Truyện Phạm Đình Trọng
MƯỜI LĂM
Trở vào lều thấy Mạnh ngồi trên chiếc ghế thấp, dựa lưng vào vách lều trát bùn nhào rơm đang chuyện trò với Lành, bà Đằm vội kéo chiếc hòm gỗ ở góc lều ra chỗ Mạnh và bảo:
– Anh ngồi chiếc ghế thấp mẹ con tôi ngồi ăn cơm phải bó gối, mỏi chân. Anh ngồi lên đây.
Ngồi xuống bên Lành, bà Đằm lại nói:
– Anh và con trai tôi đã bảo nhau sau chiến tranh ai trở về cũng là con của hai gia đình thì con trai tôi đã nói hết mọi điều ở nhà tôi với anh rồi. Anh cũng biết dâu thảo của tôi rồi.
Mạnh đón lời bà Đằm:
– Vâng. Hôm nay con mới về nhà mình. Hôm nay con mới được gặp mẹ và chị Lành nhưng con vẫn biết nhà mình có ngôi nhà cổ đã sạt một góc mái và Đằm cũng kể với con về toan tính làm lại nhà, toan tính làm ăn của bố. Con cũng biết chuyện riêng của Đằm và chị Lành. Con đã được thấy tình cảm của Đằm dành cho chị Lành tha thiết, bền bỉ như thế nào. Vì vậy từ lâu con đã biết và rất quí chị Lành.
Bà Đằm kể:
– Tôi vừa có cơi trầu sang xin dâu ông Hưỡu và được ông Hưỡu thương mẹ con tôi, thuận lòng cho tôi thì giấy gọi nhập ngũ gửi về nhà tôi. Vợ chồng tôi và gia đình ông thông gia đều muốn làm lễ cưới, đón dâu về nhà tôi ngay. Con trai vắng nhà, sớm khuya có con dâu. Căn nhà bớt vắng vẻ. Trong lòng mẹ con tôi cũng đỡ hiu quạnh. Nhưng con trai tôi không chịu. Nghe loa phát thanh ở đầu thôn cuối xóm từ sớm đến khuya ngày nào cũng vang lừng tin chiến thắng, nó bảo mẹ không nghe tin chiến thăng khắp nơi à? Thắng to đến nơi rồi, nó phải gấp gáp lên đường đánh trận cuối cùng rồi về làm đám cưới trong ca khúc khải hoàn của cả nước cho trọn niềm vui. Người già đã trả giá, đã trải nghiệm cuộc đời chỉ tin vào kinh nghiệm dân gian “cưới vợ thì cưới liền tay”. Còn tuổi trẻ thì tin vào lý tưởng. Lý tưởng đều rực rỡ huy hoàng mà cuộc đời thực thì thường khắc nghiệt. Con trai ra trận không về là cuộc đởi thực khắc nghiệt của mẹ con tôi. Máy bay lao vào nhà, người đàn ông còn lại của gia đình chết theo ngôi nhà sập cũng là cuộc đợi thực quá khắc nghiệt của mẹ con tôi, anh ạ!
Giọng bà Đằm cứ nhỏ dần như tự nói với mình rồi chìm vào tĩnh lặng. Sau khoảng lặng, bà Đằm lại thì thầm:
– Nhưng nhìn dâu thảo của tôi thì tôi lại thấy sự khắc nghiệt của cuộc đời tôi chẳng còn đáng kể nữa. Con trai tôi không về, tôi tội nghiệp một thì dâu của tôi còn tội nghiệp gấp mười, gấp trăm lần. Dâu của tôi tên là Lành anh ạ. Người lành như đất mà khổ. Không có dâu thảo này, không hiểu tôi có chịu nổi nỗi đau chồng chất không.
Lúc này Lành mới lên tiếng:
– Đàn ông ra trận thì đàn bà ai ai cũng phải chịu thân phận như mẹ, như con thôi mẹ ạ. Ở ngay làng mình đấy, bao nhiêu nhà có bảng vàng liệt sĩ thì bấy nhiêu nhà hiu quạnh vì vắng người đàn ông như nhà mình. Nhà mình còn có may mắn là anh Đằm không về thì có anh Mạnh về với mẹ. Anh Mạnh ơi, mẹ con em chờ nghe anh đấy.
Mạnh hiểu Lành muốn anh nói cho bà Đằm biết về anh. Hướng tới bà Đằm, Mạnh nói:
– Quê con ở Sơn Dương, Tuyên Quang mẹ ạ. Phải đi hai chặng ô tô và cuốc bộ hơn hai tiếng nữa mới đến nhà. Nhưng con về đây cũng như về nhà rồi. Ở Tuyên, bố mẹ con ở với vợ chồng anh cả của con và bầy cháu nội nên con không phải lo lắng nhiều.
Từ lúc gặp Mạnh, bà Đằm đều gọi anh, xưng tôi, thân tình nhưng vẫn là giao tiếp xã hội. Bây giờ ngôn ngữ xã hội mới được thay bằng ngôn ngữ gia đình, bà Đằm dịu dàng bảo Mạnh:
– Bố mẹ con có phúc quá. Nhà có trai lớn, trai nhỏ, đề huề đông vui. Lúc yên hàn, nhà có anh có em, việc lớn đến đâu cũng thành nhỏ. Lúc giặc dã, loạn lạc, em ra trận, có anh ở nhà với bố mẹ. Lúc bố mẹ già, việc nhà giao lại cho con cái, ông bà sớm hôm vui vầy với đàn cháu. Được như vậy là nhà có phúc dày lắm đấy, con nhá. Mẹ mừng cho con, mừng cho bố mẹ con.
Nhắc đến người đàn ông trong gia đình, bà Đằm lại kể:
– Bố con ở đây khi còn sống vẫn nhắc đến vùng đất Tuyên vì đã có dịp ông theo một hiệp thợ ngõa lên đó. Ông bảo trên đó đất rộng, người thưa. Tiếng là miền núi nhưng không có núi đá khắc nghiệt. Không có núi cao cách trở. Cũng không phải là nơi ma thiêng nước độc. Chỉ có đồng cỏ và vườn cây xanh tốt. Đi đâu cũng thấy những đàn trâu bò đông như kiến, béo tròn béo trục trên đồng cỏ ngút ngát bời bời. Năm đó ông đã định sau tết lên Tuyên mua con trâu thì giáp tết ông bị vùi dưới đống gạch của ngôi nhà sập. Để bây giờ ông ngồi trên kia nhìn vợ con chui ra chui vào túp lều này.
Bà Đằm chỉ lên bức ảnh trên giá thờ:
– Bố con mất mới ngoài năm mươi sức vóc hãy còn mà suy nghĩ cũng đã chín.
Mạnh đứng lên, rút ba nén nhang trong thẻ nhang trên giá thờ. Đốt nhang và vái rồi Mạnh quay ra bảo bà Đằm:
– Con có tấm ảnh chụp chung với Đằm. Mai con sẽ ra hiệu ảnh tách ảnh Đằm ra và phóng to lên làm ảnh thờ của Đằm.
Bà Đằm lần trong người lấy ra chiếc túi vải và lôi ảnh Đằm từ trong túi ra, nói:
– Mẹ cũng có chiếc ảnh duy nhất nó chụp ở đơn vị gửi về cho mẹ, lúc nào mẹ cũng giữ trong người. May là mẹ giữ trong người nên ảnh nó vẫn còn. Đây, ảnh nó đây. Mai con mang đi phóng to ra làm ảnh thờ giúp mẹ.
