Thư ngỏ về tình hình khẩn cấp của đất nước (cập nhật: 1030 người ký)

Kính gửi đồng bào Việt Nam ở trong nước và nước ngoài,

cùng toàn thể các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Từ đầu tháng 5 năm 2014, Trung Quốc huy động nhiều loại tàu, đặc biệt là tàu vũ trang, tàu quân sự và cả máy bay yểm trợ cho việc đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 tại vị trí ở sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, xâm hại tàu, thuyền của ngư dân và tàu công vụ của Việt Nam hoạt động ở vùng biển này. Đó là hành vi xâm lược bằng vũ lực, ngang nhiên vi phạm luật pháp và các cam kết quốc tế mà chính Trung Quốc đã ký kết, đánh dấu một bước leo thang mới rất nguy hiểm của thế lực bành trướng Trung Quốc trong mưu đồ lấn chiếm Biển Đông, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, uy hiếp chủ quyền của một số nước khác tiếp giáp Biển Đông và đe dọa trực tiếp hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải trong khu vực. Hành động này, cùng với thái độ ngoan cố, xuyên tạc sự thật trước sự phản đối của dư luận quốc tế, đã phơi trần dã tâm bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc, phản bội quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt-Trung. 

Tình thế hiểm nghèo khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm đòi hỏi phải phân tích, dự báo diễn biến và có đối sách chủ động ứng phó. Trách nhiệm này được đặt ra trước hết cho cơ quan lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), đảng đang cầm quyền. Mấy ngày sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của ĐCSVN đã họp trong 7 ngày (từ 8/5 đến 14/5 năm 2014) song không đáp ứng yêu cầu nêu trên. Phát biểu khai mạc và bế mạc của Tổng Bí thư Đảng CSVN cũng như thông báo của Hội nghị khi kết thúc đều không lên án, phân tích và đề ra đối sách chống lại mưu đồ và hành động xâm lược mới của thế lực bành trướng Trung Quốc. Như vậy, khi đất nước đối mặt với nguy cơ lớn, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN, trước hết là Tổng Bí thư và Bộ Chính trị đã buông lơi trách nhiệm của mình đối với nước, với dân.

Trước dã tâm của nhà cầm quyền Trung Quốc, nhân dân muốn bày tỏ ý chí chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhưng các cuộc biểu tình ôn hòa trong mấy năm qua đều bị nhà cầm quyền trấn áp. Sau “vụ giàn khoan,” các cuộc biểu tình yêu nước của dân vẫn không được chính quyền ủng hộ, mà còn dùng nhiều hình thức ngăn trở, phá đám nên không đạt quy mô và hiệu quả thể hiện đúng sự phẫn nộ và đoàn kết của 90 triệu dân Việt trước kẻ xâm lăng. Nghiêm trọng hơn nữa là sự mất cảnh giác và tình trạng đột ngột tê liệt đến khó hiểu của nhà cầm quyền và các lực lượng an ninh để cho những phần tử xấu chen vào các cuộc biểu tình kích động bạo động phá hoại ở một số nơi, gây thiệt hại cho một số doanh nghiệp nước ngoài, cho nền kinh tế và cho uy tín quốc gia. Dư luận chưa được biết chính xác ai đứng sau những vụ kích động có chủ đích này, song thấy rõ một điều là nhà cầm quyền Trung Quốc đã lập tức thổi phồng những cuộc bạo động này để làm mờ hành vi xâm lược ở Biển Đông và bôi xấu hình ảnh Việt Nam. Các cấp chính quyền nước ta trong khi trợ giúp các doanh nghiệp bị thiệt hại, trấn an các nhà đầu tư nước ngoài, lại lấy các sự cố đó làm cớ để ngăn chặn nhân dân tiếp tục biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược.

Tình thế hiểm nghèo của đất nước hiện nay vừa thách thức nghiêm trọng, vừa tạo cơ hội lớn cho dân tộc ta chấn hưng đất nước theo con đường dân tộc và dân chủ, trước hết là giải tỏa nhận thức mơ hồ về thế lực bành trướng Trung Quốc, thấy rõ sự xâm nhập, lũng đoạn bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và thâm độc của thế lực này trên nhiều mặt mà nước ta phải phấn đấu để thoát khỏi sự phụ thuộc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa bình, hữu nghị trên cơ sở tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.

Dư luận xã hội ghi nhận và ủng hộ những quan điểm và hành động tích cực trong thời gian gần đây của không ít người có trách nhiệm trong bộ máy cầm quyền ở các ngành, các cấp trước mưu đồ bành trướng của Trung Quốc. Trong những biểu hiện đó, nổi lên lời phát biểu của Thủ tướng tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN họp ngày 11-5, tại hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới khu vực Đông Á ngày 22-5, đặc biệt là lời khẳng định “Việt Nam nhất định không chịu đánh đổi chủ quyền thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”, thể hiện đúng ý chí của nhân dân ta.

Tình hình hiện nay đòi hỏi và tạo cơ sở cho các cán bộ, đảng viên trung thành với tâm nguyện vì dân vì nước cùng với nhân dân vạch rõ và đấu tranh không khoan nhượng chống lại những quan điểm và thái độ nhu nhược đối với kẻ xâm lược, dùng bạo lực, lừa mị đối với dân, lo mất chức quyền hơn mất nước của một số người lãnh đạo ở cơ quan Trung Ương và các cấp, đặc biệt là những kẻ có quan hệ mờ ám với nhà cầm quyền Trung Quốc. Những nhân tố tích cực trong giới cầm quyền cần thoát khỏi sự khống chế và kìm hãm lâu nay, gắn bó mật thiết với dân để cùng nhân dân thúc đẩy cải cách chính trị, chuyển đổi thể chế từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa, gắn với cải cách kinh tế, văn hóa, giáo dục, đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc hiện nay, mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc. Chỉ có như vậy chúng ta mới tập hợp, đoàn kết được toàn dân tộc và thu hút được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ để có đủ sức mạnh bảo vệ và phát triển đất nước.

Không một thủ đoạn lừa bịp, hăm dọa hay bạo lực nào từ bên ngoài có thể khuất phục được ý chí bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta!

Không một sự lừa mị, một hành động trấn áp nào có thể lung lạc được tinh thần yêu nước của nhân dân!

Chúng tôi tin tưởng rằng cuộc đấu tranh nêu trên của những đảng viên vì nước vì dân của Đảng CSVN sẽ được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, góp sức. Mọi người Việt Nam hãy đồng lòng kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia bằng nhiều hình thức thể hiện rõ tính chính nghĩa và nhân văn, hết sức cảnh giác trước những thủ đoạn kích động của thế lực bành trướng Trung Quốc và tay sai, hết lòng cổ vũ, hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ biển đảo và ngư dân bám biển, đồng thời góp phần tích cực thúc đẩy cải cách chính trị, xây dựng nền dân chủ và pháp trị thực sự, đổi mới và phát triển kinh tế, văn hóa để bảo vệ chủ quyền, đưa đất nước thoát khỏi lệ thuộc và tụt hậu. 

Chúng tôi mong nhận được sự đồng tình, hưởng ứng của đồng bào ở trong và ngoài nước cùng với nhiều đảng viên ĐCSVN, thể hiện trước hết bằng việc ký thư ngỏ này và vận động nhiều người khác tham gia.

Để ký tên, xin ghi rõ: (1) họ tên; (2) nghề nghiệp; (3) địa chỉ cư trú (mức thành phố, tỉnh); (4) nước nơi đang cư trú; và gửi về địa chỉ thungovn2014@gmail.com

Những người ký tên đầu tiên

1.    Phạm Xuân Yêm, nguyên Giám đốc Nghiên cứu Khoa học (CNRS), Đại học Pierre et Marie Curie, Paris, Pháp

2.    Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử, Huế

3.    Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế

4.    Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, Hà Nội

5.    J.B Nguyễn Hữu Vinh, kỹ sư, blogger, nhà báo tự do, Hà Nội

6.    Dương Tường, nhà thơ – dịch giả, Hà Nội

7.    Hoàng Minh Tường, nhà văn, Hà Nội

8.    Trần Thị Tươi, làm biên tập website, TP HCM

9.    Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, Hà Nội

10.    Nguyễn Đức Tùng, M.D., Canada

11.    Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội

12.    Tô Văn Trường, TS, chuyên gia tài nguyên nước và môi trường, TP HCM

13.    Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội

14.    Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM

15.    Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên về văn hóa, TP HCM

16.    Phạm Toàn, nhà giáo nghỉ hưu, Hà Nội

17.    Nguyễn Minh Tịnh, Australia

18.    Phan Văn Thuận, Giám đốc công ty TNHH Phú An Định, TP HCM

19.    Nguyễn Thị Thu, cán bộ nghỉ hưu, TP HCM

20.    Đào Tiến Thi, ThS, nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu ngôn ngữ, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội

21.    Lê Thân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên cán bộ phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ Thành phố Đà Lạt, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM

22.    JM. Lê Quốc Thăng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM

23.    Trần Minh Thảo, viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng

24.    Trần Quang Thành, nhà báo, Slovakia

25.    Antôn Lê Ngọc Thanh, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM

26.    Thân Hải Thanh, nguyên Tổng Giám đốc Benthanhtourist, TP HCM

27.    Trần Thị Băng Thanh, nghiên cứu văn học cổ Việt Nam, Hà Nội

28.    Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM

29.    Trần Công Thạch, nhà giáo nghỉ hưu, Sài Gòn

30.    Nguyễn Hữu Tế, TP HCM

31.    Bùi Ngọc Tấn, nhà văn, Hải Phòng

32.    Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội

33.    Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp

34.    Tô Lê Sơn, kỹ sư cơ khí, TP HCM

35.     André Menras Hồ Cương Quyết, cựu tù chính trị chế độ cũ, Cộng hòa Pháp

36.    Bùi Minh Quốc, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Lang Bian, Đà Lạt

37.    Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội

38.    Đặng Bích Phượng, đã nghỉ hưu, Hà Nội

39.    Hiền Phương, nhà văn, TP HCM

40.    Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên thành viên IDS, Hội An

41.    Hà Sĩ Phu, TS, nhà văn tự do, Đà Lạt

42.    Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế

43.    Nguyễn Văn Nhượng, kỹ sư, Thụy Sĩ

44.    Hồ Ngọc Nhuận, nguyên Chủ bút nhật báo Tin Sáng Sài Gòn, TP HCM

45.    Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ công đoàn hưu trí, Đà Lạt

46.    Nguyễn Thái Nguyên, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội

47.    Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội

48.    Nguyễn Đình Nguyên, TS, Australia

49.    Hạ Đình Nguyên, hưu trí, TP HCM

50.    Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An – Hà Nội

51.    Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM

52.    Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM

53.    Trần Tố Nga, nhà giáo về hưu, Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp, hiện sống ở Paris

54.    La Thi Nga, sinh viên, CHLB Đức

55.    Ngô Minh, nhà thơ, Huế

56.    Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Hà Nội

57.    GBt. Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM

58.    Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TP HCM

59.    Lê Thăng Long, kỹ sư, TP HCM

60.    Mai Thái Lĩnh, nhà giáo nghỉ hưu, nhà nghiên cứu độc lập, Đà Lạt, Lâm Đồng

61.    Hồ Uy Liêm, PGS TS, nguyên quyền Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội

62.    Cao Lập, hưu trí, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới – Saigontourist

63.    Võ Thị Lan, cán bộ hưu trí (Công an TP- HCM), TP HCM 

64.    Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội

65.    Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP HCM

66.    Trần Minh Khôi, kỹ sư điện toán, Đức

67.    Vũ Trọng Khải, chuyên gia độc lập về phát triển nông thôn, TP HCM

68.    Hoàng Hưng, nhà thơ, nhà báo tự do, TP HCM

69.    Hà Thúc Huy, PGS TS, giảng dạy đại học, TP HCM

70.    Nguyễn Thế Hùng, GS TS ngành Thủy lợi, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, TP Đà Nẵng

71.    Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục giáo phận Vinh

72.    Tô Hòa, nguyên Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM

73.    Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Huế

74.    Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy, TP HCM

75.    Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội

76.    Phạm Duy Hiển, kĩ sư, đã nghỉ hưu, Bà Rịa – Vũng Tàu

77.    Vũ Sinh Hiên, nhà nghiên cứu, TP HCM

78.    Nguyễn Công Hê, TP HCM

79.    Nguyễn Thị Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp

80.    Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội

81.    Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội

82.    Nguyễn Gia Hảo, chuyên gia tư vấn (Kinh tế đối ngoại) độc lập, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ (Võ Văn Kiệt), trọng tài viên Trung tâm Trọng tài (Thương mại) Quốc tế Việt nam (VIAC), Hà Nội

83.    Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà Nội

84.    Nguyễn Tất Hanh, họa sĩ, nhà thơ, hội viên Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng

85.    Phạm Bá Hải, Ths Kinh tế, Sài Gòn

86.    Đặng Hạ, lão thành cách mạng, đã nghỉ hưu, Hà Nội

87.    Lê Minh Hà, nhà văn, Đức

88.    Lê Công Giàu, nguyên Tổng Thư ký Tổng hội Sinh viên Sài Gòn 1966, nguyên Giám đốc Trung Tâm xúc tiến thương mại đầu tư, TP HCM

89.    Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo về hưu, Pháp

90.    Nguyễn Hoàng Giao, nghiên cứu sinh tại Đại học Macquarie, Australia

91.    Trần Tiến Đức, nhà báo, đạo diễn truyền hình, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục – Truyền thông Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, Hà Nội

92.    Lê Mạnh Đức, hưu trí, TP HCM

93.    Huy Đức, nhà báo độc lập, TP HCM

94.    Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí đã nghỉ hưu, TP HCM

95.    Phạm Ngọc Đăng, GS TSKH, Nhà giáo Nhân dân, Hà Nội

96.    Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM

97.    Nguyễn Đức Dương, nghiên cứu tiếng Việt, cán bộ nghỉ hưu, TP HCM

98.    Lê Đăng Doanh, TS Kinh tế, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ Tướng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội

99.    Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư Khai thác Vận tải biển, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội Biển TP HCM, TP HCM

100.Hoàng Dũng, PGS TS, Đại học Sư phạm TP HCM, TP HCM

101.Nguyễn Xuân Diện, TS Ngữ văn, Hà Nội

102.Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM

103.Phạm Công Cường, TS Hóa học, nguyên giảng viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, cán bộ Viện Nghiên cứu Năng lượng Nguyên tử Quốc gia, Hà Nội

104.Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt

105.Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, TP HCM

106.Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, TP HCM

107.Nguyễn Kim Chung, giáo viên dạy toán đã về hưu, TP HCM

108.Nguyễn Phương Chi, biên tập viên chính, nguyên Phó phòng Tạp chí Nghiên cứu văn học, Viện Văn học, Hà Nội

109.Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội

110.Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, Sài Gòn

111.Nguyễn Văn Binh, nguyên dân biểu Quốc hội Sài Gòn, TP HCM

112.Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà giáo, nhà văn, Hoa Kỳ

113.Trần Ngọc Báu, nghỉ hưu, Thuỵ Sĩ

114. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức, TP HCM

115. Nguyễn Quang A, TS, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội

Đợt 2:

116. Phạm Tư Thanh Thiện, nhà báo, nguyên Phó ban Việt ngữ đài RFI, Pháp

117. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu văn học, Hà Nội

118. Nguyễn Tường Thụy, viết báo tự do, Hà Nội

119. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội

120.Nguyễn Lộc, giảng dạy Đại học, TP HCM

121.Ý Nhi (Hoàng Thị Ý Nhi), làm thơ, TP HCM

122.Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ Nha khoa, TP HCM

123.Nguyễn Quang Thân, nhà văn, TP HCM

124.Dạ Ngân, nhà văn, TP HCM

125.Bùi Minh Quỳnh, kỹ sư cầu đường, Nghệ An

126.Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo, nhà văn, Huế

127.Nguyễn Huy Văn, kỹ sư điện, TP HCM

128.Vũ Thị Bích, hưu trí, Pháp

129.Nguyễn Viết Lầu, giảng viên hưu trí, Hà Nội

130.Đỗ Xuân Thọ, TS Cơ học ứng dụng, Hà Nội

131.Le Van Minh, CH Czech

132.Nguyễn Minh Đào, cán bộ hưu trí 57 tuổi Đảng, tỉnh An Giang

133.Bùi Thị Thiện Căn, nhà giáo hưu trí, Hà Nội

134.Trần Khắc Trí, nghề tự do, Lâm Đồng

135.Nguyễn Văn Thanh, cử nhân kinh tế, TP HCM

136.Bùi Đức Hiệp, nhân viên vận tải, TP HCM

137.Nguyễn Trí, cử nhân kinh tế, TP HCM

138.Võ Thanh Hà, giáo viên về hưu, Hà Nội

139.Huu Loi Ngo nhà phản biện tự do, Huế

140.Phan Cự Cường, kỹ sư ô tô, Hà Nội

141.Nguyễn Phương Nam, cán bộ nghỉ hưu, Bà Rịa – Vũng Tàu

142.Nguyễn Cao Phong, Hà Nội

143.Nguyễn Đăng Hưng, TSKH, Giáo sư Danh dự Thực thụ, Đại học Liège, Bỉ

144.Đỗ Thành Long, giáo viên, TP HCM

145.Nguyễn Văn Túc, cựu quân nhân tình nguyện chiến trường Campuchia, Thái Bình

146.Doãn Quốc Khoa, TS, kiến trúc sư, giảng viên đại học, Hà Nội 

147.Nguyễn Văn Phú, nghiên cứu và giảng dạy CNRS, Pháp

148.Phạm Thế Phương, kỹ sư, Hải Phòng.

149.Hoàng Quý Thân, PGS TS ngành hệ thống điện, Hà Nội

150.Nguyễn Quang, kỹ sư, CH Czech

151.Lê Phú Khải, nguyên phóng viên thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại miền Nam, TP HCM

152.Đoàn Viết Hiệp, kỹ sư điện toán, Pháp

153.Trần Việt Thắng, ThS khoa học, Hà Nội

154.Hồ Trọng Để, kỹ sư cơ khí, TP HCM

155.Tran Van Minh, nghỉ hưu, Đà Nẵng

156.Lê Văn Ngọ, kỹ sư đã nghỉ hưu, Nha trang

157.Lê Hoàng Lan, TS, cán bộ về hưu, Hà Nội

158.Le Xuan Dieu, kinh doanh, TP HCM

159.Bùi Phan Thiên Giang, kỹ sư Tin học, TP HCM

160.Hồ Văn Thân, nghề nghiệp tự do, TP HCM

161.Tran Van Thuan, CNC Programmierer, CHLB Đức

162.Nguyễn Quang Cương, nhân viên bán hàng kỹ thuật, Hà Nội 

163.Nguyễn Đức Quyết, kỹ sư xây dựng, CHLB Đức

164.Đoàn Kim Dung, giáo viên hưu trí, Hà Nội

165.Lê Văn Oánh, kỹ sư xây dựng, Hà Nội

166.Le Xuan Vinh, nông dân, TP HCM

167.Đinh Việt Bình, nguyên giảng viên trường Đại học Ngoại Ngữ – Đại học Quốc gia, Hà Nội

168.Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, TP HCM

169.Nguyễn Đình Quyền, kiến trúc/ xây dựng, TP HCM

170.Phan Hữu Nam, CH Czech

171.Huyen Stefan, California State Employee, Hoa Kỳ

172.Hoàng Thế Đức, kỹ sư, Hà Nội

173.John Pham, học sinh, Hoa Kỳ

174.Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia công nghệ thông tin, Pháp

175.Nguyen Van Hai, kỹ sư, doanh nhân, Cambodia

176.Nguyễn Vũ, kỹ sư, hành nghề tự do, TP HCM

177.Đặng Văn Lập, kiến trúc sư, Hà Nội

178.Nguyễn Thiện Nhân, kế toán, Bình Dương

179.Nguyen Phu Vinh, kỹ sư, TP HCM

180.Ngô Minh Danh, giáo viên, Đồng Nai

181.Đặng Trần Hùng, bác sĩ, Hà Nội

182.Nguyễn Ngọc Thạnh, dược sĩ, Canada

183.Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng

184.Hoàng Ngọc Trường, kỹ sư hàng hải, thuyền trưởng, Hà Nội 

185.Trần Văn Bang, kỹ sư, cựu binh chống Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc, TP HCM

186.Nguyễn Văn Lý, cử nhân, lao động tự do, Hà Tĩnh

187.Tống Hoàng Nhân, công nhân, Huế.

188.Phạm Tuấn Trung, kỹ sư tin, Australia

189.Vũ Tuấn, GS TS, Đại học Sư phạm Hà Nội, đã nghỉ hưu, Hà Nội

190.Ngô Đức Minh, dạy học, TP HCM

191.Ngọc Dung Lê, nguyên Tổng Biên tập báo Vietnameuropa, nhà báo quốc tế IFJ, CH Czech

192.Nguyễn Quốc Ân, dược sĩ đại học, Hà Nội

193.Tran Thi Quy, giáo viên, nghỉ hưu, CHLB Đức

194.Vinh Nguyễn, công nhân, Hoa Kỳ

195.Pet. Xuân Nguyễn, Công nghệ thông tin, TP HCM

196.Giuse Nguyễn Công Bắc, linh mục giáo phận Vinh, Nghệ An

197.Phạm Văn Lễ, kỹ sư cầu đường, TP HCM

198.Hoàng Anh Vũ, chuyên gia công nghệ ngân hàng, Indonesia

199.Khuất Thu Hồng, nghiên cứu khoa học xã hội, Hà Nội

200.Thu San Nguyễn Thế Hùng, TS Vật lý, Viện Vật lý, Hà Nội

201.Tuyet A Jethwa, cử nhân kinh tế, Nhật Bản

202.Nguyễn Thế Việt, TS Ngữ văn, CHLB Đức

203.Vũ Quang Chính, nhà luận phê bình phim, Hà Nội

204.Trần Thị Hường, kỹ sư kinh tế điện (về hưu), Hà Nội

205.Phạm Trọng Chánh, TS, nhà nghiên cứu, Pháp

206.Pham Tuan Anh, kinh doanh, Praha, CH Czech

207.Lê Toàn, nhà giáo hưu trí, Đà Nẵng

208.Nguyen Thanh Chính, Hoa Kỳ 

209.Nguyễn Ngọc Duyên, TS, Australia

210.Nguyễn Hữu Phùng, bác sĩ hưu trí, Đà Nẵng

211.Trần Ngọc Tuấn, nhà báo, CH Czech

212.Chu Văn Tiên, kỹ sư, CHLB Đức

213.Phạm Minh Hoàng, cựu giảng viên Đại học Bách khoa TP HCM, TP HCM.

214.Chu Quốc Khánh, kỹ sư điện tử, cử nhân kinh tế, Hà Nội

215.Phạm Hồng Hà, cán bộ hưu trí, Nghệ An

216.Nguyễn Thanh Nga, MBA, Hà Nội

217.Nguyễn Ngọc Bảo, kỹ sư, trách nhiệm an ninh thông tin, Pháp

218.Phạm Duy Hiển, hưu trí, Gia Lai

219.Lê Văn Chinh, kỹ sư xây dựng, Đà Nẵng 

220.Trần Thị Thúy Lan, nhân viên trợ lý dự án, Hà Nội

221.Nguyễn Đăng Lập, kỹ sư, Bà Rịa – Vũng Tàu

222.Nguyễn Văn Vinh, hưu trí, Hà Nội

223.Nguyễn Văn Thạnh, kỹ sư, Đà Nẵng

224.Phạm Cường, đạo diễn, CHLB Đức

225.Nguyễn Đào Trường, cán bộ hưu, Hải Dương

226.Trần Rạng, nhà giáo, TP HCM

227.Nguyễn Hoàng Thanh Liêm, An Giang

228.Cao Nghĩa, kỹ sư cơ khí, Đà Nẵng

229.Lê Tiên Hoàn, nghỉ hưu, Hà Nội

230.Lê Xuân Đôn, Chủ tịch Tổng hội Sinh viên học sinh Việt Nam Liên bang Australia, Australia

231.Nguyễn Tuấn Anh, kinh doanh tự do, Hà Nội

232.Phan Tinh, kỹ sư, Anh

233.Trần Văn Tùng, lao động tự do, Tuyên Quang

234.Nguyễn Hữu Thao, cựu quân nhân F289, Bộ Tư lệnh Công binh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bulgaria

235.Đỗ Thành Nhân, quản lý doanh nghiệp, Quảng Ngãi

236.Nguyễn Minh Sang, làm ruộng, Bắc Giang

237.Quý Hải, nhà tư vấn & đào tạo, TP HCM

238.Phan Đình Hùng, kỹ sư vỏ tàu thuỷ, đăng kiểm (đã nghỉ hưu), Australia

239.Trần Ngọc Hùng, y sĩ, Bình Dương

240.Nguyễn Thị Thanh Tâm, nhà đầu tư, Hà Nội

241.Trịnh Hồng Kỳ, nhân viên xuất nhật khẩu, TP HCM 

242.Vũ Tuấn, TS phần mềm và điện tử, CHLB Đức

243.Đào Văn Bính, kỹ sư xây dựng, Hà Nội

244.Trần Hữu Lực, kỹ sư điện tử, TP HCM

245.Trần Tư Bình, giáo chức, chủ nhiệm web chữ Việt nhanh, Sydney, Australia

246.Lê Quang Thanh, TP HCM

247.Đào Đình Bình, kỹ sư hưu trí, Hà Nội

248.Huỳnh Thị Ngọc Tuyết, hưu trí, TP HCM

249.Nguyễn Minh Hiền, nguyên Tổng biên tập báo Doanh Nhân Sài Gòn, TP HCM

250.Trần Hữu Khánh, hưu trí, TP HCM

251.Phạm Văn Đỉnh, TS KH, Pháp

252.Nguyễn Khánh Hưng, kiểm toán viên, Hoa Kỳ

253.Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Thụy Sĩ

254.Lý Đăng Thạnh, người chép Sử, TP HCM

255.Phạm Thanh Lâm, kỹ sư điện tử, Đan Mạch

256.Lê Manh Tiên, kinh doanh, Lào

257.Vũ Ngọc Thăng, dịch giả, Canada

258.Việt Linh, đạo diễn, TP HCM 

259.Phạm Văn Thành, Pháp

260.Đoan Trang, nhà báo, Hoa Kỳ

261.Đặng Kim Toàn, tư doanh, Hoa kỳ

262.Nguyễn Cường, kinh doanh, CH Czech

263.Trần Văn Tấn, kỹ sư, CHLB Ðức

264.Phan Thanh Bình, Hoa Kỳ

265.Lê Công Định, tù nhân tư tưởng, bị quản chế, TP HCM

266.Nguyễn Hồng Quân, kỹ sư xây dựng, TP HCM

267.Trần Viết Tôn, bác sĩ, CHLB Đức

268.Trần Thị Thanh Tâm, nghỉ hưu, Ba Lan

269.Phạm Toàn Thắng, kinh doanh, CH Czech

270.Trần Thị Quyên, giáo viên, TP HCM

271.Nguyễn Ngọc Đức, kỹ sư tin học, Pháp

272.Nguyễn Trung Thành, kỹ sư Giao thông Vận tải, Phú Thọ

273.Đặng Lợi Minh, giáo viên hưu trí, Hải Phòng

274.Ngô Đức Thọ, PGS TS, nhà nghiên cứu di sản Hán Nôm, Hà Nội

275.Le Luc, họa sĩ, Canada

276.Nguyễn Quốc Quân, TS Toán, Hoa Kỳ

277.Nguyễn Minh Mẫn, kỹ sư, Canada

278.Nguyễn Thị Nguyệt Nga, Canada

279.Nghiêm Ngọc Trai, kỹ sư xây dựng đã nghỉ hưu, Hà Nội

280.Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư điện tử, CHLB Đức

281.Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ y khoa, Pháp

282.Nguyễn Quế Hương, kiến trúc sư, Hoa Kỳ

283.Hà Minh Hiển, TS Hoá học, Ba Lan

284.Võ Tiến Khai, kỹ sư Cơ khí, Biên Hòa

285.Trương Long Điền, công chức hưu trí, An Giang

286.Trần Định Quốc Khai Nguyên, FAA Honeywell Aerospace, Hoa Kỳ

287.Hoàng Dương Tuấn, giáo sư đại học công nghệ Sydney (University of Technology, Sydney), Australia

288.Nguyễn Hữu Sâm, cựu Giáo sư Trung học đệ nhị cấp, hồi hưu, Australia

289.Tien Loc Nguyen, nhà văn, Canada

290.Thi Canh Nguyen, công nhân, Canada

291.Thu Hai Irich, giáo viên, Canada

292.Nguyễn Công Nghĩa, TS bác sĩ, nghiên cứu viên đại học Waterloo, Canada

293.Trần Quang Ngọc, TS, nghiên cứu khoa học, Hoa Kỳ

294.Nguyễn Sỹ Phương, Dr, CHLB Đức

295.Nguyễn Thanh Lam, nghiên cứu khoa học, Viện Công nghệ California, Hoa Kỳ

296.Hanson Ngo, kỹ sư, Australia

297.Trần Quốc Hải, TS Địa chất, Hà Nội

298.Nguyễn Thanh Sơn, viết văn thơ (bút danh: Trầm Hương Thơ), CHLB Đức

299.Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục Lâm Đồng, Lâm Đồng

300.Phan Dương, kỹ sư, TP HCM

301.Phạm Đỗ Chí, TS Kinh tế, chuyên gia độc lập, Hoa Kỳ

302.Nguyễn Ngọc Thạch, hưu trí, TP HCM

303.Phan Thành Khương, nhà giáo, Ninh Thuận

304.Nguyen Diep, Hoa Kỳ

305.Phạm Anh Tuấn, kỹ sư, Australia

306.Pham Dang Lam, kỹ sư, Australia

307.Nguyễn Văn Dũng, TS Vật lý, nguyên là cán bộ của Viện Khoa học Việt Nam, Hoa Kỳ

308.Nguyễn Văn Mạnh, cử nhân, TP HCM

309.Nguyễn Văn Bôn, kỹ sư, nguyên Đại uý Viện Kỹ thuật Quân sự, Hà Nội

310.Phạm Như Hiển, dạy học, Thái Bình

311.Nguyen Minh Dang, kỹ sư, TP HCM

312.Nguyễn Văn Nghiêm, thợ hớt tóc, Hòa Bình 

313.Trần Quốc Hùng, cựu giáo viên, TP HCM

314.Nguyễn Xuân Liên, giám đốc bảo tàng, Quảng Bình

315.Giáng Vân, nhà thơ, nhà báo, Hà Nội

316.Nguyễn Văn Nghiêm, nhà giáo nghỉ hưu, Hà Nội

317.Nguyễn Việt Anh, cựu sinh viên Học viện Hành chính Quốc gia; sinh viên Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội

318.Tran Hung Thinh, hưu trí, Hà Nội

319.Nguyễn Thị Kim Thoa, bác sĩ, TP HCM

320.Nguyễn Hồng Khoái, chuyên viên tư vấn Tài chính, Hà Nội

321.Hà Văn Thùy, nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, TP HCM

322.Chu Sơn, nhà văn, TP HCM

323.Huỳnh Thị Ngọc Diệp, giảng viên Đại học Nông Lâm Huế, Huế

324.Tạ Cao Nguyên, giáo viên Trung học Phổ thông, Lạng Sơn

325.Bùi Ngọc Mai, cử nhân Khoa học, TP HCM

326.Nguyễn Nhật Hoan, Hoa Kỳ

327.Hà Văn Chiến, cựu chiến binh, Hà Nội

328.Đào Minh Châu, tư vấn về chính sách công và hành chính công, Hà Nội

329.Ho Van Thuy, kỹ sư hưu trí, Canada

330.Nguyễn Thành Duy, kỹ sư xây dựng, Hà Nội

331.Nguyễn Đức Việt, IT Contractor, Australia

332.Đào Thanh Thủy, hưu trí, Hà Nội

333.Nguyễn Thiện Tống, PGS TS, giảng viên hưu trí, TP HCM

334.Vũ Quốc Ngữ, nhà báo, Hà Nội

335.Nguyễn Đức Toàn, thạc sĩ kỹ thuật, TP HCM

336.Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội

337.Trương Chí Tâm, cử nhân y khoa, TP HCM

338.Nguyễn Hữu Toàn, kỹ sư (nghỉ hưu), Hà Nội

339.Nguyen Huu Loc, công nhân, TP HCM

340.Nguyễn Thế Thanh, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao Du lịch TP HCM, nguyên Tổng Biên tập báo Phụ Nữ TP HCM, TP HCM

341.Nguyen Manh Cuong, kiến trúc sư, Hoa Kỳ

342.Âu Dương Toàn, kỹ sư thủy lợi thủy điện, Huế 

343.Nguyễn Quốc Hùng, kỹ sư, doanh nhân ngoài quốc doanh, Hà Nội

344.Hung Huynh, nghỉ hưu, Hoa Kỳ

345.Nguyễn Dũng, kỹ sư, TP HCM

346.Đinh Thị Quỳnh Như, TS giảng viên ĐH, hưu trí,TP HCM 

347.Tô Xuân Thành Vinh, doanh nhân, Nghệ An

348.Đỗ Hữu Hải, kỹ sư điện, Hà Nội

349.Nguyễn Hữu Dư, Long An

350.Hoàng Ngọc Cầm, TS KH, Hà Nội

351.Đào Thế Long, TS, giảng viên đại học, TP HCM

352.Cao Thế Đoàn, sinh viên, Hà Nội

353.Nguyễn Hữu Tuyến, kỹ sư hưu trí, TP HCM

354.Phùng Chí Kiên, designer, Hà Nội

355.Đỗ Quý, thạc sĩ, Australia

356.Phạm Văn Thọ (luật gia – nhà báo Minh Thọ), TP HCM

357.Nguyen Me Linh, TS, đảng viên, Huy hiệu 50 năm tuổi đảng, TP HCM

358.Huỳnh Văn Quốc Ấn, giáo viên, Huế

359.Vũ Hồng Phong, kỹ sư, TP HCM

360.Phạm Quang Tuấn, PGS, Đại học New South Wales, Australia

361.Dương Sanh, nhà giáo, Khánh Hòa

362.Phan Trần Minh, kinh doanh, TP HCM

363.Vũ Thu Hương, TS Địa vật lý, Hà Nội

364.Nguyễn Xuân Quy, nghề nghiệp tự do, Tiền Giang

365.Phạm Văn Minh, làm ruộng, Hà Nội

366.Trần Bình Nam, bình luận gia, nguyên sĩ quan Hải quân VNCH, cựu Dân Biểu Quốc hội VNCH, Hoa Kỳ

367.Lê Doãn Thảo, Ths Vật lý Hạt nhân, hưu trí, Hà Nội

368.Tạ Huy Tuyến, kỹ sư, Hà Nội

369.Nguyen Van Hoang, nghiên cứu, Nhật Bản

370.Nguyễn Thu Nguyệt, nhà giáo về hưu, TP HCM

371.Lý Thường, công nhân, Australia

372.Hoàng Trọng Luận, kỹ sư Điện tử Viễn thông, TP HCM

373.Nguyễn Huy Canh, giáo viên, đảng viên, Hải Phòng

374.Trần Quốc Tuấn, kinh doanh, Hà Nội

375.Phạm Ngọc Thái, nhà thơ, Hà Nội

376.Phùng Hoài Ngọc, ThS, nguyên Trưởng bộ môn Ngữ văn Đại học An Giang, An Giang

377.Ngô Minh Hải, chuyên viên phân tích đầu tư, TP HCM

378.Trần Tuấn, nghề ngiệp tự do, Nha Trang

379.Nguyễn Thị Ngọc Giao, Hoa Kỳ

380.Nguyễn Việt Thu, hưu trí, TP HCM 

381.Đinh Hoàng Thắng, TS, Thành viên “Chương trình Minh triết Nghiên cứu Biển Đông”, Hà Nội

382.Phạm Văn Lộc, nhân viên kế toán, TP HCM

383.Huỳnh Hải Nam, kế toán, TP HCM

384.Trần Văn Thọ, GS, Đại học Waseda, Nhật Bản

385.Nguyen The Phuong, TS, phát triển software, Canada

386.Nguyễn Văn Viên, kinh doanh, Hà Nội

387.Nguyễn Ngọc Nại, Hà Nội

388.Hoàng Anh Tuấn, TS KH, Singapore

389.Bùi Kim Yến, Hà Nội

390.Thanh Tran, nurse, Australia

391.Phan Văn Hiến, PGS TS, Hà Nội

392.Nguyễn Quang Luân, thợ ảnh, Gia Lai

393.Trịnh Ngọc Phương, giáo viên, Phú Thọ

394.Nguyễn Văn Hớn, kỹ sư, nghỉ hưu, Hà Nội

395.Nguyễn Thượng Long, dạy học và viết báo, Hà Nội

396.Nguyễn Văn Ngọc, từng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Thụy Điển

397.Trần Văn Thành, linh mục, Quảng Bình

398.Trần Hữu Hạnh, nguyên Giám đốc Đài Australia, Australia

399.Trần Đình Nam, nguyên Trưởng ban biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội

400.Phạm Quang Long, linh mục giáo phận Vinh, Nghệ An

401.Dương Tùng, chăn nuôi, Bình Dương

402.Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, viết báo, dịch thuật, CHLB Đức

403.Nguyễn Hòa, cao học hành chánh Sài Gòn, đã hưu, Hoa Kỳ

404.Hoàng Xuân Ý, kỹ sư, Nghệ An

405.Trần Thái Ái Thiên Ân, TP HCM

406.Cao Tuấn Huy, Đồng Nai

407.Võ Văn Điểm, nhà báo, Hoa Kỳ

408.Phạm Khiêm Ích, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội

409.Ngô Đình Thẩm, đồ họa máy tính, TP HCM

410.Lê Mạnh Năm, nghiên cứu viên, Hà Nội

411.Hoàng Ngọc Giao, LS TS, Hà Nội

412.Nguyễn Văn Quang, kỹ sư xây dựng, nghỉ hưu, Bạc Liêu

413.Nguyễn Quang Ngọc, kỹ sư, Hà Nội

414.Trần Quốc Hưng, công nhân, Đồng Nai

415.Lê Tuấn, kỹ sư xây dựng, Hà Nội

416.Đỗ Văn Hoàn, tu nghiệp sinh, Nhật Bản

417.Lê Hiền Đức, công dân chống tham nhũng, Hà Nội

418.Vũ Quang Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp Hội Nails & Thẩm Mỹ Người Việt / Trưởng Phòng Ngoại Vụ Hiệp Hội Nails & Thẩm Mỹ Người Việt (Vietnamese Nails & Beauty Association USA), Hoa Kỳ

419.Khổng Hy Thiêm, kỹ sư Điện, Khánh Hòa

420.Nguyễn Anh Vân, luật sư, Hà Nội

421.Lê Quôc Thai, kỹ sư tin học, Phap

422.Trương Bá Thụy, dược sĩ, TP HCM

423.Phan Thi Lien, kỹ sư cơ khí, Australia

424.Nguyễn Minh Tiến, giáo viên, Phú Thọ.

