa đã nhiều lần nhắc nhau sau chiến tranh đứa nào còn sống thì về làm con của cả hai gia đình, là con của cả hai người mẹ. Từ miền Nam ra, con chưa về nhà mẹ con ở Sơn Dương, Tuyên Quang, con về ngay đây với mẹ. Con đã về với mẹ, xin mẹ coi con như Đằm của mẹ.
Lành bật lên tiếng khóc trước tiên rồi gục mặt vào ngực bà Đằm. Thắm chạy đến ôm lưng mẹ. Hai mẹ con bà Đằm và Lành, ba người đàn bà bị chiến tranh dày vò, bóp nát trái tim ôm nhau trong nước mắt. Gian lều chật chội như càng chật chội thêm trong tiếng khóc nghẹn ngào của Lành, trong tiếng khóc âm thầm của mẹ con bà Đằm.
Ôm Lành đang vật vã, nghẹn ngào, bà Đằm như ôm nỗi đau khổ, mất mát của thân phận đàn bà trong chiến tranh, bỗng bà Đằm ngẩng mặt lên, đưa tay gạt nước mắt rồi bàn tay gạt nước mắt ấy đặt xuống mái tóc Lành chảy tràn trên ngực bà Đằm và đang rung lên trong tiếng khóc. Giữ nét mặt điềm tĩnh trở lại, bà Đằm nhìn Lành dịu dàng, vỗ về:
– Mẹ già rồi, chẳng còn sống được bao lâu nữa. Mẹ chỉ còn đoạn đời ngắn ngủi phải mang nỗi đau mất thằng Đằm con mẹ. Mẹ biết tình cảm gắn bó thật lòng của hai đứa, con trai và con dâu của mẹ. Con còn trẻ. Cuộc đời còn dài. Con phải mang nỗi đau goá bụa suốt cuộc đời còn dài của con. Trời ơi! Sao Trời cay nghiệt với mẹ con tôi quá vậy?
Thắm rời lưng mẹ, đi đến vòng tay ôm lưng Lành, thì thầm:
– Chị Lành ơi. Từ ngày anh Đằm đi vào chiến trường, em đã coi chị là người chị cả ở nhà này rồi. Em thương chị.
Để Thắm ngồi với Lành, bà Đằm đứng lên, nét mặt bình thản như chưa hề có nỗi đau mất con ập đến. Với nét mặt bình thản của người đàn bà quen chịu đựng, bà Đằm dịu dàng bảo Mạnh:
– Anh bỏ ba lô ra rồi ra ngoài cho thoáng. Ông Đằm nhà tôi bỏ mẹ con tôi ra đi quá sớm cùng ngôi nhà cổ thành đống gạch vụn. Nhà mẹ goá con côi chỉ dựng được chỗ chui ra chu vào thế này thôi anh ạ. Chật chội, tối tăm cũng đành chịu.
Bà mẹ đi trước bước ra sân. Trên sân loáng thoáng bóng người. Vây quanh bà Đằm, mọi người đều nhận ra tin dữ về Đằm ở khuôn mặt nhợt nhạt, như xa vắng, như hoá đá, không còn thần sắc của bà Đằm. Nhưng vẫn cần được biết rõ, một người lên tiếng:
– Em Đằm thế nào hả thím?
Bà Đằm thẫn thờ:
– Nó đi theo ông Đằm rồi! Hai bố con nó rủ nhau về an nhàn cửa Phật bỏ mẹ con tôi côi cút bơ vơ nơi trần ai cực khổ này.
Không hiểu từ đâu loang ra tin con trai bà Đằm còn sống trở về lan nhanh trong làng. Người làng kéo đến lao xao trên mảnh sân đất. Khi biết sự thật chỉ có người ở đơn vị của Đằm về báo tin Đằm đã hi sinh thì người kéo đến càng đông. Làng xóm đã nhiều lần nhận tin dữ về trai làng bỏ mạng ngoài mặt trận và đã thành nếp, thành lệ, người làng đến chia buồn với gia đình chịu mất mát bằng sự có mặt trong lặng lẽ. Như phút lặng lẽ trong buổi lễ mặc niệm. Lặng lẽ cảm nhận sự mất mát thấm vào làng quê, thấm vào cuộc đời mỗi người dân trong làng những năm tháng bom đạn. Hầu như nhà nào cũng có nỗi đau mất mát. Mỗi lần làng xóm nhận thêm một nỗi đau, lại khoét sâu thêm nỗi đau của cả làng quê.
Quay nhìn vào trong lều thấy Thắm và Lành vẫn đang gục vào nhau, nương tựa vào nhau trong mất mát, bà Đằm gọi:
– Thắm ơi! Đi gánh cho anh gánh nước về anh tắm rửa, con!
Một trai làng đến nói với bà Đằm:
– Mấy gánh nước giếng, mợ cứ để con. Con sẽ đổ đầy phuy cho mợ. Chị Thắm cứ lo việc nhà đi.