Thắm từ ngoài cổng tre đi vào, trong tay cầm chiếc chậu thau to và chiếc khăn mặt mới. Mang chậu thau để lại trong ô tắm quây bằng lá mía sau đống gạch giáp vườn. Thắm vào lều đưa khăn cho Mạnh, giục Mạnh đi tắm.
Đêm đó, trong căn lều chật chội, ngọn đèn dầu leo lét trên gía thờ. Chiếc màn trắng cũ giăng trên giường chiếm hết phần lớn không gian căn lều. Mạnh nằm trên cánh võng giăng ngang phần lều còn lại. Tiếng Mạnh rì rầm:
– Con ở đây với mẹ và em vài ngày rồi con về quê con cho bố mẹ con mừng. Con ở đây, nhà có việc gì cần sức vóc đàn ông, mẹ cứ bảo con làm.
Trong màn, Thắm nằm sát vách. Bà Đằm nằm phía ngoài, cạnh võng Mạnh nằm, nói:
– Có con ở đây là mẹ thấy đầy đủ rồi. Phần thiếu hụt đã được san lấp. Phần chông chênh đã được ổn định. Có bóng vía đàn ông, có tiếng nói đàn ông như mùa đông có tia nắng mặt trời, nhà mới ấm áp, tươi vui lên được. Chỉ có hai mẹ con đều là đàn bà, dù mẹ thương con, con thương mẹ nhưng nhà cứ âm thầm, lạnh lẽo, trống trải lắm, con ạ.
Nằm trên võng, ngửa mặt nhìn vào bóng đêm, Mạnh vẫn như nhìn thấy căn lều tiều tụy, anh nói:
– Con về Tuyên ít ngày rồi con trở lại sửa chỗ ở của mẹ rộng rãi, đàng hoàng hơn một chút, được không mẹ?
Bà Đằm gạt đi:
– Con ở đây hay về với bố mẹ ở quê cũng cứ nghỉ ngơi cho lại sức đã. Việc đầu tiên là phải lấy lại sức đã mất mát trong bom đạn, cực khổ, thiếu thốn. Con trở lại đây, mẹ dù nghèo cũng nuôi được con, bồi dưỡng cho con khỏe lại. Con cứ ở đây có mẹ có con, có anh có em. Có con ở đây, nhà làm lúc nào chả được. Làm căn nhà, tốn của, tốn sức lắm. Phải có thời gian lo liệu, phải chuẩn bị nhiều thứ lắm mới làm được.
Mạnh tính toán rành rẽ:
– Con tính rồi. Tre pheo quanh nhà ngả xuống là tạm đủ. Lá mía ngoài đồng nhiều lắm. Con để ý thấy ở đây không có nhà nào lợp lá mía cả. Lá mía bỏ đi, chắc giá không đắt. Không tốn nhiều tiền đâu, mẹ ạ. Trước tiên phải dựng lại căn nhà, chứ ở thế này cực quá.
Bà Đằm trở mình quay về phía Mạnh, nói:
– Việc đầu tiên mẹ muốn nhờ con là con dẫn mẹ đi tìm đón thằng Đằm về đây để hai bố con nó được gần nhau. Phải làm được việc đó rồi mẹ mới có tâm trí lo đến những việc khác. Chưa đón được thằng Đằm về đây thì mẹ chả thiết làm việc gì.
Hai mắt Thắm mở to lấp lánh nhìn vào đêm. Đôi mắt bà Đằm nhìn về phía Mạnh chờ đợi. Nhưng Mạnh cứ im lặng.
Cuộc chiến tranh Nam- Bắc đã ngưng tiếng súng nhưng biên giới với nước láng giềng Cambodia tiếng súng lại rộ lên. Lại những cuộc hành quân, những đêm ôm súng ở chiến hào sát biên giới, những trận truy kích quân Khmer Đỏ luồn sang đất ta gây tội ác với dân ta. Mãi cuối năm 1977 đơn vị Mạnh mới được đổi quân, lui về phía sau, lính lần lượt được nghỉ phép thăm nhà. Trong những ngày chờ nhận giấy nghỉ phép, Mạnh đã về hậu cứ đơn vị cũ, đến trảng Chuồn Chuồn thăm mộ Đằm mà không tìm thấy mộ. Mạnh không thể quên nơi Đằm nằm lại. Thung lũng Em Ơi, trảng Chuồn Chuồn cách hậu cứ đơn vị về phía Nam chỉ hai giờ đi bộ. Thời chiến tranh gấp gáp, mỗi lần đi lấy gạo, đi công chuyện qua đó, Mạnh đều ghé vào trảng Chuồn Chuồn, mộ Đằm vẫn còn đó. Chỉ từ khi bị hút vào với những trận quần nhau với quân Khmer Đỏ, Mạnh mới không có dịp đến thăm Đằm. Rút ra khỏi những trận sống mái với đám giặc có Khmer Đỏ về trảng Chuồn Chuồn lại không tìm thấy dấu vết mộ Đằm nữa. Bây giờ dẫn mẹ Đằm đi tìm Đằm thì biết tìm ở đâu? Biết nói sao với mẹ Đằm? Có nên nói cho mẹ biết sự thật cay nghiệt này? Im lặng mãi, Mạnh cũng phải lên tiếng:
– Chính tay con đã chôn Đằm nên con sẽ dẫn mẹ đi tìm Đằm.
MƯỜI SÁU
Mạnh quét dọn mảnh sân để Thắm đổ ngô từ bao ra sân phơi. Tom đang đứng trên hè, vẫy cô phiên dịch cùng Tom đến chỗ Mạnh và Thắm. Tom cầm bắp ngô trên tay, hỏi:
– Ông có bao nhiêu hecta ngô?
Mạnh cười:
– Ruộng đất của chúng tôi nhỏ hep, ít ỏi lắm. Dù ít ỏi, nhỏ hẹp nhưng đất đai của chúng tôi trước đây cũng được tính bằng sào, bằng mẫu. Một sào là ba trăm sáu mươi mét vuông. Một mẫu là mười sào. Nay người đông, đất của mỗi gia đình còn ít hơn, chúng tôi chỉ còn tính bằng mét vuông thôi. Mỗi nhà vài mảnh đất. Mỗi mảnh chỉ vài trăm mét vuông chứ không có nhiều để tính bằng hecta. Cả ruộng ngô nhà tôi chỉ có vài bắp ngô này thì ông cũng biết mảnh đất ngô của mẹ con tôi nhỏ bé, manh mún cỡ nào.
Tom ngạc nhiên:
– Mỗi gia đình chỉ có mấy trăm mét đất trồng ngô, làm sao đủ sống? Vậy mà ông vẫn xây được ngôi nhà lớn và đẹp không kém gì nhà của những chủ nông trại ở bang Texas bên Mỹ, nhà nào cũng có hàng chục hecta trồng ngô xuất khẩu, trồng có nuôi bò.
Mạnh lại mỉm cười:
– Nếu tính theo giá trị hàng hóa thì người nông dân Việt Nam không sống nổi, không thể tồn tại trên mặt đất này.