425.Quách Đăng Triều, GS TSKH, thuộc Viện Hoá học Việt Nam, Hà Nội

426.Diep Kim Lan, engineer, Hoa Kỳ

427.Nguyễn Việt, nghỉ hưu, Hà Nội

428.Vũ Duy Hoàn, kỹ sư, Hà Nội

429.Trịnh Tuấn Dũng, kỹ sư, Hà Nội

430.Trần Khuê, nhà nghiên cứu văn hoá, TP HCM

431.Tô Oanh, giáo viên nghỉ hưu, Bắc Giang

432.Trần Trung Chính, nhà báo, Hà Nội

433.Tran Thien Nien, TP HCM

434.Nguyen Thi Xuan Hoa, giáo viên đã về hưu có 60 năm tuổi đảng, TP HCM

435.Đào Thị Ngọc Trâm, giáo viên đã về hưu, TP HCM

436.Nguyen Thi Lan, công nhân, CHLB Đức

437.Phạm Tấn Hà, chuyên gia Tài nguyên nước, Buôn Ma Thuột

438.Phạm Văn Mầu, cán bộ hưu trí, Hà Nội

439.Phan Xuân Ngọc, nguyên Phó Hiệu trưởng Đại học Hàng hải, Nha Trang

440.Đỗ Đình Tuân, giáo viên nghỉ hưu, Hải Dương 

441.Nguyên Văn Nghĩa, kỹ sư, Nga

442.Nguyễn Anh Tuấn, nhân viên văn phòng, TP HCM

443.Tuấn Khanh (tên đầy đủ Nguyễn Tuấn Khanh), nhạc sĩ, TP HCM

444.Nguyễn Lưu, Hà Lan

445.Lê Thanh Tùng, phóng viên tự do, TP HCM

446.Thu Nguyen, nhân viên bảo vệ, Hoa Kỳ

447.Võ Công Bằng, kỹ sư xây dựng, TP HCM

448.Nguyễn Hữu Cầu, nhà giáo nghỉ hưu, Canada

449.Nguyen Thi Thu Thuy, nhân viên tư vấn tâm lý học đường, TP HCM

450.Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM

451.Chu Văn Hòa, cử nhân, CHLB Đức

452.Đặng Vũ Chương, Nga

453.Thúy Ngoan, designer, Hà Nội

454.Lê Nguyên Hải, kỹ sư tin học, Hoa Kỳ

455.Lê Văn Điền, TS Toán học, Ba Lan

456.Hồ Vĩnh Trực, kỹ thuật viên vi tính, TP HCM

457.Nguyen Minh Nhut, mục sư, Hoa Kỳ

458.Bui Quang Trung, kỹ sư xây dựng, Pháp

459.Lương Nguyễn Trãi, giáo viên Trung học Phổ thông, TP HCM

460.Trần Hồng Nhung, PGS TS Vật lý, cán bộ hưu trí, Hà Nội

461.Nguyễn Mạnh Hùng (Nam Dao), TS Kinh tế, nguyên GS Đại học Laval, Canada

462.Phạm Văn Đảng, lái xe, Bà Rịa – Vũng Tàu

463.Truong Vinh Phuc, cựu chiến binh, hưu trí, Hà Nội

464.Nguyễn Hồng Phi, họa sĩ, Thái Lan

465.Phạm Ngọc Luật, nhà báo, nguyên Phó Giám đốc Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội

466.Nguyễn San, ứng viên TS Vật lý Hải dương, Hoa Kỳ

467.Võ Quang Tu, hưu trí, Canada

468.Hồ Sĩ Phú, ThS, kỹ sư, TP HCM

469.Khương Việt Hà, ThS, nghiên cứu văn học, Hà Nội

470.Tran Kim Nhung, hưu trí, TP HCM

471.Trương Lợi, kỹ sư, TP HCM

472.Mai An Nguyễn Anh Tuấn, nhà làm phim độc lập, nhà báo tự do, Hà Nội

473.Lê Mạnh Hùng, kỹ sư Điện, CHLB Đức

474.Hoàng Đình Tú, kỹ sư, TP HCM

475.Thọ Lê, nhà giáo nghỉ hưu, Australia

476.Nguyễn Út Việt, sinh viên trường Đại học Luật TP HCM, Ninh Thuận

477.Trần Công Tâm, TS, nguyên cán bộ khoa học, Nga

478.Phan Hùng, bộ đội nghỉ hưu, Hà Nội

479.Phi Chu, thợ máy, Hoa Kỳ

480.Võ Nam Việt, Nga

481.Tuan Tran, kỹ thuật gia hàng không, Hoa Kỳ

482.Đoàn Thị Kim Dung, giáo viên, hưu trí, Hà Nội

483.Nghiêm Sĩ Cường, kinh doanh, Hà Nội

484.Nguyễn Thế Tuyển, bác sĩ, Bắc Giang

485.Tạ Quang Trung, luật sư tòa Thượng Thẩm, nguyên hội viên Hội đồng Luật sư luật sư đoàn tòa Thượng thẩm Sài Gòn, Hoa Kỳ

486.Pham Thuc, công nhân, Na Uy

487.Le Dinh Hong, kế toán, Canada

488.Le Thi Nhan, nội trợ, Canada

489.Nguyễn Đình Hòa, đầu tư địa ốc, Hoa Kỳ

490.Trần Trung Sơn, giảng viên trường Sĩ quan không quân, Khánh Hòa

491.Thích Nguyên Hùng, tu sĩ, Pháp

492.Nguyễn Văn Thạch, sinh viên Đại học Kinh tế, TP HCM

Đợt 3:

493.Hà Dương Tường, nguyên giáo sư Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp

494.Nguyễn Anh Tuấn, cán bộ giảng dạy và nghiên cứu, Hà Nội

495.Nguyễn Ánh Tuyết, chuyên viên viễn thông, Hà Nội

496.Nguyễn Ngọc Trinh, kỹ sư Điện toán, CHLB Đức

497.Philip Maria Lê Văn Vui, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, Giáo phận Đà Nẵng

498.Nguyễn Bích Thuỷ, nghiên cứu sinh nghệ thuật, Thuỵ Điển

499.Thien Pham, sửa chữa điện tử, Hoa Kỳ

500.Trí Quang Trần, công nhân điện tử, CHLB Đức

501.Nguyễn Quyền, công nhân, CHLB Đức

502.Phó Văn Ngọc, công chức, Canada

503.Trần Văn Biển, kỹ sư Hóa Lý, Hà Nội

504.Hoàng Xuân Họa, nông dân, Hà Nội

505.Nguyễn Thế Hồng, kỹ sư, Ý

506.Quan Vinh, chuyên viên tin học, Ý

507.Trịnh V Trung, công chức Bộ Xã Hội, VNCH trước 75, cựu tù nhân cải tạo sau 75, Hoa Kỳ

508.Nguyen Anh Nhon, cơ khí, Hà Lan

509.Uông Đắc Đạo, cử nhân Luật Sài Gòn, hưu trí, Hoa Kỳ

510.Hoàng Văn Khẩn, tiến sĩ Sinh hoá học, Thuỵ Sĩ

511.Đồng Quang Vinh, cán bộ hưu trí, Khánh Hòa

512.Nguyễn Xuân Hoài, nguyên là bộ đội, cán bộ hưu trí, TP HCM

513.Đặng Hùng Võ, GS TSKH, nhà khoa học, Hà Nội

514.Nguyễn Phước Hi, hưu trí, CHLB Đức

515.Đinh Văn Độ, doanh nhân, Ba Lan

516.Ngụy Hữu Tâm, dịch giả, tác giả sách, nguyên cán bộ Viện Vật lý, Hà Nội

517.Phạm Đôn Văn, kỹ sư, Hoa kỳ

518.Dinh Ta Pham, hưu trí, Australia

519.Thi Hue Nguyen, hưu trí, Australia

520.Lương Thành, kỹ sư ngành Điện, Hoa Kỳ

521.Trương Đại Nghĩa, cựu tù nhân cải tạo, Hoa Kỳ

522.Nguyễn Trọng Hoàng, TS Vật lý, CHLB Đức

523.Lê Ngọc Vân, giảng viên, TP HCM

524.Nguyễn Văn Công, bác sĩ, Bình Dương

525.Lương Ngọc Châu, kỹ sư Điện toán, hưu trí, CHLB Đức

526.Nguyễn Thanh Tuyên, bác sĩ, hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng, Hải Phòng

527.Lê Văn Tâm, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản, Nhật Bản

528.Bui Thien Thuan, chuyên viên bảo trì trường học, Hoa Kỳ

529.Nguyen V Oanh, Hoa Kỳ

530.Trịnh Hùng, ThS Kinh tế, Australia

531.Vū Thị Kim Thanh, chuyên viên thuế vụ, Australia

532.Nguyễn Đức Phổ, nông dân, Lâm Đồng

533.Hồng Kế Nghi,tài xế, Đồng Nai

534.Nguyễn Thu Hoài, cử nhân ngoại ngữ, Yên Bái

535.Nguyễn Thanh Nam, TS, kỹ sư, Hoa Kỳ

536.Tô Đình Đài, hưu trí, Hoa Kỳ

537.Võ V Phú, kỹ sư, Hoa Kỳ

538.Son Pham, Hoa Kỳ

539.Nhuận Lê, kỹ sư, Hoa Kỳ

540.Duong Dac Loi, kinh doanh, CH Czech

541.Huu Nguyen, công nhân, Australia

542.Trần Cao Tác, kỹ sư xây dựng, Gia Lai

543.Mai Van Ngoc, giảng viên ĐHSP, TP HCM

544.Nguyễn Duy Hải, giáo viên Lịch sử, Long An

545.Đặng Đình Khởi, lập trình viên, TP HCM

546.Hà Quốc Chính, cựu chiến binh Campuchia, TP HCM

547.Đặng Thế Hòa, nghề nghiệp công nhân, TP HCM

548.Trần Vũ Hải, luât sư, Hà Nội

549.Le Quang, hoolywood/video, Hoa Kỳ

550.Nguyễn Hoàng Thanh Sang, cử nhân khoa học, TP HCM

551.Đinh Quốc Phong, công nhân kỹ thuật điện, TP HCM

552.Nguyen Thanh Nga, bác sĩ, Bà Rịa – Vũng Tàu

553.Nhat Vo, machinist, Canada

554.Nguyễn Trung Lĩnh, kỹ sư cơ khí chế tạo máy, Hà Nội

555.Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội

556.Nguyễn Kim Thái, quản lý doanh nghiệp tư nhân, Vũng Tàu

557.Nguyễn Đức, nhạc sĩ, Đắk Lắk

558.Pham Van Tho, kỹ thuật viên tin học, Pháp

559.Nguyễn Đăng Bình, kiến trúc sư, Đà Nẵng

560.Nguyen Thanh Nam, nông dân, TP HCM

561.Vũ Đình Khản, cán bộ hưu trí, Hải Dương

562.Lê Hải, nhà nhiếp ảnh, nhà báo, Đà Nẵng

563.Nguyễn Văn Thinh, nhà báo nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Phương Mai, Bình Định

564.Trần Văn Anh Tuấn, điện tử, Bà Rịa – Vũng Tàu

565.Lê Hữu Minh Tuấn, nghiên cứu Lịch sử, TP HCM

566.Phạm Thanh Lam, nhà giáo hưu trí, Bình Định

567.Nguyễn Tiến Trung, kỹ sư máy tính, TP HCM

568.Bùi Khôi Hùng, kỹ sư đã nghỉ hưu, Hà Nội

569.Nguyễn Quang Vinh, kỹ sư, Bộ Quốc phòng, Hà Nội

570.Ngô Thúc Lanh, GS Nhà giáo Nhân dân, nhà giáo nghỉ hưu, Hà Nội

571.Nguyễn Kỳ Nam, nghiên cứu viên, TS, Trung tâm Tính toán hiệu năng cao, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

572.Đoàn Phú An, kinh doanh vàng, TP HCM

573.Elizabeth Ho, teacher, Australia

574.Nguyễn Quốc Bình, kỹ sư xây dựng, TP HCM

575.Nghiêm Hữu Hạnh, PGS TS, nghiên cứu viên, Hà Nội

576.J.B Nguyễn Bửu Khánh, linh mục, giáo phận Xuân Lộc, Đồng Nai

577.Huỳnh Nhật Hải, hưu trí, Lâm Đồng

578.Huỳnh Nhật Tấn, hưu trí, Lâm Đồng

579.Nguyễn Thạch Cương, TS Nông nghiệp, nguyên chủ tịch HĐQT, giám đốc công ty cổ phần giống cây trồng Hà Tây, đảng viên, bí thư đảng ủy công ty cổ phần giống cây trồng Hà Tây, Hà Nội

580.Nguyễn Hai, kỹ sư, Bình Thuận

581.Kim Tinh, cán bộ hưu trí, Tiền Giang

582.Trần Quốc Phú, thương nhân, TP HCM

583.Ngô Hoàng Quốc Tuấn, bác sĩ, TP HCM

584.Tran Thuy, dược sĩ,TPHCM

585.Cao Bảo Châu, viên chức, Hoa Kỳ

586.Trương Minh Quang, kỹ sư, Hoa Kỳ

587.Pham Minh Duc, kỹ sư, Hà Nội

588.Trương Tâm Đạt, kinh doanh, Australia

589.Phan Trọng Khang, thương binh 2/4, Hà Nội

590.Nguyễn Văn Băng, kỹ sư, Hà Nội

591.Nguyễn Thanh Thuấn, kinh doanh và sản xuất cà phê nguyên chất, Cần Thơ

592.Ngô Quang Thanh, nghề nghiệp tự do, TP HCM

593.Nguyễn Hữu Phước, công nhân, Hà Lan

594.Trương Thị Tường Anh, nội trợ, Hà Lan

595.Nguyễn Phước Anh Quang, học sinh, Hà Lan

596.Nguyễn Phước Vân Anh, học sinh, Hà Lan

597.Phạm Văn Điệp, hội trưởng Hội người Việt Nam, Nga

598.Nguyễn Đăng Khoa, kỹ sư, Hoa Kỳ

599.Phạm Thị Thường, kinh doanh, CH Czech

600.Quảng Thuận Đinh Xuân Dũng, bác sĩ, cựu sĩ quan quân y VNCH, nhà thơ, cựu dân biểu VNCH, Hoa Kỳ

601.Đào Văn Tùng, cán bộ nghỉ hưu, Tiền Giang

602.Lê Anh Hùng, dịch giả/blogger, Hà Nội

603.Nghiêm Hồng Sơn, cán bộ nghiên cứu, Australia

604.Hoang Thang Long, kỹ sư, Hoa Kỳ

605.Trần Thị Thanh Thủy, nhân viên phiên dịch Anh – Hoa, TP HCM

606.Trần Thị Phượng, nghiên cứu viên, Nhật Bản

607.Lê Văn Cát, kỹ sư, CHLB Đức

608.Lâm Phước Đông, kỹ thuật viên X-quang, Hoa Kỳ

609.Tran Duc Thien, kinh doanh, CHLB Đức

610.Trần Văn Hùng, giáo viên, Tiền Giang

611.Nguyễn Phụng Hoàng, bác sĩ, đảng viên, Lâm Đồng

612.Nguyễn Huy Tiển, pensioner, Australia

613.Nguyễn Thanh Giang, TS Địa Vật lý, Hà Nội

614.Trần Văn Phong, 43 tuổi đảng, Nghệ An

615.Lê Duyệt, lao động tự do, Quảng Trị

616.Đỗ Minh Tuyến, blogger bất đồng chính kiến, Hoa Kỳ

617.Đỗ Anh Pháo, cử nhân nghỉ hưu, Hà Nội

618.Đỗ Hồng Phấn, chuyên gia tự do về tài nguyên nước, Hà Nội,

619.Phạm Xuân Tạo, sinh viên đang du học tại Đại học Melbourne, Australia

620.Đặng Minh Liên, nghiên cứu viên, biên tập, biên kịch, nhà báo, giảng viên điện ảnh, Hà Nội

621.Vũ Ngọc Bích, nội trợ, CHLB Đức

622.Hà Bình Minh, nhà thơ, giáo viên về hưu, Lâm Đồng

623.Hoàng Hưng, kỹ sư Điện, TP HCM

624.Phạm Nguyễn, công chức, Bình Dương

625.Huỳnh Thị Thu, kế toán, Đồng Nai

626.Nguyên Văn Trận, làm ăn tự do, Quảng Bình

627.Nguyễn Hữu Bình, kinh doanh, TP HCM

628.Vũ Đình Quý, sinh viên, Hà Nội

629.Trần Thanh Bình, kỹ sư, Ý

630.Anna Pham Nguyễn, hưu trí

631.Bùi Tiến An, cựu tù chính trị chuồng cọp Côn Đảo, nguyên cán bộ ban Dân vận thành ủy TP HCM, TP HCM

632.Nguyễn Thái Minh, kinh doanh, Thái Nguyên

633.Nguyễn Phạm Kim Sơn, công dân tự do, Đà Nẵng

634.Nguyen Minh Hung, công an, TP HCM

635.Nguyễn Anh Ngọc, nghề nghiệp tự do, Hải dương

636.Trần Văn Hà, luật sư, Hà Nội

637.Đào Công Tiến, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP HCM, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tứng chính phủ, TP HCM

638.Nguyễn Ngọc Xuân, Bà Rịa – Vũng Tàu

639.Lê Đức Minh, kỹ sư Điện kỹ nghệ, CHLB Đức

640.Vũ Vân Sơn, phiên dịch tuyên thệ Đức – Việt, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam Berlin & Brandenburg, CHLB Đức

641.Trần Đức Thạch, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An, nhà thơ, Nghệ An

642.Lê Sơn, kiến trúc sư, Pháp

643.Trần Đức Hà, chủng sinh, Nghệ An

644.Tran Tuan Lam, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội

645.Trần Phúc, làm việc tại Amcor Australia, Australia

646.Phạm Hoài Đức, TS Sinh học, nghỉ hưu, Hà Nội

647.Phạm Quang Vinh, kỹ sư Hàng hải, TP HCM

648.Vũ Quý Khang, công nhân, Hoa Kỳ

649.Trần Văn Tùng, PGS TS Kinh tế, Hà Nội

650.Lương Văn Điền, designer, Huế

651.Nguyễn Nguyệt Thu, kỹ sư, Hà Nội

652.Nguyễn Nguyên Bình, nhà văn, hội viên hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội

653.Lê Thành Hưng, kỹ sư Điện tử Viễn thông, Đà Nẵng

654.John Vu, Tổng Giám đốc, Australia

655.Nguyễn Minh Phát, kiến trúc sư, Canada

656.Nguyễn Khánh Việt, công chức nghỉ hưu, Hà Nội

657.Nay Hai, Dr, Đắk Lắk

658.Nguyễn Hải Triều, nhạc sĩ, TP HCM

659.Phạm Trung Hiếu, nghiên cứu sinh, Hàn Quốc

660.Le Xuan My, công nhân viên, Bà Rịa – Vũng Tàu

661.Thái Thị Ngọc Dư, nhà giáo, TP HCM

662.Đỗ Đăng Giu, nguyên Giám đốc Nghiên cứu Khoa học, Đại học Paris-Sud, Pháp

663.Nguyen Tien Hao, bác sĩ, CH Czech

664.Trần Năng, thợ điêu khắc, TP HCM

665.Nguyễn Văn Thanh, nghỉ hưu, CHLB Đức

666.Lê Văn Tuynh, buôn bán, Bình Thuận

667.Lưu Hà Sĩ Tâm, kinh doanh nông trại, Thái Bình

668.Le Manh Hung, thương gia, Hoa Kỳ

669.Phạm Quang Vinh, thiết kế mỏ, Hà Nội

670.Trương Điền Quan, kỹ sư xây dựng (ngành Kỹ thuật công trình), TP HCM

671.Nguyen Van Oanh, Acupuncture Physician, Hoa Kỳ

672.Võ Văn Cường, nhân viên kinh doanh quốc tế, TP HCM

673.Tran Trong Duc, TS, giảng viên, TP HCM

674.Trần Định, nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh, Hà Nội

675.Vũ Ngoc Chi, chuyên viên Điện toán, CHLB Đức

676.Khoi Nguyen, mechanical engineer, Australia

677.Quyet Nong, công nhân, Hoa Kỳ

678.Tran Van Tom, kinh doanh, Ba Lan

679.Nguyễn Văn Lê, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân Vận thành ủy TP HCM, TP HCM

680.Nguyễn Văn Kết, nguyên thư ký cho ông Mai Chí Thọ, Bí thư Thành ủy TP HCM, TP HCM

681.Lê Đức Nam, Cần Thơ

682.Ton Duc Loi, kỹ sư, Hà Tĩnh

683.Nghiêm Phong, hưu trí, Hà Nội

684.Trần Văn Tùng, kinh doanh, Tuyên Quang

685.Tran Quoc Vu, CHLB Đức

686.Trần Quang Đang, kỹ sư, Pháp

687.Lê Duy Thiện, nhân viên phòng xuất nhập khẩu, Australia

688.Nguyễn Minh Khanh, kỹ sư Tin học, Pháp

689.Nguyễn Hữu Trường, làm tự do, Bình Dương

690.Nam Thanh Nguyen, driver, Hoa Kỳ

691.Ly Ngoc Phung, nấu ăn, Hoa Kỳ

692.Khiem Nguyen, công nhân, Hoa Kỳ

693.Kim Dung Phạm, kinh doanh, CH Czech

694.Lâm Thanh Hùng, dược sĩ, Áo

695.Dương Văn, kế toán, Canada

696.Nguyễn Đức Nhuận, nhà giáo nghiên cứu nghỉ hưu, CNRS – Université Paris 7, Pháp

697.Toi Duong, kinh doanh, Hoa Kỳ

698.Hung Pham, engineer, Hoa Kỳ

699.Trần Quang Ngọc, TS, kỹ sư, đã nghỉ hưu, CHLB Đức

700.Lê Hồng Hà, công nhân, Hoa Kỳ

701.Nguyễn Thành Nam, doanh nhân, Ba Lan

702.Trần Đức Khoa, PhD, kỹ sư tin học/giảng viên, Hoa Kỳ

703.Nguyen Huu Toan, buôn bán, Canada

704.Phạm Thanh Tâm, chuyên viên Điện tử, Điện toán, Pháp

705.Nguyễn Quang Đạo, cựu chiến binh, Hà Nội

706.Nguyen Thanh Thuan, nguyên sĩ quan an ninh, tốt nghiệp Đại học An ninh Nhân dân (nay la Học viện An ninh Hà Nội), Australia

707.Trần Hải Hạc, TS, nguyên PGS trường Đại học Paris 13, Pháp

708.Trần Thị Thu Hoa, Vũng Tàu

709.Trần Đức Hạnh, kinh doanh, Nga

710.Buu Che, ThS vi tính, Hoa Kỳ

711.Nguyen Quang Tin, nhân viên, TP HCM

712.Hồ Đình Nhật, marketing, Bình Định

713.Nguyen Van Can, hưu trí, TP HCM

714.Đỗ Duy Ngọc, họa sĩ, TP HCM

715.Luong Xuan Rinh,Hải Dương

716.Tran Thu Cuc, giáo viên hưu trí, TP HCM

717.Đặng Thị Hồng Phương, cán bộ nghiên cứu khoa học, nghỉ hưu, TP HCM

718.Trần Quang Trung, sinh viên Viện Đại học Mở Hà Nội, Nam Định

719.Vu Quang Quynh, Hàn Quốc

720.Bùi Chánh Trực, ThS Kinh tế, Cần Thơ

721.Lương Minh Hải, kỹ sư thiết kế, Đăk Lăk

722.Lê Van Kiêt, TSKH, Bỉ

723.Lưu Văn Vịnh, kinh doanh, Hải Dương

724.Pham Hung, hưu trí, Canada

725.Nguyễn Huy Dũng, dân thường, Vũng Tàu

726.Trương Hữu Ngữ, TP HCM

727.Nguyễn Hùng Dũng (bút danh: Nguyễn Bùi An, Bùi An Nguyễn), TP HCM

728.Ngô Điều, cựu sĩ quan, Hà Nội

729.Thái Văn Tự, kỹ sư, Nghệ An

730.Đặng Đình Cung, kỹ sư tư vấn, Pháp

731.Khải Nguyên, dạy học và viết văn, Hải Phòng

732.Nguyễn Thị Nhuận, điều dưỡng, Australia

733.Lê Mai Đậu, hưu, Hà Nội

734.Ninh Văn Tuấn, kỹ sư, Hoa Kỳ

735.Nguyễn Minh Tấn Trung, công nhân, Vĩnh Long

Đợt 4:

736.Nguyễn Quang, luật sư, Anh

737.Trần Quang Tiến, công chức, Tuyên Quang

738.Võ Hoàn Sinh, đảng viên, cán bộ hưu trí, An Giang

739.Phùng Liên Đoàn, chuyên gia an toàn hạt nhân, Hoa Kỳ

740.Đỗ Hữu Mạnh, kỹ sư xây dựng, TP HCM

741.Hồ Văn Tích, cử nhân Toán, TP HCM

742.Nguyễn Xuân Thắng, kinh doanh, Vĩnh Long

743.Hà Văn Chương, retired, Australia

744.Đặng Trường Lưu, họa sĩ, nhà phê bình Mỹ thuật, Hà Nội

745.Nguyên Xi, hưu trí, Pháp

746.Đặng Đăng Phước, giáo viên, Đăk Lăk

747.Ngô Duy Thiện, buôn bán, TP HCM

748.Nguyễn Hải Triều, kỹ sư xây dựng, Australia

749.Nguyễn Văn Cung, thượng tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, hội viên Hội Âm Nhạc Hà Nội, hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hà Nội

750.Lê Mạnh Chiến, cán bộ về hưu, Hà Nội

751.Vũ Phúc Hóa, kỹ sư Công nghệ Thông tin, Hà Nội

752.Lương Đình Dzụ, TS Công nghệ Hóa học, Hoa Kỳ

753.Lê Dung, giảng viên hưu trí, Đà Nẵng

754.Nguyen Hung, BS chuyên khoa 1, Đại học Y Dược TP HCM, TP HCM

755.Ngô Thị Hồng Lâm, chuyên khoa nghiên cứu lịch sử Đảng, Bà Rịa – Vũng Tàu

756.Nguyễn Chính, cựu sĩ quan Hải Quân VNCH, Hoa Kỳ

757.Nguyễn Thị Hồng Hội, cựu giáo viên, Hoa Kỳ

758.Hoàng Nghĩa Lược, kỹ sư, Hà Nội

759.Phạm Hoàng Phiệt, giáo sư Y học, TP HCM

760.Vu Thi Lam, nhân viên nấu ăn cho trường học công lập, Hoa Kỳ

761.Lê Tấn Tài, giáo viên, Bình Thuận

762.Nguyễn Hải Hòa, công nhân, Nhật Bản

763.Lê Văn Vượng, sinh viên khoa Xã hội học, Đại học Mở TP HCM, TP HCM

764.Đinh Huyền Hương, giáo viên, TP HCM

765.Bùi Vũ Huy Hoàng, kỹ sư máy tính, TP HCM

766.Trần Quốc Túy, kỹ sư hóa đã nghỉ hưu, Hà Nội

767.Tạ Thành Hòa, kỹ sư Viễn thông, Trung tâm Công nghệ Thông tin EVNIT, Gia Lai

768.Lại Ngọc Tấn, nhiếp ảnh, Bạc Liêu

769.Nguyễn Ngọc Anh, cử nhân, Quảng Nam

770.Nguyen Van Thanh, kỹ sư, cựu chiến binh, TP HCM

771.Lê Khánh Hùng, TS Công nghệ Thông tin, Hà Nội

772.Tran Van Khoa, worked at Flextronic, Hoa Kỳ

773.Phan Văn Song, nguyên quyền Hiệu trưởng trường THPT Chuyên Bến Tre, Australia

774.Nguyễn Minh Hùng, kỹ sư, TP HCM

775.Song Nhị, nhà văn/ nhà thơ, chủ nhiệm/chủ bút tạp chí Nguồn, Hoa Kỳ

776.Nguyễn Cao Sơn, doanh nghiệp, Anh

777.Tran Gia Huy, CHLB Đức

778.Nguyễn Thừa Hợp, GS TSKH, đã nghỉ hưu, Hà Nội

779.Trần Yên Hòa, nhà văn, chủ trương trang Web Văn học Nghệ thuật, Hoa Kỳ

780.Lê Đức Quang,TS, giảng viên Đại học, Huế

781.Jack Pham, thành viên quản trị Công ty VTL Tập đoàn Tin học, Hoa Kỳ

782.Nguyễn Quốc Minh, nhà thơ, Hà Nội,

783.Lê Ngọc Phương, thú y sĩ, Canada

784.Phêrô Dương Sỹ Nho, linh mục quản xứ Tân Hội, Hà Tĩnh

785.Le Quang Huy, kinh doanh, TPHCM

786.Thảo Nguyên, nhà giáo nghỉ hưu, Hoa Kỳ

787.Nguyễn Đức Quỳ, hưu trí, Hà Nội

788.Phạm Hải Hồ, TS, CHLB Đức

789.Trần Phương Dung, nghiên cứu sinh Đại học Kobe, Nhật Bản

790.Nguyen An Loc, công nhân viên, Đồng Nai

791.Nguyễn Kim Thái, nhà báo, Quảng Ninh

792.Lê Văn Tuyển, kinh doanh, Hà Nội

793.Hoang Xuan Vu, Hoa Kỳ

794.Nguyễn Hữu Minh, dược sĩ, TP HCM

795.Nguyễn Hướng Đạo, sinh viên, Hà Nội

796.Dương Quốc Huy, cựu chiến binh, Hà Nội

797.Nguyễn Văn Lịch, kỹ sư cơ khí, Hà Nội

798.Trần Văn Đằng, hưu trí, Hải Phòng

799.Văn Phú Mai, cựu giáo chức, Quảng Nam

800.Lê Hoa, công dân, Đà Nẵng

801.Nguyễn Văn Khuê, nhà báo, TP HCM

802.Đào Quốc, cán bộ hưu trí, Hà Nội

803.Phạm Việt Cường, phiên dịch tiếng Đức, Hà Nội

804.Nguyễn Thị Mỹ Hà, giáo viên Địa lý THCS, Hà Nội

805.Nguyễn Tiến Bính, nghỉ hưu, Hà Nội

806.Nguyễn Trọng Việt, bác sĩ y khoa, Hoa Kỳ

807.Truong Van Xuan, Nha Trang

808.Nguyễn Hồng Việt, giám đốc doanh nghiệp, TP HCM

809.Luong Van Dung, hướng dẫn viên du lịch quốc tế, Hà Nội

810.Tạ Đắc Thường, lao động tự do, Hà Nội

811.Nguyễn Tuấn Khánh, hội viên Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hà Tĩnh

812.Duong Ky Phong, kỹ sư Công nghệ Thông tin, Nghệ An

813.Nguyễn Huy Tư, công nhân, CHLB Đức

814.Lê Viết Bình, TS Hóa học, TP HCM

815.Tran Thien Nien, kỹ thuật viên điện tử, CHLB Đức

816.Hoàng Anh Hào, hưu trí, Hà Tĩnh

817.Trần Đức Tài, kỹ sư xây dựng, Nghệ An

818.Đỗ Như Ly, kỹ sư, hưu trí, TP HCM

819.Trịnh Quang Thiệp, tự do, CHLB Đức

820.Nguyễn Trường Lưu, giáo viên, Lâm Đồng

821.Vũ Ngọc Tiến, nhà văn, nhà báo tự do, Hà Nội

822.Trương Thanh Tùng, luật sư, TP HCM

823.Võ T Hoàng Yến, sinh viên, Đại học La Trobe, Australia

824.Thủy Tiên, ca sĩ (hát nhạc Trịnh), TP HCM

825.Nguyễn Chí Dũng, kỹ sư, TP HCM

826.Đaminh Lê Thanh Trưởng, linh mục, Giáo phận Xuân Lộc, Đồng Nai

827.Nguyễn Thị Ánh, cán bộ hưu trí, An Giang

828.Lê Hữu Đức, Trung tướng, Hà Nội

829.Trần Đức Quế, hưu trí, Hà Nội

830.Nguyễn Thị Văn, ThS, Viện Xã hội học, Hà Nội

831.Đặng Ngọc Tuấn, kỹ sư Cầu đường, Quảng Nam

832.Hồng Sa Ngạn, giáo viên, Lai Châu

833.Nguyen Thi Hong Nga, nội trợ, Hoa Kỳ

834.Vương Đắc Phong, Hà Nội

835.Nguyen Duc Thanh, mechanical engineer, software developer/IT-consultant, CHLB Đức

836.Dang Dai Binh, giáo viên nghỉ hưu, Lâm Đồng

837.Nguyen Van Chuong, hưu trí, TP HCM

838.Ho Hong Ngoc, giám đốc, Australia

839.Trần Văn Hân, cựu chiến binh Trung đoàn 174, giáo viên hưu trí, TP HCM

840.Nguyễn Công Đức, kỹ sư, Hoa Kỳ

841.Trần Mạnh Sỹ, nhà báo, Nam Định

842.Nguyễn Thanh Nhàn, cử nhân Kinh tế, Nam Định

843.Triệu Sang, nông dân, Sóc Trăng

844.Nguyễn Văn Dũng, CHLB Đức

845.Nguyễn Văn Trợ, kinh doanh dịch vụ, TP HCM

846.Dương Thị Mỹ, luật sư, Huế

847.Nguyễn Thị Hà, phóng viên, TP HCM 

848.Trần Quốc Thắng, công nhân công ty Dona Orient, Đồng Nai

849.Tu Cao Nguyen-Tho, hưu trí, Hoa Kỳ

850.Lê Vĩnh Phú, kế toán, TP HCM

851.Nguyễn Thanh Hà, nông dân, Bình Thuận

852.Ruby Vu, kinh doanh, Australia

853.Nguyễn Kim Phượng, kiểm phẩm, Nhật Bản

854.Tuan Dang, process engineer, Hoa Kỳ

855.Nguyễn Nhiên, hưu trí, Huế

856.Alex Cartier, Ph.D. engineer in Electrical Eng, Canada

857.Nguyễn Hùng Anh, nghiên cứu vật liệu y sinh, Bỉ

858.Trần Hiếu Nghĩa, kỹ sư Điện, TP HCM

859.Truong Quoc Cuong, Gia Lai

860.Nguyễn Văn Thủy, TS, chuyên viên Điện toán, Hoa Kỳ

861.Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội

862.Nguyễn Ngọc Thùy Linh, sinh viên Đại học Bách khoa, Hà Nội

863.Nguyễn Thị Ánh, cán bộ hưu trí, An Giang

864.Truong Vien, electronic technician, Hoa Kỳ

865.Nguyen Kim Phuong, inspector, Hoa Kỳ

866.Nguyen Thi Nhu Quynh, manager, Hoa Kỳ

867.Nguyễn Bá Lợi, giáo viên, TP HCM

868.Phạm Duy Tương, nhà báo, Cần Thơ 

869.Trần Tuấn Dũng, hưu trí, Canada

870.Anh Khuê, nhà báo, TP HCM

871.Trần Công Tâm, cử nhân Kinh tế, TP HCM

872.Trần Văn Nam Sơn, nhà văn, Hoa Kỳ

873.Nguyễn Duy Độ, kỹ sư, Huế

874.Trang Hồng Đoan, ThS, TP HCM

875.Trần Quí Kỷ, nghỉ hưu, TP HCM

876.Lương Đức Vinh, sinh viên, Singapore

877.Khương Khiết Thanh, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội

878.The Pham, KCI medical, Canada

879.Loc Nguyen, Hoa Kỳ

880.Đặng Đình Ngọc, tư vấn về Quản trị Nhà nước, Hà Nội

881.Nguyễn Tiến Đức, kỹ sư, TP HCM

882.Nguyễn Đình Hòa, kỹ sư kinh doanh, Hà Nội

883.James Hoàng Đình Vĩnh Hồ, kế toán, TP HCM

884.Nguyễn Hà Luân, luật sư, Hà Nội

885.Do Minh Thanh, kinh doanh, Thụy Điển

886.Nguyen Van Thanh, Australia

887.Nguyen Thi Thuy, nhân viên ngân hàng, Australia

888.Lam Thanh Minh, ThS, kỹ sư cơ khí, Australia

889.Đức Long, TS, bác sĩ, TP HCM

890.Phạm Đức Lợi, kỹ sư, Đà Nẵng

891.Nguyễn Đức Thanh, nghề nghiệp tự do, TP HCM

892.Nhung Dinh, nghiên cứu viên, Hà Nội

893.Vũ Hải Long, TSKH, nghỉ hưu, TP HCM

894.Nguyễn Mạnh Thành, cử nhân Kinh tế, TP HCM

895.Nguyễn Hồng Quân, kỹ sư Kết cấu công trình, Hoa Kỳ

896.La Minh Tuan, cử nhân, TP HCM

897.Hoàng Thanh Nhàn, nghiên cứu viên Kinh tế, nghỉ hưu, Hà nội

898.Lê X T Hưng, kỹ sư, Đà Nẵng

899.Nguyễn Minh Huy, kỹ sư Cơ khí, TP HCM

900.Khánh Phương, viết văn, viết báo tự do, Hoa kỳ

901.Trương Thanh-Đạm, Dr, retired, professor International Institute of Social Studies Erasmus University, Hà Lan

902.Trương Hồng Nhật, sinh viên, Đà Nẵng

903.Nhan Minh Le, retired, Hoa Kỳ

904.Đào Nguyên  Ngọc, cựu chiến binh  trung đoàn pháo binh 466 sư 314 tham chiến từ 04-1984 đến 12-1985 ở mặt trận Vị Xuyên Hà Giang, hành nghề kinh doanh ăn uống, CHLB Đức

905.Trần Văn Cung, kỹ sư luyện kim, CHLB Đức

906.Trần Thu Thủy, nội trợ, CHLB Đức 

907.Nguyễn Tăng Dũng, kỹ sư, Canada

908.Nguyên Bình, giáo viên Trung học Phổ thông, hưu trí, TP HCM

909.Phan Bá Đạm, thiết kế M&E, TP HCM

910.Nguyễn Hữu Hoàng, kỹ sư, Hậu Giang

911.Hoàng Văn Giang, điều dưỡng nha, Thanh Hóa

912.Trần Xuân Huyền, nông dân, Nghệ An

913.Nguyễn Ngọc Sơn, học sinh, Canada

914.Pham Huynh Anh, Nghệ An

915.Cao Văn Công, giáo viên, kỹ sư Viễn thông, Hà Nội

916.Bui Manh Cuong, công an, Hải Phòng

917.Tạ Đình Công, kinh doanh, Hà Nội

918.Trần Long Vũ, sinh viên, Quảng Trị

919.Duc Nguyen, engineer, Hoa Kỳ

920.Hoàng Trường Sa, nhạc sĩ, Hoa Kỳ

921.Chu Việt Hùng, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội

922.Huỳnh Tấn Thái, ngân hàng, TP HCM

923.Nguyễn Văn Phúc, kỹ sư Điện, Bình Định

924.Đoàn Dũng, chuyên viên Địa ốc, Hoa Kỳ

925.Nguyễn Thị Ngọc Diệu, Đăk Lăk

926.Lê Công Nam, chuyên viên Tài chính ngân hàng, Nghệ An

927.Manh Quan Hoang, nông dân, Quảng Bình

928.Tran Tien Anh, du học sinh, Nhật Bản

929.Lê Quang Lâm, ThS, kỹ sư xây dựng, Hà Nội

930.Võ Văn Ái, Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam, Pháp

931.Nguyễn Đình Hồng, biên phiên dịch, TP HCM

932.Đoàn Quân, Nga

933.Nguyễn Phúc Thọ, kỹ sư Điện toán, Pháp

934.Nguyen Pedro, Hoa Kỳ

935.Hương Nam, nghề tự do, Australia

936.Đào Thu Huệ, giảng viên Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

937.Nguyễn Ngọc Long, nhân viên, TP HCM

       Đợt 5:

938.Lê Ngọc An, cựu giáo viên, Đà Nẵng

939.Trần Hữu Hiếu, công nhân viên, TP HCM

940.Vương Toàn Thức, chuyên gia hàng không dân dụng, Hà Nội

941.Phạm Văn Hội, TS, chuyên ngành Xã hội học môi trường, Hà Nội

942.Trần Quốc Khánh, nhà đầu tư, TP HCM

943.Bùi Thị Phương Oanh, hưu trí, Hà Nội

944.Nguyễn Minh Quang, công nhân, Canada

945.Hoàng Thế Duy, bác sĩ, Hà Nội

946.Nguyễn Văn Chương, hưu trí, Bỉ

947.Nguyễn Xuân Bình, nhạc sĩ, TP HCM

948.Hung Nguyen, ky su, Hoa Kỳ

949.Kim Nguyen, tho may, Hoa Kỳ

950.Lê Xuân Tri, hưu trí, Hoa Kỳ

951.Nguyễn Anh, phóng viên, Đà Lạt

952.Mạc Văn Trang, PGS TS Tâm lý học, Hà Nội

953.Tran Van Huynh, Australia

954.Trần Thị Như Thủy, nghiên cứu viên khoa học, Canada

955.Chu Kim Long, giảng viên, Học viện Tư pháp, TP HCM

956.Chu Mạnh Chi, giáo viên, Lâm Đồng

957.Nguyễn Văn Quang, giảng viên, Hải Dương

958.Nguyễn Mạnh Dũng, nhà giáo đã nghỉ hưu, Hà Nội

959.Vũ Ngọc Thọ, Australia

960.Phan Đình Hiệp, bác sĩ Y khoa, Australia

961.Đinh Bằng Đoàn, kinh doanh, Đăk Lăk

962.Nguyễn Phùng Thời, kỹ sư, Hưng Yên

963.Đỗ Hoàng Điệp, kỹ sư, Hà Nội

964.Lâm Giang, lao động tự do, TP HCM

965.Liên Hoàng, giảng viên đại học, Hà Nội

966.Nguyễn Duy Long, giảng viên đại học, Hoa Kỳ

967.Nguyễn Văn Hiểu, nhà giáo nghỉ hưu, Khánh Hòa

968.Lê Hồng Oanh, cán bộ văn phòng, Hà Nội 

969.Lê Trọng Kim, bác sĩ đã nghỉ hưu, nhà thơ, TP HCM

970.Nguyễn Thanh Hà, kỹ sư lâm nghiệp, Bình Dương

971.Phạm Ngưng Hương, kỹ sư hồi hưu, Thụy Sĩ

972.Phạm Phú Hiền, cựu giáo chức, Đồng Tháp 

973.Nguyễn Hữu Phước, nhà báo, TP HCM

974.Võ Quang Tiến, kinh doanh tự do, TP HCM

975.Hoàng Ngọc Bội, cán bộ hưu, Vũng Tàu

976.Phan Đức Thông, CHLB Đức

977.Trần Trang, nghiên cứu, Pháp

978.Nguyễn Duy Thiệp, TS Hoá, TP HCM

979.Hưng Trần, electrical and mechanical contractor, Hoa Kỳ

980.Huynh Minh Ngoc, kỹ sư xây dựng, Canada

981.Ngo Kim Dung, bác sĩ Y khoa, Pháp

982.Huỳnh Xuân Thiệp, nhà giáo hưu trí, Bình Định 

983.Lê Thị Hoa Mỹ, CHLB Đức

984.Đỗ Quang Tuyến, kỹ sư, Hoa Kỳ

985.Nguyễn Hải Sơn, kỹ sư Nông nghiệp, markerting Vật tư Nông nghiệp, Đồng Tháp

986.Nguyễn Trung, giáo viên, Ninh Thuận

987.Nguyen Tuan, công nhân, Hoa Kỳ

988.Bùi Văn Sáng, kỹ sư Xây dựng Cầu đường, Bà Rịa – Vũng Tàu

989.Lê Trần Cảnh, giáo viên, Bà Rịa – Vũng Tàu

990.Hàn Công Khánh, Hà Nội

991.Vũ Trí Đức, làm nghề tự do, Hà Nội

992.Vũ Văn Tùng, công việc tự do, Thái Bình

993.Kiều Quốc Thư, giáo viên Trung học phổ thông Xuân Khanh, Hà Nội

994.Nguyễn Xuân Trường, hướng dẫn viên du lịch, Hà Nội

995.Nguyễn Thế Kỳ, luật sư, TP HCM

996.Nguyễn Bá Bảo, hưu trí, Thanh Xuân Bắc, Hà Nội

997.Nguyễn Gia Năng, hưu trí, Giáp Bát, Hà Nội

998.Võ Công, kỹ sư Xây dựng, Bình Định

999.Lê Thị Phi, hưu trí, Hà Nội

1000.      Huynh Thi Kim Lien, nội trợ, TP HCM

1001.      Nguyen Huu Uy, TS, kỹ sư, Hoa Kỳ

1002.      Nguyễn Thị Thục, nhà báo, nghệ nhân tạo mẫu búp bê len nghệ thuật trong trang phục 54 dân tộc Việt Nam, Đà Lạt

1003.      Nguyen Minh Chau, CHLB Đức

1004.      Vũ Giang, Hoa Kỳ

1005.      Đặng Minh Chưởng, TS, giáo viên, Nghệ An

1006.      Hoàng Hùng, kỹ sư Chế tạo máy, Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội

1007.      Hàn Khánh, kỹ sư Hóa, nhà doanh nghiệp, hội viên Hội Nhà văn, Hà Nội

1008.      Trần Việt, nghiên cứu sinh, Hàn Quốc

1009.      Nguyễn Kim, PGS TS, đã nghỉ hưu, Bình Định

1010.      Nguyễn Minh Hoài, giáo viên, Đồng Tháp.

1011.      Nguyễn Ngọc Anh, doanh nhân, TP HCM

1012.      Lê Huy Sơn, kỹ sư Công nghệ Thông tin hồi hưu, Thụy Sĩ

1013.      Bạch Đầu Ông, nông gia, Hoa Kỳ

1014.      Bùi Tín, nhà báo tự do, Pháp

1015.      Nguyen Hue, hưu trí, Hoa Kỳ

1016.      Trí Tài, kỹ sư, Đồng Nai

1017.      Nguyen Quang Minh, công nhân, Hoa Kỳ

1018.      Tran Hoang Anh, dược sĩ, Cà Mau

1019.      Trần Quốc Thuận, công nhân về hưu, Hoa Kỳ

1020.      Phạm Thị Duy, kỹ sư, doanh nhân, TP HCM

1021.      Ho Van Nhan, nhà giáo hưu trí, TP HCM

1022.      Lê Phú Đạo, kỹ sư Tin học, Ninh Thuận

1023.      Kiều Việt Hùng, kiến trúc sư, Ninh Bình

1024.      Dat Nguyen, engineer, Hoa Kỳ

1025.      Lê Công Trí, giáo viên, TP HCM

1026.      Trần Thị Vi, hưu trí, Canada

1027.      Nguyễn Hồng Quang, ThS Đo lường điều khiển, Hà Nội

1028.      Phạm Văn Định, giáo viên, Thanh Hóa

1029.      Phạm Huy Việt, kỹ sư Điện, nguyên lính thành cổ Quảng Trị, Nghệ An

1030.      Nang Nguyen, tài xế, Australia 

Nguyên tắc vẽ tranh, tạc tượng đài và chủ nghĩa hiện thực thị giác trong văn học Việt Nam trước 1975

Lã Nguyên

 

Ai cũng biết, văn học dùng ngôn từ làm chất liệu kiến tạo hình tượng. Loại chất liệu này có khả năng đánh thức ở con người kinh nghiệm về đường nét, màu sắc, hình khối. Nhờ thế, nó có thể tạo ra những hình tượng giàu tính tạo hình khiến hội hoạ, điêu khắc lắm khi cũng phải bất lực. Nhưng từ trong bản chất, hình tượng và lời nói là những phạm trù khác nhau. Hình tượng là khách thể hữu hình, ngôn từ là chất liệu vô hình, phi vật thể. Hình tượng mở ra trong không gian, lời nói có tuyến tính, vận động trong thời gian. Lời nói là sự kết hợp của các đơn vị rời rạc, hình tượng là chỉnh thể nguyên hợp… Sử dụng ngôn từ làm chất liệu, văn học có thể tổ chức hình tượng theo hai hướng giống như hai thái cực trái ngược nhau. Ở cực thứ nhất, hình tượng trở thành một biểu tượng đầy tính ước lệ, cái được biểu đạt, tức là ngữ nghĩa, có quan hệ hết sức tự do với cái biểu đạt. Ở cực thứ hai, hình tượng chỉ là một kí hiệu thị giác, là đối tượng chiêm ngưỡng thuần tuý của mắt, cái được biểu đạt, tức là ngữ nghĩa, hoàn toàn lệ thuộc vào kí hiệu thị giác này. Trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước năm 1975, hình tượng được mã hoá chủ yếu theo hướng thứ hai.

