Schumann – Clara – Brahms, còn mãi một tình yêu

Trương Thị An Na

Trong những năm 70 của thế kỷ XX tôi đã học tại một trường cấp hai ở Mai Dịch, Từ Liêm, Hà Nội. Lớp học của tôi thời đó có đến hai phần ba là con em của các gia đình có bố hoặc mẹ hoặc cả hai đều làm văn công nên các bạn ấy được ở trong các khu tập thể riêng mà mọi người hay gọi là khu văn công trung ương và khu văn công quân đội. Thỉnh thoảng, chiều chiều khi có thời gian rảnh tôi thường sang chơi với các bạn ở những khu văn công ấy và trong số đó có một bạn mà bố mẹ rất thích nhạc cổ điển. Tôi thấy họ ngồi nghe say sưa bản nhạc được phát ra từ chiếc máy có tên gọi là Rigonda của Nga. Có hôm tôi còn nghe thấy cả nhà cùng bàn luận về một bản nhạc có tên là Mộng mơ (Rêverie). Lần đầu tiên biết đến âm nhạc cổ điển của tôi là như vậy và có lẽ cũng sau cái ngày đó, trong sâu thẳm lòng mình nỗi khát khao muốn hiểu, muốn biết, muốn nghe nhạc bắt đầu được nhen nhóm.

Năm tháng dần trôi, từ một cô bé chỉ được nghe một cách tình cờ những bản nhạc cổ điển, dần dần tôi đã trưởng thành, biết nghe, biết thưởng thức, biết trân trọng, biết hàm ơn, biết vui, buồn cùng những bản nhạc.

Và giờ đây, tôi không chỉ nhớ đến những ngày ấu thơ với cảm giác ngây ngô, thích thú khi lần đầu tiên trong cuộc đời được nghe, được chứng kiến niềm vui, sự hạnh phúc của bố mẹ bạn tôi khi họ được nghe bản Mộng mơ. Mà ngay khoảnh khắc này tôi còn muốn chia sẻ những gì mà tôi biết, tôi nghĩ và tôi yêu mến về Schumann, tác giả của bản Mộng mơ ngày ấy và cả hai con người đã cùng ông viết nên một bản tình ca tuyệt đẹp. Từ tận đáy lòng tôi luôn biết ơn cả ba người, Schumann, Clara và Brahms bởi họ đã mang đến cho tôi nhiều xúc cảm, nhiều đam mê, những khát vọng, những trở trăn thiện lương trước cuộc đời.

Trước hết là về Robert Schumann (1810-1856), ông là một nhạc sỹ thuộc trường phái lãng mạn và đồng thời cũng là nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng  của Đức vào thế kỉ XIX. Ông đã sáng tác Kinderszenen (Thời thơ ấu), Opus 15, năm 1838, để hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình. Tác phẩm này gồm 13 đoạn viết cho đàn piano, đoạn thứ 7, Träumerei (Reverie) có lẽ là đoạn hay nhất.

Với một chút hiểu biết nhỏ nhoi về âm nhạc, tôi có ấn tượng rất nhiều với Schumann bởi trước hết ông là “nhà âm nhạc có chất thi ca”. Ông sáng tác đến hơn 200 ca khúc, nên còn được gọi là “Shubert thứ 2” và những sáng tác của ông mang màu sắc thơ ca rất độc đáo. Vì yêu mến ông nên tôi đã cố gắng dịch một vài ca khúc của ông:

  1. Im wunderschönen Monat Mai

                (Vào tháng năm kỳ diệu)

Vào tháng năm kỳ diệu

Tất cả các chồi như bung ra

Trong lòng tôi

Tình yêu nảy nở

Vào tháng năm kỳ diệu

Tất cả những con chim như đều hát

Tôi thổ lộ với bạn gái tôi

Về sự thao thức, về những ước muốn

  1. Wenn ich in deine Augen seh

             (Khi anh nhìn vào mắt em)

Khi anh nhìn vào mắt em

Tất cả những nhọc nhằn khổ đau rời xa anh

Nhưng khi anh hôn lên đôi môi em

Thì anh cảm thấy chữa được hết mọi bệnh tật

Khi em ép vào anh trên quả tim của em

Anh cảm thấy như một niềm vui thần diệu

Và khi em nói với anh rằng em yêu anh!

Anh chỉ có thể khóc một cách đắng cay.

