Các bà mẹ Thiên An Môn: Không muốn trả thù, nhưng từ chối sự lãng quên (*)

Patrick Saint-Paul, Le Figaro 30/05/2014

Thụy My dịch

Quảng trường Thiên An Môn, 1989.

Những bà mẹ của các thanh niên đã bị sát hại trong sự kiện ngày 4 tháng Sáu năm 1989 tiếp tục đấu tranh để được tưởng niệm họ và cho công lý. Nhưng gần đến ngày kỷ niệm 25 năm Mùa xuân Bắc Kinh, Tập Cận Bình lại siết chặt thêm gọng kìm, do sợ hãi một sự thật có thể làm chao đảo chế độ.

Mỗi năm, Bắc Kinh lại sống với nhịp điệu “những vụ mất tích mùa hè”. Gần đến ngày 4 tháng Sáu, thời điểm “nhạy cảm” nhất trong năm của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chính quyền Trung Quốc lại buộc nhiều “nhà ly khai” hoặc chỉ đơn giản là các thân nhân những người mất tích phải “đi nghỉ mát”.

Nhân kỷ niệm 25 năm vụ đàn áp đẫm máu phong trào biểu tình sinh viên  năm 1989, các nhà quan sát và những người chủ trương tự do Trung Quốc chờ đợi xem thái độ của nhà cầm quyền có thay đổi hay không dưới sự cai trị của tân lãnh đạo Tập Cận Bình, mà một số người hy vọng ông ta là một nhà cải cách…Trên thực tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) năm nay lại siết chặt thêm chủ trương cấm nêu lên “các sự kiện” ở quảng trường Thiên An Môn, khiến khó thể hy vọng đến cải cách chính trị.

“Các vị đã làm đúng khi đến đây trước khi người ta bắt tôi đi ‘nghỉ mát’. Cần phải tiếp tục kể lại câu chuyện của chúng tôi”. Bà Đinh Tử Lâm (Ding Zilin) thổ lộ với Le Figaro như vậy vào đầu tháng Hai. Con trai của bà là Tưởng Tiệp Liên (Jiang Jielian) là một trong những sinh viên đầu tiên đã ngã xuống dưới những lằn đạn, hôm 03/06/1989.

Bà Đinh Tử Lâm bên cạnh ảnh con trai, bị sát hại tại Thiên An Môn ngày 03/06/1989.

Là người sáng lập phong trào Các bà mẹ Thiên An Môn, một hiệp hội tập hợp những người mẹ của các sinh viên bị giết chết trong vụ thảm sát 1989, Đinh Tử Lâm bị giám sát cao độ từ đầu tháng Ba. Công an cấm vào căn hộ của bà ở Bắc Kinh cũng như mọi tiếp xúc với người ngoại quốc. Và vài tuần trước ngày kỷ niệm 25 năm Thiên An Môn, bà cùng với chồng đã biến mất, bị đưa đi quản chế ở một nơi nào đó không ai biết ở xa thủ đô Trung Quốc, cũng giống như hàng mấy chục nhà đấu tranh nhân quyền khác.

Năm nay, bà Đinh Tử Lâm sẽ không được đến mặc niệm tại địa điểm mà con trai bà đã bị một viên đạn cướp đi mạng sống hôm 3 tháng Sáu năm 1989, bị chính quyền ngăn trở như mọi năm. Bà kể lại: “Con trai tôi sinh ngày 2 tháng Sáu năm 1972. Mỗi năm, tôi đều mừng sinh nhật cháu vào ngày 2/6 trước khi cúng giỗ cháu vào ngày hôm sau. Ngay cả an ninh cũng biết chuyện này. Mỗi năm, các nhân viên công an đều nói với tôi là họ hiểu nỗi đau của tôi to lớn như thế nào. Nhưng họ lại không thương hại bà cụ bị bệnh tim sinh năm 1932, đã từng bị lên cơn đau tim vào cuối năm 2013. Bà nói:“Tôi không còn kể câu chuyện về con trai tôi từ nhiều năm qua. Nhưng sắp đến ngày kỷ niệm, tôi đã viết ra một cuốn sách, khiến tôi nhớ lại tất cả những chuyện cũ. Trái tim tôi đã không chống chọi được với nỗi đau.

Tôi đã cấm con tôi ra đi

Sinh viên đang dựng tượng Nữ thần Dân Chủ

Vào mùa xuân 1989, trên quảng trường rộng mênh mông ở trung tâm Bắc Kinh, địa điểm mang tính biểu tượng nhất của quyền lực Trung Quốc, các sinh viên đòi hỏi dân chủ và tự do đã được dân chúng tham gia ủng hộ, trong một không khí hồ hởi lan truyền khắp đất nước. Trước bức chân dung của Mao, họ dựng lên bức tượng “Nữ thần Dân Chủ” theo mô hình tượng “Nữ thần Tự Do” của Mỹ.

Bà Đinh thở dài não nuột: “Con trai tôi chỉ mới 17 tuổi, nhưng từ hai năm trước nó đã tranh đấu cho sự tiến triển của xã hội, đòi hỏi được tự do và dân chủ hơn. Cháu thường xuyên đến quảng trường Thiên An Môn để ủng hộ các sinh viên. Chồng tôi cổ vũ con trai. Nhưng tôi là đảng viên Cộng sản trung thành và một lòng tin vào Đảng từ năm 1960, tôi biết Đảng có thể đối xử tồi tệ với người dân như thế nào, từ khi một số đồng nghiệp của tôi bị đánh đập cho đến chết trong Cách mạng văn hóa.

Tôi nói với các học trò và với con tôi là đấu tranh chống lại Đảng chỉ vô ích. Nhưng từ khi lệnh thiết quân luật được ban bố hôm 20/5, các cháu chỉ có mỗi một ý tưởng trong đầu: đó là xuống đường. Chúng nó trách tôi trung thành với Đảng một cách mù quáng. Tôi thì tôi chưa bao giờ hy vọng là phong trào này có thể mang lại một sự thay đổi nhỏ bé nào. Tôi chỉ muốn bảo vệ các cháu thôi.

Sinh viên dựng lều chiếm cứ Thiên An Môn

Sau bảy tuần lễ chiếm đóng quảng trường, các sinh viên bị quân đội truy sát đêm 3 rạng 4 tháng Sáu. Giải phóng quân Trung Quốc huy động hàng chục ngàn lính với hàng trăm chiến xa hỗ trợ, và nổ súng. Tưởng Tiệp Liên không còn ở tại chỗ từ khi quân đội công bố thông báo với giọng điệu hết sức đe dọa, đòi hỏi sinh viên rời các lều trại trên quảng trường.

Cha của cậu đã đến phía tây thành phố, nhìn thấy các đoàn quân tiến về phía Thiên An Môn và cố làm giảm nhẹ những lo ngại của họ. Bà Đinh Tử Lâm nhớ lại: “Con trai tôi không ngừng lặp lại, nghĩa vụ của nó là phải xuống đường để hỗ trợ cho các bạn sinh viên. Tôi cấm cháu ra ngoài. Nó giận dữ bảo rằng, nếu tất cả các bậc cha mẹ đều như chúng tôi, thì đất nước chẳng còn chút hy vọng nào.

Quân đội đổ vào quảng trường

Chúng tôi không muốn trả thù

Bất lực, bà đóng cửa nhốt con trai trong nhà vệ sinh. Nhưng hai mẹ con vẫn tiếp tục đối thoại qua cánh cửa. Đinh Tử Lâm kể tiếp qua hơi thở nghẹn: “Nó hỏi tôi, làm cách nào có thể cứu được các sinh viên. Tôi trả lời rằng nếu tất cả mọi người dân Bắc Kinh đều xuống đường, thì không một ai dám bắn vào họ. Suốt cả đời, tôi hối tiếc đã nói câu này. Tôi chỉ có một mình. Nếu chồng tôi có mặt bên cạnh, có lẽ hai vợ chồng đã có thể giữ được con lại.

Vào lúc 22 giờ, Tưởng Tiệp Liên nhảy qua cửa sổ nhà vệ sinh và la to: “Vĩnh biệt mẹ !. Chàng thanh niên sau đó bị giết chết vào lúc 23 giờ 10 phút.

 

Máu đã đổ trước cường quyền!

Từ đó đến nay, bà Đinh Tử Lâm thệ nguyện trung thành với lý tưởng của người con, mà bà đã lập một bàn thờ trên đó đặt bình tro cốt của con trong phòng khách. Chân dung của chàng trai được treo trên tường, bên cạnh nhiều bằng tưởng thưởng của các tổ chức bảo vệ nhân quyền. Một tấm ảnh do bà Lưu Hà (Liu Xia), vợ của giải Nobel hòa bình đang bị giam cầm là Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) chụp, được đặt đối diện với bức tượng kỷ niệm người con trai.

Cựu giáo sư triết của trường đại học Bắc Kinh danh giá, Đinh Tử Lâm đấu tranh không ngơi nghỉ cho tiến bộ xã hội và cho tự do. Vào Đảng năm 1960, bà là một trong số 303 nhà trí thức Trung Quốc ký tên vào Hiến chương 08, được công bố ngày 10/12/2008 để đòi hỏi cải cách chính trị và xúc tiến phong trào dân chủ Trung Quốc.

Nhưng nhất là năm 1992 bà đã thành lập một mạng lưới gồm 150 bà mẹ, Các bà mẹ Thiên An Môn, mà những người con đã ngã xuống đêm 3 rạng 4 tháng Sáu năm 1989 tại Bắc Kinh, mà chính quyền từ chối mọi tiếp xúc với báo chí. Đến 1993, bà bị cấm giảng dạy. Kể từ đó, chính quyền liên tục quấy nhiễu để ngăn cản Đinh Tử Lâm tiếp xúc với các bà mẹ có con bị sát hại khác. Nhà nước thúc giục bà sang tị nạn ở Đài Loan, nơi một bộ phận trong gia đình bà đã định cư từ năm 1949 nhưng bà chưa bao giờ nhượng bộ.

Sơ tán các sinh viên bị thương

Là lãnh đạo Các bà mẹ Thiên An Môn, bà Đinh Tử Lâm không ngừng đòi hỏi sự thật và công lý về vụ thảm sát tháng Sáu năm 1989. Bà nhắc lại: “Chúng tôi không muốn trả thù, nhưng từ chối sự quên lãng. Và chúng tôi chỉ có ba yêu sách đơn giản: một cuộc điều tra để tìm ra sự thật về những gì đã diễn ra; công lý phải được thực thi và những kẻ chịu trách nhiệm phải bị đưa ra xét xử, đặc biệt là Lý Bằng (Li Peng), người đã công bố lệnh thiết quân luật; bồi thường cho gia đình các nạn nhân.

Những yêu cầu của bà chưa bao giờ thay đổi. Nhưng Đảng lo ngại nếu đáp ứng, sẽ xảy ra một cơn địa chấn chính trị mà các rung chấn sẽ làm bản thân Đảng sụp đổ. “Hai mươi lăm năm sau, tôi tự hỏi, ai sợ hãi ai? Tôi hy vọng Tập Cận Bình sẽ là một đại đế sáng suốt và tử tế. Nhưng tôi không ảo tưởng, sự kiện ông ta ngưỡng mộ Mao khiến tôi lo sợ. Tôi không còn hy vọng mọi việc sẽ thay đổi”– Đinh Tử Lâm than thở, đã gần kiệt sức.

Cuộc đấu tranh không cân sức

Đó là lý do khiến bà chuyển giao chức trách đứng đầu Các bà mẹ Thiên An Môn, lo ngại lý tưởng đấu tranh của thế hệ mình sẽ biến đi khi họ qua đời vì tuổi già. Nâm Vĩ Kiệt (You Weijie), 61 tuổi, có chồng bị sát hại trong vụ Thiên An Môn, lên thay. Trong căn hộ ở Bắc Kinh bị công an quản chế hồi đầu tháng Ba, tân chủ tịch chia sẻ: “Tôi biết những rủi ro chứ, áp lực không ngừng tăng lên đối với chúng tôi từ đầu năm. Nhưng tôi không thể xóa đi câu chuyện lịch sử này, và muốn rằng cuộc chiến đấu cho công lý được tiếp tục.