Nói ra những hiểu biết về Việt Nam, Tom nhận ra một nghịch lí:
– Nhưng họ vẫn sống và dân số vẫn không ngừng gia tăng. Tôi được biết thời chiến tranh Việt Nam, thời còn hai nước Việt Nam, dân số ở cả hai nước Việt Nam là ba mươi triệu và đội quân của cả hai nhà nước Việt Nam là trên ba triệu. Hơn một triệu quân miền Nam và hơn hai triệu quân miền Bắc. Chưa đến mười người dân đã có một người lính. Cả nước có chiến tranh. Bom đạn dày đặc khắp nước. Số người chết trong chiến tranh rất lớn và hầu hết đều là người trẻ ở tuổi lấy vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái. Vậy mà dân số vẫn gia tăng bảo đảm sự gia tăng không ngừng quân số của cả hai quân đội. Đến năm 1975 lực lượng cầm súng chiến đấu của cả hai nhà nước Việt Nam đã lên tới trên bốn triệu. Vì sao có điều kỳ diệu đó?
Mạnh giải thích:
– Ruộng đất chúng tôi sở hữu ít nhất thế giới. Sức lao động rẻ mạt nhất thế giới. Nông sản của chúng tôi bán ra cũng rẻ nhất thế giới. Hàng tiêu dùng công nghiệp chúng tôi lại phải mua giá đắt nhất thế giới. Chúng tôi vẫn sống và dù sống dưới mức sống của dân nghèo trên thế giới, dù có chiến tranh, dân số nước tôi cũng không giảm mà còn tăng. Ông có biết vì sao không?
Thấy Tom im lặng nhìn Mạnh chờ đợi, Mạnh tiếp:
– Chúng tôi vẫn sống vì xã hội chúng tôi chưa phát triển, chúng tôi sống bằng bản năng sinh tồn tự nhiên. Xã hội phát triển cao, đạt tới xã hội văn minh, có tổ chức, có phân công xã hội hợp lý mới có kinh tế hàng hóa sòng phẳng. Chúng tôi chưa có được thị trường hàng hóa sòng phẳng. Giá một tạ gạo chúng tôi làm ra bằng dầu dãi nắng mưa, một sương hai nắng suốt mấy tháng trời chỉ bằng giá một cân mì chính được sản xuất từ nguyên liệu rẻ mạt trong dây chuyền công nghiệp, với vài công nhân vận hành máy mỗi giờ cho ra hàng chục tấn sản phẩm. Một vụ thu hoạch của cả gia đình tôi cũng chỉ bằng vài cân mì chính. Một xã hội phát triển văn minh, có tổ chức thì không thể có giá trị lao động bất công như vậy. Chưa có được xã hội có đời sống kinh tế được tổ chức hài hoà, có bảng giá trị công bằng được gọi là kinh tế thị trường, chúng tôi vẫn phải sống bằng kinh tế tự cấp, tự túc, tay làm hàm nhai, như con chim trời, tự đi kiếm mồi mà sống, tự làm lấy tổ mà đẻ trứng, sinh con. Chúng tôi làm nhà không phải bằng tiền bán hàng hóa làm ra mà bằng bàn tay chúng tôi tự dựng lên ngôi nhà. Tự tay nhào đất, đóng gạch, đốt lò nung gạch. Tự tay kéo xe ba gác ra bờ sông xúc cát chở về. Không tự làm được xi măng thì nuôi lợn, bán đi lấy tiền mua xi măng. Một lứa lợn chỉ mua được hơn chục bao xi măng thì phải nuôi vài chục lứa lợn mới đủ tiền mua xi măng làm ngôi nhà này.
Tom cầm bàn tay Mạnh:
– Cho tôi được nắm bàn tay sáng tạo vĩ đại. Bàn tay làm ra hạt lúa. Bàn tay làm ra bắp ngô. Bàn tay làm ra mùa màng. Bàn tay đóng gạch. Bàn tay xúc cát. Bàn tay nuôi lợn. Bàn tay xây nhà. Đúng là bàn tay sáng tạo vĩ đại.
Mạnh nheo mắt nhìn Tom:
– Ông còn quên bàn tay cầm súng nữa.
Tom nhún vai:
– Ồ! Bàn tay cầm súng!
Tom ngửa hai bàn tay:
– Làm sao tôi có thể quên bàn tay ông đã từng cầm súng như bàn tay tôi đã cầm súng, đã lái máy bay chở bom đạn, đã bắn rốc két, đã cắt bom. Bàn tay những người đàn ông thời chiến tranh không làm ra của cải mà chỉ gieo rắc sự tàn phá. Không làm cho cuộc sống tất đẹp hơn mà chỉ gieo rắc cái chết. Tôi cố quên đi những năm tháng bàn tay tôi đã xiết cò súng, bàn tay tôi đã nhấn nút thả bom xuống đường mòn Hồ Chí Minh. Tôi đã bắn rốc két những đoàn ô tô chạy trên đường mòn đó. Tôi đã bắn đạn lửa đốt cháy những dải rừng nhiệt đới. Tôi đã nhấn nút thả bom xuống Hải Phòng, thành phố công nghiệp duy nhất của Bắc Việt Nam. Tôi muốn quên đi những năm tháng khủng khiếp và tội lỗi đó nên không muốn nhắc đến những bàn tay cầm súng, những bàn tay giết sự sống.
Mạnh bảo:
– Tôi không ngờ ông cũng cả nghĩ vậy. Cả nghĩ thì ông có nghĩ rằng đất nước có chiến tranh thì ít nhất cũng phải hy sinh một thế hệ, bỏ đi một thế hệ. Ông có biết rằng ông và tôi cùng ở thế hệ vất đi không? Thế hệ vất đi thì nhiều cay đắng lắm.
Tom lại nắm chặt tay Mạnh:
– Cảm ơn ông đã phát hiện ra, đã gọi đúng tên thế hệ chúng ta là thế hệ vất đi, thế hệ cay đắng. Vâng. Cay đắng lắm. Tôi không nhìn thấy sự tàn phá, sự chết chóc do những quả bom tôi thả xuống nhưng suốt mấy chục năm qua, những quả bom đó vẫn xoáy trong lương tâm tôi, vẫn nổ rền trong tâm thức tôi. Những cánh rừng rừng rực cháy như một biển lửa trên đường mòn Hồ Chí Minh, những chớp lửa bom ở khu dân cư phía tây thành phố Hải Phòng vẫn thiêu đốt tôi. Mỗi khi nghe thấy tiếng chuông nhà thờ cầu nguyện cho một linh hồn từ giã cuộc đời tôi lại âm thầm day dứt nghĩ đến những cái chết ở Việt Nam, những người lính và cả dân thường ở đất nước Việt Nam xa xôi đã chết vì những quả bom, những loạt đạn do tôi phóng xuống. Bom đạn do tôi trút xuống đất đai Việt Nam đã giết chết bao nhiêu người? Vài chục người? Vài trăm người? Hay vài ngàn người? Tôi đã trút xuống mấy tấn bom đạn. Số người chết vì mấy tấn bom đạn đó phải nhiều lắm! Bàn tay tôi đó! Nhắc đến bàn tay cầm súng của anh, tôi lại nhớ đến bàn tay nhấn nút trút bom đạn của tôi và tôi không muốn nhắc đến. Nhưng làm sao trốn tránh được sự thật! Làm sao trốn tránh được lương tâm!
Mạnh hỏi:
– Anh tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam ở thời kỳ nào?
Tom rầu rĩ nói:
– Thời tuổi trẻ đẹp đẽ nhất của cuộc đời nhưng cũng là thời đen tối nhất của tôi. Tôi được lệnh bay vào tọa độ lửa Việt Nam từ cuối năm 1971 đến giữa năm 1972. Sau trận trút bom xuống khu công nghiệp phía tây thành phố Hải Phòng đêm mười sáu, tháng tư, năm 1972, tôi không còn phải xuất kích trận nào nữa. Tôi tham chiến chưa đến một năm nhưng cơn ác mộng Việt Nam thì đeo đẳng suốt mấy chục năm nay, suốt cả đời tôi.