Rất dễ nhận ra kí hiệu thị giác trong văn học trước 1975, vì ở đây, hình tượng thường được kiến tạo theo nguyên tắc vẽ tranh, đầy màu sắc và đường nét. Tố Hữu thấy:”Nước non mình, đâu cũng đẹp như tranh[1]. Ông mời gọi: “Anh hoạ sĩ làng Hồ, lại đây anh, mà vẽ (Thơ Tố Hữu.- Tr. 382). Nguyễn Tuân hào hứng vẽ “áp – phích”. Trong Đường lên Tây Bắc, ông viết: “Bây giờ thì khác quá đi rồi. Cuộc đời có tổ chức, có trật tự, công khai có Đảng có kế hoạch, cuộc đời mới đang bén rễ đâm chồi mạnh, và nơi đây đang kết tinh nhiều giống hoa say nồng chưa nở một lần nào trên đồi lũng Thái Mèo. Trong tôi đang hình thành lên một tấm áp-phích đòi tuyên truyền bằng được cho Tây Bắc giàu có sáng tươi và hồn hậu[2]. Vẽ tranh, dựng áp-phích dĩ nhiên phải chuyển nội dung thẩm mĩ từ trong tư duy ra bên ngoài thành màu sắc, dấu vết, hình bóng

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử nhận xét rất tinh tế về ngôn ngữ giàu hình ảnh và màu sắc trong thơ Tố Hữu. Ông phát hiện: “hình ảnh ngôn từ trong thơ Tố Hữu thể hiện một thế giới đang “bừng sáng, bốc cháy, nóng bỏng”. Tố Hữu “thích nói đến mặt trời chân lý, mặt trời lên, đỏ như sao hoả, sáng sao kim, chói lọi khối sao băng, cả địa cầu thành ngôi sao, muôn vạn vì sao dẫn đường”. Ông còn nói: Tố Hữu “thích dùng những hình ảnh nóng cháy – ngọn đuốc thiêng liêng, tim ta làm ngọn lửa…”, vì thế, “cả thế giới trong thơ Tố Hữu, ngoại trừ bọn phản động, tất cả đều phát sáng”[3]. Nhưng thơ Tố Hữu không phải là ngoại lệ. Trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975, liệu có nhà văn, nhà thơ nào không so sánh “Đảng ta”, “lãnh tụ ta”, “cách mạng ta” với “mặt trời”, “bó đuốc”, “ngọn lửa”? Cho nên, tôi nghĩ, huy động tối đa sức mạnh của ngôn ngữ hình ảnh và màu sắc chói sáng nhằm tạo ra một hiện thực thị giác là đặc điểm chung của cả một thời đại văn học. Chỉ cần đọc Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường, chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972) của Chế Lan Viên, hoặc Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân, ta đã có thể nhận ra điều đó. Trong Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường, chim báo bão, Những bài thơ đáng giặc, tác phẩm nào của Chế Lan Viên cũng tầng tầng lớp lớp những hình ảnh, các hình ảnh sáng chói rực rỡ như “mặt trời”, “ánh đuốc”, “ngọn lửa” được lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần. Hay trong Sông Đà, Nguyễn Tuân miêu tả thiên nhiên như những kì quan. Để miêu tả kì quan, nhà văn sử dụng tầng lớp lớp các kỳ ảnh, kỳ hình đầy âm thanh, ánh sáng và màu sắc. Hãy xem tấm “áp-phích” mà ông vẽ trong Đường lên Tây Bắc: “…Thấy mong muốn có một cuộc thi vẽ tem dán thư (…).Với những phong cảnh bao la một màu lãng mạn xã hội chủ nghĩa, Tây Bắc xứng đáng in hình tem lên nhiều lá thư gửi tới ức triệu cánh tay miền ngược miền xuôi đang hào hứng bước lên đường xây dựng. Trong lòng tấm áp-phích sẽ thu bé lại để in tem, tôi muốn vẽ một con đường hồng hào vắt vẻo trên một cái nền màu lam, một màu lam sâu sắc và chung thuỷ nó diễn tả đúng cái chất của triền núi Tây Bắc, trên chóp núi hiện lên một cái mũ trắng bông kết bằng cái áng mây yêu đời của thơ ca Thái; phần dưới hình tem là cái khuôn mặt có hạnh phúc nhỡn tiền của người đàn bà Tây Bắc cổ điển[4]. Hoặc xem cái cách Nguyễn Tuân tả con sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện giữa mây trời Tây Bắc đang bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương và cái màu nước sông thay đổi theo mùa, khi thì “xanh một màu xanh ngọc bích, khi “lừ lừ chín đỏ”, lúc lại “ánh lên cái màu nắng tháng ba Đường thi[5] thì sẽ rõ ngôn ngữ tạo hình lấp lánh đường nét, sắc màu đậm chất điện ảnh và hội hoạ có vị trí quan trọng như thế nào trong sáng tác của nhà văn này.

Cùng với màu sắc là “hình”, “bóng”. Thơ Tố Hữu để lại trong ký ức độc giả rất nhiều “bóng người. Bài Bà má Hậu Giang được khép lại bằng “bóng má”: “Nước non muôn quý ngàn yêu. Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang[6]. Trong bài Lên Tây Bắc có cái bóng rất kì vĩ của anh vệ quốc quân: “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều. Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo”(Thơ Tố Hữu. Tr. 149). Về quê mẹ Tơm, “bâng khuâng chuyện cũ”, Tố Hữu không quên: “Đêm đêm chó sủa …làng bên động. Bóng mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn, Bóng mẹ ngồi trông, vọng nước non. Ông xót xa: “Ôi bóng người xưa đã khuất rồi. Tròn đôi nấm đất trắng chân đồi (Thơ Tố Hữu.- Tr. 268).

Gắn liền với bóngdấu, hình dáng. Văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa trước năm 1975 ghi dấu, tạo dáng, tạo hình cho những khái niệm rất trừu tượng, như con người thời đại, Tổ quốc, quê hương. Nguyễn Minh Châu viết “Dấu chân người lính”(1972). Thanh Hải viết Dấu võng Trường Sơn (1977) và Thanh Thảo có “Dấu chân qua trảng cỏ”(1978). Nguyễn Văn Tý viết Dáng đứng Bến Tre với lời thơ và điệu nhạc tha thiết:

 Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió

Ơi, những cây dừa để lại cho ta bóng quê.

Ơi, tóc ai dài để lại dáng đứng Bến Tre.

Trong nền văn học của chúng ta, có lẽ Chế Lan Viên là thi sĩ đầu tiên tạo ra tứ thơ nổi tiếng: Người đi tìm hình của nước ( 1960): nước mất, không còn hình bóng, Bác phải đi tìm hình của nước:

 Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước

 Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc:

Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!

 Hình của Đảng lồng trong hình của Nước.

Năm 1968, Lê Anh Xuân viết “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ. Thơ Tố Hữu thường xuyên nói tới “bước đi”, “dáng đứng”: “Yêu biết mấy, những bước đi, dáng đứng.

Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975 không thua hội hoạ trong việc vẽ tranh. Nó cũng không chịu thua điêu khắc trong nghệ thuật tạc tượng đài. “Tượng đài” là sự biểu hiện rõ nhất của kí hiệu thị giác. Ấn tượng thị giác đầu tiên mà tượng đài để lại trong cái nhìn của người chiêm ngưỡng là sự hoành tráng, uy nghi của các mảng khối. Chẳng hạn, trong thơ Tố Hữu có rất nhiều tượng đài, tượng đài nào cũng lộng lẫy, uy nghi, hoành tráng:

Bác ngồi đó, lớn mênh mông

Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non…

Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút

Trán mênh mông thanh thản một vùng trời (Thơ Tố Hữu.- Tr. 169,170).

Hoặc:

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn (Thơ Tố Hữu.- Tr. 347)

Tượng đài còn để lại ấn tượng thị giác đậm nét trong cái nhìn của người chiêm ngưỡng qua chất liệu vật chất bằng đá, đồng, kim loại quí gợi lên sự bền bỉ, bất hoại, trường tồn của nó. Về phương diện này, tôi nghĩ, nghệ thuật ngôn từ trước 1975 tỏ ra “hơn hẳn” nghệ thuật điêu khắc của dân tộc. Ta biết, từ những năm 70 đổ về trước, những tượng đài đầu tiên được sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như Nam Ngạn chiến thắng ở Thanh Hoá, Du kích làng Nguyễn ở Thái Bình, Kép ở Bắc Giang, Chiến thắng sông Lô của Tạ Quang Bạo dựng trên ngọn đồi áp mé sông Lô, hay Chiến thắng núi Thành của Lê Công Thành…đều được làm bằng bê tông. Nhưng trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, mọi tượng đài đều được dựng lên sững sững như những thành đồng, vách sắt. Những ai từng đọc Hòn đất của Anh Đức, hẳn không thể quên những dòng viết về mái tóc chị Sứ, khi chị bị thằng Xăm chém đầu bằng con dao Mỹ: “…Cả ba nhát dao đều chém không đứt đầu chị. Thằng Xăm chùn tay, thở hồng hộc. Hắn liếc nhìn lưỡi dao, ngờ vực. Nhưng đây nào phải vì lưỡi dao Mỹ không bén! Đây tại bởi tóc chị Sứ dày quá. Đây chính bởi lưỡi dao chạm phải một suối tóc tốt tươi nhất, suối tóc của hai mươi bảy tuổi đời con gái, vừa mượt vừa dày, gồm muôn ngàn sợi bền chặt rủ từ đỉnh đầu bất khuất đó rủ chấm xuống sát đôi gót chân bất khuất đó (đoạn in nghiêng do tôi nhấn mạnh – LN)”[7] . Và đây là tượng đài người chiến sĩ giải phóng quân trong thơ Lê Anh Xuân:

Anh tên gì hỡi Anh yêu quí

Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng

Như đôi dép dưới chân anh bao xác Mĩ

Mà vẫn một màu bình dị sáng trong

Đọc thơ Tố Hữu, ta sẽ thấy, ông là nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật khắc hoạ chân dung theo nguyên tắc tạc tượng đài. Hãy xem Tố Hữu tạo không gian và sử dụng nhạc điệu, hình ảnh tài tình thế nào để tạc tượng đài “chị lao công”:

Những đêm đông

Khi cơn dông

Vừa tắt

Tôi đứng trông

Trên đường lạnh ngắt

Chị lao công

Như sắt

Như đồng

Chị lao công

Đêm đông

Quét rác… (Thơ Tố Hữu.- Tr. 253)

Nhà thơ không chỉ dùng “sắt”, “đồng” truyền thống, mà còn lấy cả mây suối, giông gió, chớp lửa thiên nhiên làm chất liệu tạc tượng đài. Đây là tượng đài Người con gái Việt Nam:

Em là ai cô gái hay nàng tiên

Em có tuổi hay không có tuổi

Mái tóc em đây, hay là mâysuối

Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông

Thịt da em hay là sắtđồng? (Thơ Tố Hữu.- Tr. 229)

Và đây là tượng đài Đảng ta:

Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt

Đảng ta đây, xương sắt da đồng (Thơ Tố Hữu.- Tr. 244)

Có một đặc điểm tối quan trọng: trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975, tranh vẽ, tượng đài bao giờ cũng tạo nghĩa theo kiểu minh hoạ cho các vai cổ mẫu có gốc gác từ huyền thoại. Ở đây, vai cổ mẫu vừa là hạt nhân đồng nhất ngữ nghĩa trong tạo hình, vừa thể hiện nguyên tắc cấu trúc của chỉnh thể văn bản. Vì thế, hình tượng biến thành hình hiệu, thành kí hiệu thị giác, trường nghĩa của mỗi hình tượng, cũng như của toàn văn bản, luôn luôn bị cột chặt vào hệ thống vai cổ mẫu huyền thoại. Chẳng hạn, ứng với trật tự trong không gian nhà binh, tượng đài nhân vật sẽ được phân thành vai tavai địch: “chúng là thú vật, ta đây là người”. “Ta”: “Mỗi con người nhấp nhánh một ngôi sao”. “Địch”: “Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê” (Thơ Tố Hữu.- Tr. 91), “lưỡi dài lê sắc máu” (thơ Hoàng Cầm). Hoặc, ứng với tôn ti trong không gian dòng tộc, tượng đài nhân vật “chúng ta” lại được phân thành các vai: Cha, MẹChúng Con.

 “Cha” là lãnh tụ: “Bác Hồ, cha của chúng con”. “Vai” của “Cha” là soi đường dẫn lối: “Người ngồi đó với cây chì đỏ. Vạch đường đi, từng bước, từng giờ” (Thơ Tố Hữu.- Tr.171). Trong thơ Tố Hữu, các vị lãnh tụ Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, hay Kim Nhật Thành đều là “Cha của chúng con” với ý nghĩa như vậy. Phẩm chất lớn nhất của “Cha” – người “vạch đường đi anh minh:Người trông gió bỏ buồm, chọn lúc. Nước cờ hay xoay vạn kiêu binh” (Thơ Tố Hữu.- Tr.362), hoặc “Lênin nằm nhắm mắt […] Để thấy trước những bước đi lịch sử” (Thơ Tố Hữu.- Tr. 220). “Vai” “vạch đường đi” và sự “anh minh” của “Cha” bao giờ cũng được mã hoá bằng các chi tiết tạo hình: tư thế ung dung, trán rộng, mắt sáng, giọng nói vang vọng. Chẳng hạn, nét tạo hình chân dung Lênin: “Mái tóc giả che vầng trán rộng. Như bóng mây giấu ánh mặt trời”. Hoặc chân dung tạo hình của Bác Hồ:”Bác Hồ đó ung dung châm lửa hút. Trán mênh mông thanh thản một vùng trời. Không gì vui bằng mắt bác Hồ cười”. “Nhớ Người những sáng tinh sương. Ung dung yên ngựa trên đường suối reo” (Thơ Tố Hữu.- Tr.186).

“Mẹ” là Tổ quốc. “Mẹ” đứng sau “Cha”, vì “Cha” là lãnh tụ,”Mẹ là đất nước, tháng ngày của con” (Thơ Trần Đăng Khoa). “Vai” của “Mẹ” là đùm bọc, chở che, nuôi dưỡng. Với ý nghĩa như thế, bà má Hậu Giang trong thơ Tố Hữu là “Mẹ Tổ quốc”. Mẹ Tơm – “buồng Mẹ – buồng tim – giấu chúng con” – là “Mẹ Tổ quốc”. Những bà bầm – “Cho con nào áo nào quà. Cho củi con sưởi, cho nhà nghỉ ngơi” (Thơ Tố Hữu.- Tr.153) – là “Mẹ Vệ quốc quân”. “Mẹ” gắn liền với hình ảnh gốc lúa, bờ tre, nương dâu, bãi mía. Phẩm chất của “Mẹ” là phẩm chất của đất nước, quê hương: lam lũ, nghèo cực, mà tảo tần, son sắt thuỷ chung: “Sống trong cát chết vùi trong cát. Những trái tim như ngọc sáng ngời!” (Thơ Tố Hữu.- Tr.268). Phẩm chất và “vai” của “Mẹ” thường được tô đậm bằng hai chi tiết tạo hình: vóc gầyáo bạc, ví như: “Mẹ ta không có yếm đào. Nón mê thay nón quai thao đội đầu. Rối ren tay bí tay bầu. Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa” (thơ Nguyễn Duy).

“Chúng con” là “Chiến sĩ đồng bào, vây quanh “Cha” và “Mẹ”. “Vai” của “chúng con” là “chiến đấu hi sinh”: “Chúng con chiến đấu hi sinh. Tấm lòng son sắt, đinh ninh lời thề” (Thơ Tố Hữu.- Tr. 171). Phẩm chất cơ bản của chúng con là anh hùng. “Vai” và phẩm chất anh hùng của “chúng con” được tạo hình bằng những chi tiết hành động: “Anh du kích”: “Nửa đêm bôn tập diệt đồn”, “chiến sĩ nông thôn”: “Bắt sỏi đá phải thành sắn gạo”, “anh thợ”: “má … vàng thuốc pháo. Cánh tay …đầy sẹo lửa gang”, các “em”: “đốt đuốc đến trường làng”, hoặc “chị dân công”: “mòn đêm vận tải”. Đây là hệ thống nhân vật hành động chủ chốt tạo nên nội dung trần thuật trong hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh và toàn bộ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975.

Lí luận hiện thực xã hội chủ nghĩa đề cao nguyên tắc “mô tả hiện thực chân thực, cụ thể – lịch sử trong tiến trình vận động cách mạng”. Nhưng thực tiễn chứng tỏ, trước năm 1975, phê bình bao giờ cũng lấy bốn vai tượng đài, – “Cha anh minhMẹ Tổ QuốcChúng con anh hùngKẻ thù bầy thú dữ”, – làm chuẩn mực để đánh giá mức độ chân thực của hình tượng nghệ thuật. Cho nên, ta không ngạc nhiên khi có ý kiến phê phán Nguyễn Đình Thi vì trong Vỡ bờ, nhà văn đã để Phượng, một cô gái lãng mạn, con nhà tư sản, ngồi may cờ cách mạng. Ta cũng hiểu vì sao, kể từ bài Sáng tháng Năm (1952) về sau, hình tượng Bác Hồ trong thơ Tố Hữu có sự điều chỉnh rất đáng kể so với hình tượng lãnh tụ trong bài Hồ Chí Minh. Năm 1946, trong bài Hồ Chí Minh, Tố Hữu viết: “Hồ Chí Minh. Người lính già” […], “Làm tên quân cảm tử đi tiên phong” […], “Người xông lên” […] “Tiếng Người thét. Mau lên gươm lắp súng” (Thơ Tố Hữu.- Tr. 116-117). Chi tiết nào trong bài thơ cũng gợi ra hình ảnh một nhân vật hành động, anh hùng quả cảm. Hình ảnh ấy chỉ hợp với “Chúng con chiến đấu hi sinh. Thế tức là “lạc vai”. Cho nên, giới phê bình thường nhận xét, rằng ở đây, hình tượng lãnh tụ được thể hiện “chưa thật”. Chắc Tố Hữu cũng nghĩ vậy, nên từ Sáng tháng Năm, Bác Hồ của ông không còn là “Người lính già”, mà là “Cha, là Bác, là Anh. Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Người không “xông lên”, không “đi tiên phong”, mà “Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ”. Bác cũng không “thét”, “Giọng của người không phải sấm trên cao, mà “Thấm từng tiếng, ấm vào lòng non nước” (Tố Hữu, tr. 170). Đúng là Tố Hữu đã chỉnh sửa hình tượng Bác Hồ sao cho hợp “vai” lãnh tụ, hơn là hợp với người thật, với nhân vật tiểu sử Hồ Chí Minh. Với ý nghĩa như vậy, về mặt chức năng, có thể gọi văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa hiện thực phân vai tượng đài.

Vì sao văn học trước 1975 lại coi trọng nguyên tắc vẽ tranh, tạc tượng đài đến thế? Ta biết, tuyên truyền là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975. Ngay từ năm 1948, đồng chí Trường Chinh đã nêu ý kiến có tính chất chỉ đạo: “Tuyên truyền cao tới một mức nào đó thì tuyên truyền trở thành nghệ thuật. Nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó thì nghệ thuật có tính chất rõ rệt là tuyên truyền[8]. Chắc chắn, vẽ tranh, tạc tượng đài là cách tuyên truyền nhanh nhất. Bởi vì đó là phương tiện tốt nhất có thể dùng để chuyển hiện thực tư tưởng – mà ở đây là cái hiện thực phân vai tượng đài – từ trong tư duy ra bên ngoài, biến nó thành hiện thực thị giác đập ngay vào mắt quảng đại quần chúng. Cho nên, về mặt phong cách, lại có thể gọi văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa hiện thực thị giác.

 

L. N.

Hà Nội, 5.5.2014

Tác giả gửi Văn Việt.

 

 

 

 

 

 

 

\

 

 

 

 

 

 

Phụ lục: Một số tranh, tượng được sáng tác theo phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa.

 

LN1 

Tượng Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhất tại Đài tưởng niệm Masudae

 

 LN2

Tượng Mao Trạch Đông (vàng ròng, cao 80cm, nặng 50kg, trị giá 16 triệu đô la) tại Thiều Sơn, Tương Đàm, Hồ Nam

 LN3

Tượng đài Lênin ở Moskva

 LN4

Bác Hồ làm việc trong vườn Phủ Chủ tịch

 LN5

 “Mẹ Tổ Quốc” của Nga

 LN6

Phác thảo tượng Mẹ Việt Nam ở Quảng Nam

 



[1] Tố Hữu.- Thơ.- Nxb Hội Nhà văn, 2007. Tr. 283. Mọi trích dẫn thơ Tố Hữu ở phần tiếp theo đều được rút từ nguồn này. Để bạn đọc tiện theo dõi, sau mỗi trích dẫn, chúng tôi sẽ ghi chú đơn giản: Thơ Tố Hữu, sau đó là số trang và để trong ngoặc đơn.

[2] Nguyễn Tuân.- Sông Đà, Nxb “Tác phẩm mới”, H., 1978, tr. 11. Những chữ in đậm do tôi nhấn mạnh – LN.

[3] Trần Đình Sử.- Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, H., 1987, tr.256 – 257.

[4] Nguyễn Tuân.- Sông Đà, Nxb “Tác phẩm mới”, H., 1978, tr. 11,

[5] Tlđd.- Tr. 277.

[6] Tố Hữu.- Thơ.- Nxb Hội Nhà văn, 2007. Tr. 93. Mọi trích dẫn thơ Tố Hữu ở phần tiếp theo đều được rút từ nguồn này. Để bạn đọc tiện theo dõi, sau mỗi trích dẫn, chúng tôi sẽ ghi chú đơn giản: Thơ Tố Hữu, sau đó là số trang và để trong ngoặc đơn.

[7] Anh Đức.- Hòn đất, Nxb Văn học, 1965. Nguồn: http://www.quansuvn.net/index.php/topic,5660.120.html

[8] Trường Chinh.- Về văn hóa và nghệ thuật.- T. 1, Nxb Văn học; H.,1985. Tr. 113.

Chuyện kể năm 2000 (kỳ 1) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

Văn Việt: Đầu năm 2014, một bạn đọc hâm mộ in 100 bản Chuyện kể năm 2000 với chất lượng in cao cấp để tác giả tặng bạn bè.  Điều đặc biệt, đây là bản in đầu tiên theo đúng bản thảo gốc của tác giả. Nhân dịp này, được nhà văn Bùi Ngọc Tấn cho phép, từ hôm nay Văn Việt xin đăng lại toàn bộ tác phẩm Chuyện kể năm 2000, cứ hai ngày một kỳ, theo đúng bản điện tử mà nhà văn Bùi Ngọc Tấn gửi cho Văn Việt.

Lời giới thiệu của nhà văn Nguyên Ngọc cho bản in  2014:

Chuyện kể năm 2000 – Một thiên anh hùng ca

Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn đi vào một “vùng cấm”: Chuyện một người bị oan ức, chẳng vì cái gì cả, hoặc đúng hơn, vì những xung đột mờ ám ở tận đâu đâu, chẳng dính dáng gì đến anh ta, một con người quá ư thật thà, trong trắng, ngây thơ giữa một môi trường xã hội quá nhiều ám muội. Truyện đươc viết theo giọng văn “cổ điển”, không cố tình có những tìm tòi về phong cách, nhưng vẫn hấp dẫn và đầy tính thuyết phục. Vượt qua được những hận thù cá nhân, đạt đến được sự bình tĩnh đáng khâm phục, trong đau khổ cùng cực vẫn đầy nhân ái, không hề to tiếng về sự kiên cường vô song mà thầm lặng của chính mình cũng như về cái ác càng kinh khủng hơn bởi vì nó vô danh tính hay nhân danh cái thiện, cái cao cả. Bùi Ngọc Tấn đã đi xa hơn được rất nhiều việc mô tả một tấn bi kịch cá nhân, thậm chí một bi kịch của chế độ – điều mà một cuốn sách viết về nhà tù thường rất tập trung – để nói đến một tình thế phi lý của cuộc sống, và vô hình chung, cuốn sách trở thành như một thiên anh hùng ca, khiêm nhường mà cảm động về con người, con người có thể đi qua được tất cả những gì xấu xa đen tối nhất, đi qua tất cả bùn lầy, giữ vững chất người của mình chống lại tất cả thế lực đen tối nhất muốn trừ tiệt chất người ở con người. Cuốn sách bị cấm, nhưng bằng nhiều cách vẫn được truyền tay đọc rộng rãi và tác giả của nó được sự kính trọng của toàn xã hội.

 

 CK 1

CK 2

CK 3

CK 4

CK 5

CK 6

0001(1)

Các bản in Chuyện kể năm 2000.

CK 7 (tranh Nguyen Thi Hien)

 Tranh Nguyễn Thị Hiền

CK 8

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn

CK 9

Vợ chồng nhà văn Bùi Ngọc Tấn

 

 

Kính dâng cha mẹ giờ đây khuất núi

Tặng :

                                                                   Vợ con

                                                                   Các anh chị

                                                                   Bè bạn

PHẦN THỨ NHẤT

Có những điều hắn tưởng không bao giờ quên. Thế rồi hắn quên. Dù lúc xảy ra sự việc, hắn tự bảo: Mình sẽ nhớ suốt đời. Làm sao quên được những điều đáng nhớ như thế. Đó là những niềm vui hiếm hoi. Là những sự đau khổ đến tê dại. Không. Không thể nào quên được. Thế mà hắn quên. Thỉnh thoảng hắn muốn ôn lại quá khứ. Hắn không sao nhớ được. Kinh nhất là những đau khổ tột cùng mà cũng quên luôn. Tất cả không hằn được một đường vào nếp nhăn đại não. Có lẽ những nếp nhăn ấy đã bị lấp đầy rồi. Nên nó nhoè. Nó mang máng. Não hắn cứ bị những nhát búa dội vào đều đặn, liên tục. Nó lỳ.

Thế mà hắn vốn là người có trí nhớ tốt. Hắn buồn rầu hiểu rằng đầu óc hắn hỏng mất rồi. Nghĩa là chính hắn hỏng mất rồi. Có người (1) viết rằng con người ta có thể quên cả ngày sinh tháng đẻ của mình, quên cả cái hôn đầu tiên. Ngày sinh tháng đẻ hắn, hắn không quên. Hắn sinh ngày 3-7-1934. Đó là ngày ta hay tây, hắn không biết. Mẹ hắn bảo hình như là ngày ta. Nếu vậy hắn sinh vào khoảng tháng 8 dương. Còn năm ta là năm Tuất. Năm con chó. Cái hôn đầu tiên hắn cũng quên. Làm sao nhớ được. Nghĩ về năm tháng tuổi trẻ và đi ngược lên nữa về tuổi ấu thơ, hắn chỉ thấy một dòng thời gian tươi đẹp đến thắt lòng.

Tóm lại hắn quên nhiều thứ. Nhưng hắn không bao giờ quên cái ngày hắn được ra tù. Đó là một buổi sáng xuân. Chính xác hơn là ngày 3 tháng 4 dương lịch.

Năm đó cũng mưa dầm ghê gớm. Mưa bụi, thứ mưa mịn màng trắng rừng, trắng núi, mịt mở nổi trôi, bồng bềnh tiền sử. Chỉ có những hạt bụi rất nhỏ bay lượn, nhưng tất cả sũng nước. Đụng đến cái gì cũng ẩm kinh người. Đôi giày vải đi rừng của hắn chỉ ba ngày không nhìn đến đã mọc nấm. Thứ mưa trắng những đồi trẩu trên đường bọn hắn đi từ trại đến chỗ làm và ngược lại. Những cây trẩu lá non mềm nhiễm xạ mùa xuân, chỉ một đêm là đồng loạt trổ bạt ngàn những chùm nụ nhỏ hồng hồng.

Nhìn trời, nhìn đất, nhìn cây, hắn hiểu rằng sắp đến mùa chim tu hú kêu đây. Sắp đến mùa hoa gạo nở đỏ rực đây. Hắn nhớ đến một khoảng trời xuân

(1) Trần Dần : – Con người ta có thể vãi rơi đi ngày sinh tháng đẻ của mình

nào đó trong quá khứ. Những luống đỗ mềm trên đất tơi và ẩm. Những vạt cỏ chăng đầy mạng nhện, trĩu những hạt nước. Cành xoan ngoài cửa sổ. Dây tã trắng vợ hắn phơi trong nắng mới. Đó là cuộc sống ở thế giới bên kia. Hắn đi làm cùng anh em tù, mệt mỏi, buồn bã và không nghĩ tới ngày về. Họ là những tù không án. Họ đi tập trung cải tạo. Người một lệnh, người hai lệnh, người ba lệnh. Nhiều người tới sáu, bảy lệnh. Mỗi lệnh ba năm. Theo pháp luật họ chưa tới mức phải xử, chưa tới mức phải truy tố, ra toà. Họ chỉ bị tập trung cải tạo, nghĩa là nhẹ hơn án tù nhiều lắm. Nhưng chưa ai tù một lệnh (ba năm) mà được trở về. Chưa hết bọp này đã được gí thêm bọp khác (1). Cái án cao-su. Cái án tù mù. Cha mẹ ơi, đừng đợi. Em ơi, dù mùa xuân về, dù mùa xuân đi, em ơi đừng đợi. Anh còn chờ dê đực đẻ con như ông Tô Vũ ngày xưa. Một anh tù đã làm bài hát về mình như vậy.

Ngày về của anh tù tập trung cải tạo nào ai biết được. Năm năm sống trong tù, hắn thấy nhiều người thuộc diện được tha, nhưng chỉ vài người tập trung cải tạo và đó là những sự kiện xôn xao cả trại. Còn toàn là tù nặng, tù có án. Năm năm tù hắn không dám kêu lâu, vì ở đây toàn những người kỳ cựu, những xê-ri AM, BM… Một lính đánh nghẽo(2)  bị kết án tù sáu tháng vào trại, được một người tù già bĩu môi:

– Không bằng thời gian tao đi đái, đi ỉa trong tù.

Thời gian của bọn tù tập trung cải tạo được tính bằng lệnh. Họ hỏi nhau:

–  Mấy lệnh rồi ?

Hắn đã lê chân hết nhà tù này đến nhà tù khác. Hắn mụ mi đi. Nhưng sao mùa xuân vẫn hấp dẫn người ta thế. Hắn lẩm nhẩm một đoạn thơ cứ luẩn quẩn trong óc hắn mấy hôm nay, khi những cây trẩu đồng loạt trổ bông.

Tôi đã quên tên tôi dưới mặt trời

Quên tuổi tôi

Cắm sâu lưỡi dao năm tháng

Thời gian băng hà sọ não tôi

Cuộc đời trước hoang đường tiền sử

Từ thế giới này đã mất thói quen dùng lửa

Tôi hoá đá dần nỗi nhớ về thế giới bên kia…  

 

 

(1) Chưa hết lệnh tập trung này đã nhận được lệnh tập trung khác

(2) ăn cắp xe đạp

Trong gần hai ngàn ngày tù dài dằng dặc thành một khúc đông cứng giữa cái sền sệt, đặc quánh của năm tháng cuộc đời hắn, ngoài ngày được tha, hắn còn nhớ rõ cả ngày trước đó, cái ngày cuối cùng hắn ở trong tù.

Chiều hôm trước khi được tha, hắn còn bị lôi thôi. Hắn bị trực trại khám nội vụ (1).

Nội vụ của hắn khá tươm. Nghĩa là đủ mọi thứ. Nó chứng tỏ công lao, sự chăm sóc của vợ hắn. Rất nhiều người khác – đặc biệt là đám tù trẻ – không có được một tài sản như hắn. Một cái hòm gỗ thông sơn xám, nẹp sắt, nguyên là hòm đựng đạn mà một bạn đọc cho vợ hắn để vợ hắn gửi vào cho hắn. Hòm có khoá, một cái khoá Trung Quốc. Khi được gọi ra gặp mặt vợ, trông thấy cái hòm để cạnh chỗ vợ ngồi, mắt hắn sáng lên. Hắn chỉ sợ người ta không cho nhận cái hòm ấy. Cái hòm, đó là một thứ tổng kho, là sự giàu có, đầy đủ tiện nghi trong tù, lại là sự quan tâm của gia đình. Điều đó nâng cao vị trí của hắn ở trong tù, vị trí của hắn trước các bạn tù. Không gì đau khổ và bị xem thường bằng những người quanh năm không được gia đình lên gặp mặt như Nguyễn Văn Dự, như Lê Bá Di chẳng hạn. Cái cảm giác bị bỏ rơi và không có một chút gì đáng giá trước mặt người khác thật là cụ thể. Anh chỉ là thứ tù hạng bét! Vả lại những người tù kỳ cựu, cơ chỉ đều có hòm. Điều đó còn nói rằng anh ta đã xác định được, đã chuẩn bị đầy đủ để sống lâu dài trong tù, khi anh ta không có án mà chỉ có lệnh tập trung cải tạo.

Tất cả những gì giá trị, hắn đều cho vào hòm. Mà những cái đáng giá nhất trong tù là thức ăn. Muối vừng, ruốc thịt, đường, kẹo bánh, chè, thuốc lá. Chuột hết nhằm. Bọn đểu hết ăn cắp. Hắn đã bị mất hai gói kẹo mà hắn chắt chiu, chỉ khi nào mệt lắm, đói lắm mới dám ngậm, mút một chiếc. Đi làm về hắn thấy cái túi lòi ra phía cửa sổ, cái chiếu xộc xệch, hắn giật mình, lao vội đến, thò tay vào trong túi. Hai gói kẹo không còn nữa. Hắn chết lặng, lường hết được tổn thất. Một nhà buôn mất sạch gia tài cũng không đau khổ bằng hắn. Khi vợ hắn lên tiếp tế, cái hòm ấy đầy ắp những xôi, bánh mì và thức ăn mặn. Nhưng đã bốn, năm tháng nay vợ hắn không lên. Chỉ còn lại một ít đường. Bù lại hắn có một túi ni-lông to cơm khô. Vừa cơm vừa cháy. Cơm độn ngô vàng vàng, trắng trắng.

Hắn dành dụm được bằng nhiều cách. Nhét được cái gì vào bụng trong lúc đi làm, đến bữa hắn lại bớt một ít ra phơi. Có nắm cơm khô, yên tâm. Cái

(1) Quần áo, đồ dùng cá nhân của người tù.

lệ là: Chủ nhật không đi làm, bị cắt bữa sáng. Nhịn thông từ chiều hôm trước đến trưa hôm sau, dạ dày nhớ bữa. Đói. Bình thường đã đói, lại cắt bữa. Hoa cả mắt. Sáng chủ nhật, hắn bốc một nắm cơm khô cho vào cái ca, bung lên. Thế là có thể cầm cự được đến bữa trưa. Nếu chiều thứ bảy tạt (1) được nắm rau cải hay củ su hào, lại có thêm quả ớt xanh nữa thì cứ gọi là đại tiệc. Cay cay, mặn mặn, mát mát, bùi bùi, nóng bỏng môi, xụp xoạp vã mồ hôi. Phở Hói, phở Tư Lùn Hà Nội cũng chẳng thú bằng.

Cái ca của hắn bằng nhôm đúc, nửa lít, lợi hại lắm. Cái ca theo hắn vào xà lim ngay từ ngày đầu tiên. Hắn kiếm được một cái đinh gỉ cùn trong khi đi đổ bô, đem về xà lim mài nhọn, sáng loáng và khắc vào đít ca, chung quanh ca bao nhiêu chữ số. Đại loại như: 8-12-1968 (ý hắn muốn kỷ niệm tròn một tháng bị bắt), 3-7 (ý nói ngày sinh của hắn và ngày hắn cùng vợ hắn yêu nhau lần đầu tiên), 8-3-69 (ý hắn nói đã hết lệnh tạm giam bốn tháng đầu tiên, hắn hy vọng sẽ được tha) v.v… Cái ca dày có thể làm cối giã. Hắn đã giã cành rau sắng nấu canh (lá là thịt, cành là xương, ngọt nước lắm), giã lạc giống ăn cắp được trong khi gieo ở Đồng Mít, cho nước, muối vào, đun lên xăm xắp làm thức ăn mặn, kéo dài cuộc sống được một tuần. Lỷ Xìn Cắm, dân lò bát Móng Cái, người Hoa mãi võ đã từng thí võ ở Hà Nội, tù trước hắn hai lệnh, suốt mùa hè cởi trần, lưng cánh phản nâu cháy, thích cái ca lắm:

– Ca này của A Tuấn tốt lắm đấy.

Xìn Cắm ngắm nghía cái ca rồi hỏi:

– Không có nắp à?

– Không.

Thế rồi một hôm hắn thấy Xìn Cắm chân khuỳnh khuỳnh chữ bát đi lại chỗ hắn, mặt mũi râu tóc bạc trắng như Hemingway (2) cầm trong tay cái nắp ca bằng sắt tráng men mất núm. Xìn Cắm bảo hắn:

– A Tuấn đưa ca đây.

Xìn Cắm cầm ca, ấp cái nắp vào, vừa khít. Đưa trả lại hắn cái ca có nắp, Xìn Cắm nở nụ cười trẻ thơ, nụ cười Hemingway, rồi lại khuỳnh khuỳnh chữ bát về chỗ mình nằm. Thật là một người đôn hậu và tuyệt diệu.

Nhược điểm của cái nắp là sứt núm. Dễ thôi, cuộn giấy lại nút vào là xong. Cương, toán lâm sản, mượn cái ca đi rừng. Khi trả lại, ca đã được quấn mấy vòng dây điện bọc nhựa, để cách nhiệt, cầm đỡ nóng. Thật là hoàn chỉnh.

(1) ăn cắp

(2) Nhà văn Mỹ, giải thưởng Nobel

Cái ca có nắp càng thêm lợi hại. Gọn, xếp được ba khúc sắn nục nạc. Một ngón tay đỡ nắp, rồi dốc ngược, quay đít ca lên trên, vung vẩy đi thì trông hệt cái ca rỗng. Cứ thế mà qua mắt quản giáo, trực trại, mang sắn vào buồng giam. Nội vụ của hắn còn có cái cặp lồng. Một cái cặp lồng ác chiến. Cặp lồng trong tù giống xe đạp của cán bộ công nhân viên thời đó. Vừa là phương tiện đi làm, kiếm sống, vừa là tài sản. Có cái cặp lồng đi làm tha hồ sột sệt (1). Đốt đống lửa lên, ninh lá sắn non, luộc mấy cái ngồng cải, nếu tốt số tạt được một con cải bắp nữa thì bành (2) Có cái cặp lồng, nhiều khi không tạt được gì cũng bành. Bạn tù kiếm được củ khoai, nắm rau sắng, túi hạt gắm, chục con nhái, cần sột sệt mà không có gì để nấu, thì cặp lồng của mình đây, cứ lấy mà dùng. Tất nhiên người chủ cặp lồng sẽ là khách mời trong danh dự (miếng ăn thật quí, nhưng hắn vốn rất trọng danh dự). Ngoài việc sột sệt cho mình và cho thuê dịch vụ như cách nói hiện nay, cái cặp lồng còn để đựng nước, một thứ luôn luôn thiếu. Và cuối cùng, khi bí lắm thì chác (3). Cả một tài sản đấy. Được nhiều thứ lắm. Chỉ những anh có máu mặt, anh em toán lâm sản, toán chăn nuôi, toán nhà bếp mới đủ lực chác cặp lồng.

Cái cặp lồng của hắn lại là ngăn dưới cái cặp lồng Liên Xô. Có nắp, có quai xách. To, cao thành, dày. Rang không sợ cháy. Nấu xong bị nhọ, lấy cát đánh bóng loáng, không sợ mòn thủng. Đúng là loại Pơgiô đờ luých! Đờ luých mante!

 Hắn còn có cả một cái bi-đông nhựa. Tất nhiên bi-đông nhôm nhiều công dụng hơn. Cấu búp chè xanh, nhét đầy bi-đông nhôm, cho nước vào, cời than ở đống lửa ra, đặt bi-đông lên. Chóng sôi lắm. Quản giáo cứ tưởng mình đun nước trắng thôi. Chè búp nấu nước uống ngon hơn chè già nhiều. Nước xanh ngắt. Anh em Cầu Giát, Ba Làng cũng gọi là “nạc chạt”. Chất lừ đấy. Ngon hơn bất kỳ thứ chè xanh nào.

Nhưng bi đông nhựa cũng có công dụng. Nhất là loại bi-đông nhựa trắng mờ, sần sần như của hắn. Kín kín hở hở rất hay. Hắn đã yểm (4) lạc ở đấy, bồng về. Lần ấy toán gieo lạc. Mỗi người ra lồ xúc một bát men lạc giống rồi đi theo từng luống. Hắn mặc hai quần dài. Quần dài bên trong được chít hai ống vào cổ chân. Chít chặt. Tím cả chân. Thế rồi vừa gieo vừa thót bụng,

 

 

(1) Đun nấu, cải thiện, trái với nội qui của trại

(2) No

(3) Đổi

(4) giấu

đổ lạc vào bụng. Lạc tuồn qua bụng, qua đùi, xuống cái quần bên trong đã bị chít, giống như cách dân mình lấy gạo trong kho của Nhật năm đói 1945 mà hắn đã viết trong một tập sách. Lần ấy, anh nào cũng kiếm được một hai ki-lô lạc giống. Nhưng tất cả đều bị thu khi về đến cổng trại. Ai cũng bị khám. Khám cẩn thận, tỉ mỉ. Nắn cả người. Có lẽ anh em đánh hăng quá. Hoặc có ai bẩm (1). Giắt vào người: mất. Buộc vào khoeo chân: mất. Cho vào ống điếu: mất. Nhiều lạc quá. Đến nỗi ông Quân phải bảo nhà bếp lấy thêm lồ ra đựng lạc. Hắn yểm lạc trong bi-đông nhựa, khoác tòn ten bên vai. Nhìn kỹ thì thấy bóng hột lạc nâu nâu qua lần nhựa mờ đấy. Nhưng các ông ấy không thể ngờ hắn lại có thể yểm một cách hớ hênh như thế. Các ông ấy không chú ý tới cái bi-đông nhựa, mà lại lục cặp lồng, lục bị của hắn, rồi nắn người hắn. Hắn thoát. Mang được vào trại một bi-đông lạc giống, hột nào hột ấy tròn căng. Sau lần ấy anh em khợp (2) lạc ngay tại chỗ làm. Không nghĩ đến chuyện bồng(3) về nữa. Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Ông quản giáo cho ngâm lạc giống vào nước phân loãng. Đành chịu. Nội vụ của hắn còn có bộ đồ trà. Nói cho đúng cái ca con pha trà là của già Đô. Hắn chỉ có hai cái chén mắt trâu. Khác với anh em trong tù toàn đắp chăn sợi, rét thì hai người đắp chung hai chăn, hắn có cái chăn bông to sù. Có lẽ đó là cái chăn bông duy nhất ở trại trung ương. Vợ hắn sợ hắn rét. Cũng phải kể thêm cái áo bông của hắn. Hai ki-lô! Gấp lại to gần bằng cái chăn bông. Thứ áo bông Trung Quốc chính hiệu. Cổ lông. Lần ngoài ka-ki xanh. Bông chần ngay vào lượt vải lót. Anh Văn, anh ruột hắn, đi học thủy điện ở Vũ Hán, Trung Quốc, cho hắn. Dạo còn làm báo hắn đã mặc. Hắn gọi là áo ngự hàn. Mặc vào gió mùa đông bắc chỉ có khóc. Những ngày đại hàn chi cực, đi cơ sở lấy tin xong, trở về cơ quan đứng giữa đám phóng viên tím tái vì rét, hắn kéo phía sau áo bông lên bảo Bình:

– Kiếm cái quạt quạt hộ vào lưng với. Nóng quá. Rôm đốt. Ngứa hết cả người.