  1. Im Rhein, im schönen Strome

                (Sông Ranh, dòng sông đẹp đẽ này)

Sông Ranh, dòng sông đẹp đẽ này

Phản chiếu vào trong nước

Thành phố Cologne, thánh thiện và vĩ đại

Với cái mái vòm lớn gô tích

Trong mái vòm là một hình ảnh

Được vẽ trên tấm da vàng óng

Trong hoang vắng của cuộc đời tôi

Thời đó là một tia sáng

Những bông hoa và những thiên thần nhỏ

Làm vương miện cho Đức Bà

Những con ngươi, những bờ môi, những cái má xinh xinh

Là những thứ của con người mà tôi ngưỡng mộ.

Trong cuộc đời sáng tác của mình, Schumann đã để lại cho thời đại của ông và cho đến tận muôn đời sau một trong những bản Concerto lãng mạn và có thể nói là đẹp nhất cho piano như bản Concerto pour Piano en la mineur op.54 và bản concerto lớn nhất dành cho violoncelle có tên là Concerto pour Violoncelle en la mineur op.129. Tôi đã nghe đi nghe lại hai bản này trong suốt những năm tháng qua mà lần nào cũng háo hức, cũng đắm đuối như là nghe lần đầu tiên vậy. Bởi khi thả hồn mình vào âm nhạc của Schumann tôi như thấy mình đang được tận hưởng những gì mà ông đang gửi gắm vào các bản nhạc của mình, đó là sự trong sáng nhất, giản đơn nhất, bình dị nhất của thiên nhiên, của vạn vật, của cuộc đời.

Schumann không chỉ là nhạc sỹ mà ông còn là một nhà phê bình tận tâm và sắc sảo. Ông đã có những bài viết về Beethoven, về Shubert, Berlioz, Liszt, Chopin và Mandelssohn với những lời nhận xét khách quan, tinh tế và cũng tràn đầy tình yêu mến. Với những nghệ sỹ cùng thời ông luôn quan tâm và giúp đỡ những khi họ cần. Ông còn có những tiên đoán về tài năng, sự nghiệp của Johannes Brahms, của Chopin vô cùng chính xác. Chuyện kể lại rằng, vào ngày 30 tháng 9 năm 1853, có một cậu thanh niên tên là Brahms đến gõ cửa nhà Schumann và được yêu cầu ngồi trước cây đàn piano để chơi cho Schumann nghe bản Sonate mà cậu ta vừa mới sáng tác, sau khi nghe xong, ngay lập tức ông đã nói với vợ mình: chắc chắn người đó sẽ trở thành một thiên tài. Điều tiên đoán và dự cảm này đã đúng khi mà chỉ một thời gian sau Johannes Brahms đã trở thành một nhà soạn nhạc, một nghệ sĩ dương cầm và một chỉ huy dàn nhạc tài năng của Đức.

Vì thích nghe nhạc Schumann mà tôi đã tò mò không biết động lực nào, những điều gì đã giúp ông sáng tác được nhiều bản nhạc tuyệt vời như vậy? Sau này tôi đã tìm hiểu và biết được rằng, quả thật ngoài tài năng, sự nỗ lực không biết mệt mỏi của bản thân mình thì còn có một nguồn cảm hứng vô tận để giúp Schumann viết nên những bản nhạc bất hủ, đó chính là người bạn đời của ông, bà Clara Wieck Schumann (1819-1896).

Được biết lúc còn nhỏ Clara là một cô bé rất thông minh, được người ta gọi là thần đồng. Tên tuổi của bà đã vang khắp cả châu Âu qua những chuyến lưu diễn từ khi mới chỉ chín tuổi. Có lần khi chứng kiến buổi biểu diễn của bà ở Leipzig, Goethe (nhà thơnhà văn, tiểu thuyết gianhà viết kịchnhà khoa họchọa sĩ người Đức) đã có nhận xét rằng: “Cô gái này ẩn chứa sức mạnh phi phàm trong đôi tay hơn cả sáu cậu bé cộng lại”.

Càng tìm hiểu, tôi càng cảm mến, khâm phục vô cùng về tài năng cũng như nhân cách của bà, bà là một người phụ nữ thanh tao, lịch thiệp, nhẹ nhàng và kín đáo. Mendelssohn đã từng nói về bà: “Hoá ra ngoài giờ phút bên cây đàn, nữ nghệ sỹ trẻ lại là người hết sức e thẹn, nhút nhát và lặng lẽ”. Còn Franz Liszt, nhà soạn nhạc nổi tiếng người Hungary thì gọi Clara là “một người rất bình thường được nuôi dạy tốt, không đỏm dáng, hoàn toàn chìm đắm trong nghệ thuật và trong ý nghĩa cao quý nhất của âm nhạc”.