Chồng bà là Dương Minh Hồ (Yang Minghu), nhân viên của Ủy ban Xúc tiến Thương mại Trung Quốc, năm ấy 42 tuổi. Người vợ góa kể lại: “Chúng tôi thức giấc vào nửa đêm 3 rạng 4 tháng Sáu bởi những tràng súng nổ. Sau khi nhìn qua cửa sổ, chồng tôi lo ngại và quyết định đi cùng với các sinh viên về phía Thiên An Môn. Tôi không đi với anh ấy vì phải lo cho con trai nhỏ năm tuổi. Vào lúc hai giờ sáng, một viên đạn đã xé toang khung chậu và bàng quang của Dương Minh Hồ.

Một thế hệ hào hùng không còn được biết đến

Giới trẻ Trung Quốc không biết đến Thiên An Môn

Nâm Vĩ Kiệt tìm được chồng vào sáu giờ sáng tại bệnh viện. Anh chống chọi được hai ngày rồi mới qua đời. “Chúng tôi ủng hộ 100% các yêu sách của sinh viên, tất cả không phải là điều sai lầm. Nếu chính quyền thời đó đáp ứng, Trung Quốc đã có một số phận tốt đẹp hơn. Chúng tôi có được phát triển kinh tế. Nhưng thiếu vắng mở cửa chính trị, chúng tôi sống trong một xã hội phi đạo đức với trái tim bệnh hoạn. Nếu Trung Quốc tiếp tục tận dụng con đường này, thì cuối cùng sẽ sụp đổ. Không thể tiếp tục lâu dài mà không có mở cửa về dân chủ, vì dân chủ là điều kiện của tự do. Tiện nghi vật chất, mà các đảng viên được hưởng lợi là chính, không thể thay thế được.

Vụ đàn áp đẫm máu đêm 3 rạng 4 tháng Sáu đã làm cho hàng trăm người chết, thậm chí hơn một ngàn, theo một số nguồn tin. Các bà mẹ Thiên An Môn đã chính thức nhận dạng được 202 nạn nhân – một công việc tỉ mỉ chủ yếu dựa trên các ảnh chụp những xác chết, theo Nâm Vĩ Kiệt. Chính mắt bà trông thấy xác của bảy người tại bệnh viện Tongren nơi chồng bà được đưa đến, nhưng hôm đó chỉ nhận ra được ba thi thể.

 

Có bao nhiêu thanh niên đã bị giết hại trong Mùa xuân Bắc Kinh???

Bà nhận xét: “Nhiều gia đình không biết người thân của mình đã biến mất như thế nào, hay không dám nói ra do sợ bị trả thù. Người ta không biết có 1.000 hay 3.000 người bị giết chết. Chỉ có mỗi mình chính quyền mới biết được danh sách. Ngày nào mà họ công bố và nhìn nhận trách nhiệm, sẽ là một dấu hiệu tiến bộ vô biên cho tự do và dân chủ của đất nước.

Từ năm 1989, chế độ cộng sản đã nỗ lực tránh mọi sự nhắc nhở đến biến cố Thiên An Môn. ĐCSTQ cấm đoán các phương tiện truyền thông chính thức, trên internet và sách mọi liên tưởng đến vụ đàn áp Mùa xuân Bắc Kinh, cho đến nỗi đại đa số thanh niên Trung Quốc không hề biết đến vụ thảm sát này. Gần đến ngày kỷ niệm 25 năm Thiên An Môn, chế độ càng siết chặt thêm gọng kìm. Nâm Vĩ Kiệt tóm tắt: “Mỗi năm, khi chúng tôi đi về phía các nghĩa trang nơi chồng, con chúng tôi được chôn cất, luôn luôn công an còn đông đảo hơn là thân nhân các nạn nhân.

P. S.-P.

(*) Nguyên tác “Au nom des fils de Tiananmen”

 Theo http://thuymyrfi.blogspot.fr/2014/06/cac-ba-me-thien-mon-khong-muon-tra-thu.html

Lòng tham của sói và “Trung Quốc mộng”

GS Trần Ngọc Vương

Văn Việt: GS Trần Ngọc Vương có bài phỏng vấn vừa đăng trên tạp chí Người Đô thị với tựa đề “Trung Quốc mộng và căn tính sói” (http://nguoidothi.vn/gs-tran-ngoc-vuong-trung-quoc-mong-va-can-tinh-soi.ndt). Tác giả cho biết bài đã bị “biên tập” cắt một số ý quan trọng. Sau đây là bản gốc bài trên do tác giả gửi cho Văn Việt (những chỗ bị cắt ở Người Đô thị được tác giả đánh dấu bằng chữ đỏ). Xin cảm ơn tác giả và trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

TNV
GS Trần Ngọc Vương

GS Trần Ngọc Vương là người từng có thời gian dạy học tại Đại học Bắc Kinh và đang tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá Trung Quốc. Học giả này có cuộc trò chuyện thẳng thắn và cởi mở với NĐT:

Hiểu về Trung Quốc

Thưa ông, bấy lâu nay giới hàn lâm biết đến ông ngoài việc nghiên cứu, còn tiến hành dịch thuật khá nhiều sách Trung Quốc sang tiếng Việt. Vì sao ông làm công việc này?

Tôi phải nói rất rõ ràng rằng mấy chục năm nay, từ sau khi thống nhất đất nước năm 75 cho đến bây giờ, thế lực duy nhất đe dọa, xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, can thiệp sâu vào nền chính trị Việt Nam chính là Trung Quốc. Ai bắt nạt, đe dọa, khống chế Việt Nam, trừ Trung Quốc ra?! Những nước lớn khác có đe dọa mình đâu. Cho nên là trong khi đối kháng với Trung Quốc cần khẩn trương hiểu biết về họ, cần khẩn trương nghiên cứu, tìm hiểu và học tập họ nữa. Tôi đang tổ chức dịch những bộ sách của Trung Quốc hết sức quan trọng về phương diện học thuật, từ lịch sử Phật giáo đến văn học Trung Quốc. Những bộ sách về Đạo giáo, Nho giáo Trung Quốc. Hiện nay tôi đang tổ chức dịch hai bộ: Một bộ có tên là Quan huấn tập thành (những lời dạy, chỉ dẫn, khuyên bảo cho tầng lớp quan lại, từ anh mới học việc cho đến tể tướng). Trong đó tổng kết toàn bộ danh tác của Trung Quốc từ xưa đến nay, văn hóa quan trường Trung Quốc trong 5000 năm. Bộ sách này rất khổng lồ. Tôi từng đề nghị một loạt các cơ quan mà tôi cho là có trách nhiệm của nhà nước, nhưng chẳng đâu muốn làm và chẳng ai muốn dịch. Hiện nay có một doanh nhân bỏ tiền cá nhân tài trợ cho người của tôi dịch.

Và một cuốn thứ hai nữa, mang tiêu đề “Phản kinh”, tức là cẩm nang, bí kíp của những thủ đoạn chính trị và người ta quảng cáo cuốn sách là: Lịch đại thống trị giả/ Mật nhi bất ngôn, dụng nhi bất tuyên đích kì thư (tạm dịch: Bộ kì thư mà kẻ thống trị ở tất cả các nơi phải giữ bí mật, làm theo nhưng không nói ra, không công bố). Bộ sách này được một nhân vật đỗ tiến sĩ đời Đường viết ra, sau đó tìm cách dâng cho vua rồi trốn biệt. Tiểu sử về sau không ai biết ra làm sao. Ngay đến cả cái tên của tác giả cũng là điều kỳ bí. Đến mức năm 1998, khi tôi dạy ở đại học Bắc Kinh, đầu tiên tôi mua bộ sách này. Tôi ngỡ ngàng, nhưng tôi đọc tên tác giả tôi chưa biết chữ ấy bao giờ. Nghi mình người nước ngoài, học tiếng Hán có điều kiện, ai dè về hỏi các giáo sư Trung Quốc cũng không ai biết là gì. Hai ba hôm sau nữa kỉ niệm 100 năm học đại học Bắc Kinh. Có gần 10 cái xe chở các chuyên gia Đại học Bắc Kinh ra đại lễ đường nhân dân, giáo sư Phó Thành Cật, cầm chữ trên tay đi hỏi ai biết chữ này, không ai biết cả. Và cuối cùng ông về tra Trung Quốc đại từ điển, ra tên này nằm ở phần đuôi của từ ghép. Phiên âm Hán Việt phải dọc là Nhuy. Cái tên này còn chưa có trong thư tịch Việt Nam, chỉ đọc theo nguyên lý thôi. Thật lạ!

Cái bộ sách đó được cất trong kho chứa sách của triều đình, nhưng thi thoảng lại lọt một phần nào đó ra ngoài. Nên đời Minh, Thanh đều có chỉ dụ cấm tàng trữ, đọc cuốn sách đó. Mãi tới năm 1998, lần đầu tiên nó in ra. Mà nó lại in ở nhà xuất bản Nội Mông Cổ, theo kiểu in để thăm dò. Nói vậy để biết rằng cái loại bí kíp kì thư kiểu đó, Trung Quốc nó rất có truyền thống. Cho nên tôi rất là sốt ruột, tôi rất muốn là giới chính trị của ta phải hiểu Tàu.

Hiểu được văn hoá chính trị đó, có lẽ ta sẽ bình tĩnh và khôn khéo hơn để sống cạnh một nước lớn và nhiều chiêu trò như Trung Quốc?

Đọc một số đoạn, thì sẽ hiểu dần cách người Tàu làm chính trị. Họ làm đúng theo bài bản ấy thật. Thế nhưng, dường như các nhà chính trị của ta ít người quan tâm. Cho nên cái tầm nhà chính trị của ta chưa vượt quá kinh nghiệm và thủ đoạn của chính trị của anh chánh tổng. Tức là cường hào tầm tiểu nông. Nó không bảo đảm cho một văn hóa chính trị cao cấp, tiên tiến, mà cũng không đủ lắt léo, thâm trầm. Thủ đoạn của chính trị gia Trung Quốc kinh khủng lắm. Nên nhớ rằng chỉ ở Trung Quốc, những lợi ích mang màu sắc chính trị mới làm cho người ta thực hiện những hành vi mà trong bất kì nền chính trị nào khác không thể có, không thể làm vì cái sự bất nhẫn, táng tận của nó. Trong Đông Chu Liệt Quốc còn chép lại câu chuyện: Có một anh đầu bếp nấu cho chủ, một ông vua chư hầu. Có lần ông vua đùa than thở: Cao lương mĩ vị trên đời ăn hết rồi chỉ còn mỗi một thứ chưa ăn là… thịt người. Hôm sau anh đầu bếp dâng cho chủ một món thật thơm, chế biến rất tinh xảo. Tay đầu bếp cứ nhìn xem chủ ăn, gặng hỏi chúa công ăn có ngon không, thấy thế nào. Ông vua bảo: Thấy lạ, cũng ngon đấy. Rồi hỏi món gì đấy thì quỳ xuống lạy: “Tâu chúa công, thần đắc tội! Hôm qua chúa công nói còn món thịt người chưa ăn, nay thần cho chúa công ăn thịt người. Thần không dám giết người ngoài, chỉ giết con của thần để nấu”. Cái đó là gì vậy?

Người Việt Nam có dám làm chuyện đó không? Không ai làm được. Nó trái với cả tự nhiên. Làm thịt con mình cho chủ ăn, không biết hắn đuổi bắt cái gì vậy? Thật là kinh hoàng. Hắn ta chứng minh cái gì đây? Những thứ đấy cần phải gõ vào đầu, phải nghĩ xem người Tàu làm gì. Nhưng mà khi người Tàu đã dám làm đến những việc như vậy thì ta phải đặt ra câu hỏi: Có gì họ không dám làm không? Bởi vì ta so với lương tri của người bình thường không đo lường được họ đâu.

Căn cước sói và “Trung Quốc mộng”

Ông nghĩ gì về tham vọng “Trung Quốc mộng” (Chinese Dream) mà gần đây đang được đề cập nhiều?

Người thể hiện tập trung nhất, cao nhất cái gọi là “Trung Quốc mộng” là Mao Trạch Đông. Và người phát ngôn quan trọng nhất hiện nay cho giấc mộng này là Tập Cận Bình. Muốn hiểu Trung Quốc mộng thì phải hiểu mô hình hoàng đế Trung Hoa.

Người Trung Quốc và Tập Cận Bình đang nỗ lực để hiện thực hóa giấc mộng đó. Tôi rất muốn mọi người tỉnh táo ở tình huống này: Từ thế kỉ 15-16 trở lại đây, thậm chí cho đến tận hết thế kỉ 20, kinh nghiệm lịch sử cho thấy, các cường quốc tư bản chủ nghĩa trở thành đế quốc chủ nghĩa, nó lớn lên được là nhờ biển. Các đế chế hình thành được trong thời đại tư bản chủ nghĩa, đế quốc chủ nghĩa đều là đế chế biển. Nhưng truyền thống của Trung Quốc mấy nghìn năm nó là đế chế lục địa.