Cái áo bông vào xà lim với hắn một ngày. Chả là hắn bị bắt vào đầu mùa rét. Khi hắn từ xà lim chuyển sang BD cái áo bông được cả B mến.

Cứ chín giờ tối, kẻng cấm, đi nằm, cái áo bông ấy biến thành của công. Mỗi ca hai tiếng, hai người thức gác, họ mượn cái áo bông của hắn. Ngồi thu lu giữa sàn xi-măng lạnh lẽo, cửa gióng sắt trống hốc, gió thốc vào, khoác cái

(1) báo cáo quản giáo, giám thị bằng miệng

(2) ăn

(3) mang, đem

áo bông của hắn ấm hẳn lên. Cứ thế ca trước chuyền cho ca sau.

Khi lên các trại trung ương, mặc cái áo to rộng ấy, yểm thứ gì vào người cũng dễ. Hắn còn nghĩ được cả cách yểm cải bắp vào áo bông. Chọn cái cải bắp chặt, xinh, to bằng đầu người, xắt đôi ra, đút mỗi nửa vừa khít một tay áo bông. Rồi khoác lên vai (khoác chứ đừng mặc), đi qua trạm gác ngon lành.
Chẳng ai đi tù lỉnh kỉnh như hắn.

Khi nhìn thấy ông trực trại đi vào, theo sau là Chắt, một người tù chuyên làm việc khoá cửa, mở cửa các buồng giam, mọi người dừng tất cả các công việc. Lúc ấy cả toán vừa đi làm về. Hắn cất cặp lồng nước, phơi xong bộ quần áo ướt và nằm ngửa trên giường mệt nhọc. Hắn nhìn lên mái nhà, mắt trống không. Cạnh hắn, già Đô với bộ râu rễ tre dài tới ngực, lốm đốm hoa râm, người nhỏ thó, đang ngồi xổm soạn những ca, những ống bương đựng nước, những gói, những quần áo ướt mới giặt. Anh em trong buồng giam, người đang phơi quần áo, người quay vào vách, về phía đặt nội vụ, soạn những thứ tạt được hoặc kiếm được trong lúc đi làm, chí ít cũng là vài lít nước múc ở ngoài suối. Người nhanh hơn đã nằm duỗi dài trên sàn. Tiếng lục cục của những phản gỗ kênh, tiếng giũ quần áo ướt, tiếng một anh thử cái nõ điếu mới khoét chóp chóp và cả vài tiếng rì rầm.

Họ đến. Tất cả im lặng. Những người đã nằm, ngồi nhỏm dậy. Hơn trăm con mắt nhìn người công an áo vàng và Chắt, người tù số một của trại, nghĩa là người tù “thơm” nhất trại. Hai người đi về phía hắn. Già Đô giấu vội ca rau, làm đổ cả bi-đông nước. Hắn và già Đô cùng quê nên bao giờ cũng nằm cạnh nhau và bao giờ cũng nằm tầng trên, chỗ sát cửa sổ, gần cửa ra vào. Nằm ở những chỗ như vậy, thoáng sạch hơn, lại xa nhà mét. Mỗi khi chuyển buồng bao giờ hắn cũng nhanh chân nhảy lên chiếm chỗ trước cho mình và cho già Đô. Rất nhanh hắn đã kịp ấn con dao mảnh, rộng bằng ngón tay và chiều dài cũng như vậy, xuống cái khe giữa vách và sạp gỗ. Nó rơi xuống tầng sàn dưới không một tiếng động kim loại, bởi vì chỗ ấy cũng lủng củng những nội vụ của Voòng Kỷ Mình, một anh tù tập trung cải tạo, đã ở đến lệnh thứ tư.
Ông trực trại và Chắt nhảy phắt lên tầng trên.

– Vừa giấu cái gì đấy?

Ông ta quát to, nhưng giọng không nhiệt tình. Hắn lễ phép:

– Thưa ông, không.

Mặt hắn tỉnh bơ. Hắn nói dối thần tình. Vào tù hắn đã học được hai điều: Ăn cắp và nói dối. Không ăn cắp vẫn sống được đấy. Nhưng khổ. Và buồn nữa. Nếu không có cái lo lắng hồi hộp của việc ăn cắp và bồng của ăn cắp được về trại thì buồn lắm, buồn không chịu nổi. Sung sướng biết bao khi mình vẫn lấy cắp và mang được về trại tất cả, vượt qua vòng kiểm soát nghiêm ngặt của các ông quản giáo. Ăn cắp với hắn còn có nghĩa phản kháng, tuy sự phản kháng đó hơi nguy hiểm. Nó dẫn tới kỷ luật, cùm xà lim, ăn cháo loãng. Và nếu ăn cắp, nếu vi phạm nội qui, họ không bắt được quả tang thì chối. Chối phắt. Con dao, đó là sự vi phạm nội qui nặng đấy, dù chỉ là một mảnh sắt tây được mài sắc, để cắt một cây rau cải nhổ trộm được, hay gọt vỏ một mẩu sắn chạy nhựa xanh lè vớ được trong rừng, chuột, sóc ăn nham nhở. Ông quản giáo đứng trên tầng trên, đầu gần chạm cái giá dài làm bằng những cây nứa, một kiểu xích-đông chạy suốt phòng giam, trên ấy anh em tù để một phần nội vụ. Chắt làm nhiệm vụ của mình. Chắt bắt đầu lục, giở tung nội vụ của hắn. Ông quản giáo đứng nhìn, mặt nghiêm khắc. Không biết ông quản giáo có nhớ hắn không. Chứ hắn thì nhớ ông. Bởi thế nên hắn rất sợ ông. Với ông mọi việc đều có thể xảy ra.

*

*        *

Cách đây khoảng nửa năm, nghĩa là cuối năm 1972, một buổi sáng hắn cùng tất cả anh em tù xếp hàng đi làm thì ông quản giáo gọi tên hắn. Tên hắn và tên một số người khác.

Ngơ ngác, không biết có việc gì, hắn đứng tách riêng ra. Những người tù khác cũng đứng tách ra. Khoảng sáu bảy người. Ai cũng cầm một cái túi hoặc một mảnh ni-lông.

Khi sân trại đã vắng ngắt, hắn cùng những người tù còn lại đến sát phòng trực, ngay cổng trại.

Những người tù kia đi ra khỏi cổng. Hắn nhìn Chắt ngơ ngác. Chắt bảo:

– Vợ lên. Vợ lên hôm qua, không biết à?

Hắn đến đứng trước mặt ông trực trại, lễ phép:

– Báo cáo ông cho tôi về buồng lấy cái túi.

Ông trực trại – vẫn ông hôm nay đến khám nội vụ hắn, tên ông là Thanh

Vân, đeo lon hạ sĩ, có nước da ngăm ngăm, nhìn hắn:

– Nhanh lên!

Hắn băng qua cái sân rộng về phòng, nhún mình đu lên sàn trên, cầm mảnh ni-lông và lao ra. Những người tù được gặp người nhà đã ra hết. Hắn thở hổn hển, cố nén niềm vui, giữ cho mình vẻ mặt kính cẩn và đau khổ:

– Báo cáo ông, cho tôi ra.

Hắn nhận được câu trả lời làm hắn choáng váng:

– Quay về buồng.

– Thưa ông…

– Về! Anh không được gặp nữa. Đến vợ con anh, anh cũng còn không thiết, còn nói gì nữa.

Hắn chết lặng và biết tội của hắn: Sự chậm trễ.

– Thưa ông, tôi đã xin phép ông cho tôi về lấy mảnh ni-lông.

– Sao anh không mang ra ngay từ đầu?

– Báo cáo ông, tôi không biết người nhà tôi lên.

– Sao những phạm khác lại biết ?

Cái ấy thì hắn chịu. Hắn ngớ ra. Đúng là những người khác biết được gia đình lên. Còn hắn không biết. Nhưng hắn có phải là tù chuyên nghiệp đâu mà có lắm bạn bè ở mọi toán, mọi chỗ, thông tin cho hắn.

Dù đã năm năm tù, hắn vẫn cứ là hắn, rụt rè, cẩn trọng, không muốn mở rộng quan hệ với anh em tù. Hắn chỉ có thể cởi mở trong giới của hắn, những người viết văn, những người làm báo.

– Báo cáo ông, không ai bảo cho tôi cả.

Ông quản giáo tỏ vẻ thương hại hắn:

– Thôi, về buồng! Anh được nghỉ làm ngày hôm nay.

Với ông, được nghỉ làm là một đặc ân rồi.

Hắn hiểu. Những ngày sống trong tù hắn hiểu rằng không thể và không nên nài nỉ điều gì khi người ta đã quyết định. Cái đó chỉ có hại cho mình. Vì người ta muốn tỏ cho anh biết người ta có quyền lực, có quyền quyết định về anh, dù quyết định ấy thế nào chăng nữa. Rằng anh là một con số không, hơn nữa, một con số âm. Anh không có một chút quyền cơ bản nào, hoàn toàn nằm trong bàn tay sắt của chính quyền và phải tuyệt đối chấp hành nó.

Hắn mang miếng ni-lông gấp gọn trở về buồng gíam. Cửa buồng vẫn mở. Anh em đi làm hết. Nội vụ xếp ngay ngắn, vuông thành sắc cạnh, đặt sát vách san sát tầng trên tầng dưới, bên này bên kia, ô cao ô thấp, ô dày ô mỏng, ô cộm lên hòm xiểng, ô chỉ một mảnh chăn sợi mỏng tang. Mỗi ô nội vụ là một cuộc đời. Hắn ngồi, rót một ca nước từ bi-đông của già Đô. Uống. Hắn nghĩ đến vợ hắn đang ở ngoài kia. Vợ hắn ở sát biển, xa lắm, lên tận chốn rừng sâu này với hắn.

Bây giờ vợ hắn gần lắm, ngay ngoài kia thôi mà hắn không được gặp. Hắn không ngờ vợ hắn lại đi tiếp tế cho hắn trong hoàn cảnh gay go như thế này. Máy bay Mỹ bắn phá khắp nơi. Máy bay Mỹ cháy ngay trên trời, hắn nhìn rõ. Phi công Mỹ nhảy dù rơi xuống trại trong, các ông cán bộ đuổi bắt được đưa về tỉnh. Ôi! Vợ hắn! Hắn đã viết thư cho vợ nói bóng nói gió rằng: Ngày về của hắn không biết đến bao giờ. Hắn khuyên vợ hắn nên suy nghĩ kỹ, kẻo không lỡ dở. Điều đó chỉ làm cho hắn thêm yên tâm sống trong tù. Hắn càng đau khổ gấp đôi khi vợ hắn vì hắn mà huỷ hoại cuộc đời.

Thế nhưng vợ hắn không bỏ hắn. Lại còn lên thăm hắn. Hắn thương và yêu vợ thêm nhiều lần. Giờ đây càng thương. Càng đau. Người ta sẽ trả lời vợ hắn là hắn cải tạo không tốt, nên lãnh đạo trại không cho gặp. Tât cả những người không được gặp mặt đều chung một lý do như vậy.

Vợ hắn, một cô gái nhỏ xíu, một cô nữ sinh Hà Nội, cơn gió thổi cũng bay, bước vào giữa trận bão cuộc đời này mà không được chuẩn bị gì hết. Thoắt một cái, từ bình minh của cuộc đời, của tình yêu hạnh phúc, của niềm tin, nàng đã ở ngay tâm bão.

Chiều hôm qua cơn bão đã cuốn nàng từ biển đến đây, một thung lũng giữa rừng già Việt Bắc. Từ P. tàu xe lên Hà Nội, ăn đợi, nằm chở, ngủ vạ vật ở ga Hàng Cỏ… Rồi đi tàu, rồi đạp xe ba chục cây số đường rừng đến đây với niềm tin sẽ được gặp chồng.

Hắn nghĩ đến cảnh vợ hắn trở về, mang theo cả đồ tiếp tế. Lại ngần ấy đường dất. Bom đạn, cầu đò. Tàu hoả phải tăng bo. B52 bắn phá… Hắn hình dung ra được vì hắn cũng trải qua cảnh ấy trong chiến tranh.

Hắn ngồi uống nước một mình, muốn khóc mà không khóc được. Hắn thương vợ đến đứt lòng. Hắn hình dung rất rõ vợ hắn, người nhỏ nhắn, dáng đi hơi ngả ngả về phía trước. Không biết nàng có phi-dê tóc nữa không. Lâu quá rồi hắn không được gặp vợ. Kể từ khi chuyển lên trại này gần một năm rồi, vợ hắn lên thăm hắn lần này là một. Xa xôi quá. Đi thuận tàu xe cũng phải mất ba ngày. Lại đang bắn phá. Nguy hiểm lắm. Lại còn một điều nữa. Hắn đã tù lâu. Ừ thì so với Nguỵ Như Cần hơn 20 năm, Nguyễn Văn Phổ 18 năm với rất đông anh em Cầu Giát, Ba Làng từ năm 1956 tới nay, thì hắn còn là mới. Nhưng năm năm cũng lâu. Ừ, năm năm đã gọi là lâu được chưa?

Giá hắn tù đến chín năm thì có thể nói là lâu được. Ba lệnh như bọn Hỉn Sán, Xìn Cắm mới được nói về mình là người tù lâu. Năm năm tù không lâu, nhưng cũng đủ làm kiệt sức vợ hắn, cạn dần những cố gắng của vợ hắn.

Hắn bình tĩnh đón nhận sự cạn kiệt ấy, như mọi người tù lâu khác, như mọi người tập trung cải tạo khác. Không thể bắt vợ phải khổ mãi vì mình. Phải để cho vợ con bình thường hoá cuộc sống. Đó là sự chia sẻ trở lại của người tù với gia đình bên ngoài.

Lâu không gặp vợ, hắn yên tâm tù, bởi lẽ hắn nghĩ vợ hắn không vất vả vì hắn. Không có hắn, nàng đã khổ cực lắm rồi. Hắn quyết hoàn toàn đơn độc thích nghi với đời sống trong trại. Không mơ ước ngày về. Chịu được đói. Đói dạ dày vơi và đói chất. Và tạt tốt. Tạt nhanh như sóc. Ăn được mọi thứ. Nhái, lá sắn, củ ráy đã ăn được. Tốt. Phấn đấu ăn những thứ khác mình vẫn còn sợ chưa dám ăn. Đừng hướng về những quả tắc (1) của vợ mà hướng về trại. Như rất nhiều người tù lâu đã làm vậy.

Hắn đã xác định được thì vợ hắn lên.

Hắn hình dung vợ hắn như những lần hắn gặp trước ở trại QN. Đôi mắt nhìn hắn thương xót và đau đớn như chính nàng đang bị hành hạ. Khuôn mặt ấy đã chết hẳn nụ cười. Khuôn mặt của những người chịu đựng tai họa, gắng hết sức chịu đựng, đứng vững. Khuôn mặt của những người không nghĩ gì đến bản thân, sẵn sàng làm tất cả cho người mình yêu thương.

Nhìn khuôn mặt nàng, hắn hiểu hết những gì nàng đang gánh chịu ngoài đời. Hắn uống một ngụm nước lạnh nữa, vì hắn cảm thấy lồng ngực nóng bỏng. Và hắn nằm. Dù sao hôm nay cũng được nghỉ buổi làm. Hắn tự động viên.

Một lúc sau có tiếng chân người đi đến. Hắn vẫn nằm, bắp tay che mặt. Ai thì ai, hắn không cần. Hắn đang muốn chết.

Tiếng Chắt:

– Buồng này còn ai không nhỉ?

Chắt đến khoá cửa buồng. Hắn nhỏm dậy:

– Tôi! Có tôi ở nhà.

Chắt hai tay nắm hai cánh cửa đang định đóng lại, bước vào:

 

(1) túi đồ tiếp tế

– Sao, ông ấy không cho gặp à?

Chắt đứng dưới đất, ngước mặt lên, nói chuyện với hắn, giọng thông cảm. Hắn vẫn ngồi trên sàn trên. Hắn lắc đầu:

– Vào lấy miếng ni-lông ra thì anh em đã đi hết rồi. Ông ấy không cho ra nữa.

– Vợ lên từ chiều hôm qua cơ mà. Lên với một người nữa.

Lại một thông tin mới. Ai? Ai lên thăm hắn nhỉ?

– Già hay trẻ?

– Khoảng ba mươi. Đàn ông.

Giọng Chắt vô tình, thản nhiên. Chắt với hai má hóp, giọng nói khàn khàn, vung vung chùm chìa khoá khổng lồ:

– Thế không có đứa nào bảo cho biết à?

– Không. Anh có trông thấy nhà tôi không?

– Có. Hôm qua bà ấy đến từ sớm. Hôm qua lên đông. Người nhà Phổ, toán 12, mãi tối mịt mới đến. Gần hai mươi người cơ mà.

Chắt đi ra cửa:

– Anh ở nhà, khỏi phải khoá nhé?

– Anh bảo nhà bếp bớt lại suất cơm tôi.

Chắt bước ra. Một lúc sau thấy anh em tù nhà bếp gánh nước sôi lên đổ vào các phuy ùm ùm. Nước sôi hay nước nóng? Nước nóng thì chắc chắn hơn.

Hắn mang các thứ dụng cụ đựng nước của hắn và già Đô ra vợi vào ca, cặp lồng, bi-đông, ống bương, bát men… Hắn đặt tất cả lên sàn trên. Rồi hắn đu lên, xếp gọn vào đầu giường. Hắn rửa mặt bằng cả một cặp lồng nước. Một cặp lồng khác vò lại khăn mặt.

Nghỉ ở nhà chỉ thích nhất khoản nước. Không phải tranh nhau, chậm chân là hết, hoặc có nghiêng thùng đi mà vét cũng chỉ được vài ca. Khoảng mười giờ, hắn mang bát xuống nhà bếp. Anh em mang cơm các toán đã tề tựu.

Trong sân bếp gần trăm con vịt non, có con đã cắt tiết nhưng vẫn vẫy cánh lết ra một nơi, quét theo một vệt máu, những con đã nhúng nước sôi vứt riêng một góc. Một cái thùng to đầy vịt đã cắt tiết ở nách, ở gáy, ở chân, chớp chớp mắt long lanh. Nước trong thùng đỏ như máu. Một anh ấn hai tay vào quẫy lộn lũ vịt ấy. Đó là anh ta vò nước lã trước khi nhúng nước sôi.

Những con còn khoẻ vẫy cánh bắn tung toé nước máu lên mặt, lên tóc, lên người anh ta. Ở trong lồng những con vịt nhép kêu hếp hếp, hếp hếp. Vịt bé quá, còn đang mọc lông. Chắc người ta bị nhỡ lứa, bị cấm đồng.

Thì ra món thịt vit ông chánh giám thị hứa hẹn là vậy.

Một anh nhà bếp rên lên:

– Thui thôi, không nhổ được đâu.

Người ta thui. Lông cháy, da ám khói. Đen sì. Khét lẹt.

– Này ngồi xuống, hộ cánh này một tay.

Một anh nói với hắn. Chắt thông cảm:

– Đang buồn, vợ lên không được gặp.

Hắn nhận suất cơm. Cơm nhận riêng thế này thường được nhiều. Đầy bát hai mươi (1). Mùi cơm trộn mì thơm ngào ngạt. Nhưng hắn không thấy đói. Hắn vẫn còn thương vợ hắn. Hắn vẫn còn đau, còn tê dại.

Ôi! Sao người ta lại có thể độc ác đến như vậy. Hắn không hiểu nổi. Hắn vẫn không quên ông Thanh Vân.

Chiều chiều, khi anh em tù đã bị khoá trong các buồng, ông thường đi bách bộ ngoài sân. Hai tay khoanh, ấp một quyển sách vào ngực, ông đi tư lự, nhiều khi mỉm cười một mình như một nhà thơ hay nhà triết học.

Nằm sấp trong buồng giam, nhìn qua cửa sổ ra sân, hắn thấy ông Thanh Vân thật buồn cười: Ông ta cố làm cho mình thành một nhà tư tưởng. Một lần ông chậm rãi, đếm bước ngay sát cửa sổ, hắn ngã người: Quyển sách áp vào ngực ông Thanh Vân là quyển Hoá học lớp 10. Ông ta lại đang làm ra mình là một nhà trí thức. Ông có thể là một người hiền lành, chất phác, cày ruộng giỏi, thương người, nhưng ông cố tỏ ra từng trải, có quyền lực. Chưa đủ, ông còn muốn mọi người biết là mình có tri thức, phải phục tùng mình tuyệt đối.
Hắn đã phục tùng ông Thanh Vân. Nhưng phục ông thì không. Không bao giờ. Hắn thương hại sự nghèo nàn của ông, căm giận sự độc ác của ông. Sau này khi được tự do, hắn nghĩ về ông có độ lượng hơn: Ông ta cũng chỉ là nạn nhân, là sản phẩm của một hoàn cảnh, một chính sách, đang hoàn thiện mình để sống trong những điều kiện mới.

Buổi chiều, giữa lúc hắn đang nghĩ đến vợ hắn, đến đoạn đường vợ hắn đã đi được để về nhà, thì Chắt vào gọi:

– Ra, cán bộ gặp.

Lóe lên hy vọng. Hắn vội giắt vào bụng mảnh vải nhựa.

Không phải ông Thanh Vân ngồi trong phòng trực. Một ông quản giáo

 

(1) Bát sắt tráng men, đường kính 20 cm.

già, người miền Trung, da mặt thiết bì, cao lớn. Chưa một người tù nào một

lần thấy ông cười. Tên ông là Quân.

– Báo cáo ông, tôi là Tuấn, có mặt.

Ông Quân nói nhạt nhẽo:

– Anh ra gặp gia đình.

Hạnh phúc bất ngờ quá. Hắn nói với ông Quân giọng lễ phép:

– Cám ơn ông. Báo cáo ông, tôi đi.

Ông Quân quay đi nhìn chỗ khác. Với ông, hắn không còn đứng đấy nữa.

Hắn đi ra, rảo bước về khu gặp mặt. Một căn nhà lưng chừng đồi, cách cổng trại hai trăm mét, lẩn trong các lùm cây, người đứng lố nhố. Hắn vừa đi vừa nhìn xem có thấy vợ hắn đang đứng đó không? Buổi chiều, nhưng còn đông, vì có những người đã được gặp mặt rồi, nhưng vẫn phải ngủ lại sáng hôm sau mới về.

Kia rồi! Vợ hắn! Đúng vợ hắn. Không phải trong suy nghĩ, trong tưởng tượng nữa mà vợ hắn bằng xương bằng thịt. Cái dáng của vợ hắn dù có lẫn trong hàng nghìn vạn con người hắn vẫn nhận ra được ngay. Hắn vấp một cái điếng người. Tim hắn đập rộn lên. Một người đứng cạnh vợ hắn, nam giới, cao, giơ tay vẫy hắn. Bình. Người bạn thân nhất của hắn.

Hắn đi chậm lại. Hắn muốn kéo dài phút giây hạnh phúc của thời gian chờ đợi này, thời gian vượt qua quãng đường ngắn ngủi này. Anh em tù đang làm dưới ruộng khoai. Những bộ quần áo xám bạc phếch. Họ đang đứng nhìn về phía hắn, thèm khát được như hắn. Lúc hắn bước tới chân đồi, có tiếng gọi vợ hắn và Bình vào trong nhà.

Hắn bước lên bậc cấp. Người đầu tiên hắn nhìn thấy là ông Thanh Vân. Vợ hắn và Bình ngồi ở phía cuối chiếc bàn hình chữ nhật to dài. Ông Thanh Vân ngồi đầu này.

– Báo cáo ông, tôi có mặt.

Ông Thanh Vân chỉ tay vào một cái ghế ở giữa:

– Anh ngồi xuống. Trại giải quyết cho anh được gặp chị ấy, nhưng anh không được nhận đồ tiếp tế.

Lại thế nữa. Nhưng thôi. Không đề nghị, không van xin. Đồ tiếp tế là những thứ cứu sống mình nhưng cũng không là gì cả. Điều quan trọng là được gặp vợ, hai vợ chồng đốí thoại. Được nhìn nhau. Được nhìn Bình, người bạn không bao giờ bỏ hắn.

Những câu đối thoại không biết bắt đầu từ đâu, luôn bị ám ảnh bởi sợ hết giờ. Những câu đối thoại có sự hiện diện của ông quản giáo, chỉ là những điều dối trá. Thì thôi, hãy nói cho nhau nghe những điều dối trá. Chúng ta đã học cách nghe những lời dối trá để qua đấy biết được sự thật. Ông Thanh Vân đã lại lúi húi vào quyển sách giáo khoa. Lần này là quyển Vật lý lớp 10. Ông là một người vừa thâm canh, vừa quảng canh trí tuệ.

Vợ hắn lên tiếng trước:

– Anh có khoẻ không?

Hắn nhìn vợ. Nhìn thẳng vào mắt vợ. Vợ hắn cũng nhìn vào mắt hắn. Hai người nhìn nhau. Họ đọc trong mắt nhau tình yêu thương, nỗi khổ cực, sự đau đớn, niềm tin, sự phẫn uất, nỗi tuyệt vọng, lòng xót thương không bờ bến, sự khao khát bên nhau và nỗi hận không làm được cả vũ trụ nổ tung lên.

Im lặng khá lâu. Ông Thanh Vân ngẩng lên. Không nhìn lại, hắn vẫn cảm thấy cái ngẩng lên ấy. Có lẽ ông ngẩng lên vì không thấy hắn trả lời.

– Em khoẻ không?

– Em khoẻ, thầy mẹ khoẻ, các con khoẻ.

Ai cũng khoẻ cả, điều ấy hắn không tin.

– Sắp rét rồi, nhớ quàng khăn cho các con, kẻo chúng nó viêm họng.

– Bé Dương hay ốm lắm. Ba ngày khoẻ, bảy ngày ốm.

Dương là đứa con út. Vợ hắn đẻ khi hắn đã bị bắt, hắn chưa biết mặt.

– Em có vất vả lắm không?

– Vất vả. Em phải làm thêm. Tối các con ngủ; rửa bát, giặt giũ xong, em lại lấy bàn là ra là quần áo cho mậu dịch. Anh Thân xin cho. Mỗi tháng cũng thêm được 15 đồng.

Hắn chẳng biết khuyên vợ thế nào, động viên vợ thế nào. Hắn cam chịu bất lực. Sự bất lực của một người từng làm chủ gia đình, đứng mũi chịu sào, cáng đáng mọi việc, kiếm đủ tiền nuôi vợ, nuôi con. Công việc trong nhà hắn cũng chẳng nề hà, kể cả nấu cơm rửa bát để vợ được nghỉ trong khi nuôi con mọn.

Hắn thở dài.

Hắn không muốn thở dài trước những ông quản giáo, vì hắn cho rằng tiếng thở dài của người tù sẽ đem lại niềm vui cho họ. Hắn không muốn tỏ ra mềm yếu trước mặt người khác. Nhưng lúc này tiếng thở dài là cái van xả xúp-páp an toàn. Nếu không người hắn sẽ nổ tung lên mất. Cả người hắn như một quả núi lửa nghẹn ngào. Họ nói chuyện về bố mẹ, về sự học hành của các con. Ôi, bố mẹ hắn giờ đây gánh vác tất cả gánh nặng con cái của hắn. Hắn thật là một thằng bất hiếu, một thằng khốn nạn. Và lũ trẻ, bao giờ gặp lại. Những đứa con gần như không bố…

– Anh đã viết đơn đi các nơi…

Bình bây giờ mới lên tiếng:

– Ngọc vẫn viết, nhưng không ai trả lời.

Hắn lặng im một lúc:

– Anh vẫn đi làm bình thường. Lên trại này có dễ chịu hơn. Thôi, em không phải lên thăm anh nữa. Còn bao việc em phải lo.

Ngọc giàn giụa nước mắt, những dòng nước mắt lặng lẽ. Hắn nhìn vợ không bằng lòng. Cái nhìn ấy muốn nói: Đừng khóc em. Có ai thương chúng mình đâu. Những giọt nước mắt của em anh không trả được.

Ông Thanh Vân rời quyển sách Vật lý lớp 10, đứng lên:

– Thôi. Hết giờ gặp. Anh Tuấn chuẩn bị về trại.

Bình cúi xuống xách cái bọc to vẫn để dưới ghế, đặt lên bàn:

– Báo cáo đồng chí…

Đã lâu lắm mới nghe thấy tiếng “đồng chí”. Tiếng đồng chí nhầy nhụa như máu tươi(1). Hắn giật mình, sợ hãi về tiếng đồng chí lạc lõng, phạm thượng ấy. Nhưng hắn trấn tĩnh ngay. Bình không bị đi tù, Bình chỉ là người nhà của người tù. Bình vẫn là phóng viên báo Đảng và vẫn có quyền gọi ông Thanh Vân là đồng chí. Nhưng hắn vẫn sợ ông Thanh Vân xúc phạm Bình, hoặc sau này sẽ có hành động trù dập hắn…

– Báo cáo đồng chí, xin đồng chí cho anh Tuấn được nhận chút quà gia đình đem lên.

– Không được. Chúng tôi chiếu cố lắm mới cho anh Tuấn được gặp mặt hôm nay.

Vợ hắn nài nỉ. Bình nài nỉ. Hắn chưa bao giờ thấy vợ và người bạn thân thiết của hắn nài nỉ ai như vậy.

Cả hai vốn là những người tự trọng, rất tự trọng. Ông Thanh Vân cười tươi động viên:

– Thôi, chị với anh cứ mang về. Lần sau lên chúng tôi cho nhận.

(1) I. Ê-ren-bua

Giả dối đến thế là cùng. Hắn cắn chặt răng, người run lên vì buộc phải im lặng. Hắn ghê tởm nhất thói đạo đức giả.

Bình đứng dậy. Hắn sợ Bình không giữ được bình tĩnh. Hắn nhìn Bình van vỉ. Bình hiểu cái nhìn ấy.

– Thưa đồng chí, đang lúc chiến tranh, chúng tôi vượt bao đường đất mới lên được đến đây. Cả nhà cố gắng chắt bóp dành cho anh Tuấn ít quà để anh ấy có thêm sức khoẻ cải tạo. Kẹo, bánh, vừng, ruốc, thì để làm sao được đến chuyến thăm sau. Với lại chưa biết đến bao giờ chúng tôi mới lạí lên thăm anh ấy được.

Hắn nhăn mặt. Nhăn mặt vì chữ “cải tạo” Bình nói.

Hắn không làm gì để phải cải tạo. Hắn không có tội gì hết. Chưa một người công an nào nói hắn mắc tội gì. Lệnh bắt hắn: Tuyên truyền phản cách mạng. Hắn đã bác bỏ trong hỏi cung và không ai buộc tội hắn.

Người ta ấn cho hắn cái lệnh tập trung cải tạo với tội: Phần tử nguy hiểm cho cách mạng. Thật là biến hoá ảo thuật khôn lường.

Bình ơi! Mày không hiểu gì hết. Nếu có tội thật thì vào đây cũng không cải tạo được gì đâu. Trước đây tao cũng nghĩ như mày, nhưng bây giờ tao tin chắc như vậy. Đây chỉ là một địa ngục rợn người, với mục đích rõ ràng: Làm cho người ta khiếp sợ.

Hắn vẫn ngồi, nói với Bình, trước khi ông Thanh Vân có ý kiến:

– Thôi, Bình ạ! Đừng nói nữa, vô ích. Mình ở đây mình biết: Ở đây các ông ấy đã quyết định thì cứ vậy mà làm. Đề nghị cũng không được đâu. Ở đây rất nghiêm khắc.

Hình như mấy tiếng cuối làm ông Thanh Vân bằng lòng. Ông cười, khuôn mặt bầu bĩnh, ngăm ngăm, chất phác và thoả mãn.

Ngọc đặt tay lên bọc quà, im lặng. Hắn nhìn hai người. Chưa bao giờ hắn gặp mặt mà phải ngồi xa vợ như vậy. Phải đến hơn hai mét. Chỉ vì trại này đóng cái bàn to quá. Thật sự, lúc đó hắn không cần gói quà to tướng đặt trên bàn kia. Hắn không muốn vợ hắn và Bình phải cúi mình vì hắn. Cả bốn người vẫn ngồi.

Hắn lại cảm thấy ông Thanh Vân cúi xuống quyển Vật lý. Hắn nhìn gò má đã khô nước mắt của vợ:

– Đi có vất vả lắm không?

– Có anh Bình đi cùng, cũng đỡ.

Hắn nhìn Bình:

– Mình chỉ còn có cậu.

Bình nói:

– Tuấn biết đấy, mình cũng chỉ có cậu…

Hai người không dám mày tao với nhau trước người cán bộ thay mặt chính quyền. Một quãng đời đã chết thấp thoáng hiện ra.

Chợt ông Thanh Vân ngẩng lên nhìn Ngọc:

– Thôi. Chị có thể để lại cho anh Tuấn một ít quà. Một ít thôi. Khoảng một phần ba chỗ ấy.

Cả ba người đứng lên. Ngọc nhanh nhẹn giở túi vải, nhấc từng thứ để ra bàn như sợ người công an thay đổi ý định.

Hắn cầm tấm ni-lông bước lại gần vợ. Hắn nhìn bàn tay nổi gân của vợ đang xếp. Hắn lại nhìn trộm rất nhanh mái tóc của vợ hắn, rõ từng sợi tóc. Cả những chân tóc ở đường ngôi, da đầu trăng trắng.

Năm cái bánh mì. Một gói to cơm nếp (nấu sáng nay ở đây đấy. Em mượn nồi của trại), ruốc thịt (em giã ở phố), vừng (thầy mẹ giã ở quê cho anh đây). Đường (gói đường này của anh Chân), súp bò (súp bò này của anh chị Thân). Bánh quy kem (của thằng cháu Côn). Bàn chải. Thuốc đánh răng.

– Nhiều quá rồi đấy.

Ông Thanh Vân chỉ vào từng gói: “Cái này, cái này. Thế thôi”. Vợ hắn vẫn rút trong túi ra những đồ tiếp tế. Và bây giờ mới là những thứ quan trọng nhất, giá trị nhất: Một gói to thuốc lào, một tút thuốc lá Tam Đảo, và bốn gói chè (hai gói loại 1, hai gói loại 2).

Mắt hắn sáng lên. Chỉ những người trong tù mới biết giá trị của những thứ đó. Gói thuốc lào này (nhìn sợi thuốc hắn biết của bố hắn giồng) có thể hút thoải mái nửa năm, kể cả cho đi chút ít và hút chung với già Đô. Còn thuốc lá, chè. Đó là chìa khoá vạn năng để có tất cả. Đó là ngoại tệ mạnh, là đô-la. Mọi thứ đều tính ra đơn vị “biêu” (bao thuốc lá) và “lệnh” (lạng chè). Hắn nhặt những thứ quan trọng nhất để riêng ra. Chè, thuốc lào, thuốc lá, vừng, ruốc, đường… Những thứ gọn nhẹ nhưng giá trị, chiến đấu lâu dài được, để dành được. Gói xôi tú hụ, hắn nhìn mà buốt ruột. Bớt được mấy bữa cơm. Tha hồ phơi. Mà lâu lắm rồi không được ăn của nếp. Từ Tết đến giờ. Mười tháng rồi. Nhưng thôi. Vợ hắn cúi gằm xuống (để tránh cái nhìn của ông quản giáo):

– Xin anh cho chồng tôi nhận mấy cái bánh mì ăn sáng.

Ông quản giáo lặng im. Vợ hắn đưa gói cơm nếp sang đống của hắn, trên mảnh ni-lông trải rộng.

– Gói xôi nữa, xin anh cho nhà tôi được nhận gói xôi.

Ông Thanh Vân lặng im. Gói xôi nằm trên mảnh ni-lông.

– Còn gói bánh kem anh cho nhà tôi được nhận nốt.

Thấy ông quản giáo im lặng, Bình tươi tắn:

– Còn mỗi hai gói kẹo cầm về nó chảy nước ra mất.

Đó là hai gói kẹo lạc xốp. Đã tưởng hết, Ngọc lại lôi từ đâu ra gói kẹo cứng nữa.

– Cái này chúng tôi định để ăn đường. Nhưng thôi, anh cho gửi nốt. Cám ơn anh.

Chưa hết. Bây giờ mới thật sự là món cuối cùng. Ngọc giở ví, lấy ra năm đồng:

– Anh cho nhà tôi nhận để chi tiêu.

Ông Thanh Vân cười hồn nhiên. Đó là nụ cười của cậu bé nhà quê chất phác, hồn hậu, đáng yêu, độ lượng trước những trò ma lanh, vặt vãnh:

– Anh có phiếu lưu ký (1) không?

– Dạ, có.

– Đưa đây.

Hắn móc trong túi ra tờ giấy biên nhận của trại.

Phiếu của hắn chỉ còn mỗi đồng, đã tiêu hết tháng trước: Trại phân phối mỗi người một gói chè Hà Giang và mười điếu Nhị Thanh. Hắn mua cả tiêu chuẩn của già Đô. Chả là già Đô không có tiền âm phủ(2). Ông Thanh Vân nhận tiền, ghi và ký phiếu.

Thế là hắn được nhận tất cả. Từ chỗ không có được gặp vợ, đến chỗ được gặp nhưng không được nhận quà, rồi nhận một tí quà và cuối cùng được nhận tất cả. Thật là kỳ diệu. Hắn không ngờ câu nói của hắn với Bình: “Ở đây các ông ấy quyết định là cứ thế mà làm. Đề nghị không được đâu. Ở đây rất nghiêm khắc” lại có tác dụng quan trọng thế.

– Anh Tuấn về trại!

Mệnh lệnh nghe cũng không đến nỗi gắt gỏng.

Hắn túm bốn góc miếng ni-lông, đứng lên. Vợ hắn đứng lên. Bình đứng

(1) Phiếu ghi tiền tù nhân gửi trại.

(2) Tiền ghi trong phiếu lưu ký

lên. Vợ hắn lặng người nhìn như muốn nuốt lấy hắn.

Hắn vác quả tắc bước nhanh ra cửa, xuống các bậc cấp. Hình như Ngọc nhớ ra là mình đã quên điều quan trọng nhất. Nàng vội chạy theo mấy bước. Hắn nghe thấy vợ hắn nói phía sau :

– Anh giữ gìn sức khoẻ nhé. Em ở đây, mai mới về. Bây giờ muộn rồi. Tết này em không lên nữa đâu.

Hắn quay lại nhìn vợ lần nữa và đi về trại.

Thơ Hoàng Lê Diễm Trang

Diễm TrangHoàng Lê Diễm Trang còn có bút danh là Phương Uy, hiện là giáo viên tại Tân Hà – Hàm Tân – Bình Thuận.

 

 

 

 

 

 

 

 

Dị phẩm

hắn treo từng nỗi buồn lên những chiếc đinh đóng trên vách
mỗi nỗi buồn là một bài thơ
có nỗi buồn chỉ là một giấc mơ
không bao giờ còn được đến.

hôm qua
hắn tháo xuống tất cả các nỗi buồn
và treo lên chiếc đinh không một đôi giày đỏ
con thằn lằn tắc lưỡi nhạo hắn sau khe cửa
bần thần muốn rụng đuôi.

bởi hôm qua hắn đi chợ
thấy rất nhiều bài thơ như các nỗi buồn của hắn 
xổ bán từng đống bên lề đường
năm ngàn được cả chục chương…

hôm nay
hắn viết bài thơ về cái đuôi con thằn lằn và treo lên vách
cái đuôi trở thành dị phẩm
con thằn lằn 
buồn….!

 

Bước qua ngày bóng nước

 

Ngày trôi mòn vẹt

âm điệu cũ

đường link cũ

kí tự nhập sai

không tin nhắn phản hồi

cơn khó thở

vỡ dần trong khoảng tối

câu thơ bệnh tật chập chùng rơi

ngày cột mặt trời không im lặng

những câu thơ giờ không còn hướng lối

lần mò từng bước chập chững

những câu thơ bị bịt mắt

thảng hoặc câu nói mớ

giữa giấc ngày ảo dụ một niềm tin

ngày lên cơn động kinh gió

hài cốt thời gian mục rữa

câu thơ bặt câm bẩm sinh tự thuở chào đời

tôi ngồi rù quến tiếng nói

từng phiến thanh âm cũ nát

dửng dưng một sự chối từ

những con chữ khỏa thân

vẽ chân dung một ngày vắng mặt

mông má vú vê tiền kiếp

tràn ngập màn hình ba bảy độ âm

trên đốm da ngày bạch tạng

đám sao vàng già nua

chờ ngày tự tận

đã qua đời…

 

 

Ngày tháng mười hai

 

Khi ánh sáng những hoài niệm đã không còn

trái tim thôi không nhoi nhói

Anh ngồi kể lể sự cô đơn của mình

bằng những giấc mơ thì thầm

sự im lặng mang hình dạng một sợi gai

và những cảm xúc xộc xệch rượt đuổi nhau

những cảm xúc có mùi khét nắng.

Ngày tháng Mười Hai trôi trong vọng âm gió

Chập chờn mơ một tiếng phong linh trong căn gác cũ

Người bạn quen đã lâu kể về mối tình đã qua trên khung chat

Cuống họng cứng ngắt lời tỏ tình

Ngày tháng Mười Hai không thèm nói chuyện nữa

lê thê trôi qua trong sự thức giấc trằn trọc

vị cà phê rối bời.
 

Ngày tháng Mười Hai

Bài thơ tình

nằm chơ vơ khản tiếng trên bàn phím

Mùa gió bay rát giọng một giấc mơ

Thị trấn buồn với những bàn chận xộc xệch các con đường

nghe nỗi úa tàn sến sẩm đâm lổ chổ mặt đất

Ngày tháng Mười Hai

bên hành lang hẹp

anh ngồi nhìn những sợi rêu ấm

yêu nhau…!

 

 

Tụng ca cho hoàng hôn

 

Anh tháo hoàng hôn khỏi đường chân trời

bằng bình minh sợi tóc

cũng không tháo được đêm đen

trong dòng kí ức chảy tràn rực rỡ

cơn gió ốm đau

trầy xước trên ngón tay long lanh

những ngón tay nuốt lạnh đang bò trốn vào bóng tối

cơn đêm bệnh tật giật mình

Lúc sáng, một lũ chim không chịu hót

khi các giác quan mưa khuất mặt

chúng đã di trú về phương Nam

em di trú vào cơn mê mặn mùi cổ tích

chuyền dẫn chất im lặng vào cơ thể tôi

ú ớ buồn rợp người

trên những chiếc lá non sáng nay

mảnh trăng đã không còn lưu trữ

lọt thỏm vào vùng tối

im lặng lại bốc mùi trên cơ thể những chiếc lá đang cháy

Cứ để ngày trôi qua chậm xám như thế

kìa cơn gió lạnh ám muội một nỗi đau

và câu kinh vốn dành cho tình yêu

lại tụng ca cho một buổi ngày vừa sập tối.