Với tôi, Clara là hình tượng, là tấm gương về sự dám đấu tranh, dám quyết liệt để bảo vệ tình yêu của mình. Thuở thiếu nữ, bà dường như bị cha mình định hướng để chỉ là một nữ nghệ sỹ piano biểu diễn nhạc của Beethoven, Shubert, Chopin với những buổi lưu diễn ở khắp châu Âu. Bố của bà vì sợ con gái sẽ bị mất đi sự nghiệp âm nhạc của mình nếu kết hôn với Schumann nên ông đã kịch liệt phản đối việc cô yêu Schumann. Nhưng một cô gái vừa e thẹn, vừa nhút nhát, vừa lặng lẽ, không đỏm dáng và được nuôi dạy rất tốt đó đã dám đứng lên đấu tranh vì tình yêu để được kết hôn với Schumann, người mà bà đã chọn và dành trọn tình yêu vào lúc chỉ mới 21 tuổi.

Tôi ngưỡng mộ Clara bởi ở trong bà có một sức mạnh vô biên của người phụ nữ cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Nhiều lần tôi cứ tự hỏi, không hiểu một người phụ nữ hiền lành, dịu dàng, nhút nhát như bà lấy đâu ra sức mạnh, nghị lực nhiều như thế để mặc dù đã trải qua mười lần sinh nở với tám đứa con, trải qua những nhọc nhằn vất vả, những đớn đau vô cùng tận vậy mà trong 14 năm sống với Schumann bà đã có được 139 buổi hoà nhạc làm đắm say, làm mê mẩn hàng triệu triệu con tim. Sau này khi Schumann mất đi, vượt qua tất cả mọi biến cố đau thương của cuộc đời, bà vẫn tiếp tục duy trì được sự nghiệp biểu diễn của mình. Trong suốt 60 năm hoạt động nghệ thuật, bà đã không bao giờ ngưng làm việc, ngưng cố gắng, đã phấn đấu không ngơi nghỉ để có được một con số khổng lồ là 1300 buổi biểu diễn phục vụ công chúng. Ngoài ra bà còn sáng tác được nhiều tác phẩm hay trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến là Piano Trio và Piano concerto. Không dừng lại ở đó, bà còn là một giảng viên lịch sử âm nhạc đầy đam mê, đầy tâm huyết và đầy trách nhiệm. Cuộc đời bà là minh chứng cho một tinh thần làm việc không ngơi nghỉ, một tình yêu vô bờ bến với âm nhạc, bởi cho đến khi không còn biểu diễn và không sáng tác nữa thì bà lại dành thời gian để tập hợp và xuất bản những sáng tác của chồng mình. Bà cứ thế âm thầm, lặng lẽ, tận tâm làm việc cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời mình.

Tôi yêu mến, tôi ngưỡng mộ bởi chính bà là nguồn cảm hứng cho những sáng tác của Schumann. Nhiều lúc tôi mạo muội nghĩ rằng nếu như không có Clara thì nhân loại hôm nay chưa hẳn đã được thưởng thức nhiều bản nhạc hay đến vậy của Schumann. Chính Schumann cũng đã từng nói rằng: “Những bức thư của em khiến anh muốn sáng tác, và anh cảm thấy dường như không thể ngưng lại mạch nguồn này”.

Người ta đã chứng minh “Đằng sau thành công của một người đàn ông luôn có bóng dáng của người phụ nữ”, câu nói này tuyệt đối đúng với cặp vợ chồng Schumann và Clara. Bà không những là “cánh tay phải đắc lực” của chồng mà đôi bàn tay của bà còn làm thay cho cả đôi bàn tay của chồng trong những năm tháng Schumann không thể chơi đàn được nữa. Trong khoảng thời gian này chính bà là người chơi những bản nhạc của ông còn ông thì lùi về sau để tập trung vào sáng tác. Kỳ diệu thay đây lại chính là thời kỳ rực rỡ nhất trong sáng tác của ông.

Tôi luôn dành sự cảm phục và ngưỡng mộ cho Clara bởi bà còn là người đàn bà của nghị lực phi thường. Trong những thời khắc đau đớn nhất của cuộc đời mình, khi phải lần lượt chứng kiến cái chết của chồng và lần lượt của bốn đứa con, nhiều người đã nghĩ rằng bà sẽ gục ngã và sẽ không thể nào vượt qua được nỗi đau thương đó. Nhưng trong sự khổ đau, sự hụt hẫng và nỗi tuyệt vọng tột cùng bà đã ngẩng cao đầu và vượt qua một cách đầy kiêu hãnh. Người ta yêu quý và khâm phục còn bởi sự thủy chung, tình yêu sắt son, vẹn tròn mà bà dành cho chồng mình. Chính bởi tình yêu son sắt với chồng mà bà đã cương quyết cự tuyệt Brahams, người đã luôn dành trọn tình yêu thương cho bà, lúc nào cũng mong muốn có một ngày sẽ dành được tình yêu của bà. 41 năm sau kể từ ngày Schumann mất đi bà vẫn luôn chọn cho mình bộ trang phục màu đen. Quả thật phải có một tình yêu sâu nặng đến mức nào, đặc biệt đến mức nào, thủy chung đến mức nào cùng với một nhân cách đẹp đẽ, thanh cao đến mức nào thì mới làm được như thế.