Trong cuốn tiểu thuyết viết theo lối khảo cứu, đề xuất luận điểm, có tên “Lang Đồ Đằng” (dịch sang tiếng Việt là Tô Tem Sói), Khương Nhung xác định cái thuộc tính có tính chất căn tính của người Hoa là Sói tính. Sói là con vật ranh mãnh thủ đoạn, độc ác, thâm hiểm nhất của thảo nguyên, của bình nguyên và cao nguyên. Người Trung Quốc đặt căn cước của mình khởi đi từ đó. Mấy năm liền, người Trung Quốc in đi in lại cuốn tiểu thuyết này, cổ vũ “tính chiến đấu”, tinh thần “quật cường” của đồng bào họ.

Để hiểu tại sao gọi Trung Quốc là đế chế lục địa: Từ đời Hán bắt đầu Trung Quốc đi dần xuống phía Nam,chiếm những vùng đất sát biển, thế nhưng mà biển với người Trung Quốc chưa thành một thứ thế năng sống. Những sản vật biển nhiều khi bình thường, với họ vẫn là khó khăn, hiếm hoi, và đều xếp vào hàng gọi là của quý hiếm, đặc sản. Và điều lạ lùng thay rằng người Trung Quốc bị ám ảnh bởi một sản vật rất thông thường, quen thuộc, và ứng xử với nó bằng quốc sách, đó là muối. Đời Hán có một cuốn sách cực kì nổi tiếng, đó là cuốn Diêm Thiết Luận (tạm dịch: Bàn về sắt và muối). Cho tới tận thời Quốc Dân Đảng, buôn muối là một nghề mang tính đặc quyền và độc quyền ở Trung Quốc. Người Trung Quốc quản lý rất chặt môn bài buôn muối, và người buôn muối thường rất giàu. Đối với cư dần miền núi, vùng sâu của Trung Quốc thì muối trở thành vấn đề lớn. Người ta buôn muối như buôn thuốc phiện. Cho nên ấy, đó là một sản vật rất tầm thường của biển, trở thành một vấn đề hàng đầu trong chính sách của Trung Quốc. Trung Quốc đến bây giờ là có 9,6 triệu cây số vuông về mặt diện tích, nhưng chỉ có hơn 18.000 cây số bờ biển, tỉ lệ bờ biển trên lãnh thổ là thấp. Cho nên chưa bao giờ Trung Quốc được xem là một quốc gia biển cả.

Vậy người Trung Quốc ý thức về biển tự bao giờ, thưa ông?

Khi người Trung Quốc đẩy hạt nhân của mình lùi dần xuống phương Nam, tiến sâu thêm xuống phía nam vùng sông Dương Tử (từ vùng Giang Nam cũ, bây giờ là Triều Châu, Phúc Kiến, Thượng Hải, Quảng Châu…). Từ cửa sông Dương Tử mới có lối ra của Trung Quốc với biển. Đấy là cái xứ mở ra với biển của nền văn hóa Bách Việt, bộ phận thứ hai của nền văn hóa Trung Hoa. Tôi phải nhấn mạnh họ không phải là người Hán, không có cùng cái vô thức lịch sử với bộ phận cư dân phương Bắc. Thế nên họ thường xuyên bị coi là thuộc khu vực ngoại vi, bị gọi là dân Nam Man, và bị kỳ thị bởi người Hán. Trong thập đại đế vương (10 bậc đế vương) được ghi danh của Trung Quốc, chỉ có một người gốc phương Nam là Chu Nguyên Chương, còn lại là người phương Bắc. Nhà Minh có gắn bó với phương Nam, nên không hề ngẫu nhiên mà trong hơn nửa thế kỉ đầu của triều đại nhà Minh, tầm nhìn biển bắt đầu được mở ra. Và chính thời đó mới xuất hiện Trịnh Hòa. Trịnh Hòa là người gốc Hồi giáo Ả Rập, mang toàn bộ tri thức, kinh nghiệm buôn bán Địa Trung Hải của tổ tiên ông để phục vụ Minh triều. Khi nhà Minh lập ra Nam Kinh, ông ta là tổng thái giám (hoạn quan), đề nghị và được chấp nhận đóng những đoàn tàu lớn và đi ra biển. Ông có 7 chuyến đi biển tất cả.

Và đấy có thể coi là một trong người sớm nhất đi vòng quanh thế giới. Nhưng mà chỉ được khoảng trên dưới 30 năm thực hiện những công việc đó. Tất cả những ghi chép về biển rất cơ bản như vậy. Sau năm 1432 là được cho vào kho. Vài chục năm sau, các vua chúa thế hệ sau của nhà Minh cũng bị xâm nhập cái tâm thế lục địa Bắc Phương hóa, coi lục địa quan trọng hơn, quay lưng lại với biển, trọng nông.

Có thể “thoát Trung”           

Nhiều câu hỏi đặt ra là, liệu Trung Quốc có thực sự đi theo chủ nghĩa cộng sản? Trả lời được câu hỏi này để chúng ta không ảo tưởng viển vông vào “đồng chí”, và thoát ra quỹ đạo chịu ảnh hưởng để có lối đi riêng cho dân tộc mình. Ông nghĩ sao?

Tôi phải nói ngay rằng trong nhận thức của tôi, ở Trung Quốc không có chủ nghĩa cộng sản, không có chủ nghĩa xã hội (CNXH). Bởi vì có hai chuyện thế này. Thứ nhất là định nghĩa kinh điển về CNXH, đến bây giờ chưa ai thay đổi, mà Trung Quốc thì không theo cái định nghĩa kinh điển đó. Thứ hai, tinh thần cộng sản là tính quốc tế. Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản có câu là người cộng sản không có tổ quốc, dân tộc. Chủ nghĩa quốc tế vô sản mới là cốt lõi của phong trào cộng sản. Tôi không nói chuyện đúng hay sai ở đây, tôi muốn nói tinh thần cộng sản là như vậy. Vì vậy, trong thực tế tất cả các biểu hiện nhấn mạnh và nghiêng về tinh thần dân tộc, chủ nghĩa dân tộc đều bị nhất loạt coi là chủ nghĩa xét lại. Chính chủ nghĩa xét lại ra đời như thế đó, là nhấn mạnh tính dân tộc trên tính quốc tế, nhấn mạnh đặc thù địa phương hơn là cái phổ biến, không coi trọng, không ưu tiên tính phổ quát toàn nhân loại. Nếu nói về khái niệm là như vậy.

Họ đuổi bắt một cái thứ CNXH quái gở, thể hiện trong đại cách mạng văn hóa vô sản, mà ai cũng biết hệ quả của nó. Thế rồi sau khi dừng đại cách mạng văn hóa vô sản được hơn chục năm thì hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, Đặng Tiểu Bình đưa ra một loạt đường lối, quyết sách, với việc kế thừa rất nhiều tinh thần tư tưởng từ Mao Trạch Đông. Họ công bố rằng họ sẽ xây dựng một thứ “chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc”. Tôi phải lưu ý rằng có một thứ lừa dối, tị húy, trở thành một cạm bẫy dịch thuật, đó là khi ta dịch cái tên Đảng của chủ nghĩa phát-xít Đức, mà ta lại qua tiếng Tàu là Đảng Quốc Xã. Dịch cho đúng phải là Đảng Quốc gia – xã hội chủ nghĩa.

Không hề ngẫu nhiên là có rất nhiều công trình nghiên cứu đặt một mối liên hệ, một sự đồng dạng, so sánh giữa cái nền chính trị Trung Hoa và Đức Quốc Xã. Thậm chí nó giống nhau cả về những thủ đoạn, toan tính, cả tính chất mức độ tàn bạo. Trung Quốc có chủ nghĩa Cộng sản không? Không. Câu trả lời là dứt khoát. Nó là một biểu hiện, thậm chí cực đoan của chủ nghĩa dân tộc. Và cái hàng đầu hiện nay họ đuổi bắt là “Trung Quốc mộng”. Nếu giới cầm quyền Việt Nam định bắt chước Trung Quốc, thì cái đầu tiên cần bắt chước là hãy đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu. Không ngẫu nhiên ngay sau Đại hội vừa rồi, Tập Cận Bình đi xuống hạm đội Nam Hải, và đứng trên hạm đội này công bố về khát vọng thực hiện giấc mộng Trung Hoa. Cái khát vọng trở thành đế chế biển muộn màng từ kinh nghiệm cay đắng không theo được với các đế chế biển trước đây. Trung Quốc bây giờ cảm thấy mình đủ nội lực cảm thấy mình cần phải trở thành như vậy. Một đế chế biển. Thậm chí giờ tham vọng lớn hơn, đòi chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ chẳng hạn. Rõ ràng cái cách đặt vấn đề vẫn là một thứ chủ nghĩa nước lớn, coi tất cả các nước khác chỉ là cái món gia vị trên bàn đàm phán.

Các nước trong khu vực đã “thoát Trung” thế nào? Và ông giải thích thế nào với những người bi quan về việc này?

Rõ ràng, bị ràng buộc và lệ thuộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc ta. Vì trong cái vành đai văn hóa Hán truyền thống thì Nhật Bản, Hàn Quốc có bị thế đâu? Ngay Bắc Triều Tiên bây giờ cũng vùng vằng thoát ra khỏi Trung Quốc. Những nước thoát ra được đấy đều trở thành nước công nghiệp lớn ngay. Ngay cả Đài Loan cũng như vậy, sở dĩ họ giữ được độc lập là vì mô hình thể chế khác. Những tưởng Đài Loan với Trung Quốc là một sự gắn bó mang tính định mệnh, nhưng thực ra hoàn toàn không phải. Việt Nam từ hàng nghìn năm nay rõ ràng là độc lập với Trung Quốc, và khi bắt đầu có chủ nghĩa đế quốc thực dân thì thế giới bị đa cực hóa, do đó cái sự gắn, trói vào một cực càng không phải là định mệnh. Vấn đề chỉ là bản lĩnh của người lãnh đạo dân tộc, làm thế nào thực thi cái điều đó. Còn rõ ràng phải luôn luôn ghi nhớ là Trung Quốc không muốn nhìn thấy một Việt Nam mạnh, càng không muốn nhìn thấy một Việt Nam độc lập hoàn toàn với Trung Quốc. Chỉ muốn anh lệ thuộc, anh là chư hầu phiên quốc. Lãnh đạo Trung Quốc từ xưa nay với Việt Nam là như vậy. Vấn đề chỉ là bản lĩnh, thái độ, cái trách nhiệm với dân tộc của người lãnh đạo với dân tộc. Và có làm được điều đấy không? Và tôi nghĩ làm được.

Địa chính trị của ta ở cạnh một nước “lớn mà chơi không đẹp”, thì cách ứng xử nên như thế nào, thưa ông?

Một điều phải thuộc nằm lòng là chúng ta cần phải học tập họ và hữu nghị với họ, đấy là những mệnh đề không thể khác được. Nền văn minh Trung Hoa là một nền văn minh vĩ đại, rực rỡ, rất nhiều thành tựu. Cha ông ta đã từng làm học trò của nền văn minh ấy. Và ngày nay không thiếu phương diện chúng ta vẫn tiếp tục là học trò. Về quan hệ quốc tế, hai nước có chung một đường biên giới dài như vậy, không muốn hữu nghị cũng không được. Nhưng mà luôn luôn nhớ rằng đấy là một nước lớn vô trách nhiệm và cư xử bẩn tính. Cộng sinh với người Trung Quốc là một công cuộc đòi hỏi rất kiên trì, nhưng cũng mỏi mệt. Nhưng cũng là tất yếu, chẳng có cách gì khác. Phải khẩn trương củng cố nội lực, làm cho kiện toàn cái tư chất bên trong, phẩm giá dân tộc… thì mới có thể đối đầu cạnh tranh với Trung Quốc được. Với Trung Quốc phải có tất cả các sắc thái đấy: đối đầu, cạnh tranh, hợp tác. Và luôn luôn không bao giờ được ảo tưởng, mà một cái cuộc trường kì hàng nghìn năm như thế cũng không bao giờ được mỏi gối chùn chân. Người Trung Quốc buộc ta luôn phải cảnh giác.