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Một cuộc đời như một tác phẩm nghệ thuật

Milan Kundera

Thạch Chương dịch

Thế kỷ 21 số 11, tháng 3/1990

Tôi bao giờ cũng cảm thấy đặc biệt khó chịu về lời nhận định người ta gán (theo tôi là không đúng) cho Goethe: “một cuộc đời phải giống như một tác phẩm nghệ thuật.” Vì đời sống vô hình thể và không giống một tác phẩm nghệ thuật nên con người mới cần đến nghệ thuật. Ấy thế mà trong những ngày lớn này của cố hương tôi, miền Trung Âu, tôi đã vô cùng mừng rỡ được biết rằng Václav Havel rồi đây sẽ trở thành chủ tịch nhà nước Cộng hòa Tiệp Khắc. Tôi nghĩ đến ông và tự nhủ: có những trường hợp (rất hiếm) đem so sánh một cuộc đời với một tác phẩm nghệ thuật là chính đáng.

Cả cuộc đời Havel thực ra được xây trên một chủ đề lớn duy nhất; không có gì là ngẫu nhiên về nó cả, không có sự chuyển hướng (Havel chưa hề bao giờ xúc động về những ảo tưởng trữ tình của chủ nghĩa cộng sản cả, vì thế chưa hề có nhu cầu phải vứt bỏ chúng đi, như nhiều bậc tiền bối của ông đã làm); cuộc đời ấy là một tiến trình từ tốn, liên tục, và nó cho ta ấn tượng là một sự thống nhất toàn bích trong sáng tác. Hơn nữa, tôi có cảm tưởng rằng chính Havel đẽo gọt đời mình với một niềm thích thú của người nghệ sĩ, như một nhà điêu khắc đẽo gọt tảng đá, mỗi lúc đem lại cho nó một ý nghĩa và hình dạng sáng sủa hơn. Cái phong cách ông lãnh đạo cuộc đấu tranh mấy tuần lễ qua (“một loại cách mạng ôn hòa,” ông bảo tôi như thế trong thư) thật là quyến rũ chẳng những trên quan điểm chính trị mà còn trên quan điểm thẩm mỹ nữa. Nó giống như phần nhạc kết prestissimo [“rất nhanh”] của một bản sonata sáng tác bởi một nhạc sĩ bậc thầy.

Một tác phẩm nghệ thuật được làm ra để cho người khác nhận thức. Làm cuộc đời ta thành một tác phẩm nghệ thuật lập tức phơi bày nó trước sự xem xét tỉ mỉ của người ta, vạch trần nó trong luồng ánh sáng. Không thể tránh được. Nhưng nếu con người bị rọi sáng như thế còn là một nghệ sĩ nữa, thì hắn đành liều: cuộc-đời-trở-thành-tác-phẩm-nghệ-thuật của hắn có thể khiến người ta quên đi những tác phẩm nghệ thuật của mình. Trong trường hợp Havel, điều đó hẳn sẽ đáng buồn. Chưa đầy ba mươi tuổi, các vở kịch đầu tay của ông đã được dựng ở Praha: Bữa tiệc ngoài vườnBức công văn. Đó là các vở kịch thông minh, và đầy khiêu khích, không giống bất cứ gì khác (có lần tôi đã bàn đến điều này trong bài tựa cho một bộ kịch phẩm của ông: chúng có thể, nếu cần, nhưng chỉ gần đúng thôi, được xếp vào loại kịch nghệ phi lý [théâtre de l’absurde]), và mang một tính hài hước hấp dẫn không ai cưỡng nổi. Thực vậy, nếu như tôi yêu thích hai vở kịch này nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông, ấy là vì hồi đó tôi vẫn còn được coi chúng ở Praha, với những công trình sản xuất tuyệt vời, hoàn toàn trung thành với tinh thần của tác giả. Và bởi vì hồi đó tôi đã được coi chúng tại Nhà Hát Balustrade, dạo ấy là nơi làm việc của Havel, và là một nơi, đốì với giới trí thức Tiệp Khắc, sẽ luôn luôn còn biểu trưng cho những năm 1960 và cho cái tinh thần tự do ngỗ nghịch hồi đó. Những tác phẩm về sau (chẳng hạn Khán giả, vở kịch một màn tuyệt diệu) cũng hay không kém; giá như trên thế giới này còn những công ty [sản xuất kịch] coi văn bản của một tác giả như cơ sở của nghệ thuật sân khấu, thì các vở kịch đó ắt sẽ nằm trong kho tiết mục trình diễn của khắp mọi nơi.

Dù rằng Havel được thế giới biết đến chủ yếu (và đúng) như một người sáng lập Hiến Chương 77 [tổ chức nhân quyền ở Tiệp Khắc], như một kẻ chống đối đã từng nằm tù nhiều năm, như đại diện đạo đức hàng đầu của xứ sở ông, nhưng trong thâm tâm ông sẽ vẫn là một nhà soạn kịch, một thi sĩ của kịch trường. Bỏ qua điều này là không hiểu được ông. Có nghĩa là không hiểu được, trước nhất, rằng ông đã có gốc rễ ăn sâu nhường nào trong cái nét đặc trưng của truyền thống dân tộc: phong trào canh tân Tiệp Khắc hồi thế kỷ XIX đã được tổ chức, không phải chung quanh Giáo Hội, không phải chung quanh quân đội, không phải chung quanh một đảng phái chánh trị, mà chung quanh nền văn hóa nói chung và những sân khấu kịch nghệ nói riêng. Các khuôn mặt chính trị Tiệp Khắc lớn nhất hồi đó đã là các nhà văn: Frantisek Palacky, một nhà sử học; Karel Havlicek một nhà thơ trào phúng; và rồi Tomas Masaryk, một nhà triết học.

Tầm vóc của Havel trong tư thế một nghệ sĩ làm cho ông khác với những nhân vật chính trị lớn của hôm nay. Ta đừng nên quên rằng các vở kịch sớm nhất của ông đã đẩy khán giả các nơi vào một tâm trạng cứ phải cười rũ rượi không ngừng. Vâng, lúc khởi đầu sự nghiệp của Havel đã có tiếng cười. Hài hước. Và hài hước có nghĩa là hoài nghi. Và hoài nghi có nghĩa là tự mỉa mai. Hai năm trước, ở Paris, tôi được coi vở kịch Largo Desolato [“Chậm buồn hoang vắng“] của ông. Trong đó Havel suy ngẫm về tình cảnh của mình một cách châm biếm, mai mỉa: tình cảnh của một người tận tụy nhiệt tình với đấu tranh chính trị và do đó không còn làm chủ được một cuộc-đời-đời mình-mà mọi người khác đều muốn chiếm đoạt làm của riêng. Trong màn cuối, khi cảnh sát đến bắt nhân vật chính, hắn cảm thấy gần như hạnh phúc vì được cô đơn trở lại, không thuộc về ai khác trừ chính mình. Kẻ chống đối, người anh hùng hiện đại đó, vác số mệnh mình không như một niềm vinh quang hồ hởi, mà đúng hơn như một bó nặng hầu như phi lý. Hắn chỉ muốn thà được làm những gì khác (viết kịch chẳng hạn, hay làm thơ), để trút bỏ cái vận mệnh ấy, nhưng không làm được. Bởi vì trong lúc ấy, có cái gì to lớn hơn hắn đã túm lấy hắn, cái gì vượt qua hắn, cái mà Havel gọi là trách nhiệm.

Đối với ông, đó là đạo đức của sự chống đốì. Havel thảo luận về nó trong một bài tiểu luận (về cuốn Một cuốn mộng thư Tiệp Khắc của Ludvik Vaculík, một tác phẩm lộng lẫy cũng xuất phát từ “sự chống đối mang tư tưởng hoài nghi” đó). Làm cơ sở cho nền đạo đức ấy là điều chắc chắn của kẻ hoài nghi (điều mà chỉ một nhà soạn kịch hay một nhà tiểu thuyết mới có thể tới được) rằng giữa cá tính của một người và số phận của hắn không có một sự thống nhất nào, rằng cái nọ luôn luôn là nạn nhân của cái kia. (Tác phẩm nghệ thuật mà một cuộc đời trở thành thì không đồng nhất với cuộc đời ấy; hai bên còn có thể thù nghịch nhau là đằng khác). Cái khả năng lấy một quan điểm mỉa mai về tình cảnh riêng của mình, đề phòng cho đời mình khỏi bị bất cứ một giải thích cường điệu nào (lối giải thích kitsch [lố lăng, kệch cỡm], như chúng tỏi thường nói tại Trung Âu), có thể gọi là một thứ khôn ngoan. Trong số những khuôn mặt chính trị lớn trong thời đại chúng ta, tôi không thấy ai khác có được sự khôn ngoan đó. Bởi lẽ đó là sự khôn ngoan của một thi sĩ.

(Nguyên bản Pháp ngữ của Kundera; Thạch Chương dịch từ bản dịch Anh ngữ của Linda Asher đăng trong The New Republic ngày 29-l-l990)

Giáo dục đại học – cao đẳng Việt Nam: Khủng hoảng và đối phó

Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson

Đại An dịch

 

 

TM & CN: Những vấn đề về chất lượng giáo dục đại học – cao đẳng ở Việt Nam, tình trạng cử nhân – thạc sỹ thất nghiệp, tình trạng thừa thầy thiếu thợ, học giả bằng thật, mua bằng bán điểm,… không còn là là chuyện mới và luôn nhận được sự quan tâm của xã hội.

Gần đây nhiều tờ báo, tạp chí đang mở những diễn đàn về cải cách giáo dục. Rất nhiều những học giả, nhà khoa học, nhà giáo dục, và cộng đồng xã hội tham gia góp ý, bình luận dưới nhiều góc độ khác nhau.

5 năm trước (2009), hai tác giả Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson thuộc trường Kennedy – Đại học Harvard (Hoa Kỳ) đã có một nghiên cứu về giáo dục đại học – cao đẳng ở Việt Nam (được gọi là Báo cáo Harvard). Bản báo cáo đã lột tả được thực trạng nền giáo dục đại học – cao đẳng của Việt Nam.

Trân trọng giới thiệu tới bạn đọc TM & CN.

 

Quy mô của cuộc khủng hoảng

Rất khó để phóng đại tính chất nghiêm trọng của những thách thức đang đặt ra với Việt Nam trong giáo dục đại học – cao đẳng (ĐH – CĐ). Chúng tôi tin rằng nếu không có một sự cải cách khẩn cấp và căn bản đối với hệ thống giáo dục ĐH – CĐ, Việt Nam sẽ không đạt được đúng mức tiềm năng to lớn của mình [1].

Sự phát triển kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á đã cho thấy quan hệ mật thiết giữa phát triển và giáo dục ĐH – CĐ. Cho dù trong các nước và vùng lãnh thổ thịnh vượng nhất ở khu vực – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, và gần đây là Trung Quốc – mỗi nơi đều đi theo những con đường phát triển độc đáo, nhưng điểm chung trong thành công của họ là sự theo đuổi nhất quán một nền khoa học và giáo dục ĐH – CĐ chất lượng cao.

Một số nước tương đối kém thành công hơn ở Đông Nam Á – Thái Lan, Philippines và Indonesia – lại là một câu chuyện mang tính cảnh báo. Những nước này nói chung đã không đạt được chất lượng cao trong khoa học và giáo dục ĐH – CĐ và họ đã thất bại trong việc phát triển những nền kinh tế tiến bộ. Đó không phải là một điềm tốt cho tương lai nếu các trường đại học Việt Nam tụt hậu xa so với chính những láng giềng Đông Nam Á không mấy nổi bật của họ.

Việt Nam không có một trường đại học nào có chất lượng được công nhận. Không có một cơ sở nào của Việt Nam có tên trong bất cứ danh sách được sử dụng rộng rãi nào (nếu nhận định trên còn chưa rõ ràng) tập hợp các trường đại học hàng đầu ở châu Á. Về phương diện này thì Việt Nam khác xa với cả những nước Đông Nam Á khác, hầu hết các nước này đều có thể kiêu hãnh về ít nhất một vài cơ sở có đẳng cấp. Các trường đại học Việt Nam phần lớn bị cô lập khỏi các dòng chảy kiến thức quốc tế [2], như những gì thể hiện qua số liệu nghèo nàn tại thống kê dưới đây:

 

Bài viết được xuất bản trên các tạp chí khoa học năm 2007

Cơ sở

Quốc gia

Số bài viết

Đại học tổng hợp Quốc gia Seoul

Hàn Quốc

5.060

Đại học tổng hợp Quốc gia Singapore

Singapore

3.598

Đại học tổng hợp Bắc Kinh

Trung Quốc

3.219

Đại học tổng hợp Phúc Đan

Trung Quốc

2.343

Đại học tổng hợp Mahidol

Thái Lan

950

Đại học tổng hợp Chulalongkorn

Thái Lan

822

Đại học tổng hợp Malaya

Malaysia

504

Đại học tổng hợp Philippines

Philippines

220

Đại học Quốc gia Việt Nam (Hà Nội và thành phố HCM)

Việt Nam

52

Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Việt Nam

44

Nguồn: Science Citation Index Expanded, Thomson Reuters

 

Các trường đại học Việt Nam chưa sản sinh được lực lượng lao động có trình độ như đòi hỏi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc điều tra do các hiệp hội thuộc Chính phủ thực hiện cho thấy khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên môn, một bằng chứng cho thấy sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa giảng dạy và nhu cầu của thị trường. Với hơn 25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc quá nặng về tuyên truyền chính trị, không phải băn khoăn nhiều về việc sinh viên Việt Nam được trang bị rất kém cho cả việc đi làm lẫn việc đi du học.

Có thể lấy việc Intel tìm cách thuê tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở thành phố HCM làm ví dụ minh hoạ. Khi công ty này thực hiện một cuộc kiểm tra đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh viên CNTT Việt Nam, chỉ có 90 ứng cử viên, nghĩa là 5%, vượt qua cuộc kiểm tra, và trong nhóm này, chỉ có 40 người có đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư.

Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế cũng cho rằng việc thiếu các công nhân và quản lý có kỹ năng là cản trở lớn nhất đối với việc mở rộng sản xuất. Chất lượng nghèo nàn của giáo dục đại học còn có một ngụ ý khác: đối lập với những người cùng thế hệ ở Ấn Độ và Trung Quốc, người Việt Nam thường không thể cạnh tranh được để lọt qua những khe cửa hẹp của các chương trình đại học cao cấp ở Mỹ và châu Âu.

 

Chỉ số sáng tạo

Quốc gia

Số  bằng sáng chế được cấp năm 2006

Hàn Quốc

102.633

Trung Quốc

26.292

Singapore

995

Thailand

158

Malaysia

147

Philippines

76

Việt Nam

0

Nguồn: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review

 

Nguyên nhân khủng hoảng

Di sản lịch sử

Những vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt trong giáo dục ĐH – CĐ hiện nay là một phần hậu quả của lịch sử hiện đại của đất nước này. Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 19 đến tận năm 1945 đầu tư rất ít ỏi vào giáo dục cấp ba, thậm chí là so với các cường quốc thực dân khác. Hậu quả là, Việt Nam đã bỏ lỡ làn sóng cải cách thể chế trong giáo dục ĐH – CĐ tràn qua phần lớn khu vực châu Á đầu thế kỷ 20. Trong giai đoạn này, rất nhiều cơ sở giáo dục ĐH – CĐ hàng đầu của khu vực đã được thành lập. Hậu quả là sau khi giành độc lập, Việt Nam chỉ có một nền tảng thể chế rất yếu để từ đó xây dựng lên. (Điều này trái ngược hẳn với Trung Quốc, hầu hết các trường đại học đầu bảng của nước này hiện nay đều được thành lập vững chắc từ trước cách mạng).

Quản lý

Nguyên nhân trực tiếp nhất của cuộc khủng hoảng ngày nay là sự thất bại ngiêm trọng trong quản lý. Các trường đại học có chất lượng, từ Boston đến Bắc Kinh, đều có những nhân tố chủ chốt nhất định mà Việt Nam hiện đang rất thiếu [3].

Tự trị: Các cơ sở học thuật ở Việt Nam vẫn chịu một hệ thống quản lý tập trung hoá cao độ. Chính quyền trung ương quyết định số lượng sinh viên các trường được phép tuyển, và (trong trường hợp các trường đại học công lập) lương trả cho các giảng viên đại học. Ngay cả những quyết định mang tính thiết yếu đối với việc vận hành một trường đại học như việc lập khoa cũng do hệ thống quản lý tập trung hoá này kiểm soát. Hệ thống này hoàn toàn không khuyến khích các trường và học viện cạnh tranh hay đổi mới. Thù lao được trả căn cứ vào thâm niên, và lương cứng thấp đến nỗi các giảng viên đại học phải “đi đêm” rất nhiều để có thể đảm bảo cuộc sống. Khác hẳn với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chưa thực sự khuyến khích người Việt Nam học ở nước ngoài.

Lựa chọn dựa trên thành tích: Tham nhũng lan tràn và việc mua bán bằng cấp, học hàm, học vị là rất phổ biến [4]. Các hệ thống nhân sự đại học đều mù mờ và việc bổ nhiệm thường dựa trên những tiêu chuẩn phi học thuật như thâm niên, lý lịch gia đình và chính trị, và các mối quan hệ cá nhân. Các khoa và các cấp hành chính cao hơn có xu hướng do các cá nhân từng được đào tạo ở Liên Xô hay Đông Âu nắm giữ, những người này không nói được tiếng Anh và, trong không ít trường hợp không mặn mà với các đồng nghiệp trẻ được đào tạo ở phương Tây.

Các mối liên hệ và tiêu chuẩn quốc tế: Sản sinh kiến thức là việc của một doanh nghiệp không biên giới, nhưng các cơ sở học thuật ở Việt Nam lại thiếu những mối liên hệ quốc tế có ý nghĩa. Trên thực tế, các học giả trẻ được đào tạo ở nước ngoài thường xuyên lấy lý do để tránh làm việc trong các cơ sở học thuật ở Việt Nam là họ lo sợ không thể gắn bó với lĩnh vực của mình. Như GS. Hoàng Tụy miêu tả, giới học thuật Việt Nam rất hướng nội và không đánh giá bản thân theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Trách nhiệm giải trình: Các trường đại học Việt Nam không chịu trách nhiệm trước các cổ đông bên ngoài, và đáng trách là trong đó có cả những người tuyển dụng. Trong nội bộ hệ thống công lập, việc rót vốn không liên quan đến công việc hay chất lượng theo bất cứ hình thức đáng kể nào. Tương tự, kinh phí nghiên cứu của Chính phủ cũng không được cấp một cách có cạnh tranh mà chủ yếu được coi là một hình thức bổ sung lương. Vì có quá nhiều người thèm muốn những cánh cửa hẹp vào các trường đại học – chỉ 1/10 người Việt Nam ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh vào các trường sau phổ thông – nên các trường đại học Việt Nam không phải chịu áp lực đổi mới nào. Họ có một thị trường bị giam cầm, vì du học chỉ là sự lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ.

Tự do học thuật: Ngay cả khi so sánh với Trung Quốc, các trường đại học ở Việt Nam cũng thiếu động lực tri thức ở một mức độ đáng kể. Ngay cả khi các trường đại học đang dần được phép nới lỏng hơn, vẫn có một mạng lưới các kiểm soát và kiềm chế chính thức và không chính thức để đảm bảo rằng các trường đại học vẫn tiếp tục suy tàn về tri thức trong khi các cuộc tranh luận trong xã hội ngày càng sôi nổi hơn.

Có một số ẩn ý trong luận điểm trên. Trước hết, rào cản chính đối với việc cho ra những kết quả cải thiện hơn trong giáo dục ĐH – CĐ lại không phải là chuyện tài chính. Trên thực tế, tính theo tỉ lệ trong GDP, Việt Nam chi nhiều cho giáo dục hơn nhiều nước khác trong khu vực. Con số này còn chưa tính đến số tiền lớn mà chính các gia đình Việt Nam đầu tư vào giáo dục cho con cái họ, ở nhà và ở nước ngoài. Nhưng tiêu tiền như thế nào lại là chuyện khác.

Thứ hai, đầu tư vào du học vẫn chưa đủ để cải thiện hệ thống. Nếu môi trường chuyên môn không được đại tu, sẽ không có nhiều người Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài muốn quay về làm công tác giảng dạy.

 

Đối phó

Các chính sách của Chính phủ

Trong phần lớn giai đoạn từ năm 1986 khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới, cũng chính là quá trình cải tổ và tự do hoá nền kinh tế của đất nước này, tốc độ cải tổ giáo dục ĐH – CĐ gần như đóng băng. Trong suốt giai đoạn này, chất lượng bị đình trệ đến mức một số nhà khoa học Việt Nam đã tin rằng chất lượng giảng dạy các môn học nòng cốt, ví dụ như các môn khoa học cơ bản, đã giảm sút [5].

Trong ba năm trở lại đây, Chính phủ đã đặt ưu tiên cao hơn đối với việc cải cách giáo dục. Năm 2005, Chính phủ đã đưa ra dự thảo Chiến lược giáo dục 14 nhằm “đổi mới toàn diện giáo dục ĐH – CĐ” đến năm 2020. Đây là một bước ngoặt, kêu gọi cải cách quản lý, bao gồm tính tự trị cao hơn về thể chế và các cơ chế chọn lựa dựa trên thành tích. Tuy còn chưa đánh giá được tác động của Chiến lược 14 đến quá trình hoạch định chính sách, nhưng tốc độ thay đổi vẫn còn rất chậm.

Gần đây hơn cả, Chính phủ đã công bố sáng kiến thành lập một loạt cơ sở mới kết hợp với các đối tác nước ngoài và thể hiện thái độ sẵn sàng cam kết với những nguồn vốn vay từ các tổ chức đa phương như Ngân hàng thế giới (WB). Tuy chính sách này cho thấy một sự ghi nhận nồng nhiệt đối với nhu cầu xây dựng những cơ sở giáo dục ĐH – CĐ mới, nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi bị bỏ ngỏ.

Ngành giáo dục Việt Nam vẫn duy trì một cách nhìn “công quản” đối với việc hợp tác trong giáo dục ĐH – CĐ, trong đó, chính quyền, chứ không phải các cơ sở, mới là những đối tác chủ yếu. Cách tiếp cận này đặc biệt không phù hợp để làm việc với hệ thống phân quyền của Mỹ, trong đó mỗi trường đại học là một nhân tố quan trọng còn vai trò của Chính phủ thì rất hạn chế.

Thứ hai, Chính phủ đã thể hiện một tâm lý “kế hoạch tập trung” trong việc thiết kế những sáng kiến phát triển thể chế này, trong đó có việc định trước các lĩnh vực mà mỗi trường đại học sẽ tập trung vào (những đề xuất ban đầu còn cho rằng chỉ nên tập trung vào các lĩnh vực liên quan đến khoa học và công nghệ, có thể loại bỏ khoa học nhân văn và nhiều khoa học xã hội khác).

Thứ ba, mặc dù sáng kiến này được xác định dựa trên ý niệm chung là các đối tác quốc tế sẽ cung cấp các nhà quản trị và cán bộ giảng dạy, nhưng cơ chế cấp vốn vẫn chưa xác định; vẫn không rõ ràng là nguồn vốn vay từ các nhà tài trợ đa phương có thể dùng cho các đối tác quốc tế không.

Cuối cùng, vẫn còn phải chờ xem các cơ sở này sẽ có thể có được bao nhiêu sự tự trị thực chất [6].

Trao đổi

Số người Việt Nam đi du học đã tăng lên đáng kể từ năm 1986. Trong những năm đầu Đổi mới, hầu hết họ đi học qua các chương trình học bổng song và đa phương như chương trình Fulbright, chương trình của WB… Khi xã hội Việt Nam trở nên khá giả hơn, nhiều gia đình Việt Nam bắt đầu cho con đi du học tự túc. Mấy năm gần đây đã chứng kiến số lượng tăng đặc biệt nhanh các sinh viên du học tại Mỹ; theo Viện giáo dục quốc tế, Việt Nam đứng trong số 20 nước có nhiều sinh viên đến Mỹ du học nhất. Các nhà kinh tế học Việt Nam ước tính các gia đình Việt Nam phải chi ít nhất một tỉ USD một năm cho con du học.

Du học cũng là phản ứng quan trọng đối với cuộc khủng hoảng trong giáo dục ĐH – CĐ Việt Nam, nhưng đó lại không phải là giải pháp. Trước hết, du học chỉ là sự lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ hoặc có đủ tiền hoặc may mắn giành được học bổng. Vẫn còn một khoảng cách rộng và ngày càng lớn về cơ hội giữa nông thôn và thành thị, giữa một số ít người giàu có và phần lớn người nghèo. Việt Nam là một quốc gia rộng và không thể “outsource” giáo dục ĐH – CĐ cho các trường đại học nước ngoài.

Thứ hai, chừng nào các trường đại học Việt Nam còn tiếp tục những điều kiện làm việc kém và những khuyến khích không hấp dẫn, những người đi du học về sẽ tiếp tục lảng tránh làm việc tại những trường này. Các cuộc điều tra không chính thức đối với các sinh viên cao học Việt Nam ở Mỹ cho thấy một phần rất lớn sẽ không quay về các trường đại học đang có ở Việt Nam nhưng sẽ cân nhắc trở về nếu môi trường làm việc hấp dẫn hơn.

 

Các nhân tố quốc tế

Các nhà tài trợ quốc tế đã ủng hộ việc trao đổi trên từ nhiều năm nay. Theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, các nhà tài trợ hiện đang đầu tư mạnh vào hệ thống giáo dục ĐH – CĐ. Theo chúng tôi, nỗ lực của các nhà tài trợ trong lĩnh vực này đã trở nên thiếu hiệu quả do họ không làm được gì nhiều với những vấn đề liên quan đến quản lý. Vốn tài trợ đã không được giải ngân dựa trên cạnh tranh, và các cơ sở nhận vốn cũng không được lên tiếng nhiều về việc vốn đó sẽ được sử dụng ra sao.

Các trường đại học quốc tế đang được khuyến khích thiết lập các chương trình đào tạo tại Việt Nam, hoặc là độc lập hoặc là (phổ biến hơn cả) liên kết với các cơ sở trong nước. Không có nhiều ngoại lệ, các sáng kiến này thường là vì lợi nhuận và hậu quả là tập trung vào một số nhỏ lĩnh vực mà thị trường đang có nhu cầu (ví dụ marketing, quản trị, lập trình máy tính…). Sinh viên được nhận chủ yếu phải có khả năng trả học phí, do đó chỉ bó hẹp trong một nhóm thiểu số nhỏ và nằm ngoài tầm tay của đa số. Nói chính xác nhất là những vụ đầu tư này chỉ chiếm một góc nhỏ trong hệ thống giáo dục ĐH – CĐ. Chúng không đáp ứng được nhu cầu về giáo dục chất lượng cao.

Chính phủ thì rất hăng hái thu hút các trường đại học quốc tế hàng đầu, đặc biệt là của Mỹ. Chúng tôi đã tranh luận rằng có ít nhất ba điều cốt yếu để hiện thực hóa được mục tiêu này. Đầu tiên, Chính phủ phải nhận ra rằng các trường đại học chất lượng sẽ không vào Việt Nam với tư cách nhà đầu tư. Hơn thế, trong cuộc đua giành người tài toàn cầu, các trường đại học Mỹ luôn là những đối tác được săn tìm nhiều nhất. Nói thẳng ra là Việt Nam phải chịu chi.

Thứ hai, và không kém phần quan trọng, chúng tôi đã nhấn mạnh rằng các trường đại học danh tiếng sẽ không thỏa hiệp về các tiêu chuẩn giảng dạy của họ và Chính phủ phải cam kết một cách mạnh mẽ về việc quản lý tốt, bao gồm cả việc cho phép nhiều tự do học thuật và tự trị hơn là phạm vi hiện đang có ở Việt Nam.

Thứ ba, vì giáo dục ĐH – CĐ của Mỹ phân quyền rất mạnh, nên Chính phủ Mỹ sẽ chỉ đóng vai trò rất hạn chế, chỉ là vai trò tạo điều kiện trong việc đẩy mạnh sự tham gia của các trường đại học Mỹ.

 

Kết luận: Nhu cầu cải cách sâu rộng

Cải cách quản lý sâu rộng là chìa khóa cho việc cải thiện giáo dục ĐH – CĐ Việt Nam. Tuy nhiên, đổi mới các cơ sở giảng dạy ở bất cứ đâu đều là một quá trình lâu dài. Đó là lý do tại sao chúng tôi tin rằng Việt Nam phải xây dựng một cơ sở giáo dục ĐH – CĐ hoàn toàn mới mà ngay từ khi bắt đầu đã phải có được sự quản lý tốt ngay trong gen thể chế của mình [7]. Một nỗ lực như vậy sẽ có một tác động mang tính biến đổi đối với giáo dục ĐH – CĐ Việt Nam. Một cơ sở mới sẽ mở ra một mái ấm hấp dẫn đối với các học giả và nhà khoa học Việt Nam trẻ hiện đang không mặn mà lắm với việc theo đuổi sự nghiệp học thuật ở Việt Nam.

Thứ hai, một cơ sở mới sẽ là hình mẫu cho các trường đại học khác học theo và tranh đua – cũng là một nguồn sức sống và cạnh tranh rất cần thiết.

 

Chú thích:

1. Để có sự phân tích hệ thống và so sánh về những thách thức chính sách đối với Việt Nam, xem “Choosing Success: The Development of East and Southeast Asia and Lessons for Việt Nam”, tại: http://www.innovations.harvard.edu/showdoc.html?id=98251.

2. Hệ thống đại học Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề từ hệ thống học thuật của Liên Xô, trong đó các trường đại học về cơ bản là các cơ sở giảng dạy, còn nghiên cứu là việc của các viện nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tại các trường đại học nhưng chưa thành công, nguyên nhân có nêu dưới đây. Theo Bảng 1, các viện nghiên cứu của Việt Nam cũng không hoạt động tốt lắm.

3. Phân tích của chúng tôi về những thất bại trong quản lý của Việt Nam chịu ảnh hưởng từ những tìm hiểu của Task Force về giáo dục ĐH – CĐ, do WB và UNESCO tập hợp, do GS. Henry Rosovsky của ĐH Harvard và GS. Mamphela Ramphele của ĐH Cape Town làm đồng chủ tịch. Trong báo cáo cuối cùng của mình, Peril and Promise: The Challenges of Higher Education in Developing Countries, Task Force kết luận rằng quản lý là rào cản cơ bản phổ biến đối với việc đạt được những kết quả tốt. (Có tại http://www.tfhe.net). GS. Rosovsky là cố vấn của Viện Ash trong các hoạt động liên quan đến cải cách thể chế ở Việt Nam.

4. Cần phải nhấn mạnh rằng một trong những thành tố của hệ thống đại học giúp nó không bị tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu làm cho què quặt là các kỳ thi tuyển sinh đại học. Chính phủ phải huy động rất nhiều nguồn lực đáng kể để đảm bảo quá trình thi cử không có gian lận. Kết quả là, những sinh viên được nhận vào học là những sinh viên tài năng và nhiều người có thể thành công trong việc bổ sung cho các giáo trình cũ kỹ bằng cách tự học.

5. Trong những năm gần đây, các trường đại học dân lập mọc lên như nấm sau mưa. Tuy nhiên, các cơ sở này vẫn phụ thuộc vào nhiều sự kiểm soát như các trường công. Hầu hết đều nhắm đến lợi nhuận và phụ thuộc vào học phí để có doanh thu; kết quả là chất lượng cũng thấp như nhau.

6. Trường ĐH Việt – Đức là trường đầu tiên trong số các cơ sở mới này. Đây là một dự án liên kết giữa hai Chính phủ Việt Nam và Đức.

7. Chúng tôi gợi ý cho Chính phủ Việt Nam tổ chức một công ty với các trường đại học Mỹ để xây dựng một trường chuyên về nghiên cứu, đầu tiên là cung cấp các khóa đào tạo đại học rồi dần dần tổ chức các chương trình sau đại học.

 

Nguồn: http://bautx.blogspot.com/2014/06/giao-duc-ai-hoc-cao-ang-viet-nam-khung.html

Thơ A. Puskin

Song ngữ Nga-Việt

Do Vũ Thế Khôi tuyển, gồm 90 bài nguyên tác, với 163 bản dịch của 37 dịch giả.

NXB Văn học & Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2014.

 tho- Puskin. (1)

Kỉ niệm 215 năm sinh của Alecsandr Puskin. Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây phối hợp với Phân viện Puskin tại Hà Nội, Hội Hữu nghị Việt Nam – Liên bang Nga và Quỹ Hỗ trợ dịch văn học Việt & Nga thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, tiến hành một loạt hoạt động tôn vinh đại thi hào Nga. Một trong những hoạt động ấy là xuất bản tập thơ trữ tình song ngữ của Puskin. Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây đảm nhận nhiệm vụ sưu tầm và biên tập công trình này, dày dặn nhất từ trước đến nay và đa âm điệu hơn nhiều – 90 bài thơ nguyên tác, với 163 bản dịch của 37 dịch giả cả nam lẫn nữ, thuộc nhiều thế hệ và lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau, nhưng cùng chung tình yêu đối với “vầng mặt trời thơ ca Nga”.

Đây cũng là món quà TT Đông Tây tự mừng “HAPPY BIRTH DAY” của mình – tròn 15 năm tự nguyện làm nhịp cầu giao lưu văn hóa Đông và Tây.

Tuyển tập này không chỉ đóng khung trong số bài thơ đã trở nên kinh điển, đã vào tất cả các sách giáo khoa và tuyển tập, mà cũng cố gắng giới thiệu những khía cạnh mới, do kết quả nghiên cứu về A. Puskin những năm cuối thế kỉ vừa qua trong “Puskin học” ở Nga và trên thế giới. Chẳng hạn, chỉ từ những năm 80, khi các bức thư của Dantes, viên sĩ quan cận vệ Pháp từng si mê và rắp tâm quyến rũ vợ Puskin, được chắt nội của y cho phép nhà Puskin học người Italia là bà Serena Vitale công bố, người ta mới minh oan được cho “giai nhân cố đô Moxcva” và cảm nhận lại những bài thơ tình mà nhà thơ viết tặng Natalia Gontrarova Puskina, như: Khi ôm trong vòng tay; Đức Mẹ Đồng Trinh; Không! Anh đâu tiếc nuối tình hoan lạc; Không, không, tôi không nên…

Đại đa số các bài thơ đưa vào tuyển tập này đều kèm theo vài ba bản dịch; có một số ít bài chỉ được cung cấp một bản dịch thì đơn giản là vì người làm tuyển tập chưa sưu tầm được bản thứ hai tương đối chuẩn xác. Thứ tự in các bản dịch không hàm ý đánh giá của người biên soạn mà chỉ là bố trí theo trình tự thời gian được công bố chính thức hoặc lưu truyền rộng rãi. Cách làm này, một mặt, tạo điều kiện cho sự tiếp cận nguyên bản đa dạng hơn; mặt khác, cung cấp tài liệu cho việc học tập môn văn học, phân tích hình thức và thủ pháp chuyển dịch khác nhau.

Luật thơ Nga xây dựng trên cơ sở luân chuyển đều đặn âm tiết mang trọng âm và âm tiết không mang trọng âm. Ví dụ: thể thơ “Iamb” có mô hình mỗi tiết tấu (takt) hai âm tiết với âm tiết không mang trọng âm đứng trước: _ / _ / _ / _ / ; thể thơ “Khorei” mỗi takt cũng hai âm tiết, nhưng lại bắt đầu bằng âm tiết mang trọng âm: / _ / _ / _ / _; cũng có những thể thơ mỗi takt 3 âm tiết với những mô hình kết hợp khác nhau như: / _ _, hoặc _ / _, hoặc _ _ /. Trọng âm trong các từ Nga lại không có vị trí cố định (như chẳng hạn trong tiếng Pháp cố định ở âm tiết cuối), lại có thể chuyển dịch khi biến đổi từ (ví dụ: cách 1 – рукá [cánh tay], cách 4 – руùку). Điều này vốn gây nhiều khó khăn cho người học tiếng Nga, lại càng nan giải cho người tập đọc thơ Nga: đọc thơ Nga mà sai trọng âm thì thơ không còn là thơ nữa, chẳng khác gì đọc sai luật bằng – trắc trong thơ lục bát tiếng Việt. Bởi vậy, trong tuyển tập này tất cả các nguyên tác tiếng Nga đều có đánh dấu trọng âm nhằm phục vụ việc tập đọc, học thuộc lòng (rất quan trọng trong việc học ngoại ngữ!) để luyện phát âm chính xác, ghi nhớ chắc chắn từ và cấu trúc, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho những ai thích đọc diễn cảm thơ Nga để tham gia những hoạt động ngoại khóa, giao lưu với bạn bè Nga, hay đơn giản chỉ để tự thưởng thức một nền thơ ca giầu nhạc điệu vào bậc nhất thế giới.

Phần “Chú và bình” không nhằm giải thích từ mới như các sách loại này thường làm thay cho người học. Trong quá trình suốt đời học và dạy các ngoại ngữ tôi nghiệm ra rằng: chỉ những từ nào mình tự mầy mò tra cứu thì mới hiểu kĩ và nhớ lâu. “Chú” chủ yếu cung cấp bối cảnh ra đời của bài thơ nhằm giúp bạn đọc thâm nhập ý tứ ẩn sau câu chữ. “Bình” chỉ đưa ra đối với một số bài, coi như để gợi mở khía cạnh đáng tiếp tục ngẫm nghĩ và bạn đọc có thể tán đồng hoặc phản bác – dù trong trường hợp nào thì cũng thúc đẩy sự tìm hiểu sâu sắc hơn. Trong phần “Chú và bình” chúng tôi có dẫn một số tài liệu tham khảo, nhưng ghi vắn tắt. Dưới đây xin liệt kê tên gọi đầy đủ, năm và nơi xuất bản, để bạn đọc nào quan tâm có thể dễ dàng tìm kiếm.

(theo “Lời vào sách” của Vũ Thế Khôi).

Tại sao các cuộc cải tổ của Trung Quốc đều thất bại?

Suốt chiều dài lịch sử, các nhà cải cách Trung Quốc không đi đến đích và cuối cùng thường gặp kết cục thê thảm. Tại sao họ luôn luôn thất bại?

Yang Hengjun, The Diplomat, 30-5-2014

Trần Ngọc Cư dịch

 Vuong An Thach

 

 

 

 

 

 

 

Vương An Thạch (1021-1086) – Ảnh của Wikimedia Commons

So với “các cuộc cách mạng” (nổi dậy của nông dân, binh biến, đảo chánh cung đình, v.v.) lật đổ các vương triều trong lịch sử Trung Quốc, thì mục tiêu của “cải tổ” mang một ý nghĩa ngược lại: duy trì vĩnh viễn vương triều đang cai trị. Người dân bình thường gần như có chung một cảm tưởng, là coi “cách mạng” và “cải tổ” như công cụ của “sự thay đổi.” Nhưng trên thực tế, trong 2000 năm lịch sử Trung Quốc, cải tổ chỉ có một mục đích duy nhất: tránh thay đổi. Cải tổ được sử dụng để duy trì hệ thống [chính tri] hiện hữu. Trong lịch sử Trung Quốc, “cải tổ” và “cách mạng” thay phiên nhau diễn ra qua thời gian. Các cuộc cách mạng thường thành công, do đó Trung Quốc đã trở nên nước có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân và nhiều cuộc thay đổi vương triều nhất thế giới. Nhưng cải tổ lại ít khi thành công.

Từ một quan điểm hiện đại, gần như tất cả những cuộc cải tổ trong lịch sử Trung Quốc có thể được xếp loại là “thất bại”: từ những cải cách của Thương Ưởng tại nước Tần đến các triều Văn Đế và Cảnh Đế nhà Hán; từ việc tiếm quyền của Vương Mãng đến các cải tổ của Vương An Thạch trong triều đại nhà Tống; từ quyết định bế quan tỏa cảng của nhà Minh và nhà Thanh đến phong trào Tây hóa vào cuối nhà Thanh… Không có lấy một phong trào nào trong số này có thể gọi là thực sự thành công. Tồi tệ hơn nữa, chính bản thân những nhà cải tổ thường gặp kết cục bi thảm.

Tại sao vậy? Nói giản dị, có ba yếu tố chung. Một là, khác hẳn các cuộc cải tổ khác được ghi lại trong lịch sử thế giới, gần như tất cả các cuộc cải tổ của Trung Quốc được thực hiện thuần túy vì lợi ích của người cai trị (hoàng đế). Các cuộc cải tổ này chỉ điều chỉnh chính sách về cách trị dân của vị hoàng đế, làm thế nào để quản lý bốn giai cấp xã hội (sĩ, nông, công, thương), làm thế nào để khai thác đất đai của nông dân, và làm thế nào để chất đầy ngân khố bằng tiền thuế của dân. Không một cải tổ nào đả động đến triết lý cầm quyền, hay phương pháp quản trị quốc gia, lại càng không đặt trọng tâm vào lợi ích công.

Các nhà cải tổ Trung Quốc lấy lợi ích của người dân bình thường làm đối tượng cải tổ, chứ không cải tổ chế độ để mang lại lợi ích cho người dân. Do đó, những cải tổ này không bao giờ đụng đến vương triều đang ngự trị, mà chỉ tạo ra các cuộc tranh giành quyền lực giữa các nhóm lợi ích liên hệ. So với các cuộc cách mạng (hoặc được người dân ưa thích hoặc bị người dân sợ hãi), người dân thường dửng dưng với “cải tổ.” Và các cải tổ không được dân chúng hậu thuẫn sẽ hoàn toàn thất bại một khi chúng gặp phải sức phản công từ các nhóm lợi ích hay từ các phe phái đối lập. Đối với người dân bình thường, thất bại của các cuộc cải tổ này không phải là chuyện đáng than khóc.

Hai là, nhiều cải cách mạnh mẽ trong lịch sử Trung Quốc có một điểm chung: Những nhà cải cách không phải là kẻ thống trị cao nhất (hoàng đế). Nhiều nhân tài lúc đầu được hoàng đế (tạm thời) tuyển chọn đi tiên phong trong các cuộc cải tổ – nhưng về sau lại bị đem ra làm vật tế thần khi cải tổ thất bại. Những nhà cải cách như Thương Ưởng, Vương An Thạch và trường phái Tây hóa cuối đời nhà Thanh đều chịu chung số phận. Những người giữ quyền lực tối cao thường cai trị từ đằng sau hậu trường. Họ giữ một khoảng cách nhất định đối với công cuộc cải cách, thủ đoạn này giúp họ rộng đường điều động nhân sự. Nếu cải cách thành công, những người nắm quyền sẽ giành lấy công lao; nếu công cuộc đổi mới thất bại, họ hi sinh những nhà cải cách. Trong những tình huống này, các cuộc cải cách vốn đã mang tính nửa vời ngay từ đầu – các cuộc cải tổ “từ trên ban lệnh cho bên dưới” thường là như vậy. Trái lại, loạt cải tổ do Hán Vũ Đế và các hoàng đế đời Đường đích thân tiến hành lại đạt nhiều hiệu quả hơn.

Ba là, tất cả các cuộc cải cách trong lịch sử Trung Quốc đều có mục đích kéo dài vô hạn hệ thống cai trị đương thời, chứ không thay đổi chế độ đang có. Một số cải cách gặp phải thất bại, khiến những nhà cải cách chịu cảnh phanh thây xẻo thịt (như Thương Ưởng) hay chết trong tủi nhục (như Vương An Thạch). Nhưng thậm chí vào thời điểm đó, các hoàng đế vẫn giữ lại những bộ phận của chính sách cải tổ có khả năng giúp duy trì hệ thống cai trị hiện hữu, biến những phần này thành những con đinh ốc trong bộ máy độc đoán.