MƯỜI BỐN
Mạnh đeo ba lô theo bà Đằm ra sân rồi lại quay ngay vào lều vừa để tháo chiếc ba lô lăn lóc bụi đường ra khỏi vai, vừa muốn tranh thủ gặp Thắm và Lành, muốn có khoảnh khắc ngồi với đứa em gái và người vợ chưa cưới của Đằm đã phải chịu goá bụa. Mong muốn ấy vừa là tình cảm của Mạnh dành cho những người thân yêu của Đằm, vừa là nỗi thèm khát bóng dáng, thèm khát giọng nói đàn bà của những người linh quanh năm, suốt tháng sống thui thủi trong những cánh rừng rặt đàn ông. Rặt những súng với đạn. Rặt những mệnh lệnh, những tiếng hô. Rặt ngôn từ sắt máu.
Thắm đón chiếc ba lô Mạnh thả từ vai xuống đặt vào góc trong giường. Lành chui cửa ngách ra sau nhóm lửa đun ấm nước. Rất nhanh, chỉ một loáng Lành đã bưng vào trong túp lều bát nước nghi ngút hơi nóng đưa cho Mạnh và nói:
– Mời anh uống bát nước vối tươi vườn nhà anh Đằm. Quê em chỉ uống nước vối thôi anh ạ.
Mạnh đón bát nước vối nóng từ tay Lành và kín đáo nhìn Thắm. Anh giật mình nhận ra đôi mắt của Đằm trên gương mặt Thắm. Thắm có đôi mắt giống Đằm quá. Đôi mắt thăm thẳm lại luôn mở to, khi nhìn ra xa như ngơ ngác nhưng khi nhìn vào người đối thoại lại là sự gửi gắm, là sự tin cậy. Mạnh nhìn vào đôi mắt Thắm và hỏi:
– Em có nét đặc biệt giống anh Đằm. Em có biết nét ADN đó của hai anh em không?
Câu hỏi của Mạnh làm Thắm bất ngờ nhưng Thắm cũng trả lời ngay:
– Em và anh Đằm giống nhau là cùng cha, cùng mẹ.
– Anh em ruột thì ai mà chả cùng cha, cùng mẹ. Em và anh Đằm có đôi mắt đẹp giống hệt nhau.
Mạnh nhớ đến lúc lấp đất chôn Đằm từ chân lên. Dù Mạnh đã vuốt mắt cho Đằm nhưng khi lấp đất đến cổ Đằm, Mạnh lại thấy đôi mắt Đằm mở to nhìn trừng trừng như đòi hỏi, như nhắc nhở, như muốn nói điều gì. Nhìn đôi mắt trừng trừng đòi hỏi, nhắc nhở của Đằm, Mạnh phải để lại vào túi áo Đằm chiếc ví da có ảnh Lành rồi Mạnh lại vuốt mắt cho Đằm. Lúc đó đôi mắt thăm thẳm của Đằm mới vĩnh viễn khép lại. Mạnh rất muốn kể với Thắm và Lành về đôi mắt Đằm lúc Đằm và Mạnh giã từ nhau, kể về tấm ảnh Lành để lại trong túi áo Đằm nhưng không thể kể lúc này. Không thể kể về cái chết, nhắc lại sự bi luỵ, đau thương với hai phụ nữ còn trẻ chưa quen chịu đựng cay đắng cuộc đời, vừa tạm lắng trong lòng nỗi đau mất mát. Mạnh bảo:
– Lần đầu gặp em ngoài đường, chỉ cần nhìn vào mắt em, anh cũng nhận ra ngay em là em gái anh Đằm và anh sẽ gọi to Thắm ơi mà không sợ bị nhầm! Đến giờ chắc em và chị Lành vẫn chưa biết tên tôi. Tôi là Mạnh, Trần Mạnh chị Lành ạ. Giờ tôi mới gặp chị Lành và Thắm nhưng tên chị Lành và tên Thắm thì tôi biết từ lâu rồi. Trong những câu chuyện bọn tôi nói cho nhau biết về gia đình, Đằm vẫn thường nhắc tên chị Lành và tên Thắm.
Lành lộ rõ sự xúc động trên nét mặt nhưng cố giữ giọng tự nhiên:
– Anh Mạnh nói đúng đấy. Thắm rất giống anh Đằm. Nhất là đôi mắt.
Không muốn mọi người nói về mình, quan tâm đến mình, Thắm chuyển câu chuyện về người mà Thắm quan tâm. Thắm bảo:
– Anh Mạnh ơi. Lưng áo anh đẫm mồ hôi. Anh thay quần áo mặc suốt mấy ngày đi đường ra để tối em giặt một thể. Đang có đợt gió mùa, em làm đồng cũng không có giọt mồ hôi nào. Anh đi tàu xe thế nào về mồ hôi nhiều thế.?