Mạnh phẩy tay:
– Thời gian đối mặt với cái chết của anh chỉ bằng một phần mười thời gian của tôi. Tôi lăn lóc ngoài mặt trận suốt mười năm. Mười năm trời tôi là thằng lính ở chiến hào phải đối mặt với họng súng ở phía bên kia, đối mặt với bom rải thảm trên đầu, phải giành giật cái sống với ký sinh trùng sốt rét ở trong máu. Từng giây từng phút đối mặt với cái chết. Cả tuổi trẻ của tôi là cuộc giành giật quyết liệt giữa cái sống và cái chết.
Vẫn nét mặt sầu muộn, Tom chậm rãi:
– Ác mộng Việt Nam của tôi không phải là ác mộng về cái chết. Thời gian tôi phải đối mặt với cái chết không tính bằng năm tháng như anh mà chỉ tính phút, tính giây. Những phút, giây máy bay của tôi lọt vào toạ độ lửa, những phút, giây thoáng qua. Qua rồi là thôi, không bao giờ cái chết còn ám ảnh tôi nữa. Nhưng suốt cuộc đời tôi phải đối mặt với lương tâm. Suốt cuộc đời lương tâm không buông tha tôi. Chỉ có sự đối mặt với lương tâm, phải mang vết thương trong lương tâm mới âm thầm, dai dẳng, khó lành, tưởng như không bao giờ lành lại.
Mạnh chỉ tay vào Tom rồi quay sang cô phiên dịch, hỏi:
– Ồ, chân dung của lương tâm đây hả cô? Lương tâm có hình hài to lớn, có gương mặt đạo mạo, phương phi, có mái tóc vàng, có đôi mắt xanh. Nhưng lương tâm còn có hình hài khác nữa đấy cô ạ. Lương tâm còn có hình hài bé nhỏ, tóc đen, mắt nâu.
Thấy cô phiên dịch bối rối tỏ ra không hiểu điều Mạnh nói, Mạnh giải thích:
– Người Mỹ tham chiến ở Việt Nam cách xa nước Mỹ cả một biển lớn Thái Bình Dương. Người Mỹ trút bom đạn xuống đất đai Việt Nam không phải đất đai Mỹ. Người chết vì bom đạn của họ cũng là người Việt Nam, không phải người Mỹ mà lương tâm họ còn day dứt không yên suốt cuộc đời. Còn cuộc chiến tranh của chúng ta vừa qua là cuộc chiến tranh người Việt giết người Việt, sao người Việt lại có thể vô tâm được, sao lương tâm người Việt lại bình thản được!
Đợi cô phiên dịch chuyển lời Mạnh sang ngôn ngữ của Tom. Cô phiên dịch dừng lời, Mạnh tiếp:
– Cô biết không? Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, chúng tôi đánh vào Sài Gòn, đô thị lớn nhất, trung tâm dân cư đông đúc nhất ở miền Nam và có lẽ cũng là nơi dân cư đông đúc nhất cả nước. Nhà trệt san sát. Nhà tầng chồng chất. Đường dọc ngõ ngang như mạng nhện. Chúng tôi dù vẫn trong đội hình trung đoàn, sư đoàn nhưng mỗi thắng lính như cá ở khe ở suối bỗng bị thác lũ cuốn ra biển cả và bị cá biển nuốt chửng, bị lính Việt Nam Cộng Hoà, những người lính cùng dòng máu Việt Nam đánh trả và hạ gục chúng tôi đến người cuối cùng. Người cuối cùng của đơn vị trước bị tiêu diệt lại có ngay đơn vị sau vào trận. Hết đợt này đến đợt khác, những loạt đạn lính người Việt quất vào lính người Việt từ trung tâm Sài Gòn di chuyển dần ra vùng ven kéo dài suốt từ tháng giêng đến tháng năm, năm 1968. Sau năm tháng trời ròng rã người Việt bắn người Việt, cả trung đoàn tôi còn lại hơn hai chục thằng lính sứt đầu, mẻ trán trên đường rút về căn cứ lại rơi vào ổ phục kích của quân Mỹ. Lúc đó chúng tôi mới phải đối mặt với lính Mỹ. Bị thương vùi dưới đống xác đồng đội, tôi là người duy nhất của trung đoàn may mắn sống sót trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 để rồi suốt đời tôi phải mang ấn tượng về những trận đọ súng giữa lính người Việt với lính người Việt trên đường phố Sài Gòn.
Cô phiên dịch bảo Mạnh:
– Anh Mạnh ơi. Ông Tom bảo anh đã đi qua cả chục năm chiến tranh khủng khiếp mà trông anh vẫn rất trẻ, như một thanh niên mới lớn, như một nông dân chưa một ngày rời đồng ruộng. Dù anh vẫn đang mặc đủ bộ đồ lính trên người nhưng nhìn anh không hề thấy bóng dáng người lính .
Mạnh bảo:
– Cô có nghe câu “nông dân mặc áo lính” thường được nhắc đến trong sách báo của ta không? Từ cuộc kháng chiến chống Pháp đến nay, người lính Việt Nam ngoài mặt trận đều có gốc gác và cả cốt cách nông dân. Hầu hết đàn ông và không ít đàn bà ở các làng quê đều có quãng đời là lính, đều có tinh thần chịu đựng gian khổ, chấp nhận hi sinh của người lính.
Mạnh dừng lời chờ cô phiên dịch chuyển lời của anh sang ngôn ngữ của Tom rồi Mạnh tiếp:
– Cô cho tôi nói tiếp về cuộc chiến tranh chúng tôi vừa trải qua. Là người lính cầm súng đối mặt với những làn đạn từ phía bên kia và từ cuộc đọ súng đẫm máu trong chiến dịch tết Mậu Thân, tôi không thể gọi cuộc chiến đó bằng tên nào khác ngoài tên cuộc nội chiến người Việt hăm hở, say mê, vui sướng xả súng bắn người Việt. Vì vậy tôi nhờ cô nói với ông Tom rằng: Đâu phải chỉ người lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam phải mang vết thương lương tâm. Cuộc chiến tranh người Việt bắn giết người Việt, người Việt mang cái chết đến từng gia đình người Việt đã làm cho dân tộc Việt Nam tan tác, chia rẽ, li tán, đã yếu kém lại càng yếu kém. Đó thực sự là vết thương lương tâm của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc chiến tranh Việt Nam làm cho vết thương lương tâm của người Mỹ nhức nhối một thì người Việt Nam phải nhức nhối gấp mười lần, gấp trăm lần. Ở phía Mỹ, vết thương lương tâm ở trong lòng nửa triệu người lính Mỹ đã tham chiến ở Việt Nam. Còn phía Việt Nam, vết thương lương tâm ở trong lòng cả dân tộc Việt Nam. Vết thương lương tâm của chúng tôi lớn hơn vết thương lương tâm của người Mỹ rất nhiều nhưng chúng tôi đã bị ru ngủ, bị đánh tráo cuộc nội chiến thành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đánh tráo nỗi đau lương tâm thành niềm tự hào của những người hùng làm cách mạng giải phóng dân tộc và phần đông người Việt Nam không nhận ra vết thương lương tâm của chính mình.
Dịch lời Mạnh cho Tom nghe rồi cô phiên dịch hỏi Mạnh:
– Sao anh lại bảo chúng ta không nhận ra vết thương lương tâm của mình?