Lê Vũ Quý Linh (thực hiện)

Thường trực đối mặt với ngoại xâm và kinh nghiệm phát triển dân tộc

Ngô Đình Nhu

Văn Việt: Trong tiểu luận về kinh nghiệm đối mặt với ngoại xâm và phát triển dân tộc, nhà nghiên cứu Ngô Đình Nhu khẳng định: “[…] đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển, dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.” Vậy mà khi trở thành cố vấn Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông lại áp dụng những chính sách “chuyên chế và độc tài”, để dẫn đến hậu quả sụp đổ chế độ Sài Gòn. Tuy nhiên, những suy nghĩ của nhà nghiên cứu Ngô Đình Nhu vẫn đầy tính thời sự. Văn Việt xin giới thiệu với bạn đọc.

Thật ra thì, vì sự minh bạch của vấn đề trình bày, nên, trong các phần trước, có nhiều điều kiện nội bộ đã được đề cập đến. Dưới đây, chúng ta sẽ xem lại toàn thể các điều kiện nội bộ, và nếu cần sẽ nhắc lại các điều kiện đã bàn đến. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ gồm vào phần này những điều kiện phát sinh ra do sự liên lạc của Việt Nam với các phần tử khác trong xã hội Đông Á, và với các quốc gia đang tìm phát triển. Sự liên lạc, với các quốc gia trong xã hội Đông Á, có thể xem là điều kiện nội bộ của chúng ta, bởi vì chúng ta là một phần tử trong xã hội đó. Sự liên lạc, giữa chúng ta và các nước đang tìm phát triển, có thể xem là điều kiện nội bộ, bởi vì trong một thế giới do Tây phương và Nga Sô phân chia ảnh hưởng như ngày nay, chúng ta và các nước đang tìm phát triển, đều ở vào những hoàn cảnh có nhiều điểm tương đồng.

Thật đúng ra thì, trong phần này chúng ta sẽ phân tích tất cả các điều kiện đã, hay có thể, gây cho chúng ta một cái vốn thuận hay một cái vốn nghịch, trong sự thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc của chúng ta.

Liên lạc với Trung Hoa.

Từ khi lập quốc, năm 939, đến khi bị sự tấn công của Tây phương và biến thành một thuộc địa của đế quốc Pháp, hai sự kiện hoàn toàn chi phối chín trăm năm lịch sử của Dân Tộc Việt Nam.

Hai sự kiện đó là sự liên lạc với Trung Hoa và công cuộc Nam tiến.

Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trưng Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu gồm phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.

Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thủy và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.

Quan niệm Trung Quốc.

Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.

Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần Nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần Nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: Lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các Tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gửi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra phải có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia đôi Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 17 trở lên phía Bắc, cũng vì lý do trên.

Xem thế đủ biết rằng, đối với Dân Tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên.

Họa xâm lăng của Trung Hoa vừa tạm ngưng, vì sự tấn công của Tây phương, là chúng ta lọt ngay vào sự thống trị của đế quốc Pháp.

Ngày nay, ách thực dân vừa mới cởi được, nhưng cái họa xâm lăng đối với chúng ta không thể vì thế mà thuyên giảm. Bởi vì họa xâm lăng, do vị trí địa dư của chúng ta và tình trạng nội bộ của chúng ta mà ra, và bao giờ hai yếu tố đó chưa thay đổi được thì họa xâm lăng vẫn còn.

Tâm lý thuộc quốc.

Họa xâm lăng đe dọa Dân Tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.

Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của Dân Tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.

Tâm lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà Dân Tộc đã thực hiện được, Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: Chúng ta là một Dân Tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của Dân Tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi đào và hữu hiệu hơn.

Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của Dân Tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam.

Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nổi không khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của Nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam.

Các Sứ Bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình.

Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.

Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.

Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.

Lỗi lầm trước đã như vậy đó.

Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu Nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.

Chống ngoại xâm.

Vì vậy cho nên, chống ngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các Triều Đại Việt Nam không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa, thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của Dân Tộc, thay vì mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.

Chính sách chống ngoại xâm.

Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?

Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, thì như thế là đương phải với mục đích đương nhiên, chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.

Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: Nhà Tống, Nhà Nguyên cũng như Nhà Minh, Nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.

Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.

Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và Dân Tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

Nếu ý thức quốc gia và Dân Tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một Dân Tộc.

Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng.

Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.

Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.

Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.

Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và Dân Tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển, dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.

Bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn bản của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.

Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ và hướng về bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những Dân Tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.

Riêng về Dân Tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, Nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và Dân Tộc trong nhân dân.

Ngược lại, mấy lần Dân Tộc thắng được ngoại xâm, từ Nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến Nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân.

Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho Dân Tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của Dân Tộc.

Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt.

Theo Book Hunter Club.

Đọc tác phẩm: “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” (1) của Ngô Thế Vinh

Đỗ Hải Minh

LTS: Dohamide Đỗ Hải Minh là một cây viết quen thuộc trên báo Bách Khoa trước 1975, chuyên khảo về lịch sử và văn minh Chàm. Đã xuất bản năm 2000: “Dân Tộc Champa: Hành trình Tìm về Cội Nguồn”. Xuất thân Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và tốt nghiệp M.A. Đại Học Kansas, Hoa Kỳ. Lớn lên ở miệt Hậu Giang Châu Đốc nên rất am tường về hệ sinh thái Đồng Bằng Sông Cửu Long.

NTV 

Mùa Nước Lên & Mùa nước giựt tại vùng châu thổ sông Cửu Long

Trong nhiều thập niên trước đây, người dân vùng châu thổ sông Cửu Long, tức Mekong, đã quen sống với nạn ngập lụt hàng năm như là một hiện tượng thiên nhiên đến đều đặn theo chu kỳ, nên nhà cửa dọc hai bên sông rạch thường cất theo kiểu nhà sàn, và chiều cao của các cây cột sàn thường được tính toán vừa cho không ngập lụt nền nhà. Chỉ trừ những năm Thìn thì hầu như đã thành thông lệ, mực nước dâng cao hơn, nhà nhà đều sẵn sàng sống những ngày nước ngập sàn, phải kê cao giường lên để ngủ, chờ đến ngày mực nước hạ xuống (người địa phương gọi là “nước giựt”) gia đình con cái mới trở lại nền nếp sanh hoạt bình thường. Do đó, tại vùng châu thổ sông Mekong, giới bình dân thường quen và bình tĩnh sống và chịu đựng với cái gọi là “mùa nước lên” thay vì “mùa lũ lụt” như ở miền Bắc hoặc miền Trung, như được phổ biến sau này.

Dấu hiệu báo mùa nước lên tại vùng châu thổ sông Mekong chủ yếu là vào khoảng tháng 8 âm lịch, từng giề lục bình hoặc rau muống, đôi khi choán cả chiều rộng con sông, nguyên từ các cánh đồng trên đất Cam Bốt bị nước ngập, tróc gốc, nối đuôi nhau trôi chật sông theo dòng nước xuống đến phần đất Việt Nam. Mực nước từ từ dâng cao rồi tràn qua các bờ sông rạch, làm ngập các cánh đồng, cho nên vùng châu thổ có loại lúa sạ, tăng trưởng theo mực nước dâng cao có khi đến 7, 8 thước, và khi nước giựt khô ráo, thân cây lúa nằm rạp mình trên đất chờ gặt.

Để tiết giảm áp lực nước đổ xuống, người ta đã đào một hệ thống kinh chằng chịt tại vùng châu thổ sông Mekong đồng thời khai thác tác dụng rửa phèn cho vùng đất mới để canh tác.

Đến mùa nước lên, người ta phải canh chừng đo mực nước hằng giờ để báo động kịp thời khi mực nước vượt quá mức bình thường các năm trước. Khi áp lực nước từ thượng nguồn bớt đi, thì mực nước liền đứng lại và hạ xuống rất nhanh cho nên trong bình dân gọi là “nước giựt”. Người ta nói nước giựt, vì mực nước hạ xuống trông thấy rõ từng phút từng giờ.

Nước lên và nước giựt, tuy nhiên, không diễn ra đồng đều cùng một lúc. Trên dòng nước cuồn cuộn chảy ra các cửa biển, hễ ở vùng Châu Đốc nước giựt xuống thì vùng Cần Thơ, Vĩnh Long, v.v. ở hạ lưu nước lại bắt đầu dâng lên, ngập tràn bờ, tràn đồng, rồi cũng lại hạ xuống, giống như hiện tượng xảy ra trong bình thông nhau.

Cùng với con nước đục ngầu mang theo phù sa, các loại cá lội theo vào ruộng đồng đẻ trứng, cho đến thời kỳ nước giựt thì loại nước cỏ vàng xậm từ trong đồng ruộng chảy ra, vô số cá con lúc nhúc từng đàn, nhứt là loại cá linh, theo nhau ùa tràn trở ra các kinh rạch để ra sông lớn, cho nên dọc theo các kinh rạch này, người ta đóng đáy bắt cá, có thời điểm cá rộ, lưới không chịu nổi phải giở lên thả cho đi bớt; bằng không thì sẽ bị lủng lưới.

Với mùa nước lên và mùa nước giựt như vậy, hệ sinh thái vùng châu thổ sông Cửu Long được cân bằng một cách tự nhiên, và hễ năm nào mực nước dâng lên cao quá mức bình thường thì người dân thường đơn giản nghĩ là do thiên tai ngoài tầm vói của con người.

Hiện tượng cân bằng sinh thái tự nhiên đó không còn nữa, từ khi dân số vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long tăng cao do việc thiết lập các khu định cư tiếp đón dân các vùng khác đến sanh sống, nhiều nơi đắp bờ ngăn giữ nước trồng lúa ngắn ngày gia tăng sản lượng. Ngày xưa, các thế hệ tiền nhân đến lập nghiệp thường chọn các khu đất gò, tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, gọi là “đất giồng”, nên đến mùa nước lên, các cánh đồng bát ngát cò bay thẳng cánh biến thành biển nước mênh mông, thì đất giồng này vẫn là các khu an toàn cho người dân và cả cho các loài rắn. Ngược lại, trong vài thập niên qua, các khu định cư mới thường chỉ nhằm vào các vùng đất có điều kiện cho đồng bào canh tác, nên khi đến mùa nước dâng lên, có nơi phải ngập sâu xuống cả 2, 3 thước nước, nên cái mà giới bình dân thường quen gọi là “thiên tai” hẳn nhiên phải nặng nề và tác hại nhiều hơn. Ngoài ra, điều mà các nhà môi trường học đã lớn tiếng kêu gào nhiều nhất trong những năm gần đây là nạn chặt cây phá rừng bừa bãi; những rừng cây xanh um từ xưa mang chức năng giữ lại trong lòng đất một lượng nước quan trọng ở các đầu nguồn thì nay không còn nữa hoặc đã biến thành quá lưa thưa, nên nước mưa xuống thì cứ thẳng chảy ra, làm tăng khối lượng nước ngoài dòng sông và hẳn nhiên mực nước sông phải dâng cao khi mưa nhiều ở thượng nguồn.

Cửu Long Cạn Dòng, một nghịch lý?

Nhà văn Ngô Thế Vinh vừa cho ra đời một tác phẩm mới nhan đề khá hấp dẫn: “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” do Nhà Xuất Bản Văn Nghệ ấn hành, đã được các giới thân hữu, nhứt là Nhóm Bạn Sông Cửu Long tiếp đón với rất nhiều phấn khởi như là một đóng góp lớn cho sanh hoạt bảo vệ môi trường.

Nhưng một câu hỏi có thể được nêu lên ngay là liệu nhan đề tác phẩm như có tiềm ẩn một cái gì nghịch lý hay không? Bởi lẽ một đàng, mực nước ồ ạt dâng cao và dòng nước sông Mekong chảy siết từ Cam Bốt xuống phần đất Việt Nam, trong cuối tháng 9 và đầu tháng 10 năm 2000 vừa qua đã làm cuốn trôi nhiều nhà cửa kể cả các nhà sàn dọc theo các kinh rạch, đã gây chết hơn 300 nhân mạng, các cộng đồng người Việt hải ngoại, theo tinh thần tương thân tương trợ giữa đồng bào ruột thịt, đang vất vả và tích cực tổ chức quyên góp cứu trợ, tác phẩm của Ngô thế Vinh lại nêu lên sự cạn dòng, có nghĩa là dòng Cửu Long không còn nước chảy nữa, thì nghĩa là sao?