 Từ khi tìm hiểu và tin yêu, rồi dành trọn sự ngưỡng mộ cho Clara thì những câu chuyện đẹp đẽ, thảo thơm về cuộc đời của bà đã luôn tiếp thêm nguồn năng lượng để tôi đứng dậy và bước tiếp mỗi khi mệt mỏi, những lúc khó khăn, những khi bị mất phương hướng trong cuộc đời.

  Về Johannes Brahams, mặc dù không được bà Clara chọn để đồng hành cùng mình sau khi người chồng thân yêu của bà ra đi nhưng ông ngoài việc là một nhạc sỹ tài ba với những bản nhạc mà tiếng Pháp thường gọi là “Elle s’expose, elle s’impose” (Nó phơi bày, nó ngự trị) thì còn là một người đàn ông đàng hoàng, tử tế theo đúng nghĩa của từ đó. Tình yêu mà Brahams dành cho Clara là thứ tình yêu thuần khiết, là sự dâng hiến, không vụ lợi, không đòi hỏi, ông biết lúc nào thì Clara cần ông và sẽ luôn có mặt đúng lúc trong những thời điểm đó. Có lẽ thứ tình yêu thuần khiết đó đã giúp ông sáng tác nên những bản nhạc làm đắm say, thổn thức con tim người nghe nhạc, đó là các bản:

Trois Intermezzi pour piano, op.117

Sonate pour violoncelle et piano N°1, op 38

Concerto pour piano N°1 en ré mineur, op15

Sonate pour piano N°3 en fa mineur, op 5

Tình yêu ông dành cho bà Clara cứ âm thầm, cứ tận tụy như thế trong một khoảng thời gian rất dài. Đó là khi Schumann phải nằm trong bệnh viện hơn 2 năm trước khi qua đời, thì Brahms đã luôn giúp đỡ, động viên, an ủi bà, ông sẵn sàng trông nom bọn trẻ để cho Clara đi lưu diễn và thậm chí, dạy đàn để giúp Clara trang trải cuộc sống. Đến khi Schumann mất, Brahams đã có mặt để động viên Clara, giúp bà vực dậy sau mất mát, có lẽ vì vậy mà Clara mới tiếp tục vui sống và trở lại với những buổi biểu diễn. Rồi khi bốn đứa con của Clara lần lượt qua đời, không ai khác lại cũng chính là Brahams đã xuất hiện kịp thời để làm điểm tựa cho bà, cùng bà vượt qua nỗi đau không gì có thể sánh nổi.

Vào năm 1877, khi bàn tay phải của Clara bị đau và phải tạm nghỉ chơi đàn thì Brahms đã tự mình chuyển soạn khúc Chaconne từ Partita violon số 2 của J.S. Bach sang piano cho tay trái để Clara tiếp tục được chơi piano với bàn tay trái của bà. Rồi khi căn bệnh về khớp càng ngày càng nặng, các ngón tay của Clara mất đi sự khéo léo và lanh lẹ không còn khả năng để đánh được những nốt nhạc phức tạp nữa thì Brahms đã lại một lần nữa sáng tác riêng cho bà những tác phẩm đơn giản hơn và có tiết tấu chậm hơn để khuyến khích, động viên, cổ vũ bà cố gắng tiếp tục chơi đàn.

Ông cứ bình lặng, cứ âm thầm bên cạnh cuộc đời Clara như thế cho đến một ngày khi hay tin Clara mất, ông lao đến nghĩa địa trong niềm tiếc thương, đau đớn đến dại cuồng và thốt lên những lời xa xót : “Hôm nay tôi vừa chôn cất người phụ nữ mà tôi thực sự yêu”. Thật ngậm ngùi thay, chỉ 11 tháng sau ngày Clara từ giã thế giới, ông cũng chia tay với cuộc đời để ra đi mãi mãi.

Âm nhạc của họ đã đẹp mà cuộc tình của họ còn đẹp hơn. Đó là một cuộc tình thật trong sáng, thật lãng mạn và tràn ngập giá trị nhân văn của ba con người đầy tài năng và đức độ!

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.