Những biện pháp cải tổ nhằm củng cố chính quyền trung ương thông thường là dễ thành công. Chẳng hạn, các công ty độc quyền của triều đình [nhà nước] về muối và sắt do Quản Trọng tổ chức vào thế kỷ 7 trước công nguyên có sự tương đồng với công ty độc quyền nhà nước về dầu lửa ngày nay. Tuy nhiên, những ý kiến như phân quyền và phân phối đồng đều của cải quốc gia (điều mà người dân bình thường quan tâm hơn) lại thường bị các nhóm lợi ích tranh đoạt hay bị nhà vua đình chỉ lập tức. Do đó, các phong trào cải tổ mạnh mẽ tại Trung Quốc, bất luận dù chính sách của chúng có ý nghĩa như thế nào vào buổi đầu, dần dà đều trở nên mai một. Sau một vài thập kỷ, các cải tổ này chỉ còn là những công cụ giúp nhà cầm quyền bóc lột nhân dân và kiểm soát công luận.

Dĩ nhiên, vấn đề lớn nhất mà các phong trào cải tổ Trung Quốc gặp phải là người ta không tìm ra phương cách nào để thay đổi chính bản thân cái hệ thống, và vấn đề này đã kéo dài cả 2000 năm nay. Tất cả những gì mà người ta có thể làm được là giúp cho hệ thống đó trở nên hoàn chỉnh hơn, tinh vi hơn – thâm độc hơn. Trong ý nghĩa này, tất cả mọi cải tổ trong 2000 năm lịch sử Trung Quốc đều không có cơ may thành công, và chúng ta phải cảm ơn Trời Đất vì chúng đã thất bại.

Ngày nay, nhiều học giả cho rằng nếu Tôn Dật Tiên không vội làm cách mạng, thì cuộc cải tổ hiến pháp của nhà Thanh có thể đã thành công. Những vị này có trí tưởng tượng học thuật quá phong phú, mà thiếu trí mất trí tưởng tượng văn chương: bạn có thể tưởng tượng nỗi một kịch bản trong đó, kể từ nhà Tần đến nhà Thanh, có cải tổ cơ chế nào thành công hay không? Nếu nó thành công, thì ngày nay chắc hẳn  mọi người Trung Quốc đều để tóc “đuôi lợn của đàn ông Mãn Châu” và mỗi buổi sáng đều khấu đầu hô to khẩu hiệu “Dòng họ Ái Tân Giác La vạn tuế! Vạn vạn tuế!” [Ái Tân Giác La là họ của các hoàng đế nhà Thanh. Búi tóc đuôi lợn là kiểu tóc của đàn ông Mãn Châu; nhà Thanh có luật lệ buộc người Trung Hoa phải để tóc kiểu này – ND.]

Các cải tổ có thể thành công hay không là do hệ thống chính trị có thể thay đổi hay không và nhà cầm quyền có chịu thay đổi hệ thống để theo đuổi một mục tiêu cao cả hơn hay không… Nếu nhìn vào những cải tổ hiện nay của Trung Quốc theo góc nhìn từ lịch sử Trung Quốc, chúng ta có lý do để bi quan. Nhưng chúng ta không nên cho rằng tình thế là hoàn toàn tuyệt vọng hay không còn con đường tiến lên phía trước. Những nhà cải tổ cần phải học hỏi từ lịch sử Trung Quốc. Cải tổ cần phải đi “từ trên xuống dưới” [từ trung ương đến địa phương] và phải được hậu thuẫn bằng quyết tâm mạnh mẽ của giới lãnh đạo nòng cốt. Đồng thời, những nhà cải tổ phải bắt đầu bằng việc lấy lợi ích của nhân dân, tương lai của đất nước và an ninh quốc gia làm mục tiêu cao nhất. Họ phải tránh thái độ chỉ biết chăm lo lợi ích của giới cầm quyền hay phục vụ các quan tâm của những nhóm lợi ích.

Những điều này chính là những gì các nhà cải tổ trong lịch sử Trung Quốc đã không làm, và không muốn làm. Nếu trong thế kỷ 21 này, các nhà lãnh đạo vẫn còn giữ nguyên tư duy và sáng kiến của những nhà cải tổ trong lịch sử Trung Quốc. Nếu họ không táo bạo tìm cách cải tổ hệ thống vì lợi ích của quốc gia và nhân dân mà chỉ cố gắng duy trì hệ thống hiện hữu, thì họ cũng đừng nên cố gắng cải tổ làm chi. Bằng không, dù các cải tổ của họ không thất bại đi nữa, chúng cũng sẽ mang lại hỗn loạn, và có thể nhanh chóng đưa đến cách mạng.

Bài viết này xuất hiện đầu tiên bằng tiếng Trung trên blog của Yang Hengjun. (Xin bấm vào đây.)

Yang Hengjun là một nhà nghiên cứu Trung Quốc độc lập, một tiểu thuyết gia, và là một blogger. Ông từng làm việc tại Bộ Ngoại giao Trung Quốc và từng là một nhà nghiên cứu thâm niên tại Atlantic Council ở Thủ đô Washington. Yang nhận bằng Tiến sĩ từ Đại học Công nghệ, tại Sydney, Australia. Trang blog tiếng Trung của ông trình bày các vấn đề Trung Quốc quan trọng hiện nay và các cổng điện tử về quan hệ quốc tế. Các bài viết của ông nhận hàng triệu lượt truy cập. Địa chỉ blog của Yang: www.yanghengjun.com.

 

Dịch giả gửi Văn Việt.

Nhà thơ Hoàng Hưng: “Hồn ta như cánh cửa / Không sao yên khi gió đến chân trời”

Thượng Long phỏng vấn

Hoang HungThưa nhà thơ Hoàng Hưng, thường khi nào thì xuất hiện những cơn gió mới của một nền văn học?

– Xin nói thật (có thể mất lòng nhiều người). Xã hội Việt Nam từ xưa đến nay chưa bao giờ tự nổi bất cứ “cơn gió mới” nào về mọi mặt. Xưa có lần Hồ Quý Ly (mà đâu như ông ấy là người Tàu chưa được Việt hoá nhiều lắm) toan “cải cách” một cái, liền bị phản ứng chết tươi (“họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận…”). Những “cơn gió mới” về chính trị, xã hội, văn hoá… đều từ những “chân trời lạ” ào vào, và chúng ta chỉ đơn giản bị cuốn theo.

Cũng thông thường, những cơn gió mới như vậy đã được đón nhận theo cách nào?

– Bao giờ và ở đâu thì những “cơn gió mới” lúc đầu cũng chỉ có một bộ phận nhỏ cấp tiến trong giới sáng tác và hưởng thụ hoan nghênh trong khi số đông phản ứng tiêu cực vì thấy xa lạ. Dần dần nó mới chinh phục được số đông và trở nên dòng chính. Đó là quy luật phổ quát. Riêng ở những nước chưa có chính thể dân chủ, số phận của “cơn gió mới” tùy thuộc rất nhiều thái độ của tầng lớp thống trị xã hội ở từng thời điểm lịch sử cụ thể. Văn xuôi lãng mạn, hiện thực và Thơ Mới trước 1945 cũng như văn học kháng chiến sau 1945 được phát triển dễ dàng vì những người làm nên nó cũng là những người ở tầng lớp chủ nhân của thời đại mình (các trí thức trẻ Tây học trước 1945 rồi trở thành trí thức yêu nước gần gụi các nhà lãnh đạo cuộc kháng chiến). Văn thơ có xu hướng mới ở miền Nam trước 1975 không thuận lợi như thế do hoàn cảnh chiến tranh nhưng cũng không gặp khó khăn gì đáng kể, do nhà cầm quyền (sau chính thể Ngô Đình Diệm) theo chính sách kiểu Mỹ là không can thiệp vào hoạt động văn học nghệ thuật. Ngược lại, những xu hướng văn học mới trong xã hội do Đảng Lao động và Đảng Cộng sản Việt Nam toàn trị sau 1954 và 1975 luôn bị ngăn cản, do chủ trương “văn nghệ là vũ khí cách mạng”, “văn nghệ phục vụ quần chúng” buộc văn nghệ phải dựa vào truyền thống và dễ hiểu dễ cảm (có “tính nhân dân”, “tính Đảng”), trong khi những xu hướng mới mang tính hiện đại và hậu hiện đại thường mờ nhoà, phức tạp, đa nghĩa về nội dung và tiên phong, đi tìm cái độc đáo, cá nhân, khác lạ về nghệ thuật.

 A dua, học đòi theo mốt thời thượng, chối bỏ các giá trị cũ, dường như cũng đông đảo như những kẻ luôn phủ định, không tiếp nhận được các giá trị khác. Ông giải thích như thế nào về hiện tượng này?

– Chuyện ấy rất dễ hiểu ở một xã hội khép kín lâu ngày. Khi cánh cửa hé mở, số người hoa mắt trông tất cả cái gì màu vàng cũng ngỡ là vàng sẽ đông hơn rất nhiều số người có bản lĩnh và công phu tìm đến những thứ “vàng mười” chính hiệu. Song thực ra, số bị “choáng” trước cái mới nên cứ nhắm tịt mắt để tự vệ mới là số đông áp đảo. Cho nên đừng quá băn khoăn trước hiện tượng chạy theo thời thượng, vứt bỏ giá trị cũ. Hiện tượng này sớm muộn sẽ được điều chỉnh để có sự hài hoà. Mà nhiều khi, cũng phải “cực đoan vứt bỏ”, phải “điên điên” thì mới làm ra được cái mới, phải không nhỉ?

Được biết, ông và nhiều người khác, đang cùng với nhà văn Châu Diên (nhà giáo Phạm Toàn) góp sức với nhóm Cánh buồm để soạn thảo bộ sách giáo khoa mới, trong đó, có sự thay đổi căn bản phương pháp tiếp nhận văn học, nghệ thuật cho học sinh trong bộ môn văn học. Ông có thể nói đôi điều vê phương pháp này? Chúng ta có thể hy vọng gì không thưa ông?

– Tinh thần căn bản của cách học Văn theo Cánh Buồm chủ ở hai điểm: 1/Học Văn là học một bộ môn nghệ thuật chứ không phải học chính trị, đạo đức… 2/ Học Văn bằng việc thực hành “đi lại con đường sáng tạo của nhà văn”, phát huy tự do cảm nhận, tự do biểu đạt của từng cá nhân học sinh, không áp đặt, nhồi nhét. Trong Hội sách Văn Miếu vừa qua, Cánh Buồm đã trương khẩu hiệu với danh ngôn của Einstein: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn trí thức”.

Tôi liên tưởng đến một đoạn trong bộ phim Hội các nhà thơ đã chết (Dead Poets Society) của Mỹ, nhân vật chính là một thầy giáo có tư tưởng cấp tiến đã hướng dẫn học trò xé hết các trang sách định nghĩa Thơ trong cuốn sách lý luận kinh điển mà nhà trường bắt các em học, sau đó cho các em tự do phát biểu theo ý mình về bài thơ được đưa ra giảng dạy.

Tôi nghĩ, tiếp nhận bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào cũng phải xuất phát từ việc kết hợp hai cơ sở “bản nhiên” và “không nhi nhiên”: 1/ Cảm: là cảm xúc thành thật của chính mình. 2/ Hiểu: là nắm được cách (công nghệ) biến cảm xúc thành tác phẩm.

Như vậy, nói rộng ra, để có thể đến được với những giá trị chưa biết, điều cần thiết là chúng ta phải mở rộng tất cả giác quan, chúng ta phải để cho trực giác (đã bao gồm cả nền văn hóa cá nhân), đi thẳng đến bản chất sự vật. Tuy nhiên, hầu như chúng ta ít nhiều đều có định kiến, những thứ rào cản tinh vi, thậm chí, kinh nghiệm mà anh tích lũy được càng nhiều, rào cản càng dày. Ông có thể kể vài câu chuyện cụ thể không?

– Tôi có những kỷ niệm riêng về chuyện này. Chuyện thứ nhất: Hồi sống ở Hải Phòng, tôi có viết một bài thơ về mùa hạ, có câu “hoa đỏ giữa tiếng ve kim loại”. Sau đó ít lâu, trên báo Văn Nghệ, một nhà thơ có tên tuổi cũng là dịch giả không ít thơ Tây, chế giễu các cây bút trẻ, dẫn câu thơ này, coi như “tắc tị”, vô nghĩa. Tội nghiệp, chỉ vì ông quen sống khép kín trong “thư phòng”, đâu biết đến những cảm giác rất thực của đời sống, nên không hiểu nổi “tiếng ve kim loại” là thế nào. Chuyện thứ hai: sau khi tập Người đi tìm mặt của tôi xuất bản, báo chí nhiều bài “đánh” tới tấp, nhưng có một bài “bênh” rất thiện chí của một nhà nghiên cứu “cấp cao”. Có điều trước khi dẫn một số bài khá “hiện thực” trong tập để khen, ông đưa ngay lên đầu bài Đường phố (cốc xé, váy hè, tiện nghi lạc xon, chất chồng trô trố, môi ngang, vô hồn, khoảnh khắc, mini mông lông…) và thú thật chẳng hiểu tác giả nói gì! Đơn giản thôi, ông không có cơ hội sống trên đường phố Sài Gòn những ngày tháng sau 30/4/1975, lại cũng chưa biết đến thứ “thơ văn xuôi” có tính trực giác bắt chợt những ấn tượng mạnh như loạt ảnh chụp “rafale” (bấm máy như bấm cò súng kiểu liên thanh) mà không cần diễn giải.

Ngay từ khi còn rất sớm, cũng như cho đến tận bây giờ, khi đã bảy mươi, dường như ông lúc nào cũng hào hứng với những cơn gió mới trong văn chương, và tìm mọi cách để đưa nó đến với công chúng. Điều gì giữ được cho ông sự mẫn tiệp đó, thưa nhà thơ?

– Đầu tiên có thể bản tính tôi hay tò mò, chuộng lạ, chóng chán! Thêm nữa, trong khi văn nghệ sĩ thường rất egocentrique (coi mình là trung tâm, tôi tạm dịch là “qui ngã”), nên khi già rồi, bất lực rồi thì ghen tức, không chịu chấp nhận bọn trẻ, không chịu những gì không giống mình, thì tôi may mắn tránh được điều ấy, có lẽ vì không có chí hướng làm nhà thơ đơn thuần. Tôi còn là nhà giáo nên thích hướng về lớp trẻ, tôi lại là nhà báo nên có thiên hướng đi tìm những cái mới lạ. Cho nên chẳng cần mẫn tiệp, thông tuệ gì đâu, chỉ cần vô tư một chút, đừng egocentrique quá, thì sẽ dễ ủng hộ cái mới.

Nói gọn lại, đọc và tiếp nhận, để công việc này thực sự là cánh cửa đi vào các thế giới, theo ông, cần những điều kiện gì?

Hồn ta như cánh cửa

 Không sao yên khi gió đến chân trời

Câu thơ tôi viết 45 năm trước có thể dùng làm câu trả lời.

Làm sao cho cánh cửa lòng mình luôn rung lên “bần bật” như thế!

Chỉ có thể do khao khát, khao khát vô cùng!

Thơ về biển đảo Việt Nam

Bài thơ đời người (*)

Đỗ Quyên

 

(Kính tặng Hoàng Sa – Trường Sa)

 

 

Trên Người-đàn-bà Trung Quốc

Như chiếc khuyên tai

dải đất Việt Nam tôi.

 

Ngàn năm trước

Có những buổi chiều hôm

đặt lên lòng bàn tay

Người-đàn-bà ngắm vuốt.

 

Thế kỷ văn minh

cần khoe sắc

gương mặt ấy kiêu hãnh một thời

nhân loại ngợp ánh mặt trời

lóng lánh vòm đất Việt

Đấy là thời tuổi tôi

biết ngắm và say những người phụ nữ đẹp của đời.

 

…Thân em tròn chiếc hoa tai

Buổi nay người có buổi mai người cầm…

 

Vâng

Lịch sử đếm đủ hơn ba lần

mảnh đất tôi yêu

đại lục ấy không cần

Cũng là những khi tuổi tôi biết mình

ngộ nhận hai chữ Niềm tin

Cũng là những khi cả cha và con

nhìn hết mắt sự phản bội giữa các quốc gia như trong tình trai gái.

 

…Hôm nay lại trở về tay

Người-đàn-bà ấy chiếc hoa tai vàng…

 

Hất khỏi vai

pho sử dày

Tôi đóng vào tim

câu tê nhức

Đất nước Việt như cái khuyên tai

cho Người-đàn-bà Trung Quốc.

 

… Một lời thôi nỗi bâng quơ

Mà chong chong nhớ đến giờ khôn nguôi

Đất trời ơi chuyển xoay rồi…

 

 

 

Baiersdorf, 9/1990; Vancouver, chỉnh lại 5/2014

 

 

——-

(*) Phiên bản mới từ bài Thơ mùa thu; nguyệt san Diễn Đàn – Forum số 4 – 1/1992; và www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-004/tho-mua-thu

 

 

Kì thị biển

Lý Đợi

 

 

từ thời lập ấp, lập quốc

gia tộc tôi chưa có ai làm vua

hẳn gốc tích tôi thuộc nhóm “theo cha xuống biển”

sau cuộc li hôn mà không chia gia tài và đất đai vùng trung thổ

18 vua Hùng thuộc nhóm theo mẹ Âu Cơ

ngày kén rể cũng cố tình chọn chàng trai xứ núi…

 

 

nếu động từ đã phân biệt, như: “lên rừng [trước] xuống biển”

thì danh/tính/trạng từ về biển lại càng kì thị

luôn “rừng vàng biển bạc”

sao không “rừng vàng thì biển cũng vàng”…

 

rồi từ xưa càng vậy:

đày Mai An Tiêm ra đảo xa chứ không lên rừng vắng

đánh quỷ cũng đuổi ra biển

An Dương Vương thất thủ cũng trốn ra biển…

                        – chắc nơi ấy có Lạc Long Quân và các huynh đệ đang sống

 

nhưng ngay khi cần kế nghiệp:

thà chọn bánh chưng bánh dày Lang Liêu (trồng trọt),

chứ không phải “hải vị” của các hoàng tử khác

thà chọn con nuôi là Mai An Tiêm (vì trồng dưa hấu),

chứ không chọn con ruột Tiên Dung (thích phiêu lưu)

hay con rể Chử Đồng Tử (vì dám kinh doanh ngoài biển cả)…

 

50 theo mẹ lên núi làm vua, kì thị biển cũng là đương nhiên

50 theo cha xuống biển đánh cá, bèo bèo cũng hải tặc, kì thị biển thiệt là vô lý

vậy mà vẫn kì thị…

 

tự nhận thuộc nhóm “theo cha xuống biển”

nay nhìn về biển khơi mà trơ trơ con mắt, thiệt là lợi hại

hoặc vì:

những kẻ khoan dùi, cướp phá ngoài biển kia cũng thuộc nhóm xuống biển?

hoặc vì:

            quà cưới bất thành xưa mà Thủy Tinh nâng cấp phương tiện để trả thù nay?

 

thôi thì để hợp thời: vờ khẩu hiệu yêu biển nhưng trong lòng cứ kì thị biển…

 

la hán phòng, 3/6/2014

Biển Đông trái tim ta

Ngô Minh

 

 

Biển Đông trái tim ta phập phồng

Biển đông trái tim ta sóng dậy

Đêm qua thổn thức

Hoàng Sa, Trường Sa một góc quê nhà

Bóng đen quân thù xâm lấn

 

Ta không ngủ được vì căm hận

Năm vượt Trường Sơn thức dậy bừng bừng

Chân mỏi gối chồn vẫn vượt lên

Bám vào đá tai mèo rình giặc

Tưởng đất nước mãi bình yên

 

Ai ngờ bọn xâm lăng lại đâm dao vào tim

Biển Đông máu ta đã đổ

Hoàng Sa, Gạc Ma máu ta đã đổ

Cho ta được ôm súng ra khơi

Hừng hực tuổi hai mươi cứu nước

 

Biển Đông trái tim ta ơi

Triều dâng máu uất

Già rồi, nhưng ta là đứa con của biển

Phải xông ra chặn giặc thôi!

 

Huế, 14/5/2014

 

Tác giả gửi Văn Việt.

THẢO LUẬN VỀ DỊCH THUẬT (1): Dịch văn học và phê bình văn học dịch – một thập kỷ chạm trán

Hữu Đức

Các nhà văn, dịch giả kính mến,

Văn Việt vào cuối tháng 4, có in một bài viết của Nguyễn Lê Trung, bàn về công việc dịch thuật, đặc biệt là dịch thơ, nhân Trịnh Lữ công bố bản dịch một chùm thơ của Emily Dickinson. Tuy nhiên, với bài viết của Nguyễn Lê Trung, Văn Việt nhận thấy vấn đề không những chưa khép lại mà dường như mới được mở ra. Đó là:

    1. Dịch văn học nói chung, và dịch thơ nói riêng, điều cốt tử là gì?
    2. Dịch hoàn toàn đúng nghĩa, nhưng không thơ, bạn có chấp nhận điều này không?
    3. Dịch kiểu phóng tác, đi xa ý, nhưng có chất thơ, thì sao?
    4. Nhiều người cho rằng dịch là diệt; khi nào dịch không là diệt?
    5. Câu chuyện dịch để quảng bá văn học Việt ra thế giới hiện đang đến đâu? Điều gì tạo ra thành công, nếu có, và điều gì đem lại thất bại?
    6. Bạn nghĩ sao về quan niệm dịch giả là đồng tác giả?
    7. Bạn suy nghĩ gì vai trò của văn học dịch và thực trạng dịch văn học hiện nay?
    8. Vì sao có rất nhiều dịch giả có tiếng hiện đã và đang gây những scandal trong dịch thuật? Có nguyên nhân cụ thể nào không?
    9. Bạn có thể miêu tả công việc dịch một tác phẩm nào đó của bạn đã đem đến cho bạn nhiều kinh nghiệm nhất? 

Văn Việt

Trong khoảng mười năm trở lại đây, không khí trao đổi về dịch văn học trở nên khá rầm rộ, những cuộc tranh luận nảy lửa đã chiếm không biết bao nhiêu giấy mực, dung lượng, thì giờ. Các nhà phê bình văn học tỏ ra khá mặn mà với văn học dịch. Tôi muốn có đôi lời nhận xét về cuộc chạm trán ấy giữa dịch văn học và phê bình văn học dịch, và có một vài bình luận mở rộng, chủ yếu đứng từ góc độ dịch văn học.

1. Người ta phê bình ai?

Những ai quan tâm đến dịch thuật hẳn đều biết đến những cuộc phê bình từ đơn lẻ đến hệ thống nhắm vào văn học dịch trong mươi năm qua. Khen ngợi cũng có, nhưng phần lớn là chỉ ra những thiếu sót, tồn đọng. Người ta liên tục đặt nghi ngờ về các bản dịch, tìm thấy nhiều chi tiết dịch sai, và phát triển thành những cuộc bình luận chừng như bất tận trên báo chí, diễn đàn, mạng xã hội. Tuy nhiên, nhìn lại ta sẽ thấy, đối tượng của các nhà phê bình dịch thuật khá đặc biệt / khá đơn thuần. Họ không chọn theo tiêu chí tác phẩm hay tác giả hay trào lưu văn học thế giới nào, mà về cơ bản, họ chọn phê bình dịch giả, cụ thể là các ngôi sao. Đây cũng chính là nhân tố khiến cuộc phê bình dịch thuật có sức thu hút.

Thật ra, tôi muốn dùng từ tinh hoa, vì tôi biết đó là ngôn ngữ giới dịch thuật thường dùng, nhưng với xã hội thế tục này đôi khi hai khái niệm đó lẫn lộn. Tinh hoa không phải một giải thưởng có bằng chứng nhận, có thể sờ có thể ngắm. Tinh hoa là dạng công nhận mang tính trừu tượng được xác định bởi cộng đồng, đôi khi có sự áp đặt hay quảng bá từ những ngôi sao đi trước, hoặc từ các nhà xuất bản. Tinh hoa khi được trao vào tay, ai chẳng vui, còn có sức nặng hơn mọi loại bằng khen ấy chứ. Nhưng trách nhiệm cũng nặng nề lắm trên vai tinh hoa, với nghề, với xã hội. Chính vì vị thế và trách nhiệm ấy, mà các nhà phê bình dịch thuật tìm tới họ.

2/ Người ta phê bình để làm gì?

Sau những trận bút chiến vừa qua, tôi biết nhiều người trong giới dịch văn học đã âm thầm gác bút. Họ thất vọng, bởi những tưởng chọn cái nghề bèo bọt về công cán ấy sẽ được tưởng thưởng bằng danh tiếng xã hội, ai ngờ chỉ nghe thấy những tiếng chê bai nhắm vào bản thân hoặc đồng nghiệp. Họ ngơ ngác hỏi nhau, ơ hay, cái nghề khổ cực như thế mà sao thiên hạ lắm điều vậy nhỉ. Nhiều người chọn bỏ hẳn nghề dịch. Nhiều người chọn “đi men”, bằng cách trở lại với con đường viết lách, vì cho rằng viết là sáng tạo, còn dịch chỉ là thủ công.

Tôi cho rằng việc người ta tập trung “soi” nghề dịch có nguyên cớ riêng. Dịch sách và viết văn là hai việc khác nhau. Nếu viết trước hết là để thể hiện suy tưởng của cá nhân, thì dịch lại bắt đầu (đôi khi vô thức) từ khát vọng trở thành trí thức. Công việc dịch thuật giàu tính khoa học, gắn liền với những yêu cầu như phải biết ngoại ngữ và giỏi tiếng mẹ đẻ, phải có nền tảng kiến thức rộng và hiểu biết về các hệ thống tư tưởng; và nói gì thì nói, tính chất quốc tế của dịch văn học cao hơn nhiều so với viết văn. Chính cái tính chất đặc biệt này – giữa bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay – đã góp phần mạnh mẽ đưa người dịch trở thành nhân tố trí thức. Viết văn và nhiều ngành xã hội khác có thể là cuộc chơi ao nhà, nhưng dịch văn học – một công việc cá nhân âm thầm – lại mang tính quốc tế sâu sắc. Đây là những nguyên nhân cơ bản khiến người dịch trở thành tiêu điểm của giới phê bình (chứ không phải người viết).

Phê bình để thể hiện cảm thụ cá nhân

Tôi cho rằng các bài phê bình văn học dịch xếp vào mảng này không nhiều và cũng không thu hút lắm, giống như với mảng phê bình văn học Việt Nam. Tất nhiên bạn có thể biện luận rằng phê bình nào chẳng để thể hiện cảm thụ cá nhân. Nhưng ý tôi ở đây là xem việc thể hiện ra cảm thụ riêng ấy là một câu thúc, là mục đích chính nhất của việc phê bình. Người phê bình có những tán dương hoặc bất đồng với bản dịch cần được giãi bày. Những bài viết mang mục đích này thường hay, vì được viết dựa trên mong muốn chia sẻ tri thức thông qua kênh văn chương, chứ không phải bằng khoa học như các cách thức sẽ đề cập sau.

Phê bình để thể hiện quan điểm xã hội

Sau khi một trang web nhắm búa rìu vào một dịch giả, người đó đã có lần bày tỏ ngạc nhiên không hiểu căn cớ, vì vốn dĩ hai bên có mối quan hệ bình thường. Chắc chắn là có nhiều lý do, nhưng theo tôi nguyên nhân cơ bản cho những trường hợp như thế là người ta đã dùng phê bình dịch thuật làm một công cụ phản biện xã hội. Tất nhiên, dịch giả ngôi sao sẽ là những cái bia tốt.

Đa số người dịch sách ở nước ta đều hăm hở bước vào nghề dịch với đam mê đơn thuần hòa trộn giữa tình yêu văn chương và ngoại ngữ. Thế nên họ đã phải giật mình kinh ngạc, khi thấy giới phê bình sau khi hết lời chê bai một tác phẩm dịch nào đó, thì liền quy kết cho người dịch những tội danh rất nặng nề và mang tầm vóc xã hội to lớn. Giới dịch sách bấy giờ mới chột dạ, không ngờ cái nghề của mình lại oai thế, có khả năng tương tác với thế giới mạnh mẽ thế.

Thực ra, ở đây, người dịch có lẽ nên thấy vinh hạnh, khi nhận ra mình đang được xem là một dạng trí thức tiêu biểu. Rõ ràng giới phê bình dịch thuật nhằm thể hiện quan điểm xã hội đã đánh giá như vậy, kèm lập luận thế này: Người viết mà viết tồi thì cùng lắm là chẳng ai đọc hoặc cười mũi vài cái rồi bỏ đi, nhưng người dịch thì ngược lại, dịch tồi một tác phẩm có tiếng sẽ bị xem là đã góp phần phá hoại cả một nền văn chương, văn hóa, tư tưởng nào đó, vốn dĩ được cho là cao hơn chúng ta một bậc trên nấc thang tiến hóa, vì thế sẽ bị xem là góp phần làm suy đồi dân trí – mà đây thì rõ là cái tội rất nặng. Người dịch không vươn được mình tới chỗ thấu hiểu và truyền đạt tốt tri thức của những nền văn minh tiến bộ, thì có nghĩa họ đang kéo xã hội vốn trì trệ này thụt lùi thêm, họ sẽ bị xem như dạng “giá áo túi cơm”.

Phải nói là tôi có phần đồng ý với quan điểm đó. Nghề dịch là một nghề nghèo nhưng sang, nếu dịch giả làm ăn úi xùi thì khác nào biến nó thành một nghề nghèo và hèn. Nhưng tôi cũng biết rằng, các nghiên cứu này khước từ sự khách quan trong định tính vì họ đã có định hướng cụ thể cho kết luận. Âu đó cũng là chuyện bình thường của khoa học xã hội của ta (dù trong hay ngoài nước, dù ngành nào), khi đa số người nghiên cứu thích chọn sẵn cho mình kết quả nghiên cứu (dựa trên lập trường tư tưởng), và rồi tất cả những gì cần làm là tìm luận chứng để diễn dịch kết quả đó.

Phê bình để quảng cáo

Sử dụng bài điểm sách để quảng bá là hình thức tất yếu mà người làm sách phải tính đến khi xuất bản, vì thế nên sẽ có loại phê bình văn học dịch với mục đích quảng cáo. Nghe có vẻ thường tình, nhưng thực chất trên thế giới điểm sách là một nghệ thuật, đôi khi mang tính sống còn đối với một tác phẩm, thậm chí là cả tác giả. Thế nhưng, thực tế là điểm sách trên báo chí ở nước ta không có nhiều bài chất lượng, nên gọi là thông cáo báo chí thì đúng hơn. Chỉ thỉnh thoảng ta mới được thấy những bài bình luận sắc sảo xuất hiện trên trang cá nhân của các nhà làm sách.

Tuy nhiên, ngay cả với những bài viết hay, thì cũng phải thấy một thực tế thú vị rằng đó là những bài phê bình văn học nước ngoài, chứ không hẳn là phê bình văn học dịch. Tức là, người viết hầu như chỉ đánh giá về tác phẩm, chứ ít đả động tới công lao hay vai trò của người dịch. Thế nên giới dịch thuật đành ấm ức đặt ra quy ước ngầm là nếu khen tác phẩm ngoại văn hay nghĩa là ít nhiều đã đề cao dịch giả.

Nhưng có một hình thức quảng cáo còn thú vị hơn, đó là “quảng cáo bản thân”

Khoảng một thập kỷ qua, đã không ít cá nhân/đơn vị trở nên nổi tiếng như cồn thông qua con đường phê bình dịch thuật. Hiện tượng những cái tên chưa ai biết hoặc chưa nổi, những cái tên đã chìm nghỉm, bỗng chốc tỏa sáng chỉ sau cú đánh trực diện nhằm vào một bản dịch/dịch giả nào đó không còn là xa lạ. Sử dụng ngôn ngữ phê bình đanh thép và gay gắt, cùng một số luận điểm thuyết phục, họ đã khiến ta vừa khâm phục vừa kính sợ – hai cảm xúc đủ để ta chấp nhận cho ai đó trở thành ngôi sao mà không cần xác nhận gì thêm. Điều này diễn ra theo định luật: Muốn nổi tiếng, phải/hãy lập ngôn.

Sự kiện thì nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ muốn chọn nói tới một trường hợp điển hình cho thập niên, mà tôi theo đó không thể là ai ngoài Thiên Lương cùng loạt bài phê bình Lolita do Dương Tường dịch. Thiên Lương là ai, ít người biết về mặt cá nhân cũng như về sản phẩm dịch (ngoài Lolita – tình yêu to lớn và đột ngột của người dịch này), nhưng rõ ràng đó là một cái tên chấn động. Nếu như các nhà phê bình văn học dịch trứ danh khác gợi ra khái niệm “thảm họa dịch thuật” thì Thiên Lương định nghĩa về “vụ án dịch thuật”.

Sự kiện Thiên Lương đã và đang dành mấy năm trời để sống chết báo thù cho một bản dịch nhiều sai sót khiến tôi liên tưởng tới cảnh Javert tám năm ròng lẽo đẽo bám theo Jean Valjean người phạm tội trộm bánh mì. Được gì mất gì không ai rõ, nhưng chắc chắn Thiên Lương đã nổi tiếng và sẽ được ghi nhớ lâu dài, thậm chí trở thành một tính từ. Nếu như ở tư cách người dịch, Thiên Lương mang tâm thế trí thức, thì ở tư cách người phê bình, nhân vật này lại phản trí thức.

Thoạt đầu tôi cũng thoáng ngạc nhiên, không hiểu vì sao người ta phải la làng lên như vậy về một bản dịch, càng ngạc nhiên với đội quân đánh giúp tinh nhuệ, dù tất cả đều đã giương cao khẩu hiệu bảo vệ văn chương, tri thức, chính nghĩa. Nhưng rồi tôi có nhận thức mới khi nhớ có người từng nói, xã hội giờ đây đã trở thành một game show vĩ đại, và dịch văn học cũng buộc phải dấn thân vào trường quay “truyền hình thực tế” ấy. Một ngôi sao nhất định không thể là một người giỏi có thân phận làng nhàng mà phải có gì đó hết mức cường điệu, hoặc kệch cỡm, lố bịch. Trừ phi bạn không muốn là ngôi sao, bạn buộc phải chấp nhận luật chơi. Trừ phi bạn không cần “tỏa sáng cùng sao”, bạn buộc phải chấp nhận là một tín đồ trung thành. Tôi cho rằng game show này được tổ chức ở mọi cấp độ (thế nên đây chỉ là một chuyện tất nhiên điển hình), và tôi cũng cho mọi game show đều chứa đựng trí thức và phản trí thức, chỉ khác nhau về tỉ lệ mà thôi.

Ngoài ra, có một loại mục đích phê bình khác mà tôi không nói đến ở đây, đó là phê bình để trả tư thù, đơn giản là vì các dẫn chứng chỉ mang tính “nghe nói”.

Tóm lại, những cuộc phê bình văn học dịch với mục đích đa dạng như thế đã khiến cho đội ngũ dịch giả không khỏi cảm thấy lo lắng hay tức giận. Nhưng công bằng mà nói, mâu thuẫn ấy là cần thiết cho sự phát triển của nghề dịch và nghề phê bình văn học – một bên phải phản tỉnh và một bên trở nên có sức sống hơn – và cho cả nhận thức của độc giả. Cuộc chạm trán giữa dịch văn học và phê bình văn học dịch trong những năm qua đã bắt buộc ít nhất là phía người dịch phải nhìn nhận lại vị trí của bản thân và nghề của mình trong xã hội – một vị trí sang trọng và đẹp đẽ nhưng cũng rất nặng nề. Cuộc chạm trán ấy cho họ thấy họ có thể là một dạng ngôi sao, một nhà khoa học, một nhà nghệ thuật, một đối tượng của phản biện xã hội. Họ nhận ra chọn làm dịch giả là lựa chọn con đường trở thành trí thức, chứ không đơn thuần là chọn cách kiếm sống hay cách nổi tiếng. Cuộc chạm trán ấy đánh động giới dịch thuật, bắt buộc họ phải trau dồi hơn, trách nhiệm hơn. Và nó cũng tạo ra một cuộc sàng lọc, nơi những ai muốn “quẳng gánh nặng đi mà vui sống” quyết định giã từ nghề dịch, và ở lại sẽ là người chọn vui sống cùng gánh nặng đó.

 Tác giả gửi Văn Việt.

Nguyễn Huy Thiệp, thời điểm của câu hỏi, thời điểm của con người

Phan Huy Đường

Sau Tướng về hưu lại được Không có vua, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Những bài học nông thôn, Những người thợ xẻ.

Ðộc giả, người ưa, kẻ ghét, ít ai bàng quan, không ai chê dở. Người ưa, đọc đi đọc lại vẫn băn khoăn, khó chịu: tác giả muốn nói gì ? Kẻ ghét lên án nhiều mặt: xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ anh hùng, vĩ nhân của dân tộc, tàn nhẫn, tục tĩu.

Những phản ứng trái ngược đó rất… đương nhiên: văn Nguyễn Huy Thiệp không phải loại văn để thưởng thức ! đã ngốn vào, không dễ gì tiêu hoá.

Có loại văn ta có thể thưởng thức như thưởng thức một món ăn tinh khiết, dù chỉ là món ăn (!) tinh thần. Ta đọc, và ta hiu hiu tự đắc: ta hiểu, ta biết thưởng thức những vị thanh cao trên đời. Nói vậy không có ý mỉa mai. Có những thời điểm lịch sử cho phép loại văn này thịnh hành. Bình thường là thời thịnh trị, có sự nhất trí cao trong xã hội về thế giới quan và nhân sinh quan. Nhà văn và độc giả, ngoài những thao thức triết lý muôn thuở, vô thưởng vô phạt,không thắc mắc, lo âu về xã hội, về cuộc đời, về con người. Họ tìm nhau trong (cái) Ðẹp. Văn hay như hoa thơm cỏ lạ toát ra từ trí tuệ, sự uyên bác và tấm lòng nhà văn. Người đọc ngắm nghía nó như ngắm chân dung của mình, thưởng thức nó như thưởng thức nhân cách của mình. Trong những thời điểm đó, nghệ thuật phê bình thường thu gọn vào kiến thức và hình thức: câu này, ý này, từ điển tích nào ra… dùng chữ, đặt câu tinh xảo, mới lạ như thế nào… Văn chương Pháp hồi thế kỷ 17 mang tính chất đó. Trong trường hợp nào loại văn đó trở thành “bất diệt” là một đề tài khác.

Văn Nguyễn Huy Thiệp không thuộc loại văn đó. Nó có một đặc điểm vô cùng khó chịu: dồn người đọc vào một thời điểm khủng khiếp, thời điểm của câu hỏi, thời điểm của con người. Thời điểm đó không những khủng khiếp đối với người khác. Nó càng đáng sợ cho chính mình.

Vì sao khủng khiếp đối với người khác ?

Nếu ta đã từng say đắm, chỉ nhớ lại nỗi đau cào ruột bắt ta thốt ra câu hỏi bất lực: em đang nghĩ gì vậy ? ta hiểu ngay: người đang suy nghĩ, đang tự hỏi là người đã thoát rời ta. Ta không thể biết nó sẽ suy nghĩ gì về ta. Ta không có cách nào ép nó suy nghĩ như ta muốn, nhìn ta như ta mơ ước. Nó có thể trở thành mối đe doạ bất khả kháng đối với nhân cách của ta, với quyền lực của ta. Ta vừa đam mê nó, vừa sợ nó đến điên cuồng. Hung bạo trong tình yêu và hung bạo khi sử dụng chính quyền giống nhau ở điểm này: không ai muốn vậy, nhưng có lúc phải đánh, phải bỏ tù ! Càng đánh, càng bỏ tù, càng nhận ra sự bất lực của mình. Càng bất lực, càng muốn đánh, muốn bỏ tù… Cuối cùng chỉ còn một cách: giết – chấp nhận thất bại.

Tự hỏi hãi hùng hơn. Tự hỏi hủy diệt tận gốc mọi an ninh tinh thần, tình cảm. Khi ta tuyệt đối tin tưởng, tuyệt đối trung thành với bất cứ cái gì (Thượng đế, Lịch sử, Lãnh đạo…) ta có thể lên thánh giá mà không tiếc thân, nhẩy vào lửa mà không rùng mình: nhân phẩm của ta đã có sự bảo lãnh thiêng liêng. Khi ta không còn tin gì cả, chỉ thời gian trôi đi cũng lạnh người. Những lúc đó, cả dĩ vãng của loài người dồn vào dĩ vãng của ta dưới một bộ mặt xa lạ: ai đấy ? Những lúc đó cái hôm nay như một mớ bòng bong cuồng loạn: tại sao lại vậy ? Nhưng khủng khiếp nhất vẫn là ngày mai. Ta phải làm gì ? Làm gì để cuộc sống của ta có ý nghĩa, có giá trị, đáng là một cuộc đời. Ðã dám tự hỏi, ta thừa biết câu trả lời: không phải, mà muốn làm gì, kể cả tự sát. Vì con người (là) tự do, (là) sáng tạo.

Con người có hai quan hệ cơ bản, quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với người. Hai quan hệ đó phát triển qua sự sáng tạo của con người, tạo ra một thế giới, một cuộc đời ngày càng giàu (hoặc nghèo) nhân tính.

Mâu thuẫn giữa người và thế giới tự nhiên giải quyết qua sự phát triển của khoa học. Nhiều nhà khoa học đã nhấn mạnh nhân tố sáng tạo trong sự phát triển ấy: trước khi chứng minh bằng lý luận, thí nghiệm, thực tiễn, phải sáng tạo giả thuyết sẽ được chứng mình (hay sẽ bị bác bỏ).

Quan hệ giữa người với người cũng vậy. Một tình cảm cổ lỗ sĩ như tình yêu mà cũng vậy. Mất nhau rồi mới biết yêu nhau là thế nào. Nhưng lúc đang yêu không ai nói được tình yêu gì. Và cũng cóc cần biết !

Như vậy, dồn con người vào thời điểm của câu hỏi là đòi lại nhân tính cho nó, đòi lại cho nó quyền đánh giá cổ kim, quyền làm người. Nhưng đồng thời cũng đòi hỏi ở nó trách nhiệm làm người, sáng tạo tương lai:

Họ cần hiểu rằng phải cầu một thứ cao hơn thế nữa, đấy là giá trị chân chính cho cuộc sống của mình, quyền được tự mình định đoạt cuộc sống, tóm lại là tự do. (“Những bài học nông thôn”).

Ðạo làm người, qua lịch sử, có nhiều nền tảng. Nền tảng đầu tiên có lẽ là tạo hoá: sự sợ hãi của con người trước thiên nhiên ác nghiệt. Sau đó phải tính tới Chúa, Trời, Ðịnh mệnh, và các loài siêu nhân khác: sự sợ hãi của con người trước đồng loại và bản thân. Cách đây mới ba trăm năm, phải kể tới khoa học: niềm tin của con người vào trí tuệ của mình. Ðây là một bước ngoặt cơ bản về nhân sinh quan: con người lấy người làm gốc của đạo đức. Nhưng rồi, tuy khoa học và kỹ thuật phát triển mãnh liệt, con người vẫn tàn nhẫn với nhau, vẫn khổ nhục.

Mới thế kỷ trước, người ta hiểu thêm: nguyên nhân sự tha hoá (aliénation) của con người, chính là con người, là người khác, đúng hơn, là xã hội. Quan điểm này vẫn lấy người làm gốc, nhưng nó toàn diện hơn: người không chỉ là một động vật trong trời đất và, với tư cách đó, lệ thuộc quy luật của thế giới tự nhiên; nó còn là sản phậm của xã hội, của con người. Người không chỉ đẻ ra thân xác người, nó còn sáng tạo ra hồn người. Khoa học và sáng tác đòi hỏi một tiền đề: tự do. Tự do bắt đầu bằng… câu hỏi.