Sự thực, nạn ngập lụt khiến nước tràn bờ, tràn đồng tại Đồng bằng Sông Cửu Long do lượng nước dồn dập từ trên thượng nguồn đổ xuống là một hiện tượng xảy ra hàng năm theo chu kỳ nhứt định, và kéo dài trong một thời gian một hai tháng là cùng. Trong trường kỳ, trái lại, không phải chỉ là vấn đề tràn ngập nước nữa, mà là vấn đề mực nước dòng sông Mekong có khuynh hướng ngày càng hạ xuống, sẽ đưa dẫn đến nguy cơ cạn kiệt, một nguy cơ tác hại quy mô khó lường, khó mà chận đứng được, và giải pháp không còn có thể là tích cực quyên góp cứu trợ nhứt thời nữa.

Khuynh hướng cạn kiệt nước, trước mắt, sau những ngày nước tràn đồng theo chu kỳ hàng năm, đã được các nhà khoa học ghi nhận ở hiện tượng vùng nước nhiễm mặn từ các cửa Sông Tiền Sông Hậu đang ngày càng lấn sâu vào nội địa, và dấu hiệu là các loại cá chuyên sống vùng nước lợ đã bắt đầu được phát hiện ở một số vùng trước chỉ có các loại cá nước ngọt sanh sống. Nạn nhiễm mặn không những chỉ diễn ra tại các dòng sông mà còn thấm vào lòng đất khiến các giếng nước ngọt đào trong các vùng sâu bên trong cũng sẽ không còn sử dụng được. Trên các vùng nước nhiễm mặn hẳn nhiên sẽ không còn các giống lúa truyền thống nữa, và điều tai hại đang đe dọa trong tương lai là cho đến nay, chưa có một giống lúa nào được tạo được trong các phòng thí nghiệm có thể thích ứng với vùng đất nhiễm mặn cả. Như vậy, liệu Việt Nam có thể còn giữ được sản lượng gạo xuất cảng vào hàng nhì thế giới như hiện nay hay không? Và trong lâu dài, nếu tình hình xấu đi hơn nữa, liệu người dân Việt trong nước sẽ còn đủ gạo để ăn hay không? Đó là những câu hỏi chủ yếu mà tác giả với một thủ thuật văn pháp kỳ diệu đã lần đưa người đọc phải quan tâm tìm hiểu thêm.

Nguyên nhân hiện tượng cạn dòng của sông Mekong có thể được tìm thấy trước mắt không phải trong thiên tai, mà trong chính tác động của con người. Để tranh thủ ngoi lên, mỗi nước nằm trên dòng chảy của sông Mekong – tất cả đều là những nước đang phát triển – đều cùng muốn làm sao tự sản xuất nhiều năng lượng chừng nào hay chừng nấy, để sử dụng vào công cuộc phát triển kinh tế trong đó, nền kỹ nghệ được đặt ưu tiên hàng đầu. Giấc mơ phát triển này đã và đang thúc đẩy các nước nằm trên dòng chảy của sông Mekong đua nhau hình thành các dự án thiết lập và xây dựng những đập nước, lắp đặt các nhà máy thủy điện, tạo ra nguồn năng lượng than trắng, nguồn năng lượng giá rẻ nên tương đối hấp dẫn do không lệ thuộc vào việc nhập cảng dầu từ các nước ngoài hao tốn ngoại tệ.

Theo công pháp quốc tế, giữa các nước có lãnh thổ liền nhau đều có phân định biên giới quốc gia bắt buộc công dân và hàng hóa từ nước này sang nước kia phải tuân theo một số điều kiện; riêng về nước trên con sông thì cứ theo dòng mà chảy xuôi chớ không có gì hạn chế cả. Tuy nhiên, từ khi kỹ thuật thiết lập các đập nước được thực hiện, đòi hỏi phải ngăn và chuyển dòng sông để đưa nước vào các hồ chứa dự trữ khổng lồ, được tính toán đều đặn tháo ra theo lượng hoạch định, dùng vận hành các turbin khổng lồ làm ra điện.

Hậu quả trước mắt của công cuộc chuyển dòng để dự trữ lượng nước cho riêng quốc gia mình, hẳn nhiên, chẳng những làm biến đổi dòng chảy thiên nhiên mà còn làm giảm khối lượng nước chảy xuôi dòng bình thường từ thượng nguồn ra biển cả như từ bao thế kỷ nay. Về mặt này, ai cũng rõ, Trung Quốc là nước có lợi thế hơn cả do lãnh thổ nằm ở vị trí đầu nguồn của sông Mekong, và trên thực tế, Trung Quốc, từ vài thập niên qua, đã triệt để khai thác vị trí tối thuận lợi của mình để xây dựng một loạt các con đập bậc thềm, bất kể quyền lợi của các nước ở hạ lưu. Kế tiếp, theo thứ tự, các nước Miến Điện, Thái Lan, Lào rồi Cam Bốt, và Việt Nam là nước nằm ở cuối nguồn hẳn nhiên phải chịu thiệt hơn cả.

Theo những điều trình bày trên, sự ra đời của tác phẩm “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” thoạt nhận thì thấy hình như là một nghịch lý, trước nạn lũ lụt hoành hành tại vùng châu thổ sông Cửu Long, dấy lên những phong trào rầm rộ cứu lụt trong các cộng đồng người Việt hải ngoại. Nhưng khi đặt vấn đề dòng sông Mekong trong một bối cảnh quy mô toàn vùng và trong lâu dài có nguy cơ cạn kiệt, thì tác phẩm, nói chung, phản ánh một nỗ lực thu hút mọi người quan tâm đến một ngày mai, xây dựng một viễn tượng đúng đắn về địa lý chánh trị học (geopolitics) mở rộng tầm nhìn mang tính chiến lược soi sáng tiềm năng khả dụng cùng những mặt hạn chế, nhứt là của các nước nằm ở hạ lưu, trong việc khai thác nguồn nước sông Mekong phục vụ phát triển kinh tế, trước chánh sách ngạo mạn nước lớn của Trung Quốc ở trên thượng nguồn.

Cửu Long cạn Dòng, Biển Đông dậy Sóng

Trong bối cảnh kể trên và qua cách trình bày, người đọc có thể nhận ra ngay, tác phẩm “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng”, dày 646 trang, không phải là tác phẩm thuộc dạng tiểu thuyết hay truyện như “Mây Bão”, “Bóng Đêm”, Gió Mùa”, “Vòng Đai Xanh”, “Mặt Trận Ở Sài Gòn” đã xuất bản trước đây, nguyên đã tạo nên một thế đứng vững chắc được nể trọng cho Ngô Thế Vinh trong văn giới trong những năm qua.

Về cấu trúc, sách được phân chia thành 23 chương cọng thêm những trang “Lời Dẫn Nhập”, một phần Phụ lục về “Ký Họa Đoàn Thám Hiểm Sông Mekong 1866-1873”, và đoạn “Thay Lời Kết” ở những trang cuối cùng.

Ở cuối đoạn “Dẫn Nhập”, tác giả ghi “Cà Mau Năm Căn 11/99”, thoạt nhận, có thể làm người đọc không am tường, hiểu lầm, cho là tác phẩm xuất xứ từ trong nước. Thực sự, địa danh Cà Mau – Năm Căn chỉ phản ánh quá trình hình thành tác phẩm bao gồm cả chuyến đi khảo sát thực địa tận trong nước thể hiện qua những hình ảnh rất phong phú, sống động in ở sau mỗi chương sách, bên cạnh những hình ảnh của những thời xa xưa nói lên những cuộc tra cứu tư liệu rất công phu, đòi hỏi nhiều thời gian vật chất, ghi lại những nguồn tham khảo vẫn tưởng đã bị dòng thời gian chôn sâu vào quên lãng.

Để tiện cho người đọc theo dõi và vị trí hóa các sự kiện lịch sử về con sông Mekong, ngay ở phần đầu, tác giả đã cẩn thận lập ra bảng kê các niên biểu trải rộng qua 7 quốc gia, từ thế kỷ thứ I mãi đến năm 2000 là năm hoàn thành cây cầu Mỹ Thuận bắc qua Sông Tiền, gợi lên một tầm nhìn khoáng đạt, bao quát chớ không nhứt thiết giới hạn trong một khung địa lý thu hẹp ở một địa phương.

Tác phẩm “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” được hình thành theo một thể tài khá lý thú và độc đáo. Theo giải bày của Ngô Thế Vinh trong Lời Dẫn Nhập, thì “đây không thuần túy là một cuốn ‘tiểu thuyết – fiction’ được hiểu như là một sản phẩm của tưởng tượng, nhưng là dạng “dữ kiện tiểu thuyết – faction: fact & fiction” với một số nhân vật văn học và phần dự phóng là hư cấu để cùng với người đọc đi tới những vùng đất, nơi có con sông Mekong hùng vĩ chảy qua…”

Mô thức dữ kiện tiểu thuyết là một sáng tạo độc đáo, duy nhứt, của nhà văn Ngô Thế Vinh, chắc chắn sẽ được đón nhận một số tranh luận, mở ra những cuộc trao đổi sẽ rất lý thú trong văn học sau này.

Hình như dụng ý của tác giả, chủ yếu nhằm khơi lên vấn đề từ chi tiết tạo nên một khung lý luận, đưa người đọc vào một số tình huống phải suy nghĩ, phải quan tâm đến một chủ đề bao quát lớn lao hơn bao trùm toàn bộ tác phẩm: dòng sông Mekong dưới tác động tai hại của các công trình thủy điện, mỗi nước dựa vào chủ quyền quốc gia cứ tùy tiện xây dựng, hầu hết chỉ tập chú vào sản lượng điện năng, xem nhẹ hoặc xem như không có các tác hại lâu dài về môi sinh, những tệ trạng về mọi mặt mà người dân trong vùng phải gánh chịu. Ngô Thế Vinh không đóng khung vấn đề trong nội vi một nước, mà còn cảnh giác về các tác hại của tiếp cận theo lối khép kín đóng cửa rút cầu này. Ngoài ra, Ngô Thế Vinh còn làm hiện rõ mối đe dọa cố hữu của nước lớn Trung Quốc ở đầu nguồn đang lạnh lùng hành động khống chế các nước ở hạ lưu, về mặt sử dụng lượng nước, về các chất thải kỹ nghệ âm thầm chảy xuống từ tỉnh Vân Nam nơi thượng nguồn…

Văn Việt 3_ MKDSNMMỗi chương sách được đặt tên đôi khi nghe rất thi vị nhẹ nhàng nhưng thực chất là khai triển một đề tài gợi lên cho người đọc rất nhiều xúc cảm phê phán gay gắt. Chẳng hạn như Chương XIV ghi là “Chuyến Tàu Lỡ Trên Sông Mekong Và Con Cá Đuối Trong Tỉnh Đồng Tháp”, thực sự nội dung là vạch trần một cách thấm thía thái độ thiển cận của những viên chức chánh quyền Cộng Sản có trách nhiệm đã không cấp phép cho nhà thám hiểm biển sâu người Pháp, hầu như độc nhất vô nhị, nổi tiếng trên thế giới là Jacques-Yves Cousteau, xin mang chiếc tàu ngầm thám hiểm tý hon Calypso đi ngược dòng Mekong thu thập dữ kiện khoa học. Jacques-Yves Cousteau nay đã qua đời nên Việt Nam đã mất đi cơ hội bằng vàng để bổ sung phần hiểu biết khoa học vốn đã nghèo nàn về hệ sinh thái con sông Mekong!

Chương XXII mang tên “Tìm Về Phương Đông Địa Đàng Lại Đánh Mất” khêu gợi óc tò mò của người đọc, để lần theo các trang sách, từ từ phát hiện ra địa đàng chính là nền văn hóa cổ thời Đông Nam Á, với những dữ kiện mới được khám phá gần đây, những khu rừng mưa trên Cam Bốt, hệ thống thủy lợi và giao thông trên vùng Ốc Eo châu thổ sông Mekong.