Mạnh buồn bã nói:
– Thì đó. Hàng năm cứ đến ngày ba mươi tháng tư lại tưng bừng trống rong cờ mở, rầm rộ hội hè, rộn ràng lễ lạt, xúng xính huân chương, giăng đèn kết hoa mừng ngày đại thắng. Vui sướng như phát cuồng về những chiến dịch người Việt giết người Việt được coi là chiến thắng huy hoàng thì làm sao thấy được vết thương lương tâm của cả dân tộc Việt Nam. Làm sao thấy được vết thương đang rỉ máu trong từng gia đình Việt Nam. Ngày ba mươi tháng tư mấy triệu người Việt Nam phải bỏ lại tất cả, bị mất sạch sành sanh tất cả giá trị của cả đời người, tay trắng gạt nước mắt, tức tưởi bỏ nước ra đi, cù bất cù bơ trong các trại tị nạn ở Hồng Kông, ở Malaysia, ở Indonesia rồi tứ tán cùng trời cuối đất thì vui mừng nỗi gì!
Mạnh lặng đi rồi nói như trong cơn mê sảng, như độc thoại:
– Khởi đầu cuộc chiến, trước năm 1965, đâu có quân đội nước ngoài ở chiến trường Việt Nam. Chỉ có người Việt bắn giết người Việt. Chỉ có xác người Việt làm nên những chiến thắng tưng bừng trên báo chí. Sau hiệp định Paris 1973, đâu có còn quân đội nước ngoài ở Việt Nam. Vẫn là người Việt chiến thắng người Việt. Khởi đầu cuộc chiến là người Việt đánh lén người Việt. Kết thúc cuộc chiến vẫn là người Việt đánh vỗ mặt người Việt. Rõ ràng là nội chiến chứ đâu phải là chiến tranh giải phóng dân tộc. Chiến dịch được coi là đại thắng ba mươi tháng tư năm bảy mươi nhăm là người Việt từ miền Bắc tràn vào bắn giết người Việt miền Nam chứ đâu phải đánh đuổi quân đội nước ngoài. Chiến dịch được gọi là đại thắng mùa xuân năm 1975 là hình ảnh, là bằng chứng rõ nhất về cuộc nội chiến người Việt chiến thắng người Việt. Người Việt bắn giết người Việt, người Việt nổ súng vào từng căn nhà yên ấm của người Việt thì đại thắng nỗi gì! Vui mừng nỗi gì! Không nhận ra vết thương nhức nhối chia rẽ ly tán dân tộc mới vui mừng đến thế chứ. Không nhận ra viết thương lương tâm mới có người lính miền Bắc từ mặt trận cuộc nội chiến trở về đã kiêu hãnh xây trên mảnh đất của gia đình mình toà nhà lớn trưng bày những mô hình, những hình ảnh tái hiện cuộc chiến như một bảo tàng ngợi ca chiến tranh, bảo tàng ngạo nghễ về cuộc nội chiến tương tàn! Ngày ba mươi tháng tư năm 1975 Việt Nam thống nhất về địa lý nhưng dân tộc lại bị chia năm sẻ bảy, đau xót nhức nhối hơn cả thời chia cắt Bắc Nam! Mấy chục năm rồi, nỗi đau lương tâm không được nhận ra và nỗi đau lương tâm dân tộc vẫn còn đó. Mỗi dịp ba mươi tháng tư tưng bừng, tôi lại ngậm ngùi nhớ rằng ngay sau ba mươi tháng tư năm 1975 tôi tìm về nơi chính tay tôi đã chôn bạn tôi mà không tìm thấy bạn. Đứa bạn ấy chính là người lính trên bàn thờ kia, là con trai bà mẹ vợ tôi bây giờ, anh trai vợ tôi đấy cô ạ!
Cô phiên dịch dịu dàng:
– Vâng ạ. Từ trước đến giờ em chỉ thấy trên loa phát thanh sớm chiều, trên màn ảnh truyền hình mỗi tối, trên trang báo hàng ngày, trên khẩu hiệu rợp phố ngợi ca chiến thắng. Ngày nào cũng là ngày vui đại thắng. Ngày nào cũng tưng bừng Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng / Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng. Ngày ba mươi tháng tư thì cả nước như phát rồ, phát dại, như nhập đồng, như lên cơn điên. Suốt mấy chục năm rồi cứ đến ngày ba mươi tháng tư lại gào thét niềm vui đại thắng, lại nhập đồng chiến thắng huy hoàng. Lần đầu tiên em được nghe anh nói về nỗi đau ba mươi tháng tư, nỗi đau của lương tâm dân tộc Việt Nam. Chỉ có những người từng trải, đã thực sự sống chết cùng đất nước, đau nỗi đau chiến tranh cùng nhân dân như anh mới nhận ra điều này.
Mạnh lắc đầu:
– Không phải tôi đã nhận ra ngay cuộc chiến tranh mà tôi hăm hở lao vào là cuộc nội chiến Nam Bắc đâu. Nếu nhận ra, tôi đâu có được ý chí sôi sục chống Mỹ cứu nước, hăm hở vượt Trường Sơn đi vào nơi có giặc Mỹ xâm lược. Vào đến mặt trận suốt mười năm tôi chỉ đọ súng với người Việt mặc sắc phục lính miền Nam. Đến trận cuối cùng đánh vào nội đô Sài Gòn tết Mậu Thân 1968 thì những người Việt lính miền Nam càng kề cận gần hơn trước họng súng của tôi. Núp trong dãy nhà bên này phố, chúng tôi thấy lính miền Nam thoáng ẩn, thoáng hiện trong dãy phố bên kia đường, chỉ cách con đường vắng lặng không một bóng xe. Rồi xe tăng xuất hiện ở góc phố. Súng B40, B41 diệt tăng đều đã hết đạn. Mỗi khẩu súng AK của chúng tôi chỉ còn chưa đầy một băng đạn và mỗi thằng lính chỉ còn gói lương khô ăn dở. Cả trung đoàn tôi bị những người lính Việt phía bên kia đường quét những loạt đạn AR15, đạn M18, dập phóng lựu M79 tiêu diệt đến người lính cuối cùng của trung đoàn tôi. Chứng kiến những đồng đội bên cạnh tôi lần lượt đổ xuống, tôi cũng chứng kiến người lính miền Nam bên kia đường đổ gục trong loạt đạn bắn trả của chúng tôi. Đấy, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất là vậy đó! Mấy thằng lính thương vong chúng tôi trên đường dìu nhau về phía sau mới lọt vào ổ lính Mỹ phục kích. Lúc đó chúng tôi mới thực sự đối mặt với họng súng trong tay người lính Mỹ.
Với nỗi xúc động, cô phiên dịch như thì thầm với Mạnh:
– Anh Mạnh ơi. Ông Tom bảo nghe anh kể cuộc nội chiến Việt Nam, ông lại nhớ đến cuộc nội chiến ở nước Mỹ cách cuộc nội chiến Việt Nam đúng một thế kỷ. Cuộc nội chiến Nam Bắc nước Mỹ thế kỷ mười chín, người lính miền Bắc nước Mỹ cũng chiến thắng người lính miền Nam nước Mỹ. Chỉ khác là cái kết thúc cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ nhẹ nhàng, êm ấm như chưa hề có cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ. Người thắng hay người thua trận, người da trắng hay người da đen đều là người Mỹ, đều cùng một ý chí đưa nước Mỹ đi vào công nghiệp hoá làm lên sức mạnh Mỹ, làm nên kỷ nguyên Mỹ. Còn cuộc nội chiến Nam Bắc Việt Nam thế kỷ hai mươi, kết thúc chiến tranh hơn mười năm trên chiến trường lại mở ra cuộc chiến tranh lâu dài, chiến tranh nhận thức, chiến tranh tâm lý, chiến tranh tư tưởng, coi sự khác biệt tư tưởng nhất thời lớn hơn giá trị muôn đời là tình cảm dân tộc, tình cảm yêu nước. Chiến tranh tư tưởng khoét sâu thêm hận thù vốn đã nung nấu trong lòng con người Việt Nam từ cuộc chiến tranh trên chiến trường, gây ly tán sâu sắc dân tộc Việt Nam. Ông Tom hỏi anh sao lại có sự kỳ lạ vậy?