Như thế ta hiểu một khía cạnh trong nghệ thuật hành văn của Nguyễn Huy Thiệp: mâu thuẫn, một mớ bòng bong mâu thuẫn. Truyện này mâu thuẫn với truyện kia, đầu truyện mâu thuẫn với cuối truyện, nội dung mâu thuẫn với hình thức. Nhân vật mâu thuẫn, cốt truyện mâu thuẫn, hình ảnh mâu thuẫn. Cả văn cách cũng mâu thuẫn luôn. Tâm lý, tình cảm, hành động, lời nói: mâu thuẫn và mâu thuẫn !

Phải nói là Nguyễn Huy Thiệp ý thức rất rõ về nghệ thuật của mình và làm chủ được nó…. Những thủ pháp đó theo tôi là sự trộn lẫn rất nhuần nhuyễn những yếu tố có thực và những yếu tố huyền diệu (merveilleux), là lối viết nhằm tạo ra cho nhiều câu, nhiều đoạn trong mỗi truyện tính cách tối nghĩa (hermétique), ẩn ngữ (énigmatique), phi lý (absurde) hay đa ý (polysémique) bắt người đọc phải hoang mang suy nghĩ’ như khi đọc một câu sấm của Trạng Trình….. Những sự mập mờ cố tình này không những chỉ nằm ở mức độ của những yếu tố tự sự (éléments narratifs) mà cả ở mức độ đối thoại, ở lời ăn tiếng nói của một số nhân vật nữa… những câu nói mà người đọc hiểu thế nào cũng được, cho đời xưa cũng thuận, mà cho đời nay cũng hay…. Kết quả là ông bắt người đọc phải băn khoăn suy nghĩ đoán xem ông muốn nói gì. Nhưng rốt cuộc không bao giờ tìm ra câu trả lời thoả đáng.(Nhận xétNguyễn Thanh về bút pháp Nguyễn Huy Thiệp. Những câu nhấn mạnh do Trần Đạo).

Truyện Kiếm sắc tả một nhân tài, Ðặng Phú Lân, lúc sống dám nói với Nguyễn Ánh:

Nước Việt thì không ai hại được. Còn thoát hàm cá sấu, cần gì phí một mạng người !

Vừa hùng, vừa nhân, vừa trí. Thế mà lúc bị chém đầu,

máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì bệt lại.

Hình ảnh thần thoại đó lại minh họa một lời phân tích rạch ròi, xác đáng:

Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín năm không làm hỏng việc gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là trèo lên cây mà không hái được quả, đáng tội chết.

Một lời nói, một hình ảnh, hai thế giới quyện lại thành một đoạn văn: ai hư, ai thực, ai nhân, ai trí ?

Những mâu thuẫn đó dồn người đọc vào thế phải tự hỏi.

Vì vậy, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp không có kết luận, không bao giờ kết luận được. Ðúng hơn, không cần kết luận. Mục đích của chúng không phải là chỉ giáo cho ta cái đúng cái sai, cái đẹp cái xấu gì. Ngược lại, chúng buộc ta phải tự ý khẳng định mọi đúng sai, đẹp xấu trên đời, buộc ta phải sáng tạo, phải tự do, phải trách nhiệm, phải hành động, phải làm người. Chúng không cần kết luận vì kết luận của chúng là… ta, một câu hỏi đau điếng, nhọn hoắt, chọc thủng cả thời gian, đào mả cả quá khứ, vút tới… ? Không tới đâu cả. Thời điểm của câu hỏi là giây phút dầy vò, căng thẳng trước khi lựa chọn. Tương lai còn lơ lửng đằng kia, chưa thực rõ nét, nhưng đã vẫy gọi, thôi thúc, đòi hỏi. Giây phút căng thẳng, nhức nhói, lo sợ ấy gọi là… trách nhiệm. Nó chỉ có thể chấm dứt qua… hành động.

Như vậy ta hiểu vì sao có người căm ghét văn Nguyễn Huy Thiệp.

Văn Nguyễn Huy Thiệp tục tĩu chăng ?

Thế nào là văn tục tĩu ? Tục tĩu ở chỗ nào ? Cốt truyện, hình ảnh, ngôn từ ? Ai thấy tục tĩu ? Ai tục tĩu ? Tại sao thơ Hồ Xuân Hương, văn Vũ Trọng Phụng không ai thấy tục tĩu ? Tại sao văn dâm hay trên đời toàn là tác phẩm của đại văn hào ?

Ta hãy mở một quyển sách giáo khoa về y học, xem nó tả thân xác con người. Có đủ cả: đầu mắt, chân tay, ngực vú, dái lồn. Tục tĩu không ? Không. Thân xác con người không bẩn thỉu, tục tĩu, thế giới tự nhiên không tục tĩu.

Ta lại đọc một nhà văn tả một người đàn ông và một người đàn bà thương yêu nhau, thèm muốn nhau, ve vuốt nhau, ôm ấp nhau sôi nổi. Có gì tục tĩu khi ta cảm thấy chân thành ? Nếu tình cảm ấy, hành động ấy tục tĩu, cả nhân loại này phải che mặt với một tấm vải đen. Trơ ra cho nhau xem sao tiện ?

Nhưng hãy thử gượng gạo ép người đàn bà kia ngửa bụng, thở dốc, rên rỉ… Ta sẽ thấy đểu ngay. Vì sao ? Cũng bấy nhiêu chuyện, bấy nhiêu hình ảnh, ngôn từ. Nhưng ta chợt hiểu ta đã bị lừa gạt. Kẻ viết đã khinh miệt ta, coi ta như một con chó đã bị điều kiện hoá, có thể sai khiến bằng một mớ chữ khéo chọn lọc, khéo ráp nối. Ta đem lòng thành và thiện chí của ta mở sách, trút hồn vào mớ chữ lem nhem, thức tỉnh chúng. Kẻ viết lại lợi dụng điều đó để hãm hiếp tư tưởng của ta, thủ dâm với tình cảm của ta. Ta phải buông sách, thở dài: đồ đểu. Người tục tĩu không phải là ta. Người tục tĩu là kẻ viết.

Văn không tục ở cốt truyện, hình ảnh, ngôn từ.

Văn tục hay không tục ở quan hệ giữa người viết và người đọc. Mỗi lần kẻ cầm bút khinh độc giả tới mức nghĩ rằng dùng chữ mỹ miều, đặt câu bóng bẩy là có thể điều khiển tư duy và tình cảm của người đọc, là có văn tục. Loại văn đó mà dám đề cập tới thân xác con người, gọi là văn tục tĩu.

Còn người đọc, thích, thưởng thức văn ấy ? Hoặc buồn bực. Hoặc bị lừa, bị hãm hiếp mà không hay. Hoặc tục tĩu không thua người viết.

Nếu chúng ta quen suy nghĩ với đầu óc của người khác, với luân lý dân tộc, với những thiêng liêng đã được nhân dân xác tín… thì phải thấy văn Nguyễn Huy Thiệp tục tĩu ngay. Nhưng đó là một sự ngộ nhận đáng tiếc: Nguyễn Huy Thiệp không hề viết cho chúng ta đọc, mà viết cho cá nhân ta đọc.

Vì vậy văn Hồ Xuân Hương không bao giờ thấy tục: nó luôn luôn kêu gọi người đọc vận dụng lý trí của mình, phủ định đạo đức giả, gông kìm của xã hội phong kiến đối với con người, dù chỉ bằng một nụ cười tinh quái. Thuở ấy Xuân Hương không có vũ khí nào hơn để khẳng định nhân cách của mình:

 Thân này ví thể làm trai được

 Cái phận anh hùng có bấy nhiêu

Bạn có dịp đọc Chút thoáng xuân hương sẽ thấy Nguyễn Huy Thiệp quý trọng Hồ Xuân Hương như thế nào.

Cũng vì vậy, có loại văn chữ nghĩa rất trang nghiêm mà đọc chưa xong đã phải thở dài: đồ đểu.

Văn Nguyễn Huy Thiệp dồn người đọc vào thời điểm của câu hỏi, không thể có ý đồ điều khiển tâm tư, tình cảm của người khác. Không ai có thể biến nó thành văn tục tĩu.

Văn Nguyễn Huy Thiệp không tục tĩu, nhưng tàn nhẫn chăng ? Tàn nhẫn thật. Tàn nhẫn lắm. Nhưng tàn nhẫn ở chỗ nào mà làm ta khó chịu vậy ?

Sự tàn nhẫn thực của thế giới ngày nay, cần gì văn chương mới thấy ? Chỉ mở mắt, ngóng tai, ra đường là chạm phải ngay. Ba phần tư nhân loại nghèo đói, nhục nhằn, lệ thuộc ; mỗi năm hơn năm mươi triệu trẻ em chết vì thiếu ăn ; một dân tộc đã từng được tuyên dương là lương tâm của thời đại mà có hơn triệu người lăn vào biển tìm lối sống ; cả triệu người thiếu đói ; làm người mà muốn ăn, muốn nói, muốn làm, muốn suy nghĩ gì cũng phải xin phép tận đâu đâu ; hàng chục nghìn đứa trẻ, mới vào đời đã bị tước đoạt tương lai (lý lịch) ; không tàn nhẫn à ? Ta không biết chăng ? Ta đã biết, đã nghe, đã thấy nhiều rồi. Nhưng khả năng quên, khả năng trừu tượng hoá của ta thật vô tận: nó là liều thuốc giữ mạng cho con người. Không có nó không ai tồn tại được.

Tính tàn nhẫn của văn Nguyễn Huy Thiệp không ở chỗ nhắc nhở ta một vài hình ảnh của thế giới tàn nhẫn này. Ta đã biết quá nhiều và còn nhớ không ít. Quên hết sao được. Nó tàn nhẫn ở chỗ nó bắt ta nhập cuộc, không sao trừu tượng hoá được sự tàn nhẫn kia, phải hứng nó như một cái tát vào mặt.

Ðâu phải hễ muốn là viết được văn tàn nhẫn ! Thí dụ, một nhà văn bỏ công thu thập thống kê, thông tin và kinh nghiệm thực tiễn về hoàn cảnh hiện nay của dân ta, rồi cầm bút viết một truyện về thời kỳ quá độ. Có đủ cả: khó khăn khách quan, sai lầm chủ quan, những tiêu cực, những việc tốt, những người tốt kiên quyết khắc phục khó khăn, uốn nắn sai lầm, chống tiêu cực, bước đầu cơ bản hoàn thành… Ta đọc xong, có thể yên tâm ngủ. Ngày mai mặt trời sẽ lại mọc và tâm hồn ta vẫn quang đãng… Trừ khi ta xui xẻo gặp trong métro một em nhỏ, nhìn mặt không đoán ra tuổi, ngước mắt nhìn ta, ngửa tay ăn mày. Dù ta ngoảnh mặt ngay, cũng đã muộn. Một tia sáng đã chọc thủng mắt ta, đọng vào hồn: nỗi nhục làm người hôm nay. Văn Nguyễn Huy Thiệp tàn nhẫn như nỗi nhục đó, trơ trơ, lì lợm như cuộc sống thường ngày. Nó không ngừng chất vấn nhân cách của ta. Nó buộc ta vừa là bị can, vừa là quan toà, không thể giả dối, không còn đường trốn tránh. Tàn nhẫn vô cùng.

Tác giả đạt được kết quả như vậy cũng nhờ quan điểm viết nói trên. Mỗi nhân vật, mỗi hành động, mỗi lời nói đến với ta một cách đột ngột, bất ngờ, như một câu hỏi. Chúng không tuân theo một “quy luật” tâm lý nào. Ta không thể thích thú gật gù hay lù đù xuôi theo sự phát triển của chúng. Ta bị bắt buộc nhìn lại chúng, tái tạo chúng từng dòng, từng chữ và, do đó, phải tái sinh (cái) tình đã biến chúng thành văn. Con người khốn khổ, hành động thô bạo, lời nói tục tằn đã vậy. Nhân vật, hành động, lời nói đẹp cũng thế: đến với ta như một nụ cười ta không xin, mà bỗng nhiên được, như lòng nhân ái.

Trong truyện Những người thợ xẻ, cái anh Bường ngang tàng thô bạo đến thế này:

Lao động chân tay, em ạ, không thể lấy chính trị động viên được, chỉ có tiền và gái thôi, đấy mới là thuốc bổ chứ

vừa mới viết một lá thơ chân tình cho vợ con lại giải thích ngay:

Cũng là trò “mị dân” thôi

mà có thể nói:

Tình mẫu tử là thứ nước mắt chảy ngược vào lòng, nó bào tan nát ruột gan ra, hoặc nó biến thành máu để bắt cơ thể làm việc, buộc phải đẻ ra một thứ sản phẩm vật chất cụ thể, thiết thực, không hề phù phiếm

và nhất là:

Chúng em phận hèn, của cải chẳng có, chúng em mắc nợ nghĩa tình khốn nạn lắm !

Ðẹp vô cùng. Trong thế giới này, miếng ăn còn là miếng nhục. Nhân cách của con người ở chỗ không lệ thuộc ai để tồn tại, không đội ơn ai để sống. Ån cắp gỗ để sống ít nhục hơn chịu ơn người khác một miếng cơm, một manh áo. Vì vậy, không ai thích bị biếu quà khi bản thân mình không có khả năng trả lại. Ta sẵn sàng nhận những món quà không tiền nào mua được, không bao giờ ta trả hết giá: một nụ cười thân thiện, một chút lo âu cho nhau, tình yêu của một người đàn bà. Nhưng dù người cho ta miếng ăn chân thành đến đâu đi nữa, thì Nghĩa này phải trả đấy.

Cảnh chặt chân Ngọc đẹp lạ lùng, vừa man rợ vừa chan chứa tình người:

Anh Bường bảo tôi ngồi kê chân lên một khúc gỗ. Anh Bường bảo: “Bình tĩnh nhé. Bây giờ chặt chân đây”. Lại bảo: “Bác Chính cầm hộ em con dao, đặt vào đây. Em lấy chày táng cho một phát, đứt ngay”. Chị Thục ôm mặt: “Khiếp ! Tôi sợ quá”. Anh Chính cười: “Trong đời bác sĩ của tôi, hành nghề thế này đây là lần thứ nhất”.

Anh Chính đặt dao vào chỗ đầu ngón chân tôi. “Uỵch” một phát, chưa chi anh Bường đã lấy chày nện vào sống dao. Tôi bật người lên vì đau quá. Anh Chính bảo: “Chưa chi đã chặt, lưỡi dao đã khớp đâu nào ?” Tôi bảo: “Thôi thôi, đau lắm, chặt nữa thì chết chân tôi”. Chị Thục giằng lấy chày trong tay anh Bường: “Cút đi ! Ðịnh giết người ta hay sao ?” Chị Thục bảo anh Chính: “Bao giờ được, anh bảo em”. Anh Chính bảo: “Ðược rồi đấy ! Chặt đi !”. Chị Thục vung chày: “Khự” một cái…

Sao cuộc đời man rợ vậy, khốn nạn vậy ?

Một lời mắng mỏ, một nhát chày, con người trìu mến biết bao !

Ðoạn văn này tàn nhẫn ở chỗ nào ?

Chặt một mẩu thịt ở đầu ngón chân, chưa rùng rợn lắm. Lại không có xương tan, thịt nát, máu tuôn trào. Vậy mà đọc cứ thấy rợn người. Ghê rợn không ở sự việc, hình ảnh. Ghê rợn ở đối thoại, ở con người. Thử đọc lại xem. Họ bàn tính với nhau như thể chặt gỗ, chẻ cây, đâu phải chặt chân người. Nỗi đau bật người lên thuộc một thế giới đâu đâu, không liên can gì tới sự việc của họ. Giữa cộng đồng lạnh lùng, ghê rợn đó, lời nói, cử chỉ và hành động của chị Thục vút lên như một mặt trời nhân ái.

Nội dung thực là tình người mà hình thức lại là bàn công việc cụ thể. Mâu thuẫn ấy nấp sau đối tượng của công việc: chính là con người. Phải mù quáng lắm, phải tàn nhẫn lắm mới không thấy. Vì vậy chị Thục phải thấy khiếp, thấy sợ, thy cái đau giết người kia mà giằng lấy chày, vung lên, khự một cái, làm tất cả những gì mình có thể làm để giảm bớt cho nó nỗi đau, giới hạn nỗi đau ấy tới mức có thể giới hạn.

Nếu thích phân tích kỹ thuật dùng chữ, có thể nhận xét ngay: đặt (dao) vào đây, táng cho một phát, đứt ngay, Uỵch một phát, chưa chi đã…, đã khớp đâu nào, toàn là thuật ngữ của nghề kéo cưa lừa xẻ, hoặc một lao động chân tay nào khác, không thể áp dụng cho một cuộc phẫu thuật, cho một con người. Nhưng ghê rợn hơn cả là ba chữ lần thứ nhất. Tại sao không nói: lần đầu ? Vừa tự nhiên, vừa gọn gàng, lại “văn chương” (mối tình đầu, những thuở ban đầu v.v. và v.v.). Vì lần đầu khơi ngay (và có thể là) lần cuối. Còn lần thứ nhất đương nhiên gọi lần thứ hai, lần thứ ba…

Thực ra, nếu chỉ là vấn đề kỹ thuật, ai chẳng học được ? “Kỹ thuật” trong nghệ thuật khó chịu lắm, “thiền” lắm: thiếu lòng nhân không bao giờ “học” được. Vì đối tượng của nó, cũng như trong cảnh chặt chân kia, là ngôn ngữ, là người. Chính vì nhà văn cào giấy như xé lòng mà người đọc, chưa kịp phân tích, đã nát ruột, nát gan.

Nguyễn Huy Thiệp có một biệt tài: vận dụng đối thoại thật phong phú, tinh xảo, tài tình. Vừa ghê rợn, vừa trìu mến, nó là bộ mặt thực của cuộc sống, của con người ngày nay.

Văn Nguyễn Huy Thiệp có bôi nhọ vĩ nhân của dân tộc không ? Ðương nhiên là không. Dĩ nhiên là có, và cố tình.

Nhân vật trong văn chương là hư cấu. Ðã hư cấu thì còn bôi nhọ được ai ? Hơn nữa, con người (Nguyễn Du) đã chết hơn hai trăm năm rồi, ai hơi sức đâu đi cà khịa với nó, nhất là lúc này ! Có muốn chăng, cũng chẳng làm được. Phải công bằng, phải công nhận rằng những người cà khịa với Nguyễn Huy Thiệp hôm nay cũng không vì người quá cố kia mà thịnh nộ. Họ thịnh nộ vì lý do khác. Trong phạm vi lý do ấy họ hoàn toàn có quyền, và có lý của họ. Thử tìm hiểu xem. Thử nghe Nguyễn Huy Thiệp viết về nền văn học của ta:

Ðặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Ðây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù.

Rồi viết về Nguyễn Du:

Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy điển tích của đứa đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình… Người mẹ của Nguyễn Du (tức nền chính trị đương thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải ba trăm năm sau người ta mới thấy điều này vô nghĩa… Lòng tốt của ông là thứ lòng tốt nhỏ, không cứu được ai.

Người Việt Nam chẳng mấy ai không thuộc một vài câu Kiều. Có khi ngâm nga thơ Nguyễn Du cứ tưởng là ca dao. Viết về Nguyễn Du như thế, nghe sao được ? chịu sao được ? Chưa kịp liên hệ tới thời sự, ta đã nhức nhói cả tâm hồn. Thú thực, cái ông Nguyễn Du chết cách đây đã quá hai trăm năm, ta không hề quen biết. “Người” bị bôi nhọ ở đây không phải con người đó mà chính là… ta. Nó là hình ảnh sẵn có trong đầu ta. Nó từ đâu tới ? có từ bao giờ ? ai đã nhét nó vào đầu ta ? bằng cách nào ? Nó ở trong đầu ta mà sao ta ái ngại, không dám đánh giá nó ? Và tại sao ta không có quyền đánh giá nó ? Ta không có quyền đánh giá nó chính vì nó là ta. Nó đã nằm trong đầu ta, ta là nó, nó là ta. Xem xét, đánh giá nó là xem xét ta, đánh giá bản thân ta, là tự hỏi về mình, là nhìn lại, đánh giá lại toàn bộ cuộc sống hôm nay. Ðiều đó, có nhiều người không sao chịu nổi. Ta không dễ gì chịu được, đã đành, giá phải trả không nhẹ. Người khác không chịu được cũng dễ hiểu.

Ðây là lời tuyên bố của Trần Bạch Ðằng, một ngòi bút nổi tiếng đổi mới (trên một số vấn đề, có mới thực so với mấy ông quan văn hiện nay), về vấn đề tự do tranh luận, tự do sáng tác:

 “Cấm” là biện pháp xưa cũ, tuy chúng ta vẫn không tuyệt đối hóa “tự do” một khi cái tự do nào đó lại xâm phạm tới an ninh quốc gia, đến luân lý dân tộc, đến những vấn đề thuộc cương lĩnh chính trị của toàn dân, đến những chỗ thiêng liêng mà nhân dân xác tín. Tôi không tán thành cấm trên cơ sở đó.

Cái gì là luân lý dân tộc ? Cương lĩnh chính trị nào là của toàn dân ? Và toàn dân là ai ? Những chỗ thiêng liêng nào đã được nhân dân (nào) xác tín (lúc nào, ở đâu) ? Ai có thẩm quyền quyết định cho mọi người những điều đó ?

Dĩ nhiên không phải tôi, không phải anh, không phải chị, không phải những “nhân dân” lặt vặt như chúng ta.

Ðã có lúc, chụp ảnh trên đèo Blao, mở tiệm cà phê, là xâm phạm an ninh quốc gia, lũng đoạn thị trường xã hội chủ nghĩa, nữa là. Kiến thức sâu bọ, tư duy nông cạn của ta làm sao hiểu được những điều ấy !

Trong di sản khổng lồ của dân tộc (và cả nhân loại nữa chứ), cái gì đáng giữ, cái gì nên bỏ ? Ai có thẩm quyền đánh giá ?

Dĩ nhiên không phải tôi, không phải anh, không phải chị, không phải những “nhân dân” lặt vặt như chúng ta.

Cuối cùng, đương nhiên phải nhờ ơn Trần Bạch Ðằng phán xét cho. Như vậy, ta có thể cắt bớt bộ óc, vứt nó đi như một mẩu ruột thừa vô dụng. Ðã có thiên tài suy nghĩ giùm ta rồi, cần gì đến nó.

Nỗi khổ của người ưa suy nghĩ thay người khác là vậy: đe doạ hay ve vuốt, chân thành hay mánh lới, đều vô ích. Không có cách nào buộc người khác suy nghĩ như mình muốn. Thành công, thất bại, đều mất hết. Nếu có cách làm người khác tự động suy nghĩ theo ý mình là thành công: được người như được đồ chơi, chán ngắt. Không mấy ai sống với chó của Pavlov trọn đời được. Nếu không, chỉ còn cách lột óc nó hay tiêu diệt nó: được một con vẹt hay một cái xác.

Thích suy nghĩ thay người khác, tới mức nào, sẽ chọn cái xác.

Tại sao Trần Bạch Ðằng muốn cấm nhạc Phạm Duy trừ khi Phạm Duy tự sát ? Phạm Duy chết, có gì thay đổi tác phẩm của ông ? Trần Bạch Ðằng đã không sợ Phạm Duy chết thì sợ gì Phạm Duy sống ? Ông sợ người đang sống thích nhạc Phạm Duy: họ còn bé bỏng quá, non nớt quá, thiếu sự che chở sáng suốt của ông, họ sẽ trở thành “bồi Mỹ” hết !

Vì thế mới có chuyện không tuyệt đối hóa tự do.

Cái “khái niệm” gì lạ vậy ? Bạn có bao giờ nghe ai bàn luận về sự tương đối hoá nô lệ chưa ? Thế mà vẫn có thể thao thao bất tuyệt về chuyện tuyệt đối hoá tự do ! Con người tự do hay không tự do. Nếu nó không tự do, ta nên đi ngủ, không có chuyện gì đáng bàn cả. Và cũng chẳng có chính trị, văn học, nghệ thuật. Chính vì con người, dù mọc cánh, cũng không trốn khỏi tự do, mà có bóc lột, đàn áp, có đấu tranh giai cấp, có chuyên chính này nọ, có dân chủ tư sản và, biết đâu, có ngày sẽ có dân chủ xã hội chủ nghĩa ? Chính vì con người (là) tự do mà có văn học, nghệ thuật, có Nguyễn Huy Thiệp viết Tướng về hưu, có Trần Bạch Ðằng cầm bút ủng hộ cái này, cấm đoán cái nọ và, dĩ nhiên, có độc giả, mới hôm qua còn hâm mộ Trần Bạch Ðằng, mà hôm nay đã thở dài. Tiếc thay, Trần Bạch Ðằng chỉ thích tự do của người khác trên cơ sở mình ban bố.

Than ôi ! thời đại nó như vậy. Nhân phẩm của con người ngày nay vẫn chỉ có một thước đo này: chấp nhận sự man rợ với nhau tới mức nào thì không chấp nhận nữa.

Vì thế, khi Gia Long muốn chiếm đoạt Ngô Thị Vinh Hoa, bị Vinh Hoa hỏi:

Bệ hạ muốn làm vua gà, vua vịt hay sao ?

Nhà vua phải thở dài:

Sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn, chỉ được quyền cao cả, không được quyền đê tiện. (“ Phẩm tiết”)

Viết về Nguyễn Du như Nguyễn Huy Thiệp viết là buộc độc giả suy nghĩ về nhân cách của mình, tự đánh giá lấy phẩm chất của mình, dồn độc giả vào thời điểm của câu hỏi (mà không bố thí cho một câu trả lời ! Tàn nhẫn thật ! Nhân ái thật !). Làm sao đánh giá được nhân phẩm của mình nếu đầu mình vận động một cách máy móc, qua một mớ hình ảnh, từ ngừ tự động?. Suy nghĩ về nhân cách của mình, tự đánh giá lấy phẩm chất của mình đi đôi với quyền và khả năng đánh giá lại quá khứ, đòi hỏi tương lai. Mọi người đều có khả năng đó và, đã tự hỏi, là đã tự giành lấy quyền đó, chẳng cần xin phép ai. Ðó là mối đe dọa trực tiếp đối với người khác trong hiện tại. Vì thế họ phải giật mình, hò hét.

Cuối cùng, Nguyễn Huy Thiệp có xuyên tạc anh hùng dân tộc, xuyên tạc lịch sử không ?

Câu hỏi có vẻ dớ dẩn. Ai lại đòi hỏi nhà văn làm công việc của nhà nghiên cứu sử bao giờ ? Tuy vậy, nó không dớ dẩn. Thực chất của nó là mối quan hệ giữa văn chương và chính trị.

Văn chương và chính trị có một điểm chung cơ bản: lấy người làm mục đích, dùng người làm phương tiện. Vì vậy, nhà văn dễ làm người bạn đường tri kỷ của nhà chính trị, – khi nhà chính trị còn hai bàn tay trắng, không có phương tiện nào hơn là con người. Lúc ấy, hiếm ai đạo đức hơn nhà chính trị. Lúc ấy, lời hiệu triệu của nhà chính trị cũng có thể thành văn. (Cứ đọc thử Tuyên ngôn của đảng cộng sản thì thấy thế nào là nhân văn). Nhưng cũng vì vậy mà văn chương và chính trị khó ôn hoà với nhau khi nhà chính trị đã thành công nhưng xã hội mới chưa ổn định, chưa có sự nhất trí cao về nhân sinh quan.

Mục đích của nhà chính trị không thay đổi, vẫn là con người. Nhưng phương tiện hành động đã thay đổi nhiều: ngoài con người hai bàn tay trắng thuở xưa, còn có quân đội, công an, cảnh sát, nhà tù, trại cải tạo, quyền lực kinh tế, hành chánh, thậm chí có cả trường học… Con người nhỏ bé biết bao trước guồng máy khổng lồ đó ! Không nghe, ta bóp cổ, thắt ruột, bắt phải nghe. Ta đã bớt cần sự nhất trí của người, sự tuân lệnh cũng đủ rồi. Trong hoàn cảnh đó, con người không suy nghĩ như ta, với tư cách phương tiện hành động của ta, quan trọng nhất là sức lao động, là thân xác. Thân xác đó, dùng quyền lực, kinh tế, ta có thể sai khiến. Mục đích và phương tiện đã tách rời nhau, thậm chí có thể chửi nhau.

Ngược lại, đối với nhà văn, mục đích và phương tiện không bao giờ có thể tách rời nhau, vẫn là con người, chỉ là con người, con người tự do. Ðộc giả chính là người tái sinh tác phẩm của nhà văn, nó chỉ ngáp một cái, sự nghiệp văn học của tác giả phải tiêu vong. Nhân cách tự do của độc giả là sinh mạng nghệ thuật của nhà văn. (“Kiếm sắc”) Mọi chính sách, mọi hành động, mọi thực tế chà đạp nhân cách đó đều xâm phạm sinh mạng kia. Muốn hoàn thành sự nghiệp văn học của mình, có lúc nhà văn không thể chiều lòng nhà chính trị.

Nhà chính trị hấp tấp, muốn mau chóng thay đổi xã hội, hoàn thành sự nghiệp lịch sử của mình, lắm lúc muốn thắt họng nhà văn.

Lê Lợi thành công, Nguyễn Trãi phải chết.

Ðây là cuộc tình đẹp như mọi cuộc tình còn dang dở… Ðây là tình người trong thời đại con người phải đạp nhau để sống. Ðọc Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết mà tím ruột, tím gan.

Do đó, nhà chính trị có lúc vừa mê vừa ghét, vừa khinh vừa sợ nhà văn. Nhà chính trị chẳng ưa gì mấy anh nhà văn hay do dự, thắc mắc, chủ quan, lắm chuyện mà vô tích sự:

Ánh bảo: “Ta không tin bọn đó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó mệt lắm. (“Kiếm sắc”)

Không ưa mà vẫn sợ. Không phải sợ uy quyền của nhà văn, làm gì có mà sợ:

Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồ, hèn mọn c. (“Kiếm sắc”)

Sợ ở chỗ không thể tranh thủ hay mua chuộc. Sợ nhân cách, cái bệnh dễ lây nhất đời. Và do đó, vẫn phải mê.

Người đang tự hỏi là người đang vươn mình khỏi mọi sự kiềm chế trên đời. Ta không còn khả năng kiểm soát, điều khiển nó. Với quyền lực trong tay ta có thể bắt nó nghe ta nói, bắc loa khắp phố phường, phóng thanh ầm ĩ, tuôn lời dậy bảo của ta ; triệu tập nó tới buổi họp, mít tinh… để ta truyền giáo ; tóm cổ nó nhốt vào trại cải tạo, buộc nó mỗi ngày nghe ta giảng đạo… Cấm nó ngáp, cấm nó cười, bắt nó vỗ tay trong khi ta thuyết trình. Ta có thể ép nó ăn nói với từ ngữ thuận tai ta. Ta có thể bắt nó câm, cấm báo chí, nhà xuất bản đăng bài của nó. Ta không thể buộc nó suy nghĩ như ta muốn: nó không còn là một con ốc trong một guồng máy, nó đã trở thành người, hiện thực quý báu nhất, đáng sợ nhất của ta vì chính nó quyết định giá trị của ta, nhân tính của ta. Và cuối cùng, nếu nó nhân lên, nó quyết định luôn cả sự nghiệp, sinh mạng của ta.

Văn dồn người vào thời điểm của câu hỏi là loại văn tối kỵ đối với mọi quyền lực chính trị, tôn giáo, khoa học… vì chúng phải đột nhiên bất lực. Ðối với người đang tự hỏi, ngay cả tình yêu cũng…bất lực.

Cách đây chưa đầy hai trăm năm, một dân tộc đã vùng lên, đập tan một thế giới cũ mèm, san phẳng một nhà tù vĩ đại, công bố với trời đất Quyền làm Người. Cách đây chỉ một trăm năm một con người lại hiên ngang tuyên bố: lịch sử không làm gì hết, chính con người làm nên lịch sử trong khi đeo đuổi mục đích của chính mình .

Cách đây chưa đầy năm mươi năm, suy nghĩ khác Staline hay Mao vĩ đại đã là đáng chết.

Ngày nay, ở Việt Nam bốn nghìn năm văn hiến, chào đời trong một thành phần bất hạnh, đã là có tội.

Tôi chưa quên bà Trưng bà Triệu. Tôi chưa quên Nguyễn Trãi, Lê Lợi. Tôi chưa quên Nguyễn Huệ, Nguyễn Du. Tôi không quên Ðiện Biên, Ðồng Khởi. Tôi còn nhớ cả Liên Hiệp, Ðoàn Kết. Tôi nhớ mãi một buổi sáng mồng một tháng năm 1975, trên đường phố Paris lộng nắng, có một đoàn người tứ xứ tuôn về, có những nụ cười đẹp nắng xuân.

Ngày nay tôi biết. Thế giới này không vĩnh cửu. Nhân loại này không trường tồn. Chân lý hôm nay không chắc sẽ còn là chân lý của ngày mai. Nhưng có một điều tôi chắc chắn: phải sống với người khác trọn cuộc đời này, sống tới lúc gục xuống, không luyến tiếc, không ân hận, không tủi nhục, sống và chấp nhận nhân cách của mình hôm nay, vì chính mình và đồng loại là tác giả của nó.

Vì vậy tôi yêu văn Nguyễn Huy Thiệp.

Tôn trọng tự do của người đọc, tin tưởng ở nhân cách của người đọc, và – trên cơ sở đó – đòi hỏi người đọc lấy trách nhiệm với đời, tự mình đánh giá quá khứ và hiện tại, gánh lên vai cả lịch sử, ôm vào lòng cả hôm nay, dấn thân vào cuộc sống thường ngày, với con người hôm nay, thẳng người bước tới một tương lai mình góp phần sáng tạo,

văn như thế gọi là Nhân văn

ngòi bút như thế gọi là Nhân đạo

tác giả như thế phải gọi là Nhà văn.

1990

Tác giả gửi Văn Việt.

Chính trị

Vladimir Kozlov

CPKhi Putin chiếm Crimea, Lukashenko liền lên tiếng tán thành. Vị tổng thống chuyên quyền và mị dân này đã cầm đầu nhà nước Belarus từ 1994, được các nhà báo phương Tây phong chức “Nhà độc tài cuối cùng của Âu châu”. Trong khi Ukrain biến loạn, Lukashenko vẫn khéo léo một mặt hợp tác với Nga, một mặt đàn áp mọi phong trào chống đối trong nước. Mỗi lần bầu cử nhiệm kỳ tổng thống mới ở Minsk là Lukashenko lại đắc cử nhờ gian lận – lần cuối vào tháng 12-2010.

 Góp phần soi chiếu vào các xã hội hậu-cộng sản khi Liên Xô tan rã, truyện ngắn nặng tính phóng sự sau đây của Vladimir Kozlov – vốn là chủ bút tờ báo Anh ngữ duy nhất tại Belarus – đã được chọn vào Tuyển tập Truyện hay Âu châu năm 2014 (Best European Fiction 2014, Dalkey Archive Press) bởi Drago Jancar.

Chân Phương

 

 

 

Từ ký túc xá tôi đi ra với quần bò màu đen, áo khoác da và cái khăn ba sọc trắng, đỏ, trắng quấn quanh cổ. Hôm nay là ngày xuống đường phản đối Lukashenko. Tôi đi một mình – mấy tay trọ chung phòng với tôi sẽ không dẫn xác đến. Cả bọn cứ nằm lì trên giường rồi phun nước bọt lên trần nhà bởi chúng chẳng có tí tiền nào để mua vốt ka. Lũ khốn kiếp.

 Trên đường tôi đi ngang một đám người tồi tàn thấy mà chán. Họ chẳng mảy may quan tâm đến chính trị hoặc bất cứ việc gì khác, ngoại trừ một thứ là kiếm mua mớ dồi thịt, phồng miệng nhai nuốt, xong ngồi suốt đêm trước máy tivi xem loại phim bộ ngu đần không cái nào hơn cái nào. Dù tôi chẳng chống báng chi lối sống của họ, đương nhiên.

 Nhóm xuống đường tụ tập tại quảng trường Yakub Kolas. Từ xa tôi nhìn thấy đám đông với lá cờ ba sọc trắng, đỏ, trắng. Tôi nhận ra vài tên trong phân khoa Bang giao Quốc tế ở đại học, cất tiếng chào. Bọn tôi đứng quanh nhau, hút thuốc, chờ đợi, rồi tiến lên theo các người khác. Nơi hàng đầu có ai đó chỉ huy và chúng tôi lại di chuyển về phía trước. Chúng tôi đi trên vỉa hè về nhà hát ôpêra – đó là khoảnh đất chỉ định nơi chúng tôi được phép bày dựng cuộc biểu tình. Tuyến lộ chính bị ngăn cấm – đám công an chống bạo loạn đứng dàn hàng dọc hè phố, chờ đánh đuổi kẻ nào trong nhóm chúng tôi dám lấn tới. Nhưng mối hiểm họa thực sự, Chúa ơi Chúa, là một người trong nhóm bị họ lôi ra khỏi đường lớn, bắt đến một mảnh sân khuất để bày trò hành hung chính hiệu của công an.

 Vậy là trong nhóm có người của các phân khoa khác, nhưng tôi không thấy ai thuộc khóa học của mình.

Chúng tôi la to bằng tiếng Bêlarút, “Tàn tệ !”, “Lukashenko phải vô tù!”, và “Bêlarút muôn năm!”. Những kẻ đi đường khó chịu nhìn chúng tôi – bị chúng tôi cản trở không được rảnh chân chạy theo mớ công việc vặt, họ phải đứng ép sát vào tường nhà mấy dãy phố cho bọn này đi qua.

 Con số tham dự cuộc biểu tình hơi yếu – không hơn một nghìn. Vẫn còn vài người bước đến gia nhập nhóm chúng tôi, nhưng chẳng được bao nhiêu. Một nhóm với chừng ấy mạng sẽ không gây nhiều âm vang. Nếu chúng tôi tụ tập nổi mười hay mười lăm ngàn người thì đám công an dẹp loạn hay bọn cớm thường phục sẽ hết làm gì được. Sau đó chúng tôi sẽ biểu dương hò la ngay trước dinh tổng thống. Chúng tôi đi đến nhà hát. Bọn này có vài trăm mạng với cờ xí và bảng vẽ câu “ Bêlarút muôn năm!”, nhưng cớm và lực lượng chống biểu tình còn đông hơn. Họ đến từ đâu, tất cả những công an này? Họ chả làm gì để giúp mọi thứ doanh thương phải đóng món tiền bảo vệ cho mafia, nhưng khi đến lúc cần bóp nghẹt đối lập thì tất cả đều có mặt. Còn có thêm mớ công an dẹp loạn trên chiếc xe buýt đằng kia. Đang ngồi, chờ đợi, đánh bài, nhìn bọn tôi qua các cửa sổ xe.

 Cuộc phản đối bắt đầu. Một ký giả chạy theo bên cạnh – chị ta có mặt trong lần phản đối mới đây của chúng tôi, và tôi từng gặp chị ta dăm ba lần gào la đòi dân chủ và tự do ngôn luận trên tivi. Cô nàng tuổi khoảng ba mươi, trang phục gọn đẹp.

 Hai cớm, một sĩ quan và một thượng sĩ, trông chừng chị ký giả. Tay thượng sĩ nói bằng tiếng Nga:

 “Cũng lại con này. Đồ đĩ ngựa. Hết bú thằng này lại ngậm thằng khác thì cách nào nó còn làm việc được, tôi không bao giờ hiểu nổi. Đ.m. nó cứ rình đợi cơ hội để gây sự với chúng ta. Vì nó viết cho tờ báo rác nào đó, con đĩ này tưởng là chúng mình sẽ không đụng tới nó. Có lần bọn tôi kéo nó lên xe buýt, bạt tai vả má một hồi. Nhưng cái mồm thối nó cứ oang oang – tự do ngôn luận, ngôn luận tự do…Anh biết không, lần đó vì nó mà bọn tôi suýt bị rắc rối!”

 “Cô ta lập gia đình chưa?”

 “Làm sao mà có gia đình? Nó đã ly dị. Chẳng có thằng nào sống nổi với loại đĩ như thế.”

 “Còn phải nói!”

 Chị nhà báo bước tới tôi.

 “ Chào anh. Svetlana Ryabova. Bản tin Minsk. Xin phép cho tôi hỏi vài câu?”

 “Được, cứ hỏi.”

 Chị ta lấy trong túi xách ra cái máy ghi âm, chìa tận mũi tôi, bấm nút.

 “Anh tự giới thiệu trước tiên. Anh tên gì, đi học hay công tác ở đâu?”

 “Antonovich, Sergei. Tôi đang học năm thứ ba khoa Tâm lý tại Đại học Quốc gia Bêlarút.”

 “Xin anh cho biết lý do anh tham gia cuộc biểu tình hôm nay?”

 “Vâng, chúng tôi đến đây để bày tỏ sự phản kháng đối với các chính sách của chế độ đang cầm quyền. Chúng là lý do khiến đất nước chúng ta nghèo như thế này và khiến nền kinh tế chúng ta đi xuống.”

 “Theo anh, một vụ xuống đường biểu tình như vầy có hiệu nghiệm bao nhiêu trong cuộc tranh đấu chống chế độ?”

 “Không hiệu nghiệm lắm vì chẳng có bao nhiêu người tới. Nếu đông hơn, giới chức trách khi đó sẽ sợ chúng tôi và buộc phải làm điều chi đó để giải quyết. Còn như thế này thì họ có thể cho cớm với công an dẹp bạo loạn ra tay thay vì lắng nghe những gì chúng tôi muốn nói.”

 “Anh nghĩ thế nào về tình trạng đấu tranh chính trị của giới trẻ hôm nay, trong các sinh viên? Anh sẽ mô tả nó ra sao?”

 “Thế này, ngày nay thiên hạ chẳng quan tâm nhiều đến chính trị. Làm sao kiếm nhanh được chút tiền rồi tiêu khiển, đó là ý nghĩ trong đầu của đa phần giới trẻ hiện giờ. Về chính trị thì coi như họ không…, họ chả màng gì đến ba thứ chuyện đó.”

 “Vậy họ không nhìn ra sự liên hệ giữa tình hình chính trị đất nước chúng ta với chất lượng đời sống của họ hay sao?”

 “Có lẽ họ chả nhận ra. Tôi không biết được.”

 “Ôkê, cảm ơn.” Cô ta tắt máy ghi âm, rồi rời bước. Tất cả những gì tôi vừa nói ra là đúng, có thể cho là thế. Nếu cô ta biên tập tôi đôi chút trong bài viết thì mọi việc sẽ ôkê. Nhưng lỡ nếu tay khoa trưởng bắt gặp bài báo thì sao? Năm trước có ba gã bị đuổi khỏi môn Bang giao Quốc tế vì tham dự cuộc phản đối, giờ đây họ đang học ở Praha. Họ được bên ấy mời qua học khỏi đóng tiền. Mấy thằng số đỏ. Vài tên trong phân khoa bảo tôi rằng bọn họ vẫn giữ quan hệ với nhau – mấy thằng đó đang học bên Tiệp với tiền trợ cấp. Và còn dư để mua bia uống.