Từ chương này sang chương khác, tác giả đã lần đưa người đọc đi qua các vùng đất các nền văn minh những nơi con sông Mekong chảy qua, bắt đầu từ vùng đầu nguồn ở Tây Tạng rồi sang Vân Nam Miến Điện, qua Thái Lan, di chuyển qua Khu Tam Giác Vàng và lãnh thổ Lào với Cánh Đồng Chum. Từ những ngày ở Singapore, tác giả đã đưa người đọc về đất Cam Bốt với Cánh Đồng Chết thời Pol Pot, rồi mới quay về với vùng đất mẹ Việt Nam khốn khổ, đến Bến Tre, Cái Bè, đến vùng Tràm Chim Tam Nông đầm lầy rồi, rồi trở qua đất Lào, Cam Bốt, đi vào vùng Biển Hồ Tonlé Sap kỳ thú, rồi lại quay trở về Nam Việt Nam… Mỗi chương là một đề tài được nêu lên và phân tích theo những góc cạnh tiếp cận vô cùng phong phú và đa dạng, không chương nào giống chương nào cả. Tuy khác nhau về tình tiết, nhưng giữa các chương, như tác giả đã trình bày, được gắn liền bằng một dòng tư tưởng nhất quán, vẽ lên những bức tranh thường là đen tối đè nặng lên dòng sông Mekong do thảm trạng các nước đua nhau thực hiện các công trình xây dựng đập vận hành các nhà máy thủy điện, chặn giữ nước và làm ô nhiễm lượng nước từ thượng nguồn.

Trong quá trình triển khai nội dung từng chương, tác giả thường tận dụng cơ hội cung ứng những dữ kiện và thông tin quý báu, được minh họa bằng các hình ảnh sống động của nhiều thập niên trước về lịch sử, về văn hóa hoặc văn minh cổ thời ở địa phương, như Phù Nam, Ốc Eo, Champa, Tây Tạng… Qua các trang sách và hầu như đã thành một quán tính có thể nhận thấy rõ, không đề cập thì thôi, nhưng hễ đi vào một vấn đề nào, Ngô Thế Vinh hầu như đi vào rất sâu, cung ứng rất nhiều dữ kiện, nhiều bằng chứng lý thú, thúc đẩy người đọc càng đọc càng thích thú, đến một đoạn nào đó, có thể như “quên đường về”. Tuy nhiên, trong lúc tiến tới say mê như vậy, và có khi đã thấy vừa đủ liều lượng, Ngô Thế Vinh, ở nhiều đoạn sách, có thể đột ngột bẻ tay lái sang lanechớp nhoáng chuyển sang một vấn đề khác không có chút bịn rịn nào cả. Trong một phút giây nào đó, người đọc bất ngờ bị cảm thấy như hụt hẫng, chới với đi vào một vấn đề khác. Và mỗi lần như vậy, người đọc không thể làm gì khác hơn là từ từ lật ngược lại các trang đã qua, để hệ thống hóa lại nội dung, trước khi thưởng thức tiếp các trang sách. Chừng đó, người đọc mới cảm thấy được bút pháp điêu luyện của tác giả và xác định rõ, tác phẩm “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” đúng như được ghi nhận là “đầy ắp tư liệu” có giá trị lịch sử và cả giáo dục nữa, không thể đọc phơn phớt để thưởng thức như là một quyển tiểu thuyết bình thường được.

Chính trong những điều kiện kể trên, mới nổi bật lên và như in sâu vào tâm trí người đọc những sự kiện lịch sử của một thời xa xưa mà người ta không thể quên được về con sông Mekong, chẳng hạn như thông tin về chuyến đi thám hiểm của Francis Garnier, Doudard de Lagrée ngược dòng sông Mekong để tìm thủy lộ giao thương từ Sài Gòn sang Trung Hoa; về số phận tiêu vong của loại cá hiếm Pla Beuk, Dolphin trên dòng sông Mekong… Thông tin lý thú nhứt có lẽ là mặc dầu con sông Mekong được vẽ trên mọi bản đồ thế giới, nhưng chỉ mới đây thôi, chỉ vào năm 1994, người ta mới chánh thức xác định được tọa độ chính xác điểm khởi nguồn của sông Mekong nơi một địa điểm hoang vắng nhứt của cao nguyên Trung Á.

Như tên tác phẩm đã phân định, rõ ràng có hai vế chủ yếu được đề ra ở đây. Vế “Cửu Long Cạn Dòng” là tiếng kêu cảnh giác về nguy cơ xảy đến trong một tương lai gần kề cho dòng sông Mekong khi mỗi quốc gia nằm trên dòng sông chỉ nhằm nhu cầu phát triển nguồn thủy điện cứ tiếp tục xây dựng đập, không cứu xét đúng mức các hậu quả tai hại về môi sinh cho dân chúng trong vùng và cả dân chúng các quốc gia ở vùng hạ lưu.

Ngô Thế Vinh đứng trên quan điểm môi sinh, nên nêu vấn đề nặng về khía cạnh nhân bản, đòi hỏi những nguồn lợi kinh tế, trên cấp bậc quốc gia, thu thập được do các con đập không thể hy sinh quá đáng về những điều kiện sống bình thường của người dân trong vùng được.

Nhân dịp này, tác giả đã thẳng thắn vén lên bức màn huyền thoại lâu đời của các định chế quốc tế chuyên trách tài trợ các dự án phát triển, cụ thể là Ngân Hàng Thế Giới –World Bank, Ngân hàng Phát Triển Á Châu _ Asian Development Bank, thường thấy thuận lợi hơn khi hợp tác với các chánh quyền độc tài địa phương, viện lẽ các chánh quyền này có đủ điều kiện duy trì ổn định chánh trị cần thiết để tiến hành các dự án xây đập, luôn luôn đòi hỏi phải tổ chức di chuyển dân chúng sống trong vùng bị chôn sâu dưới khối nước dự trữ ở các hồ chứa.

Trong vấn đề dòng sông Mekong, một nước Trung Hoa to lớn đang ngự trị ở thượng nguồn, độc quyền nắm thế thượng phong, lặng lẽ xây dựng hàng lọat đập thủy điện bậc thềm, biến các đoạn dòng sông Mekong thành ô nhiễm quá mức do chất thải của các nhà máy kỹ nghệ nằm dọc theo bờ sông, mà không có một biện pháp xử lý nào cả; Việt Nam và Cam Bốt là các nước nằm dưới vùng hạ lưu hẳn nhiên sẽ phải lãnh đủ các hậu quả ô nhiễm này.

Để được tự do hành động cho quyền lợi riêng mình, Trung Quốc luôn luôn né tránh, không bao giờ muốn thành hội viên Ủy Hội Sông Mekong, và đây có thể là một phát hiện kỳ thú của tác phẩm, ít được dư luận thế giới quan tâm: Trung Quốc đã cho phá vỡ các khối đá khổng lồ để tạo ra một dòng sông chảy xuống đến đất Lào. Khuynh hướng bá quyền của Trung Quốc đã được củng cố thêm do bởi chủ trương bành trướng lãnh thổ ở vùng Biển Đông được tác giả phân tích tại chương XV là chương mang tên được dùng làm tên tác phẩm: “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng”, đặc biệt triển khai vế thứ 2 của tên sách (Biển Đông Dậy Sóng) hàm ý nhắc đến biến cố Hoàng Sa (Paracel)năm 1974 và Trường Sa (Spratly) năm 1988 – vết thương hằn sâu khó lành của mọi người dân Việt – từ đó, ghi nhận những khía cạnh của chủ trương bá quyền của Trung Quốc trong vùng Đông Nam Á. Trong bối cảnh đầy đe dọa về lãnh thổ và lãnh hải ngoài Biển Đông, nhân vật Hộ (trang 476) chắc hẳn đã làm nhiều người đọc bàng hoàng khi khẳng định: “Từ hơn một thập niên qua, việc đơn phương chuyên quyết tiến hành xây chuỗi 7 con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, trên thực tế Trung Quốc đã phát động một cuộc chiến tranh môi sinh không tuyên chiến với 5 nước nước hạ nguồn sông Mekong.”Nhưng đối lại và gợi nhớ tinh thần bất khuất của mọi người dân Việt Nam, Ngô Thế Vinh đã cho ghi ở đầu chương các vần thơ cảnh cáo bất hủ của Lý Thường Kiệt: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư…

Như tác giả xác định, các nhân vật trong tác phẩm đều thuộc phần hư cấu, nhưng lối xây dựng hư cấu của Ngô Thế Vinh thực sự đã tạo cảm giác như phảng phất đâu đây hình ảnh, phong cách một số mẫu nhân vật có thật ngoài đời. Đó là ông Khắc, một nhà báo lão thành, cộng tác với tờ báo Mỹ chuyên trách các đề tài về Đông Nam Á và Việt Nam; Cao thuộc Nhóm Bạn Cửu Long thường xuất hiện nhiều trong các chương sách, phát biểu tầm nhìn bao quát có giá trị chiến lược lâu dài về môi sinh; Duy là một thanh niên gốc Bắc, lớn lên trong Nam, tốt nghiệp Đại học Mỹ, có nhiều công trình đăng ở tập san y khoa nổi tiếng, bên cạnh có Bé Tư, một cô gái thông minh sâu sắc, nhưng rất chính chắn, được Ngô Thế Vinh đệm thêm một vài nét phác họa tình cảm với Duy để gây chút thơ mộng trong câu chuyện dòng sông Mekong…

Các nhân vật này tạo thành chất kết dính các sự kiện, được gắn vào các vai trò dấn thân vì môi sinh, tham quan, tham dự các hội nghị, trao đổi… được tác giả lồng vào những phát biểu sâu sắc, chứng tỏ thẩm quyền trong lãnh vực chuyên môn có liên quan, khi thì mang tính nhận định hoặc quan điểm, khi thì phê phán cần thiết ở trong các tình huống thích hợp liên quan đến dòng sông Mekong. Những nhận định và phê phán này thường nhẹ nhàng trong phong cách lịch sự trí thức, nhưng khi cần thì cũng rất khe khắt, chẳng hạn như đối với cuộc thảm sát quy mô thời Pol Pot, chủ trương cáp duồn thời Lon Nol ở Cam Bốt những mặt tiêu cực của chánh sách Đổi Mới tại Việt Nam, hậu quả tiêu ma cho Tràm Chim vùng Tam Nông, một số loài vật quý hiếm trên thế giới có nguy cơ bị diệt chủng… Ngô Thế Vinh cho thấy đã thận trọng duy trì liều lượng vừa phải để những người nhất là những chức quyền có liên quan vẫn còn lắng tai nghe được và để cho nội dung thẩm thấu một cách từ tốn theo trình độ hiểu biết của họ.

Có một điều gợi lên cho người đọc chút xót xa cho đất nước Việt Nam trong hoàn cảnh hiện tại là các nhân vật thuộc hàng chuyên gia Ngô Thế Vinh xây dựng trong tác phẩm thì hoặc thuộc thế hệ lão thành, hoặc thế hệ trẻ mới vươn lên, nhưng hầu hết đều từ nước ngoài đi vào quê mẹ. Dù vậy, tác giả cũng đã không để cho họ cảm thấy như là những người xa lạ trên quê hương mình, bất chấp các thủ tục vụn vặt, chẳng hạn như phải khai báo với công an địa phương (chi tiết phiền hà này không có ghi trong tác phẩm). Đến khi sang nước khác tiếp xúc với chuyên viên như Cham Sak chẳng hạn là chuyên viên đang sanh sống hành nghề tại chính nước Thái Lan chánh gốc của mình, họ phát biểu một cách hồn nhiên trên cơ sở là chuyên gia Việt Nam với nhiệt huyết phục vụ môi sinh, phục vụ đất mẹ Việt Nam của họ.