Nghe cô phiên dịch nhắc lại lời Tom nhưng Mạnh không trả lời câu hỏi của Tom vì anh vẫn trong mạch hồi tưởng:
– Nhận ra bóng dáng những người Việt mặc đồ lính quân đội miền Nam đang xả đạn tiêu diệt chúng tôi, tôi mới lờ mờ nhận ra bóng dáng thật của cuộc chiến người Việt giết người Việt. Cuộc chiến càng ác liệt, những cái chết của người Việt ở cả hai bên chiến tuyến càng chồng chất, càng thương tâm thì bóng dáng cuộc nội chiến càng hiện ra rõ nét, càng xác đáng, không thể chối cãi. Nếu tôi không phải là người lính ra trận, không phải hứng những loạt đạn từ những họng súng của người Việt mặc đồ lính miền Nam thì tôi không thể nhận ra bóng dáng đích thực của cuộc nội chiến, thì tôi mãi mãi hãnh diện, tự hào rằng máu chúng tôi đổ ra để viết lên trang sử vàng chói lọi chống Mỹ cứu nước. Cô có thấy thân phận chúng tôi tội nghiệp, cay đắng không? Bọn lính chúng tôi phải chịu hai lần cay đắng. Cay đắng là người lính, là công cụ trong cuộc nội chiến tương tàn. Cay đắng của kẻ u mê lầm lạc đánh mất lương tâm.
Chăm chú nghe cô phiên dịch chuyển ngữ lời Mạnh, Tom ngửa mặt, đưa hai tay lên cao, kêu lên. Cô phiên dịch lại chuyển tiếng kêu của ngôn ngữ xa lạ thành tiếng kêu của tiếng Việt:
– Ôi! Lạy Chúa! Một thế hệ cay đắng!
Mạnh nhìn Tom, bảo:
– Chúng ta chỉ là công cụ, chỉ là vật hy sinh thôi. Chỉ là thân phận công cụ, bé nhỏ, tội nghiệp, cay đắng, tôi không phải là người có thể trả lời câu hỏi của ông được. Người phải trả lời câu hỏi của ông Tom là người đẩy chúng tôi vào cuộc nội chiến tương tàn, người ở vị trí quốc gia nhưng không có được tầm nhìn, không có được ý chí, khát vọng của quốc gia mà vẫn chỉ có nỗi thèm khát vinh thân phì gia của con người cá nhân, chỉ có tầm nhìn, chỉ có ý chí của một đảng phái, một phe nhóm. Tôi chỉ có thể nói với ông Tom rằng: Nỗi đau lương tâm của ông Tom, của người Mỹ được giãi bày, được chia sẻ sẽ nhẹ đi rất nhiều, sẽ lành rất nhanh. Còn nỗi đau lương tâm của người Việt chúng tôi cứ bị che khuất dưới sự cao ngạo, bị lảng tránh vì sự nhỏ nhen, chật chội và thiển cận nên người Việt Nam chúng tôi còn bị chia rẽ, ly tán. Dân tộc còn bị chia rẽ, ly tán thì làm sao lớn lên được!
Nhìn vào đôi mắt xanh lương tâm, Mạnh nói:
– Thôi, đứng đây lý sự làm gì nhỉ. Vào nhà uống nước, anh Tom.
Không gọi Tom là ông nữa, Mạnh đã thân mật gọi Tom là anh. Tom theo Mạnh vào nhà nhưng đến hè thấy lão Hưỡu ngồi ở hè, Tom cũng ngồi bệt xuống hè lát gạch men sạch bóng. Mạnh cầm chiếc điếu cày ra ngồi cạnh lão Hưỡu. Lão Hưỡu hỏi cô phiên dịch đứng cạnh Tom:
– Hai thầy quyền, hai ông lính cũ này nói chuyện gì mà có vẻ căng thẳng vậy cô?
Cô phiên dịch nói:
– Mấy người lính cũ gặp nhau thì chỉ có chuyện bom đạn, sống chết chứ còn chuyện gì khác đâu ông. Cháu không thấy căng thẳng chỉ thấy hai người có sự đồng cảm và cùng có nỗi buồn. Một người buồn ít và một người buồn nhiều, ông ạ.
Lão Hưỡu hỏi:
– Ai buồn ít, ai buồn nhiều?
Cô phiên dịch:
– Ông cứ nhìn vào mặt hai người thì biết.
Lão Hưỡu nhìn Tom, bảo:
– Này anh Tôm anh Tép! Có chuyện gì vậy?
Tom quay sang lão Hưỡu, chìa bàn tay ra. Lão Hưỡu nắm chặt tay Tom. Tom nói:
– Lão Hưỡu! Tôi cảm ơn lão! Tôi cảm ơn những ngôi nhà mới, tôi cảm ơn màu xanh đã phủ kín đất đai Việt Nam. Màu xanh đó, những ngôi nhà tinh khôi đó đã xoa dịu đi phần nào nỗi day dứt trong lòng tôi. Tôi càng cảm ơn bàn tay lão Hưỡu đã đưa ra cho tôi được nắm chặt. Tôi càng cảm ơn ánh mắt độ lượng, bao dung dành cho tôi của bà mẹ có chồng chết, con chết trong chiến tranh. Cái bắt tay đó, ánh mắt đó đã thực sự mang lại sự bình yên trong lòng tôi, đã giải thoát cho tôi.
Lão Hưỡu chỉ Mạnh, mỉm cười hỏi:
– Anh cảm ơn cả màu xanh cỏ cây, cảm ơn cả ngôi nhà mà không cảm ơn ông lính từ mặt trận trở về dựng lên ngôi nhà đó à?
Tom lắc tay lão Hưỡu:
– Chúng tôi nói chuyện với nhau rồi. Bàn tay sáng tạo vĩ đại và tấm lòng bao dung, đó là Việt Nam. Tôi đã được nắm bàn tay sáng tạo vĩ đại. Tôi đã được giải thoát bởi tấm lòng bao dung Việt Nam. Tôi không ngờ chuyến đi Việt Nam lại mang đến cho tôi điều lớn lao như vậy. Như là chuyến đi của người Hồi giáo đến đất thánh Mekca vậy.
Đám khói thuốc lào tan loãng trước mặt Mạnh. Mạnh đặt điếu cày dựa vào bậc thềm, hỏi:
– Nhưng anh sang đây để tìm bạn anh kia mà?
Vẫn mạch suy tư khái quát, triết lí, Tom bảo:
– Vâng. Tôi đi tìm một người bạn, một đồng đội của tôi. Vết thương trong lòng tôi là những quả bom tôi đã trút xuống mảnh đất này. Còn những người lính Mỹ đi vào cuộc chiến tranh Việt Nam không trở về chính là vết thương của nước Mỹ. Tôi đến đây vì cả hai vết thương đó. Nhưng . . .