Có chuyện để nói, có dịp để giãi bày, chia sẻ, Mạnh kể:
– Ô tô trung đoàn chở tốp lính được về phép thăm nhà từ rừng Xa Mát, Tây Ninh đến ga xe lửa Hố Nai, Biên Hoà. Từ thùng xe tải bước xuống lại chui vào hộp sắt là toa xe lửa chở hàng. Đường sắt xuyên Việt vừa khôi phục. Đoàn tàu chỉ có hai, ba toa chở khách như ngôi nhà gỗ sơn màu sáng, có bậc thềm lên xuống, có cửa ra vào, có cửa đón gió. Các toa còn lại là những hộp sắt rỗng. Sàn sắt, thành sắt, trần sắt sơn đen chở hàng. Thời chiến, chỗ nào cũng ngợp lính. Lính nhiều quá thì nhà tàu phải nối thêm những toa đen chở hàng vào đoàn tàu để chở lính. Thời súng nổ, lính theo đường rừng, rầm rập từ Bắc vào Nam. Ngừng tiếng súng, lính lại leo lên xe lửa từ Nam ra Bắc. Chen chúc trong toa đen chở hàng, ăn lương khô cả tuần mới về đến ga Hà Nội. Nhớ lời Đằm bảo nhà Đằm ở Đông Anh, Hà Nội và cứ tưởng về đến Hà Nội thì chỉ vài bước chân là về nhà. Hỏi thăm trên tàu người ta bảo Đông Anh ở phía Bắc Hà Nội, cách con sông Hồng. Xuống tàu Nam phải chuyển sang tàu Bắc đi Đông Anh. Đợi từ sáng đến xế trưa không có chuyến tàu Bắc đi Đông Anh và không biết bao giờ mới có tàu. Cách một con sông thì cũng chỉ vài cây số, gần hơn khoảng cách giữa hai trạm giao liên. Anh liền cứ theo đường tàu băng qua sông Hồng, ngược lên phía Bắc. Như ngày ở rừng cứ dóng hướng, cắt rừng mà đi. Đường tàu trống trải. Mùa đông nhưng mới xế trưa, nắng gắt trên đỉnh đầu. Qua cầu Long Biên đến ga Gia Lâm nắng chiều mới tắt.
Thắm kêu lên:
– Trời ơi! Anh cuốc bộ từ ga Hà Nội sang ga Gia Lâm giữa trưa nắng à?
Không trả lời Thắm, Mạnh tiếp tục mạch chuyện:
– Đằm thường kể chuyện ngày ở nhà đi học trường phổ thông cấp ba ở Gia Lâm nên anh lại tin chắc đoạn đường hàng ngày trẻ con đi học thì chẳng bao xa, gần nhà Đằm rồi. Không ngờ hỏi thăm đường, người ta bảo Thường Xuân thuộc huyện Đông Anh. Từ Gia Lâm đến Thường Xuân còn xa gấp năm, sáu lần Gia Lâm – Hà Nội. Phải ra đường số Một đón ô tô đi Đông Anh. Ngày Đằm đi học thì chỉ cuốc bộ chứ cần gì đón ô tô. Đoạn đường học trò hàng ngày đi bộ đến trường được thì lính vượt Trường Sơn xá gì. Dù xa gấp năm, sáu lần khoảng cách Hà Nội, Gia Lâm thì cũng chỉ xa hơn chút xíu khoảng cách giữa hai trạm giao liên thôi. Hỏi thăm đường bộ gần nhất về Thường Xuân rồi anh bỏ đường tàu, bỏ đường ô tô theo đường đê sông Hồng, theo đường bờ mương băng qua cánh đồng. Đi trên đê sông Hồng, đi trên cánh đồng Đông Anh, anh như đang cùng Đằm đi lại đoạn đường Đằm vẫn đi học ngày nào. Mỏi chân thì ngả lưng xuống thảm cỏ. Đòi thì bóc bánh lương khô, cứ thế đi suốt đêm đến sáng thì tới Thường Xuân.
Thắm xuýt xoa:
– Vậy là anh đã đi bộ từ ga Hà Nội qua sông Hồng sang Gia Lâm rồi lại từ Gia Lâm đi bộ ngược đê sông Hồng về Thường Xuân. Dù đi suốt đêm mùa đông nhưng cuốc bộ hơn năm mươi cây số thì mất nhiều sức lắm. Áo đẫm mồ hôi là phải. Anh đang vừa mệt, vừa buồn ngủ phải không? Để em đi gánh cho anh gánh nước, anh tắm rửa rồi ngủ bù cho một đêm không ngủ.
Thắm cúi xuống lôi từ gầm giường ra đôi thùng làm bằng xác máy bay Mỹ, bảo Mạnh:
– Anh ngồi nói chuyện với chị Lành, kể cho chị Lành nghe về anh Đằm. Chờ em gánh nước về. Nước giếng cổ làng em, mùa hè thì mát lạnh, mùa đông lại ấm lắm.
Thắm xách đôi thùng bước ra khỏi lều. Nhìn theo bóng Thắm. Mạnh nhận ra sức trẻ tràn trề, anh nhận ra cả sự nhanh nhẹn, hoạt bát, đảm đang ở bước chân nhẹ nhàng, ở dáng đi uyển chuyển, mềm mại của Thắm.
Thắm đến bên phuy nước cạnh đống gạch, thấy phuy đã ăm ắp nước. Thắm múc nước từ phuy vào hai thùng và xách vào nhà tắm.