Được trang bị vốn hiểu biết kỹ thuật chuyên môn cùng kinh nghiệm thu thập ở nước ngoài, các nhân vật chuyên gia Việt Nam này cũng mang theo về nước tầm nhìn bao quát có tính chiến lược lâu dài và phương pháp xử lý bám sát tinh thần đối chiếu khoa học, hẳn nhiên phải khác và đôi khi còn đối nghịch với cả cách nhìn không tự thấy là cục bộ của nhân vật Mười Nhe mà Ngô Thế Vinh đã xây dựng phản ảnh một cách trung thực tài tình mẫu hình cán bộ Cộng Sản trung kiên có thể tìm thấy ở nhiều nơi tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Ngay cái tên Mười Nhe cũng đã gợi lên chút tính trào lộng, ai cũng tưởng rằng ông Mười Nhe này luôn luôn… nhe răng cười, nhưng sự thực, Mười Nhe đã được Ngô Thế Vinh mô tả “vóc người ốm nhỏ, có nước da sạm đen hơi tái của người thiếu máu kinh niên , khuôn mặt xương xẩu vẻ cằn cỗi và khắc khổ…” là hình ảnh hiếm hoi của những người Cộng Sản chân chính còn sót lại, trong chức vụ Huyện Ủy Tam Nông, đã tích cực thực thi chánh sách đổi mới bằng “kế hoạch ngũ niên tự phát”, nâng dân số Huyện lên gấp đôi, mang lại cho đồng bào một đời sống sung túc trong một thời gian kỷ lục. Ông Mười Nhe đã cho chặt phát rừng tràm thả cửa, đánh cá không phải chỉ bằng lưới mà cả bằng chất nổ, bắt tất cả cá tôm các cỡ, cỡ nhỏ không bán thì để nổi lều bều trên mặt nước, người dân không mấy chốc đều khá giả. Nhưng hậu quả là, diện tích rừng tràm nổi tiếng phong phú thì nay chỉ còn một phần ba, cả ngàn con hạc quý hiếm nay chỉ còn khoảng 500 con! Mười Nhe vui và hãnh diện với thành tích vượt bực của mình trong công trình đưa Huyện nhà đi lên, (tác giả không có ghi khẩu hiệu “tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”) nhưng làm sao để đưa vào đầu con người cán bộ già nua và thủ cựu này khái niệm vùng đầm lầy và tràm chim là một kho tàng phong phú về sinh học, là cái nôi của chu kỳ sinh sản và tăng trưởng cho nhiều giống cá và các loài sinh vật khác? Thiếu học và cuồng tín vẫn còn là “nguyên nhân nỗi khổ không phải chỉ trên những con người mà còn với đám chim muông và cây cỏ”, một khía cạnh của thảm trạng của dòng sông Cửu Long mà Ngô Thế Vinh đã nêu lên một cách vô cùng thắm thía cho những ai còn có chút suy tư.

Người ta phát hiện ông Mười Nhe có một đứa con trai tên Thuận theo học trên tỉnh được Mười Nhe kín đáo tự hào, nhưng bị cho là “chỉ biết có sách vở, cùng bày đặt nói tới nói lui chuyện tào lao môi sinh môi tử.” Qua sự bảo trợ của Bé Tư, Thuận được Hội Hạc Quốc tế cấp học bổng du học. Theo thời trang, Thuận đã chọn đi Mỹ và đang cố gắng hết sức mình để đạt mức bắt buộc 550 điểm môn Anh văn, cho nên người ta chỉ trông chờ một lớp người trẻ như Thuận thay thế những người như Mười Nhe đến tuổi phải nằm xuống dưới đáy mồ, trong tương lai thế hệ trẻ trong và ngoài nước mới cùng chân thành truyền đạt cho nhau trên cùng một băng tần, cùng kết hợp nhau xử lý các vấn đề môi sinh dòng sông Cửu Long mà thôi.

Nhưng không, thời gian chờ đợi ấy sẽ có thể rất xa, và nhân vật Bé Tư dù sao cũng chỉ là một hư cấu mang tính lý tưởng; ngoại trừ là trong dòng tộc, còn thì rất khó mà thiết lập quan hệ gắn bó với Thuận như thế trên thực tế được.

Ngô Thế Vinh đã có cách xử lý thiết thực và vô cùng tuyệt diệu để thay đổi cách làm ngay của Mười Nhe: cho một đồng chí từ cấp trung ương Đảng khêu gợi lại cho Mười Nhe lòng căm thù, nêu lý do mất cảnh giác về an ninh quốc phòng – “phá hoại hết rừng tràm là phá hoại chiến khu…” (trang 200).

Qua 645 trang sách, tranh của Nghiêu Đề, mẫu bìa của Khánh Trường, Cao Xuân Huy trình bày nội dung, được minh hoạ bằng hàng loạt hình sinh động, một số có giá trị lịch sử, tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” của Ngô Thế Vinh đã đưa người đọc đi từ thượng nguồn ở Tây Tạng, vượt qua các ghềnh thác và sóng gió của lịch sử từng quốc gia mới xuống đến vùng châu thổ ra các cửa sông tỏa nước ra biển.

Dưới thể tài theo mô thức “dữ kiện tiểu thuyết” độc đáo, duy nhứt, của bản thân Ngô Thế Vinh, tác phẩm quả thật đã thể hiện một công trình nghiên cứu công phu theo chiều sâu cặn kẽ của từng vấn đề nêu lên, đánh dấu một đỉnh cao trong văn nghiệp Ngô Thế Vinh. Giá trị căn bản của tác phẩm là đã thành công, xuyên qua các dữ kiện, cung ứng những thông tin giá trị vô song về quá khứ sóng gió của từng khu vực dòng sông Mekong chảy qua, để từ đó đưa dẫn người đọc làm quen rồi tiếp cận với các vấn đề môi sinh được đặt cho toàn vùng, và xây dựng một tầm nhìn chiến lược bao quát, thoát khỏi những vướng bận cục bộ địa phương chỉ biết có riêng mình.

Do thái độ ngạo mạn đàn anh của Trung Quốc một mặt răn đe xâm lược ở mặt Biển Đông, một mặt nắm quyền quản lý khép kín, thao túng ở đầu nguồn, dòng sông Mekong đang thực sự đối diện với một tương lai đầy bất trắc do nạn xây đập không có bàn thảo phối hợp, chia xẻ quyền lợi hợp lý, cân bằng sinh thái với các nước khu vực hạ lưu.

Tác phẩm đã làm nổi bật một số chủ điểm, đơn giản hóa một số hiểu biết chuyên sâu, để xây dựng ý thức chung về các tai họa có khả năng xảy đến, cụ thể là nguy cơ dòng sông Mekong cạn kiệt, nạn nhiễm mặn đang lan dần vào nội địa quốc gia ở hạ lưu – lại chính là Việt Nam.

Tác phẩm “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” của Ngô Thế Vinh gióng lên tiếng chuông báo động về các nguy cơ kể trên. Mong tiếng chuông báo động này sẽ vang xa, tập hợp một lực lượng nhân sự ngày một đông đảo, huy động trí tuệ cùng góp sức giải quyết các vấn đề môi sinh chủ yếu đã được nêu lên cho dòng sông Mekong nói chung và cho phần hạ lưu, châu thổ sông Cửu Long nói riêng tại Việt Nam.

 

_______________________

1 Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng – nhà xuất bản Giấy Vụn & Viet Ecology Press – Hoa Kỳ 2014.

 

Theo Diễn đàn thế kỷ.

Quân cờ… – Trích tiểu thuyết của Lưu Trọng Văn

Văn Việt: Trích từ truyện lịch sử Mảnh ghép, chương “Quân cờ” mô tả quyết định giành lấy quyền của người chơi cờ dẫn đến quyết định thay đổi cách đánh của tướng Giáp từ phương án “Đánh nhanh” sang phương án “Đánh chắc”. Và điều đó gửi thông điệp gì cho hôm nay – đất nước chấp nhận là con cờ trong tay kẻ khác hay phải giành thế làm chủ cuộc chơi – làm chủ vận mệnh của mình.

1.

Ở một cánh rừng Tây Bắc hoa mơ, hoa mận trắng muốt, Cải và Lài hai cô dân công hỏa tuyến ngồi bên nhau trên bãi cỏ cái màu vàng của đông sắp qua chen cái màu xanh cùa xuân sắp tới. Cải hỏi Lài về chuyện “mất tích” trên đỉnh đèo Pha Đin với Quyết, anh lính đầu trọc, hai người đã “ấy” chưa? Lài đỏ mặt hỏi “ấy”là thế nào? Cải cười: “Là ấy ấy ấy”. “Anh ấy hứa sau chiến dịch sẽ đi tìm tao! Tao nói không tin. Anh ấy rút con dao ra chọc vào ngón tay thế này này, anh ấy thề”. Lài đưa chiếc khăn tay có dính máu ra. Cải cười: “Hay là của… mày sau khi ấy ấy?”. Lài bịt miệng Cải lại: “Con nỡm!”. Hai người vật ôm nhau lăn trên sườn dốc, tóc áo đầy cỏ. Một chiếc xe jeep cũ kĩ lăn bánh trên đường rừng. Trên xe là tướng Giáp và người thư ký tên Nguyễn. Hai cô gái vừa cười vừa lăn trên cỏ, Nguyễn nhìn thấy hét lên: “Đá lăn!”. Tướng Giáp kêu lái xe dừng xe. Cải và Lài nhổm dậy thấy tướng Giáp đứng bên. Hai cô luống cuống: “Ối! Em chào chỉ huy”. Qua khe áo bật cúc của Lài, tướng Giáp liếc thấy chiếc áo con cũ kĩ, bị rách. Lài thấy thế bèn quay người đi: “Ối chỉ huy ơi, em xin lỗi”. Hai cô chạy lên dốc, khuất sau cánh rừng. Từ cánh rừng ấy vang lên tiếng hò kéo pháo. Nguyễn nói: “Thưa anh, em chưa thấy đi chiến dịch nào vui như chiến dịch này, cứ như trẩy hội ạ.”. Tướng Giáp nghiêm nghị: “Làm gì có chuyện đi vào chỗ chết mà như “trẩy hội”? Nguyễn, cậu báo ngay cho cánh quân nhu phải may bổ sung khẩn cấp áo ngực cho nữ dân công”. Nguyễn đứng nghiêm đáp: “Rõ, thưa đại tướng!”. Tướng Giáp chợt cười: “Cậu biết không, mấy năm rồi từ ngày cụ Hồ phong cho tớ chức “đại tướng” cứ mỗi lần nghe ai đó “thưa đại tướng” tớ lại muốn phì cười vì nhớ lại một cậu lính quê bọ nhà tớ có lần bảo với tớ: “Thủ trưởng đừng nhận chức đại tướng mà nhận chức thượng tướng hay trung tướng thôi”, tớ hỏi vì sao, cậu ấy cười bảo “đại tướng nói lái lại là… tượng đái”.

2.

Căn cứ của quân Pháp tại Điện Biên Phủ, Jean khuôn mặt như Chúa Jesus, sĩ quan trợ lí của đại tá Piroth chỉ huy pháo binh khoe tấm hình của Nhạn, người yêu của mình. Các sĩ quan tranh nhau nhìn ngắm, bình phẩm chân dung người đẹp Hà Nội. Phía ngoài đoàn xe jeep tung bụi mù mịt. Từ xe bước xuống là đại tướng Navarre tổng tư lệnh quân đội Pháp và đại tá De Castries chỉ huy căn cứ Điện Biên Phủ. Đám sĩ quan đứng nghiêm chào. Navarre chỉ một cây bên lô cốt hỏi: “Có ai biết đây là cây gì không?”. Không ai trả lời được. Navarre nói: “Đó là cây hoa ban, cây hoa chúa của các loài hoa ở Điện Biên Phủ này. Các anh luôn phải biết mình đang chiến đấu ở đâu!”. Navarre đến bên Jean, thấy tấm hình cô gái trên tay Jean, cầm tấm hình ngắm: “Cưới chưa? Jean lắc đầu. Tôi nghe nói tháng 3, hoa ban sẽ nở trắng cả núi rừng, tôi hy vọng cũng là lúc chúng ta đè bẹp quân cộng sản ở đây. Tôi sẽ rất vui được gài bông hoa chúa của loài hoa kia lên tóc cô dâu này mừng đám cưới của cậu”. Đám sĩ quan cùng nâng ly rượu lên, hò hét ủng hộ lời nói của Navarre. Đại tá Piroth nãy giờ đứng một góc tỏ ra không quan tâm tới lời động viên của Navarre, Navarre nhận ra Piroth, ông đến bên Piroth nâng cánh áo nơi cánh tay bị cụt của Piroth lên nói với Piroth: “Tôi được biết cánh tay này của ông bị mất trong cuộc chiến đấu giải phóng nước Pháp khỏi Đức phát xít, tôi cầu mong cánh tay còn lại của ông sẽ lành lặn khi trở về từ Điện Biên Phủ để ôm vợ. Tôi sẽ chi viện thêm đại bác cho ông!”. Piroth cười khẩy: “Thưa đại tướng, chỉ cần số pháo này thôi cũng đã đủ để tôi nghiền nát quân của tướng Giáp rồi”. Navarre hỏi: “Piroth, ông có biết tướng Giáp là ai không?”. Piroth đáp: “Thưa ngài, đó là một viên tướng không hề qua trường lớp quân sự nào và đã từng chỉ huy công đồn… thất bại”. Navarre nghiêm nét mặt: “Đời binh nghiệp của tôi, trận quyết định cuối cùng, tôi chỉ sợ đối đầu với tướng chẳng qua trường lớp quân sự nào và đã từng bị nhiều thất bại chứ không sợ đối đầu với tướng oai vệ bước ra từ các giảng đường quân sự, khoác trên cổ những vòng nguyệt quế vinh quang”. Piroth hỏi giọng pha chút ngạo mạn: “Vậy ngài sợ à?”. Navarre cười như để chế ngự sự ngạo mạn của Piroth: “Kẻ nào biết sợ thì kẻ đó sẽ chiến thắng”. Navarre chỉ những khẩu pháo không có chiến lũy phòng thủ: “Piroth, ông đừng quá chủ quan!”. Piroth dõng dạc: “Tôi đã chiến đấu ở khắp các chiến trường châu Phi, châu Âu, tôi biết mình là ai. Rồi ngài xem, những khẩu pháo này của tôi sẽ bắt quân của tướng Giáp câm họng. Đây là lời thề danh dự quân nhân của tôi”. (*)

3.