Ngập ngừng giây lát, Tom tiếp:
– Sang Việt Nam, tôi vội vã đến tất cả những nơi có máy bay của chúng tôi rơi đêm hai mươi sáu tháng mười hai năm đó và tôi đều thất vọng. Nhưng vừa đến cánh đồng Thường Xuân, nhìn thấy đôi thùng gánh nước của người nông dân làm từ xác máy bay của chúng tôi, tôi đã linh cảm thấy rằng tôi đã đến được nơi cần đến. Tôi đã đến được nơi bạn tôi đang chờ đợi. Không ngờ nơi tôi đến tìm bạn tôi lại là ngôi nhà khang trang đẹp đẽ do bàn tay người lính từ mặt trận trở về dựng lên. Nhìn ngôi nhà đẹp, tôi cũng vui mừng như đây là ngôi nhà của chính tôi, do tôi dựng lên. Ngôi nhà mọc trên tan hoang đổ nát của bom đạn đã mang lại cho tôi sự bình yên, đã làm dịu vết thương trong lòng tôi. Nhưng để tìm được bạn tôi, để làm dịu vết thương trong lòng tôi và làm dịu vết thương chiến tranh của nước Mỹ, lại phải phá thành quả của đôi bàn tay sáng tạo vĩ đại, phá cuộc sống yên ấm, ổn định của một gia đình đã phải nhận quá nhiều đau thương mất mát trong chiến tranh.
Những gương mặt lắng nghe cô phiên dịch nhắc lại lời Tom. Cô phiên dịch ngừng lời, mọi người vẫn im lặng. Gió lao xao trên tán cây mít cụt ngọn. Chợt tiếng lão Hưỡu vang lên:
– Kìa, anh Mạnh chủ nhà, lên tiếng đi chứ.
Mạnh chậm rãi:
– Chúng tôi nói chuyện với nhau rồi, hiểu nhau rồi, có gì phải nói thêm đâu. Tôi và mẹ tôi đã đi tìm người nhà tôi mất trong chiến tranh. Chúng tôi hiểu nỗi đau của sự mất mát đó. Làm được gì cho bà Mary, cho anh Tom tìm được người thân, cho bà Mary và anh Tom không phải nhận nỗi đau như mẹ con tôi, chúng tôi sẵn sàng làm.
Lão Hưỡu chuyện gì cũng biết lại sang sảng:
– Tôi được biết trong thời gian anh Tom tham gia cuộc chiến tranh Việt Nam, vợ anh đã bỏ anh đi lấy người khác. Vậy bây giờ anh đã có vợ chưa?
Tom ồ lên ngạc nhiên:
– Ồ, sao ông biết giỏi vậy. Cảm ơn ông đã quan tâm đến tôi. Đi vào cuộc chiến tranh Việt Nam, tôi không dành được trọn vẹn năm tháng và tình yêu cho gia đình, tôi đã mất người vợ trẻ. Đó cũng là một vết thương do cuộc chiến tranh Việt Nam để lại cho tôi. Rất may tôi phải mang vết thương đó không lâu. Tôi đã lấy vợ và có hai con lớn.
Lão Hưỡu phàn nàn:
– Cuộc chiến tranh chết tiệt vừa rồi cướp đi gần hết trai tráng làng tôi làm cho con gái làng tôi còn tồn kho nhiều lắm. Tưởng anh chưa có vợ, làng tôi sẽ gả con gái làng quê Việt Nam cho anh.
MƯỜI BẢY
Bà Đằm bổ cau têm trầu, đưa miếng trầu vào miệng nhai. Hình ảnh người đàn bà cổ điển Việt Nam hiển hiện ở bà Đằm được một nhà thơ phát hiện ra: Xin mẹ cứ nhai trầu / Cho buổi chiều yên tĩnh. Vị trầu cay làm làn môi bà Đằm hồng lên. Têm tiếp miếng trầu, để trầu cau vào cơi, hai tay nâng cơi trầu lên, bà Đằm nói:
– Người Việt Nam chúng tôi có câu: Miếng trầu là đầu câu chuyện. Đàn bà mời nhau miếng trầu như là đàn ông gặp nhau bắt tay bày tỏ sự thân thiện, bà ạ. Tôi ăn trước cho bà thấy cách ăn trầu. Xin mời bà ăn với tôi miếng trầu.
Bà Mary hai tay đón cơi trầu. Bà Đằm lại nói:
– Chưa quen, bà không ăn cũng được, bà cứ giữ miếng trầu, cất vào túi, túi cũng thơm mùi trầu.
Bà Mary bảo:
– Miếng trầu là đầu câu chuyện. Dù chưa quen tôi cũng ăn để được nói chuyện với bà và để biết vị trầu Việt Nam.
Bà Đằm đưa cho bà Mary cái ống nhổ:
– Miếng trầu với tôi như chiếc kẹo của trẻ con. Nghiện vị trầu nên tôi có thể nuốt nước trầu. Ăn không quen, bà nhổ nước trầu vào đây cho khỏi say.
Bà Mary nhai trầu. Vị trầu say nồng làm gương mặt bà Mary đỏ hồng lên. Một người đưa cho bà Mary chiếc gương nhỏ. Bà Đằm bảo:
– Ngày xưa, đàn bà nhà quê chúng tôi làm gì có phấn son. Muốn làm đẹp phải ăn miếng trầu cho da dẻ hồng hào lên như thoa son phấn. Đấy, bà nhìn gương mà xem, má bà, môi bà có hồng lên không.
Bà Mary cầm gương soi, vẻ ngạc nhiên và thích thú. Vịn vào vai bà Đằm, bà Mary nói:
– Tôi thấy người lâng lâng, ngây ngất như uống rượu nhưng lại thật nhẹ nhõm, dễ chịu.
Bà Đằm giải thích:
– Gia vị của món ăn thì ở đâu cũng quen dùng. Ở đâu cũng biết rằng thịt không hành như canh không muối. Hạt tiêu, quả ớt, củ hành, lá húng là gia vị của món ăn. Nhưng chắc ít nơi có gia vị của tình cảm như quả cau lá trầu là gia vị tình cảm của ông bà chúng tôi. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Quả cau, lá trầu còn là cây cầu tình cảm, là lời giao duyên của con trai con gái, là lễ vật không thể thiếu của hôn lễ. Các cụ nhà tôi dạy: Miếng trầu không nặng, hai tay nâng. Ở tôi, mời nhau miếng trầu khi đón khách như ở xứ khác người ta mở vòng tay ôm hôn nhau vậy. Ôm hôn nhau thì cảm nhận được sự nồng nàn của cái xiết chặt vòng tay. Ăn miếng trầu có sự nồng nàn, ấm áp từ trong mạch máu và say đắm, ngây ngất từ trong tim. Bà thấy lâng lâng dễ chịu là bà ăn được trầu đấy. Bà chỉ ăn miếng thứ hai là bà sẽ quen và sẽ thèm trầu thôi. Bà còn ở đây, tôi sẽ mời bà ăn miếng trầu thứ hai, thứ ba để bà cũng quen ăn trầu như tôi.
Bà Mary sôi nổi:
– Tôi muốn được thưởng thức hương vị hoa lá quả cây mát lành Việt Nam lắm. Tôi muốn nghiện vị trầu cay nồng như rượu của bà lắm. Nhưng về Mỹ, tôi không có trầu ăn lại thèm.
Bà Đằm nói:
– Khi nào bà về Mỹ, tôi sẽ biếu bà một dây trầu và một cây cau giống. Hai cây này dễ trồng lắm. Nhà bà có vườn không?