 Cuộc phản đối chấm dứt. Mấy nhà cầm đầu phe đối lập chính trị len bên hông đám đông tách ra và lên xe của họ ngồi phòng khi nguy hiểm hiện ra là có thể phóng xe đi. Một nhóm người biểu tình cũng bắt đầu rời chỗ, trừ những kẻ tích cực nhất là đám sinh viên, trong đó có bọn tôi. Ai đó gợi ý lên đường về quảng trường Độc Lập, và chúng tôi bắt đầu cất bước. Trong nhóm có vài tên hơi hoảng – chúng tôi không được phép diễu hành trên đường, có nghĩa là bây giờ chúng tôi tạo cho bọn cớm cái quyền bắt giữ cả đám. Còn nếu không bắt giữ ngay thì họ sẽ đợi khi chúng tôi tản ra, lúc ấy họ sẽ lượm từng đứa. Nhưng, kệ mẹ. Bọn này cứ tiếp tục kéo nhau đi. Còn lại độ hai trăm mạng, chúng tôi nắm tay nhau không cho bọn cớm tóm bất cứ ai, rồi bước trên đường về quảng trường.

 Cớm bám sau chúng tôi và kèm theo hai bên, nhưng họ lặng lẽ và chưa đụng đến bất cứ ai. Có nghĩa là họ còn đợi lệnh trên. Không xa bọn tôi lắm là thượng sĩ với sĩ quan khi nãy. Chẳng biết từ đâu Ryabova hiện ra, rượt kịp tay thượng sĩ.

 “Chào anh. Svetlana Ryabova, Bản tin Minsk. Xin hỏi anh vài câu có được không?”

 “Cút đi chỗ khác. Tôi không nói chuyện với những người như chị.”

 “Tại sao tôi phải đi chỗ khác? Tại sao anh không nói chuyện với tôi? ‘Những người như chị’ là nghĩa gì cơ chứ? Để tôi đoán thử: trước tiên là phụ nữ, thứ nhì là nhà báo. Có đúng không nào? Thưa ngài, ngài là một kẻ hoàn toàn đần độn!”

 Đôi ba người trong nhóm bọn tôi đứng lại nhìn xem chuyện gì sẽ xảy đến. Tôi cũng vậy. Cả bọn nhích tới gần. Vài người khác trong nhóm dừng bước, xoay đầu lại.

 “Chị khôn hồn cút ngay đi, bằng không chúng tôi sẽ đưa chị lên xe buýt kia – khi đó chị phát hiện điều gì sẽ đến khi chị giỡn mặt với chúng tôi.”

 “Anh có biết anh là cái thứ gì không? “ chị nhà báo hỏi. “Anh là một dị dạng của thiên nhiên. Rác thối toàn diện. Nói cho anh biết, loại thất bại như anh sẽ chẳng bao giờ được ngủ với đàn bà. Đàn bà bằng xương bằng thịt ấy, còn lâu.”

 Tên thượng sĩ vung quả đấm lên. Tôi chạy tới cho hắn cú đá vào hạ bộ. Hắn gập cả người, bọn cớm còn lại nhào đè lên chúng tôi. Bọn tôi chẳng có món gì để tự vệ – không gậy gộc kể cả rào dậu, xi măng vỉa hè để mà tháo nạy. Chúng tôi phóng nhanh vào cái sân nhà kế cận. Công an chống bạo động cầm dùi cui đã nhảy khỏi xe buýt xông tới – sau rốt cũng đến giờ họ ra tay. Nãy giờ họ chỉ ngồi chán mứa trên xe, nay thì họ có thể vung dùi gậy đập gãy dăm ba cái xương sườn.

 Đang bỏ chạy tôi nhìn thấy hai tay cớm nắm chụp Ryabova và kéo cô ả về xe buýt. Chị ta tay huơ chân đá, cố chống trả. Chẳng nhằm nhò gì. Nhưng sẽ không có gì nghiêm trọng xảy đến với cô ta – họ sẽ bắt giữ ả nửa tiếng đồng hồ rồi thả. Nhưng nếu tôi bị họ chặn bắt thì đúng là tai vạ cho tôi. Họ sẽ đập dùi gậy vào phủ tạng rồi nhốt tôi năm ngày vì tội danh “tham gia một cuộc phản đối không có giấy phép” và “chống chính quyền”. Tôi chạy qua một cánh cửa vòng cung. Trong sân có xe cộ, bãi đậu. Sau tôi có thêm vài tên trong nhóm, và đằng sau chúng là đám công an dẹp loạn. Tôi trốn trong một nhà xe. Chỉ có một mình tôi hèn yếu nơi này, tôi cảm thấy sợ đến đổi muốn ị ra quần. Thật ra đã có hai đống cứt khô trên khoảng đất sau nhà đậu xe. Tôi tìm chỗ tránh khỏi đạp phải cứt rồi tuột quần xuống. Tất nhiên sẽ hài hước nếu đám công an chống bạo loạn lùng phía sau nhà xe và bắt gặp tôi trong tư thế này. Tôi nghe tiếng động, vài tiếng gào la phía sau bức tường bên kia. Có đứa đã bị tóm. Đống cứt tôi ị bốc hơi. Rút trong túi áo một mảnh giấy tôi đọc “Chúng ta là thành viên của Âu châu. Lukashenko – đồ ngửi đít!” – Sakovich sinh viên năm thứ năm đã trao tôi mẩu giấy này. Bọn tôi đã phát tán chúng quanh khắp giảng đường. Tốt quá, tôi còn được chục tờ. Tôi chùi đít với mẩu giấy, kéo quần lên rồi lặng lẽ lén nhìn từ đằng sau nhà xe. Hai tay công an dẹp loạn đang đánh gục một gã đầu hói mang kính cận với túi da trên vai, họ thọc dùi cui vào bụng gã. Gã gào to, lũ giết người. Cái túi tuột chậm, rời vai gã rớt xuống đất. Công an lôi gã đi.

 Không còn ai nơi khoảng sân. Tôi chờ thêm độ năm phút rồi bước ra từ sau nhà xe. Buổi chiều tối dần. Tôi đi tới cái túi, nhìn xuống. Có hai chai vốt ka trong đó. Chỉ bấy nhiêu đó. Không giấy tờ tài liệu gì cả. Có lẽ tôi nên lượm hai chai lên đem về cho bọn ở cùng ký túc xá với tôi.

 Như vậy coi như bọn tôi đã thắng! Lukashenko – cho mi ngửi đít ta!

Chân Phương chuyển dịch từ bản Anh ngữ do ANDREA GREGOVICH dịch từ nguyên tác tiếng Nga.

Dịch giả gửi Văn Việt.

Thơ về Thiên An Môn và Trung Quốc

Thiên An Môn

Võ Trung Hiếu

Tôi từng hỏi những người bạn Chinese nghĩ gì về Thiên An Môn
Họ đều biết rõ những gì đã diễn ra
Và đều rùng mình ớn lạnh
Nhưng cũng lần lượt cho tôi hai câu trả lời

Họ nói, “Đó là việc phải làm
Súng phải nổ để giữ gìn trật tự
Nếu một nền dân chủ sinh non
Liệu sẽ có những ngày hoà bình phát triển?”

Họ cũng nói, “Đấy là tội ác!
Và không thể thay bằng từ nào khác
Dùng súng và xe tăng để giết cả nghìn người
Những sinh viên, học sinh tay không tấc sắt
Lịch sử sẽ nhổ toẹt vào những lời dối trá biện minh…”

Tôi nhìn tấm ảnh Thiên An Môn
Và thấy cảnh triều đình
Một tiếng “Trảm!” và sáng loà gươm giáo
Và đầu rơi, máu chảy, lửa thiêu
Những ông vua ngự tận đỉnh vương triều
Nằm dưới mộ vẫn khăng khăng mình đúng

Phải…
Quyền lực sinh ra từ nòng súng
Nên vua chúa xưa nay có bao giờ sai
Bao nhiêu oan khiên chất ngất đoạn đầu đài
Cũng chỉ đợi có đất trời thấu tỏ

Tôi nhìn tấm ảnh Thiên An Môn
Và vẫn còn thấy rõ
Tượng nữ thần Tự Do sừng sững vươn cao
Ngọn đuốc bùng lên khao khát xiết bao
Khát vọng của hàng triệu thanh niên sát cánh cùng nhau
Khát vọng công bằng, dân chủ, tự do
Khát vọng rất đỗi bình thường
Khát vọng của toàn nhân loại …

Tôi vào YouTube
Ngậm ngùi xem lại những đoạn phim Thiên An Môn
Thấy ngút ngàn lửa cháy
Những tiếng kêu la, gào thét hãi hùng
Những cỗ xe tăng giết chóc lạnh lùng
Những gương mặt trẻ trung bàng hoàng, tuyệt vọng
Gò lưng đạp xe trong đêm đầy máu và nước mắt …

Đêm kinh hoàng ấy đã qua
Người ta đã rửa sạch quảng trường như chưa hề vấy máu
Những người lính buông súng về nhà
Và mỗi đêm mơ thấy những hồn ma
Dựng tượng thần Tự Do bằng giấy trắng

Lịch sử nhiều khi phải tạm đành nín lặng
Nhưng ký ức thời gian không chết bao giờ
Thiên An Môn và những ngày tháng Sáu
Vẫn vẹn nguyên cùng câu hỏi lương tri

4.6.2013

Tác giả gửi Văn Việt.

 

Khóc Lỗ Tấn

Tàng Khắc Gia – nhà thơ Trung Quốc

Có người đang sống mà đã chết rồi
Có người chết rồi mà vẫn sống
Có người cưỡi lên đầu nhân dân: “Ôi ta vĩ đại!”
Có người quỳ thân làm trâu ngựa cho dân
Có người khắc tên vào đá mong “bất hủ”
Có người nguyện làm cỏ dại, chờ đất thấp lửa thiêu
Có người sống thì người khác không sống nổi
Có người sống để những người khác sống tốt hơn.

Này người cưỡi lên đầu nhân dân, nhân dân xô ngươi ngã
Hỡi người làm trâu ngựa cho dân, nhân dân vĩnh viễn nhớ người
Này người khắc tên bia đá, tên người ruỗng nhanh hơn xác người
Chỉ gió xuân thổi qua nơi đất, cỏ dại lên xanh một chân trời.

Trang Hạ dịch.

Dịch giả gửi Văn Việt.

Phân biệt viết i (ngắn) và y (dài)

Đào Tiến Thi

Hiện nay, trong chính tả tiếng Việt (chữ Quốc ngữ), người ta vẫn còn lúng túng trong việc chọn i ngắn y dài trong một số trường hợp. Cụ thể là khi âm /i/ đứng làm âm chính trong âm tiết mở (không có âm cuối vần) sau các phụ âm /h, k, l, m, s, t/. Và do đó vẫn tồn tại hai cách viết:

hi vọng/ hy vọng

kĩ thuật/ kỹ thuật

lí luận/ lý luận

mĩ thuật/ mỹ thuật

công ti/ công ty

sĩ quan/ sỹ quan

Thực ra muốn bàn vấn đề này một cách thấu đáo, phải đề cập một phạm vi rộng  hơn, đó là vấn đề chính tả của chữ Quốc ngữ nói chung. Nhưng như thế, bài viết sẽ quá dài, do đó chúng tôi chỉ đề cập vấn đề chung một cách ngắn gọn, chủ yếu là những gì liên quan đến cách viết i ngắn/ y dài, xoay quanh nguyên tắc ghi âm hay ghi ý.

Những người theo quan niệm ngữ âm học cực đoan cho rằng cả hai chữ i ngắny dài trong các trường hợp trên đều ghi âm /i/ nên bản chất không có gì khác nhau cả, vậy nên tốt nhất là nhập hai cách viết đó làm một cho nhất quán và giản tiện. Trong giáo trình Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Vũ Đức Nghiệu viết: “Trong chính tả hiện nay đang có những trường hợp cùng một âm vị nhưng được viết tùy tiện theo hai cách khác nhau. Đó là cách viết lung tung i/y và d/gi[1]. Và tác giả đề nghị: “Thống nhất viết nguyên âm – âm chính /i/ bằng chữ cái “i”, ví dụ: lí luận, kĩ thuật, mĩ thuật,…[2]. Không chỉ tác giả của giáo trình trên mà xu hướng chung của giới ngôn ngữ học nhiều năm qua là như vậy.

Nhưng xã hội cũng không dễ gì chấp nhận những đề nghị “có lý” nói trên. Tuy đại đa số không lý thuyết về ngôn ngữ học, nhưng bằng ngữ cảm bản ngữ, người ta cũng nhận thấy viết nhất loạt i ngắn như mất mát, thiếu hụt cái gì đó, cho nên cách viết y dài vẫn được duy trì ở chỗ này chỗ khác. Chẳng hạn:

– Tại số nhà 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội có hai viện “chữ nghĩa” lớn nhất nước ta – Viện Văn học (với cơ quan ngôn luận là tạp chí Văn học) và Viện Ngôn ngữ (với tạp chí Ngôn ngữ) – thì trong khi bên Ngôn ngữ viết i ngắn, bên Văn học vẫn viết y dài.

– Nhà xuất bản Giáo dục quy định những trường hợp trên phải nhất loạt viết i ngắn. Tuy nhiên, khi các công ty con của nhà xuất bản ra đời, ban đầu tên công ty đều viết là ti (i ngắn), nhưng rồi càng ngày người ta càng nhận thấy bất tiện, nên đã dần dần đổi sang viết ty (y dài).

– Một số tác giả viết sách cho Nhà xuất bản Giáo dục, trong khi chấp nhận viết nhất loạt i ngắn cho sách giáo khoa, thì các sách khác vẫn đề nghị viết phân biệt i ngắn/ y dài.

Trong tình hình đó, các nhà ngôn ngữ học “chính danh” có ý kiến gì? Cho đến nay (nếu được hỏi đến), phần đông vẫn cho viết nhất loạt i ngắn là khoa học. Nhưng cũng có một số ít phản đối. Theo quan sát của tôi, đó là Trần Ngọc Thêm và Cao Xuân Hạo.

Nhà nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Trần Ngọc Thêm, lúc đầu cũng ủng hộ nhất loạt viết i ngắn, nhưng về sau chính ông đã nhận thấy, chỉ xét riêng về mặt văn hóa, đã không ổn. Góp ý cho sách giáo khoa lớp 4 mới (2005), ông chỉ ra việc nhất loạt viết i ngắn là một chủ chương cực đoan và không thích hợp, nhất là khi gặp tên riêng, vì ở đó phải tôn trọng truyền thống và tự do cá nhân. Và năm sau, NXB Giáo dục đã sửa cách viết tên riêng theo hướng này. (Viết Chương Mỹ, Lý Tự Trọng thay cho Chương Mĩ, Lí  Tự Trọng)

Đặc biệt, học giả Cao Xuân Hạo, trong một giai đoạn dài đã đơn thương độc mã chống lại chủ trương sáp nhập i ngắny dài, cũng như chủ trương cải tiến chữ Quốc ngữ nói chung. Cái mà đa số giới ngôn ngữ học cho hệ thống ghi âm 1 đối 1 (1 âm – 1 chữ và ngược lại) là ưu điểm của chữ Quốc ngữ – thì ông đánh giá ngược lại: “Nhược điểm của chữ Quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà ở chỗ nó có tính chất thuần tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong trường hợp các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng giống như chữ Anh và chữ Pháp, những chỗ bị người ta coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như dagia,lí (trong lí nhí). v.v.. Đáng tiếc là những chỗ như thế không lấy gì làm nhiều”. [3]

Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích thêm những bất cập của chủ trương nhất loạt viết i ngắn và sự có lý của chủ trương bảo tồn sự phân biệt i ngắn/y dài.

Nếu vận dụng triệt để nguyên tắc ngữ âm học theo kiểu 1 – 1 giữa âm và chữ, thì ngoài i ngắn/ y dài trong âm tiết mở nói trên, sẽ còn phải “nhất quán” hàng loạt trường hợp khác. Ví dụ:

  • · i/y độc lập làm âm tiết: y tế, chuẩn y, ý nghĩa, ỷ thế, yêu cầu, yếu thế yểu điệu,… i tế, chuẩn i, í nghĩa, iêu cầu,…i/y trong tổ hợp làm vần: uyên bác, khuyên bảo, quyên góp, thuyết minh,… uiên bác, khuiên bảo, quiên góp, thuiết minh,…
  • · c/k/q (cùng ghi âm “cờ”): quốc ca, cứu quốc, con đường quanh co,… → kuốc ka, kứu kuốc, kon đường kuanh ko,…
  • · d/gi (cùng ghi âm “dờ”): giáo dục gia đình dáo dục da đình hoặc záo zục za đình
  • · g/gh (cùng ghi âm “gờ”): gồ ghề, ghen ghét → gồ gề, gen gét
  • · ng/ngh (cùng ghi âm “ngờ”): ngấp nghé, ngông ghênh → ngấp ngé, ngông ngênh

Ngoài ra còn nhiều trường hợp khác: uo khi cùng ghi âm đệm /u/: quanh/ khoanh; uo khi cùng ghi âm cuối /u/: báu/ báo; ăa khi cùng ghi âm chính /a/ ngắn: săn/ sau (trẻ con vẫn đánh vần “á-u-au, sờ-au-sau”. v.v..

Nếu sửa tất cả cho nhất quán, để chữ Quốc ngữ thành một hệ thống ghi âm hoàn hảo, hẳn sẽ có một thứ chữ Quốc ngữ “hiện đại” khác xa thứ chữ hiện hành. Hậu quả là khoảng vài chục năm sau nữa, con cháu sẽ không đọc nổi chữ Quốc ngữ kể từ thời chúng ta trở về trước!

Nhưng điều quan trọng hơn, nếu triệt để vận dụng nguyên tắc ngữ âm học như trên, tuy được một vài cái tiện nhất định thì lại mất rất nhiều cái lợi khác.

Thứ nhất, nó mất đi sự trong sáng. Ví dụ, nếu đồng nhất viết gia đình cũng như da thịt, sự cũng như nhí sẽ mất sự phân biệt nghĩa và mất cả sự đánh dấu về từ nguyên.

Thứ hai, nó mất đi sự phong phú. Chẳng hạn trong tên riêng, người ta có quyền lựa chọn để biểu đạt một ý nghĩa nào đó. Giữa tên là với nghĩa là “bé” khác với với nghĩa là “năm Tý”. Hầu hết tên riêng người ta chọn y dài (gốc Hán) để thể hiện sắc thái trang trọng: chọn Hy (hy vọng), không chọn Hi (cười hi hi), chọn Kỳ (kỳ vọng), không chọn (kì kèo), v.v..

Thứ ba, trong một số trường hợp, nó mất đi vẻ đẹp văn hóa. Ví dụ giữa “công ti” và “công ty”, người ta thấy viết “công ty” hay hơn. Vì sao vậy? Vì chữ “ti” được viết trong “ti trôn”, rồi “ti” còn có nghĩa là “vú” (sờ ti). Viết “công ty” sẽ trang trọng hơn “công ti” là vì thế.

Đấy là điều giải thích vì sao cả nửa thế kỷ qua, với rất nhiều lời kêu gọi của nhiều nhà ngôn ngữ học, với hàng loạt giáo trình, sách giáo khoa chỉ ra sự “bất hợp lý” mà sự “bất hợp lý” vẫn tồn tại! Cuộc sống bao giờ cũng có sự lựa chọn khôn ngoan, chống lại những giáo điều, duy ý chí.

Sự duy ý chí ấy bắt nguồn từ đâu? Theo tôi, đó là việc việc vận dụng máy móc lý thuyết về chữ ghi âm, coi chữ chỉ là ký hiệu của âm: “Chữ ghi âm không quan tâm đến nội dung, ý nghĩa của từ mà chỉ ghi lại chuỗi âm thanh của từ đó. Chữ viết ghi âm là đại diện của ngữ âm chứ không phải ý nghĩa. Quan hệ giữa chữý ở đây là một quan hệ gián tiếp mà âm là trung gian: chữ – âm – ý[4] (Người trích nhấn mạnh).

Nhận định trên thực ra chỉ đúng trên nguyên tắc của loại hình chữ ghi âm, trong tương quan với phạm trù đối lập là chữ ghi ý. Nguyên tắc có giá trị lý thuyết, giúp cho nhận thức khái quát, đi vào những sự vật hiện tượng cụ thể lại phải xem xét một cách cụ thể. Thực tế bao giờ cũng phong phú hơn lý thuyết. Thực tế trên thế giới, theo nhiều nhà ngôn ngữ học, không có một thứ chữ nào thuần túy ghi âm, cũng như không có một thứ chữ nào thuần túy ghi ý. Theo chúng tôi, đành rằng chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, nhưng tính chất ghi ý của nó chẳng phải là nhỏ. Ngoài những ký hiệu và chữ viết tắt như m, m2, m3, kg, kw, kb, D, ^, %, <, =, >, &, @, v.v, XHCN, UBNN,… hiển nhiên là chữ ghi ý thì hình thức chính tả “siêu phương ngữ” hiện hành là biểu hiện sinh động của tính chất ghi ý. Hình thức chính tả hiện nay được gọi là “siêu phương ngữ” vì nó không “trung thành” hẳn với phát âm của một vùng phương ngữ nào. Miền Bắc không phân biệt các âm đầu /ch – tr/, /x – s/, /d/gi – r/ khi nói nhưng khi viết vẫn phân biệt, cho nên hình thức (quả) chanh – (đấu) tranh, xinh (đẹp) – sinh (sống),… là những hình thức ghi ý; miền Nam không phân biệt các âm cuối /n – ng/, t – c/, các thanh hỏi – ngã, âm đầu /v – d/,… cho nên (ánh) trăng – (con) trăn, bắt (tay) – bắc (cầu), rủ (bóng) – (xuống),… là những hình thức ghi ý. Vậy nên dù có sáp nhập các hình thức i ngắn/ y dài, d/ gi thì cũng không sao đưa chữ Quốc ngữ thành chữ ghi âm đích thực được. Nếu bây giờ trung thành với nguyên tắc “ngữ âm học” (nói sao viết vậy) thì tiếng Việt sẽ vỡ ra ít nhất thành hai mảng: tiếng miền Nam và tiếng miền Bắc. Nhưng người Việt Nam từ Móng Cái đến Hà Tiên chẳng mấy khó khăn khi viết chính tả, dù rằng rất nhiều chữ nói một đằng viết một nẻo, nói giống nhau mà viết khác nhau. Vì sao vậy? Thứ nhất vì chữ viết là một hệ thống, độc lập tương đối với hệ thống ngữ âm. Trong buổi đầu hình thành chữ Quốc ngữ, có thể đó là một hệ thống ký tự 1 đối 1 đối với hệ thống ngữ âm, nghĩa là khá “hợp lý”. Nhưng trong quá trình phát triển, ngữ âm và chữ viết đã biến đổi theo những con đường riêng, không hoàn toàn phụ thuộc vào nhau, cuối cùng tiến tới một hình thức như ngày nay. Thứ hai, do tính độc lập tương đối đó, chữ viết trở thành một kênh giao tiếp khác. Ngôn ngữ nói được tiếp nhận bằng thính giác, còn ngôn ngữ viết được tiếp nhận bằng thị giác. Theo Cao Xuân Hạo: “Khi một hệ chữ viết đã được dùng trong vài ba thế kỷ, nó trở thành một truyền thống văn hoá. Mỗi từ ngữ dần dần có một diện mạo riêng. Một gestalt mà người ta đã quen thuộc đến mức không thể thay đổi được nữa. Và cái gestalt thị giác do cách viết tạo nên được liên hội với cái nghĩa của từ ngữ bất chấp cách phát âm ra sao, và nhờ đó người đọc phân biệt các từ đồng âm mặc dù không có sự giúp đỡ của các tình huống đối thoại hay của sự hiện diện của người đối thoại…” [5]

Gestalt là một thuyết tâm lý học. Nghĩa của từ này trong tiếng Việt tuơng đương các từ “hình thể”, “hình dạng”, “phom”, “diện mạo tổng quát”. Thuyết gestalt được áp dụng trong nhiều lĩnh vực. Riêng về nhận thức, nó cho rằng sự tri giác của con người không phải là sự đơn lẻ, lần lượt mà có tính tổng hợp, toàn bộ, tức thời (cho nên có người dịch là thuyết “Hoàn hình”). Ví như ta nhận ra một người quen không phải lần lượt bằng từng nét riêng rẽ (mắt, mũi, dáng điệu,… ) rồi cộng lại, mà nhận ra toàn bộ diện mạo một cách đồng thời. Trong việc đọc cũng vậy, không phải bằng “đánh vần” từng âm, ghép các âm lại rồi mới luận ra nghĩa, mà cái nghĩa đến ngay khi tri giác toàn bộ “mặt chữ”, cũng không cần “vang lên” bất kỳ một âm thanh nào. 

Ý kiến trên của học giả Cao Xuân Hạo cho ta chìa khóa để hiểu bản chất của chữ viết. Nó giải thích vì sao chữ Anh, chữ Pháp,… còn “bất hợp lý” hơn chữ Quốc ngữ nhiều lần mà không cần cải tiến, không nên cải tiến.

Tóm lại việc duy trì hai hình thức i ngắn/ y dài có lý do sâu xa trên nhiều phương diện. Còn về việc khó khăn khi viết thì hoàn toàn có thể khắc phục được. Thực ra thì hầu hết đã có quy tắc [6], chỉ còn lại trường hợp khi chúng làm âm tiết mở sau các phụ âm /h, k, l, m, s, t/ sẽ nói dưới đây.

Trường hợp đứng sau 6 phụ âm /h, k, l, m, s, t/, về cơ bản, cũng đã hình thành một thói quen: viết i ngắn khi là từ thuần Việt; viết y dài khi là từ Hán Việt. Bây giờ chỉ cần chuẩn hóa thói quen đó. Bảng dưới đây liệt kê một số trường hợp trong đối sánh các từ đồng âm (trường hợp không có từ đồng âm, dùng ký hiệu X; các yếu tố Hán Việt đồng nghĩa chỉ nêu 1, 2 trường hợp, ví dụ: ly – “lìa ra”: ly hôn).

Phụ âm

Từ thuần Việt

Từ Hán Việt

 

h

(cười) hi hi

(mắt) ti hí, hí hoáy

hỉ mũi, hủ hỉ, hỉ hả

hy vọng

du hý,  hý trường, hý viện

hiếu hỷ, hỷ xả, song hỷ  

 

 

k

kì cọ, kì kèo

kí cóp, kí (kilôgam)

X

X

kĩ tính, kĩ càng

kỳ vọng, kỳ thi, ly kỳ, quốc kỳ

du ký, chữ ký, ký âm, ký giả; ký sinh

đố kỵ, kỵ binh, ngày kỵ (giỗ)

 kỷ luật, kỷ yếu, kỷ niệm, thế kỷ

kỹ nữ, kỹ thuật, tạp kỹ

 

 

l

li (milimét), li (cốc), (giấy) ô li, li (quần), li bì, li ti

lì lợm, nhẵn lì, lì xì

(điệu) lí, (nói) lí nhí

(đã bảo mà) lị

(quẻ) ly, ly hôn

 

X

lý thuyết, hương lý, hải lý

tỉnh lỵ, kiết lỵ

 

m

(bọn) mi, mi ca, nốt mi

mì (sắn), bột mì, mì chính

mụ mị

X

tu my

nhu mỳ

mỵ dân

mỹ thuật,  mỹ tửu, mỹ mãn

 

s

cây si, nốt si

đen sì, sì sụp

 mua sỉ

X

ngu sy, sy tình

X

sỷ nhục

sỹ tử, sỹ phu, sỹ diện

 

 

t

đinh ti, ti trôn, (bé) ti ti, ti toe

tì (tay), tì vết, (uống) tì tì

tí hon, tí tách, tí toáy

tỉ tê, tỉ mỉ, (khóc) tỉ ti

tị nạnh

ty (sở), tự ty, công ty

tỳ (lá lách), tỳ bà, tỳ thiếp, tỳ tướng

(năm) tý

 tỷ lệ, tỷ dụ, tỷ thí

tỵ nạn, (năm) tỵ

Còn một băn khoăn nữa: làm thế nào để nhận biết từ Hán Việt, từ thuần Việt? Thực ra bằng ngữ cảm bản ngữ, nói chung mỗi người đều có thể nhận ra, cũng giống như biết rằng khi nào dùng từ phu nhân, khi nào dùng từ vợ, khi nào dùng phụ nữ, khi nào dùng đàn bà. Về cách phân biệt Hán Việt/ thuần Việt, chúng tôi sẽ đề cập vào một dịp khác, ở đây chỉ nêu một quy tắc thông dụng nhất: Yếu tố thuần Việt có thể dùng độc lập, còn đa số yếu tố Hán Việt thì không. Ví dụ nói hai nước chứ không nói hai quốc.

Nhưng vấn đề nhận biết Hán Việt/ thuần Việt cũng không quan trọng lắm. Nếu đã chuẩn hóa và các sách báo làm gương thực hiện thì cách viết i hay y dần dần sẽ trở thành những gestalt trong đầu óc mỗi người, cũng giống như xưa nay mọi người vẫn viết đúng y tế/ (lớp) i tờ, ỷ thế/ ỉ eo, ý nghĩa/ í ới mà không cần phải suy nghĩ gì.

Đối với các thuật ngữ gốc nước ngoài và tên riêng nước ngoài thì nên để chữ này như trong nguyên ngữ. Ví dụ: hydrogenium ® hy-đrô; histamine ® hi-xta-min; Myamar ® My-an-ma; Midway ® Mít-guây.

Cần sớm chuẩn hóa vấn đề này. Vì nếu i ngắn được “nhất loạt hóa” như một số cơ quan báo chí, xuất bản hiện nay sẽ tạo điều kiện lối viết tùy tiện, bất chấp nghĩa. Lâu ngày cái gestalt ấy được định hình, muốn quay trở lại để phân biệt (nghĩa) cũng không được nữa.

Tháng 1-2010

Tác giả gửi Văn Việt.



[1] Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2003, tr.123).

[2] Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu,… Sđd, tr.123.

[3] Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt, người Việt, văn Việt, NXB Trẻ, 2003, tr.113.

[4] Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu,… sđd, tr. 120

[5] Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt, người Việt, văn Việt, NXB Trẻ, 2003, tr.110.

6 Truyền thống viết i ngắn/ y dài đã được xác lập như sau:

a) Viết y dài khi:

– Một mình làm âm tiết trong từ Hán Việt: y tế, chuẩn y, ý nghĩa, ỷ thế,…

– Đứng trong âm tiết không có phụ âm đầu: yếu, yêu cầu, yểu điệu,…

– Đứng trong tổ hợp âm chính “iê”, trước có âm đệm “u”: uyên, khuyên, nguyên, quyên, thuyết,…

b) Viết i ngắn khi:

–  Đứng một mình làm âm tiết trong từ thuần Việt: í ới, (sức) ì, ì ạch, ỉ eo,…

– Tất cả các trường hợp còn lại, trừ đứng sau 6 phụ âm /h, k, l, m, s, t/.

Thơ Lê Minh Hà

Leminhha

Ngày chưa chiến

Và khi tiếng chim rất xanh rất xanh vang giữa bầu trời nắng vàng thật vàng
Ta biết đó là bình yên bình yên
Là hòa bình thật sự

Mỗi buổi sáng đứa trẻ chúng ta sinh ra tin cậy đặt bàn tay bé bỏng vào tay ta hớn hở dắt mẹ tới trường
Mỗi buổi sáng người đàn ông của người đàn bà đi tới nơi làm việc
Mỗi buổi chiều người đàn bà của người đàn ông bận bịu cơm nước
Chờ con chờ chồng
Mỗi buổi tối dưới những ngọn đèn ở trong mỗi phòng
Này vợ này chồng này con này bè bạn
Chúng ta nói rồi cười với nhau về những ngày đã qua bất hạnh
Chúng ta nói với nhau công việc ngày mai
Chúng ta không nói nhiều về tương lai
Tương lai không khó hình dung
Tương lai của chúng ta là những ngày mai ngày mai ngày mai như hôm nay kế tiếp
Ta biết đó là bình yên bình yên bình yên
Dẫu vô cùng nhỏ nhặt
Ta biết đó là hạnh phúc hạnh phúc hạnh phúc
Chỉ có trong hòa bình hòa bình thật sự hòa bình chúng ta cần

Ở rất xa chúng ta ở rất gần chúng ta có những đứa trẻ không còn gì trong kí ức về một ngày bình yên đã sống
Chỉ có có cơn ngứa ở cẳng chân vừa bị bom phạt bị cắt cụt bị quăng bỏ run rẩy trong không gian
Ở rất xa chúng ta ở rất gần chúng ta có một kẻ độc tài vừa tuyên bố sẽ vì những người nói tiếng nói của dân tộc mình sống ở một quốc gia khác
Ở rất xa chúng ta ở trong chúng ta là Tổ Quốc
Sóng biển quê hương dội mãi không về
Có những đường biên rạch vào nước
Vô hình không vô hình vô hình

Không

Ta lại như đứa trẻ con là chính ta một thời chiến tranh
Hô khẩu hiệu hát đồng ca đọc thơ căm thù tổng thống của một quốc gia khác
Đêm giường lạ tự dưng mất ngủ
Hoang mang nhớ phố nhớ nhà
Ta lại như đứa trẻ không quen ở một đất nước tự dưng chiến tranh
Mắt trống rỗng trong cơn ngứa cơn đau lạ lùng ở cẳng chân vừa bị cắt cụt
Bàn tay khư khư giữ chặt miếng bánh đĩa súp vừa được chia
Những ngây thơ tuyệt vời rời bỏ chúng ta bay đi bay đi
Khi ta vẫn còn là con trẻ

Chỉ ao ước bình yên thức dậy từ một tâm hồn bé trong hình hài bé ở một ngày xưa ngày xưa ngày xưa chưa bao giờ xa
Còn lại
Ta là trẻ con ta là người già
Ao ước của ta không tuổi

Hạnh phúc cảm giác thật như bàn tay
Bình an chới với
Hôm nay
Hôm nay
Hôm nay

12.5

Tác giả gửi Văn Việt.

CHẤT ĐỘC ẤY và CUỘC CHIẾN ĐẤU CỦA BÀ NGA

Bài viết: Philippe Broussard – phóng sự ảnh: Jean-Paul Guilloteau / Tuần báo L’EXPRESS số 3283 (tuần lễ từ 4 đến 11.6.2014)

Bản dịch: Trần Tố Nga

Gần 40 năm sau khi cuộc chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, một người Pháp gốc Việt tiến hành một vụ kiện chống lại những công ty hóa chất khổng lồ… Bà lên án họ đã sản xuất chất Da cam, một loại thuốc diệt cỏ vô cùng độc hại, mà các máy bay Mỹ đã rải và đến ngày nay vẫn còn nhiều người là nạn nhân của nó.

TN1

NGOAN CƯỜNG: Hồ sơ, chứng từ, hình ảnh… những vật chứng mà bà Trần Tố Nga sẵn sàng trình bày trước tòa án.

Người phụ nữ ấy đã nói dối. Nói dối vì khiêm tốn, giọng bà dịu dàng và chân thành, nhưng bà đã nói dối. “So với chuyện của hàng triệu người Việt Nam, câu chuyện của tôi thật quá bình thường”, bà nói “phủ đầu”. Nhưng xin đừng tin như vậy, điều ấy hoàn toàn sai.

Không có gì có thể gọi là bình thường khi lớn lên trong một đất nước chiến tranh, khi phải làm quen với rừng sâu và bom đạn, với nhà tù và tra tấn. Càng không bình thường khi ở tuổi 72, bà lao vào cuộc chiến đấu của cả đời người: đưa ra ánh sáng công lý 26 công ty hóa chất Mỹ. Những kẻ mạnh, giàu tiền tỷ, bị lên án đã từng sản xuất chất độc da cam, một loại thuốc diệt cỏ gây hại cho thiên nhiên và con người.

TN2TRẠI: Tháng bảy 1968, một khóa báo chí do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tổ chức. Ngồi hàng đầu, bà Nga bế con (chết lúc 17 tháng).

Bà Trần Tố Nga, một phụ nữ Pháp gốc Việt không rõ cuộc thách đố này sẽ đưa bà đi về đâu. Càng không biết cái cơ thể đang mang nhiều bệnh tật này có thể kham nổi không. Nhưng trong ngôi nhà yên tĩnh tại ngoại ô phía Nam Paris, bà đã chuẩn bị vượt qua với tất cả nghị lực của người mẹ và người bà. Từ quá khứ phóng viên chiến trường (1966-1974) rồi hiệu trưởng trường học (1975 – 1992), bà vẫn giữ nguyên tính “cứng đầu” như bà tự trào, và óc tổ chức rành rọt. Nếu tòa án cần những bằng chứng thì hồ sơ của bà cũng đã đặt trên bàn sẵn sàng. Một bên là kết quả các cuộc giám định sức khỏe, những văn bản khoa học cho thấy chất “khai quang” mà quân đội Mỹ trút xuống nguy hại hơn nhiều so với những gì người ta tưởng vào thời chiến tranh ấy. Bên kia là các tập album cho thấy những gương mặt, biên niên sử của một thảm kịch phi thời gian.

Cuộc đời của bà lướt qua theo từng trang ảnh: sinh ra tại đồng bằng sông Cửu Long vào tháng 3 năm 1942. Tuổi thơ ở Sài Gòn, sống với mẹ là cô giáo nhưng vắng bóng người cha – sĩ quan trong quân đội Pháp sớm yểu mệnh. Những năm học trường Marie Curie chủ yếu bằng tiếng Pháp, rồi đến tuổi thanh niên sôi động trong một đất nước bị chia cắt giữa một miền Bắc cộng sản và một miền Nam được bảo trợ bởi nước Mỹ của Kennedy.

TN3NGƯỜI KHÁNG CHIẾN: 1982, Trần Tố Nga và hai cô con gái (một ra đời trong chiến khu, một trong tù)

Vào giữa thập niên 60, Nga tốt nghiệp khoa Hóa trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã tình nguyện – như mẹ và cha dượng trước đó đã làm – tham gia vào cuộc chiến đấu “giải phóng” miền Nam. Cùng với hàng trăm thanh niên cộng sản khác, bà đã thực hiện một cuộc đi bộ để về với hàng ngũ kháng chiến. Họ đã đi cả ngàn cây số đường có khi là sình lầy, hoặc qua những con đường rừng nhỏ hẹp, qua núi, qua đèo… Bốn tháng trời ngủ dưới một mảnh ‘tăng’, thức ăn là một ít gạo với nắm rau rừng hái vội trên đường đi, luôn phải cảnh giác với biệt kích và trực thăng địch.

Về tới miền Nam năm 1966, Nga ở trong rừng sâu, trong căn cứ kháng chiến nơi hàng trăm người sống dưới những mái nhà tranh. Xuất thân sinh viên và bản tính năng động của bà đã tạo điều kiện cho bà trở thành phóng viên chiến trường của Thông tấn xã thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đã có lúc, bà chỉ huy dàn đồng ca ở trong rừng. Bà thành hôn với một cán bộ làm việc tại Ban Đối ngoại.

Một buổi sáng, Nga nghe tiếng máy bay lượn vòng trong vùng đóng quân. Bà chui khỏi hầm, và thấy máy bay trải xuống rừng một đám mây bột. Bà nhớ lại: “Tôi bắt đầu ho, và gãi. Về sau, chúng tôi biết rằng đó là một loại thuốc diệt cỏ, nhưng không hề tưởng tượng được nó độc hại đến mức nào. Chính những người lính Mỹ cũng chưa hiểu điều nguy hiểm họ đã phải hứng chịu”. Hơn mười nhân chứng đã xác nhận rằng bà Nga đã nhiều lần bị phơi nhiễm bởi các chất này. Một trong các nhân chứng gọi đó là “ những trận mưa hóa chất”, người khác gọi là “ sương mù” làm ngạt thở.

TN4TÀN PHÁ: 1966, một máy bay vận tải Fairchild C-123 rải chất độc da cam trên một cánh rừng Việt Nam.

Thực ra, quân đội Mỹ muốn tiêu diệt những vùng cây cỏ rậm rạp nơi địch thủ ẩn náu. Họ muốn phá hủy tất cả những nơi trú ngụ của kẻ thù, cắt đứt nguồn lương thực, ép họ phải lộ diện hoặc phải ẩn núp trong địa đạo. Các máy bay Mỹ giống như những chiếc Canadair lượn đi lượn lại rất thấp trên những vùng nghi có kẻ địch, kéo theo sau chúng những dải mây dài chất độc. Chất có tính độc hại mạnh nhất được gọi là “chất Da cam” là màu nhãn dán trên các thùng phuy chứa chúng, được sử dụng từ năm 1965. Các công ty hóa chất đã sản xuất chất này với số lượng khổng lồ mà không hề quan tâm đến những yêu cầu thận trọng trong sử dụng. Kết quả là: hàm lượng dioxine (thành phần nguy hại nhất) quá cao. Tác động đến thiên nhiên vô cùng nguy hại. Đối với con người cũng vậy.

Ngày 30 tháng 6 năm 1968, khi bà Nga sinh hạ con gái đầu lòng tên Việt Hải, bà nhanh chóng nhận thấy sức khỏe đứa bé rất kém. Cháu không lên cân, tim của cháu rất yếu, da của cháu bị tróc ra từng mảng. Do không biết được nguồn gốc của bệnh, các bác sĩ không thể cứu được cháu bé. Việt Hải chết khi được 17 tháng tuổi. “Nhiều năm trời, tôi luôn thấy mình có tội với con. Tôi tự trách mình đã không quan tâm, không biết giữ gìn khi mang thai. Cũng như bao nhiêu nạn nhân da cam khác, tôi không tưởng tượng đựợc rằng tất cả những nỗi đau kia là do các chất độc từ trên trời rơi xuống”.

Những năm sau, bà Nga đã cho ra đời hai bé gái. Một cháu sinh năm 1971 trong rừng. Cháu thứ hai chào đời trong tù năm 1974 khi người phụ nữ trẻ mang thai bị giam cầm ở miền Nam Việt Nam. Sau chiến tranh, chia tay với chồng, bà một mình nuôi hai con, và bắt đầu theo đuổi sự nghiệp cao đẹp của ngành Giáo dục. Đến khi về hưu, bà dành thời gian giữa hai nước Việt Nam và Pháp, không ngừng hoạt động cho sự gắn kết của hai nước. Năm 2004, bà được Nhà nước Pháp tặng Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh, tôn vinh những hoạt động nhằm gìn giữ ký ức về nạn nhân và cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh Đông Dương.

Và hôm nay, Trần Tố Nga lao mình vào một cuộc chiến pháp lý chống lại những công ty Hóa chất khổng lồ của nước Mỹ “không hận thù và không mảy may ý chí phục thù”. Chỉ riêng những con số cũng đủ làm cho ta thấy buồn nôn: trong thời gian chiến tranh từ 1961 đến 1975, 80 triệu lít chất độc đủ loại đã được trút xuống Việt Nam. Chỉ riêng chất Da cam đã chiếm 60 % của tổng số chất độc. Ở một số vùng, nó phá hủy toàn bộ cây cối. Ở những vùng khác, nó lại làm cho các loại cỏ mọc lên cao vọt, và nhiều loại quả, nhất là quả dứa, có những hình thù kỳ quái. Chất dioxine đã nhiễm một cách dai dẳng, vào các lớp đất và lớp nước ngầm. Dây chuyền thực phẩm sẽ còn bị nhiễm độc trong nhiều năm tháng nữa.

Tại Hoa Kỳ, cũng phải trải qua nhiều năm ròng rã và nhiều cuộc giám định mới có thể làm cho các nhà cầm quyền thừa nhận tác hại của chất Da cam đối với chính những binh lính của họ. Còn bà Nga thì từ năm 2012 nhận thấy cơ thể của mình mang những dấu tích của sự phơi nhiễm qua vô số những hạt nổi ở khắp người. Bấy giờ bà hiểu vì sao các con của bà có những chứng bệnh đáng lo ngại. Người con gái đầu, định cư ở Úc, mang bệnh alpha-thalassémie, một chứng bệnh về máu. Người con thứ hai, nhà thiết kế thời trang đang sống ở Mỹ, mang bệnh vẩy sừng, một chứng bệnh về da. C