Bà Mary vui mừng:
– Ôi, trước nhà tôi đã có cây sồi nay lại có giàn trầu, cây cau Việt Nam. Hay quá. Bang California của tôi có thời tiết cũng gần giống như thời tiết Việt Nam. Khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nắng nhiều, độ ẩm cao, cây cối xanh tốt quanh năm. Tôi sẽ trồng cây trầu, cây cau gia vị tình cảm của bà trước nhà tôi như dàn trầu, cây cau trước cửa nhà bà kia.
Bà Đằm kéo bà Mary ra trước cửa:
– Chiếc máy bay lao xuống đầu nhà, nhà sập, cây mít trên mảnh vườn phía đầu nhà bị phạt cụt ngọn nhưng dàn trầu và ba cây cau trước nhà còn nguyên. Bà thấy hàng cau trước nhà có đẹp không?
Bà Mary ngắm nghía ngôi nhà, mảnh vườn, hàng cây:
– Tôi xin bà ba cây cau để tôi cũng có hàng cau trước nhà như hàng cau của bà.
Bà Đằm mỉm cười:
– Nếu bà mang được, tôi sẽ biếu bà ba mươi cây cau chứ không phải chỉ ba cây.
– Cảm ơn bà.
Bà Mary đi đến đầu nhà, hỏi bà Đằm:
– Chiếc máy bay rơi xuống chỗ nào hả bà?
Bà Đằm đến bên bà Mary, chỉ:
– Sau nhà tôi có chiếc ao nhỏ. Đầu máy bay cắm sâu xuống thềm nhà nhưng cánh nó đập nát vụn hoàn toàn hai gian đầu nhà phía Bắc. Ông nhà tôi bị vùi dưới bức tường sập còn đất nền nhà thì bị hất lên lấp đầy cái ao.
Bà Đằm lắc đầu buồn bã:
– Đã nói lảng sang chuyện khác để khỏi phải nhắc đến những đau khổ, mất mát của chiến tranh mà nào có được. Con ra mặt trận chết vì bom đạn. Chồng ở nhà cũng chết vì máy bay rơi, nhà sập. Đàn ông chết, nỗi đau chiến tranh trút hết lên mấy người đàn bà không phải đương đầu với bom đạn.
Bà Đằm chỉ khoảng nền nhà:
– Chỗ này chính là chỗ cánh máy bay lao xuống đây. Ngày đó, cả làng đến xẻ cánh và thân máy bay phơi trên mặt đất về làm thùng gánh nước. Rồi bộ đội đưa ô tô đến chở nốt những gì còn lấy được. Chỉ còn đầu và một bên cánh máy bay cắm sâu dưới đáy ao không lấy được thì vẫn còn đó. Tưởng rằng nó mãi mãi chôn vùi dưới đó. Không ngờ lại có ngày hôm nay, bà đến tìm con bà và ngôi nhà con tôi vừa xây xong lại phải phá đi. Ngôi nhà cũ của tôi là nhà cổ, năm gian, dài lắm. Hai gian nát vụn dưới cánh máy bay. Ba gian còn lại cũng sập theo luôn. Con tôi làm lại nhà, nó đã xây nhà lùi về phía sau chỗ ao đã bị lấp để mảnh sân rộng ra.
Bà Mary rì rầm:
– Mẹ con tôi mang món nợ ân tình với bà, mang món nợ với Việt Nam, không bao giờ tôi quên điều đó.
Chợt bà Đằm gọi giật bà Mary:
– Này bà! Có bao giờ bà gặp con bà không? Tôi vẫn thường gặp con tôi đấy. Dù gặp trong mơ thôi nhưng nhận ra đúng là con tôi, bà ạ. Từ sau ngày miền Nam nước tôi ngưng tiếng súng, hầu như đêm nào tôi cũng gặp con tôi. Ngày đó nó cứ nỉ non giục tôi: Mẹ ơi, mẹ cố đi tìm đón con về, mẹ nhé! Để con có gia đình, quê hương, không phải vất vưởng vô định nơi hoang lạnh mông lung. Tôi bảo nó: Con ở đâu, chỉ đường cặn kẽ cho mẹ, mẹ mới đón được con về với cha con, với ông bà, tổ tiên. Nó bảo con cũng không biết nơi con ở là chỗ nào. Chỉ thấy mênh mông sông nước giữa trập trùng rừng núi cô tịch hoang vu. Không có bản làng, không có bóng người, không có hơi ấm ngọn lửa, chỉ có tiếng sóng nước và tiếng gió hú âm u. Những lối mòn ngày trước lính vẫn rầm rập hành quân qua cũng đã bị cây rừng xóa dấu. Chỉ còn những tên núi, tên rừng do bọn lính chúng con gọi quen thành tên, rừng Cánh Bắc, rừng Cánh Nam, núi Hú Hồn, dốc Hết Hơi, trảng Chuồn Chuồn, suối Vô Định… Những tên gọi đó đều không có trên bản đồ và ngoài người trong đơn vị chúng con ra, không ai biết nên con không biết chỉ đường cho mẹ thế nào. Những nơi đó Mạnh đều rành nhưng con không còn ở chỗ Mạnh đưa con đến khi con rời cõi trần gian nữa. Dòng suối chảy qua trảng Chuồn Chuồn luôn đổi dòng theo mùa lũ và đến mùa lũ lớn hiếm có trong suốt nhiều năm, con đã bị dòng suối tràn bờ hung dữ cuốn đi. Vì thế Mạnh có đến chỗ cũ cũng không tìm thấy con. Phải đi mãi xa về phía hạ lưu. Cơn lũ hung dữ đã cuốn con đi từ dòng suối nhỏ ra dòng suối lớn, đến dòng sông hoang vu không một bóng thuyền. Con đang ở giữa dòng sông hoang vu đó. Nghe con tôi nói thế, tôi phải thốt kêu lên: Trời ơi! Thế thì làm sao mẹ tìm được con. Nó lại an ủi tôi: Thôi, mẹ chẳng tìm được con đâu. Con không về được đã có Mạnh về với mẹ. Mẹ cứ coi Mạnh như thằng Đằm của mẹ, như con đang ở bên mẹ.
Lặng đi một lúc lâu bà Đằm mới rì rầm:
– Khổ tâm nhất là tôi lại thấy con tôi trong đoàn người đủ màu da. Da vàng tóc đen. Da trắng tóc vàng. Da đen tóc xoăn. Toàn những trai tráng, trẻ trung, mặt hốc hác, tiều tụy, thất thểu kéo nhau đi vật vờ như những cái bóng. Ma đói đấy bà ạ. Họ là những người lính bỏ mình chốn trận mạc. Gia đình không biết họ chết ở đâu, thời gian nào, không tìm được phần xác, không đón được phần hồn của họ về quây quần với người thân trong ngày giỗ, ngày tết. Vì thế mà thành ma đói, mà thành cô hồn, lang thang, vất vưởng, vô định. Chưa đi đón được con về, để con đói khát, vật vờ, bơ vơ, tôi chẳng có lúc nào yên.
Bà Mary hỏi:
– Bà đã đi tìm con bà chưa?
Bà Đằm thẫn thờ:
– Hai mẹ con tôi đi. Tôi và đứa con rể, bạn của con trai tôi đưa tôi đến tận nơi nó chôn con trai tôi mà tôi không tìm thấy con. Đúng như con tôi đã báo mộng cho tôi biết, nó đã bị nước lũ cuốn ra sông dài biển rộng, không biết đâu mà tìm.