Xe của tướng Giáp dừng bên những người lính vừa kéo pháo vừa hò “dô ta”, ông chợt thấy một người lính luôn cúi gằm mặt lặng lẽ kéo pháo, ông đến bên người lính: “Vì sao tôi không thấy cậu hò với anh em cho có khí thế?”. Người lính im lặng, tướng Giáp lật bàn tay người lính lên thì thấy đầy vết xước và máu. “Cậu tên gì?”. “Vượt ạ”. Tướng Giáp thấy đôi mắt có gì đó bí ẩn của người lính tên Vượt, ông hỏi: “Vượt lên à?”. “Dạ không, thưa chỉ huy, tiếng Việt cổ “vượt” chính là Việt ạ”. Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái từ đâu xuất hiện, ông báo cáo phương án “Đánh nhanh thắng nhanh” trong hai ngày ba đêm bắt đầu vào đêm 25/01/1954 được tướng Vi Quốc Thanh trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc nhiệt thành ủng hộ. Các chỉ huy của ta và các cố vấn đều thống nhất rằng, Pháp mới tới Điện Biên Phủ nên chưa chuẩn bị đầy đủ thế mạnh cho căn cứ, chưa quen thổ địa, đây là thời cơ ta không được phép bỏ lỡ. Tướng Giáp đột nhiên hỏi tướng Thái: “Cậu có biết dân tộc mình tên cổ là gì không? Là tên của cậu lính kia kìa! Vượt! Tôi vừa xem tay của cậu ấy, cậu hãy bảo cậu ấy nhấc chân lên! Vượt bằng chân không dễ, vượt bằng đầu chúng ta chưa có thói quen”.

4.

 Nhưng rồi quyết định “Đánh nhanh thắng nhanh” vẫn được chính tướng Giáp chấp thuận tạo nên sự phấn khởi cao độ trong toàn quân, bất cứ ai bàn lùi đều bị cho là “phản động”, “hèn nhát”. Bộ ba lính đầu trọc quê ở phủ Quốc Oai, Sơn Tây tỏ ra hăng hái nhất, họ vui hát ỏm tỏi. Quyết – anh lính trọc – kể về “chiến tích” với cô dân công tên Lài mà anh chàng gặp trên dốc Pha Đin và chớp nhoáng chiếm lĩnh được nàng để minh chứng bài học “đánh nhanh thắng nhanh”, “diệt gọn” thành công như thế nào: “Chúng mày biết không, tao không cho “địch” kịp trấn tĩnh mà ào ạt “công đồn” luôn”. Anh lính trọc cao kều tỏ ra ngây ngô hỏi: “Vậy mày đã “đánh” thẳng vào “trung tâm” của “địch” à?”. Quyết vuốt cái đầu trọc cười toe toét: “Đương nhiên!”. Anh lính trọc lùn tịt vừa khều khều một con kiến đen đang bò dưới đất vừa quắc mồm: “Trung tâm ấy ở đâu?”. Quyết trợn mắt: “Mày ngốc lắm! Muốn biết “trung tâm” ở đâu việc đầu tiên là phải “dập” không cho “pháo địch” nổ đã, tức là phải bịt mồm “địch” lại. Hiểu chửa?”. Anh lính trọc lùn tịt phùng má:“Mẹ kiếp!Thế mày bịt mồm bằng tay hay bằng giẻ?”. Quyết gào lên: “Đồ ngu! Bằng mồm”. Trong lúc đó tại một cánh rừng bên suối nơi cánh dân công hỏa tuyến dừng chân, Cải và Lài cũng say sưa chuyện không kém. Cải nói: “Nhanh chóng như chớp mắt thế, đếch phải là tình yêu”. Lài đanh giọng lí sự: “Nhanh hay chậm nào quan trọng quái gì? Cái chính là tao thấy thích!”. Cải soi mói: “Khi lão đầu trọc bịt mồm mày lại, tức là sợ mày không đồng tình, mày la hét, chứ yêu đương quái gì lại bịt mồm nhau?”. Lài cười nắc nẻ: “Thế con nỡm chưa có ai bịt mồm à?”. Cải ra vẻ lên giọng: “Đồng chí Lài nghiêm túc nhá, con Cải này chẳng đứa nào bịt mồm nó được hết, thằng thực dân, thằng đế quốc có súng… to, súng… nhỏ cũng không bịt mồm được nó nhá”. Lài cười: “Ối giời ơi! Đồng chí Cải ơi, sao đồng chí ngu thế? Ở thành phố, bịt mồm là “hôn” đấy. Tao thích anh ấy, chỉ cái liếc mắt thôi là thích. Chỉ cái chạm tay thôi là nóng hết cả người. Mày tưởng tay đầu trọc ấy dụ dỗ tao à? Không! Đồng chí Cải ơi, chính tao dụ dỗ, chính tao tấn công, chính tao chuẩn bị giả vờ la lên để tay ấy lấy miệng bịt mồm tao lại. Chính tao… tiêu diệt anh chàng trước”. Cải cũng ré lên cười đáp trả: “Ối đồng chí Lài ơi, thế đồng chí hiểu súng to súng nhỏ là… súng thật à?”.

5.

Tại Bộ Chỉ huy quân Pháp ở Hà Nội, Cogny tư lệnh quân Pháp ở miền bắc Việt Nam giương cặp mắt mệt mỏi vì nhiều đêm mất ngủ lên: “Thực ra ngài muốn gì ở Điện Biên Phủ? Mà, tại sao lại phải ở Điện Biên Phủ?”. Navarre gằn giọng: “Cuộc chơi nào cũng phải đến hồi kết thúc. Vấn đề là chúng ta kết thúc thế nào trong danh dự. Ngài hiểu chứ, Điện Biên Phủ là nơi ta và Việt Minh ngấm ngầm cùng hẹn ước cho cuộc đấu cuối cùng. Lòng chảo Điện Biên là “cái bẫy” Việt Minh có lợi cho ta nhất khi ta đã xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Tổng thống vừa chỉ thị cho tôi, chúng ta không được quyền thua trong cuộc đấu này”. Cogny cũng gằn giọng không kém: “Thế còn người Mỹ, thưa ngài?”. Navarre hiểu câu hỏi đầy móc xéo của Cogny, giọng trở nên bình thản hơn: “Mỹ muốn thay Pháp ở Việt Nam để trực tiếp gánh sứ mệnh ngăn chặn làn sóng đỏ từ Liên Xô, Trung Quốc xuống Đông Nam Á. Họ thích thì xin mời!”.

6.

Tướng Giáp ngồi bên đống lửa trong khu rừng già, đêm đã hút gần đáy, sương đẫm tua tủa những mũi kim nhọn hoắt. Tướng Hoàng Văn Thái nói: “Hình như anh vẫn còn băn khoăn trước quyết định “Đánh nhanh thắng nhanh” mà… toàn quân đã rất nhất trí?” Tướng Giáp im lặng một lúc hỏi tướng Thái: “Vì sao anh ngấp ngứ? Phải chăng anh lúc đầu muốn nói “mà các cố vấn Trung Quốc” rất nhất trí?”. Tướng Thái cười: “Chả cái gì có thể giấu được anh”. Tướng Giáp độp hỏi tiếp: “Anh có biết chơi cờ không?”. Tướng Thái ngạc nhiên trước câu hỏi như chẳng liên quan đến câu hỏi mà mình vừa hỏi, nhưng vì quá hiểu người chỉ huy của mình không hỏi một câu gì vu vơ cả bèn thận trọng hỏi lại tướng Giáp: “Phải chăng anh lo ngại chúng ta sẽ là con cờ cho kẻ khác chơi ở chiến trường Điện Biên Phủ này?”. Lấy tay khều khều lửa, tướng Giáp nói: “Cụ Hồ nói với tôi rằng đây là cuộc chiến của chúng ta, chúng ta phải là người chủ động chơi cờ, vì vậy cụ trao cho tôi toàn quyền quyết định”. Tướng Thái như đọc được ý nghĩ của tướng Giáp: “Theo anh, có ai đó muốn chúng ta chỉ là những con cờ? Tôi nhớ tướng Nguyễn Sơn người từng tham gia cuộc Vạn lí trường chinh có nói rằng, tốt nhất hãy tự mình chủ động lấy súng giặc đánh lại giặc. Ở đời chẳng ai cho không ai cái gì, có vay thì phải có trả, nếu vay nhiều quá thì từ lúc nào không biết sẽ thành của người ta”. Tướng Giáp nghiêm nét mặt nói: “Dù sao chúng ta không còn con đường nào khác là huy động mọi lực lượng để nhanh chóng đánh Điện Biên Phủ, kết thúc sớm chiến tranh”. Tướng Thái nói: “Chưa bao giờ có sự đồng thuận như vậy về việc “đánh nhanh thắng nhanh”. Nhưng tôi nghĩ rằng anh vẫn đang e ngại Điện Biên Phủ này có thể là cái bẫy của những kẻ chỉ muốn dân tộc chúng ta là quân cờ?”. Tướng Giáp quả quyết: “Tôi không sợ những cái bẫy do kẻ thù dựng lên mà tôi chỉ sợ những cái bẫy do chính chúng ta vô tình dựng lên cho chúng ta mà người bị tổn thất về lâu về dài là chính chúng ta chứ không phải kẻ thù”.

7.

Trận địa pháo trên đỉnh núi chĩa về lòng chảo Điện Biên Phủ. Những người lính thảnh thơi chờ lệnh nã pháo xuống lòng chảo. Trận địa mở, không hầm cố thủ, không trận địa phòng bị. Vượt, người lính pháo không “hò” khi kéo pháo nói với tiểu đoàn trưởng sự lo lắng của mình nếu bị phản công sẽ vô cùng nguy hiểm. Tiểu đoàn trưởng sa sả mắng Vượt là kẻ thủ bại, hèn nhát, chưa đánh đã lo đường lùi. Trong lúc đó ở chiến tuyến khác Jean viết thư cho người yêu: “Điện Biên Phủ, hoa mơ, hoa mận nở trắng đồi. Cánh đồng Mường Thanh thảm lúa non xanh rì. Ồ, có lần anh dùng ống nhòm trên điểm cao thấy được các cô gái Thái tắm suối, tắm truồng rất đẹp bên guồng nước làm anh nhớ em vô cùng. Tổng chỉ huy Navarre thấy tấm hình của em, ông bảo, Điện Biên Phủ sẽ sớm kết thúc, ông sẽ rất vui khi được cài bông hoa ban lên mái tóc của em trong đám cưới của chúng ta”. Viết xong thư Jean tự lái xe jeep phóng ra sân bay Mường Thanh để nhờ gửi về Hà Nội. Dọc đường thấy một bụi hoa đẹp anh dừng lại định ngắt một bông ép cùng trang thư, gió đột nhiên thốc mạnh, phong thư bị cuốn vào trảng cỏ rồi vượt qua hàng rào kẽm gai của căn cứ, Jean không thể tìm thấy được. Một chiến sĩ trong lúc đi trinh sát nhặt được bức thư tình của Jean bị đánh rơi. Bức thư ai đó đã bóc ra. Tướng Giáp đọc thư cảm nhận sự vững tin và rất bình thản của người lính Pháp tại nơi chuẩn bị là chiến trận ác liệt này. Tại sao có sự vững tin ấy? Chứng tỏ căn cứ đã được xây dựng rất vững mạnh khác với những tìm hiểu và nhận định ban đầu của ta là “địch chưa kịp phòng thủ tốt ta cần phải chớp thời cơ”. Tướng Giáp quyết định cho các trinh sát giỏi nhất, gan dạ nhất luồn sâu vào các trận địa của Pháp để nắm lại thực tiễn. Tướng Giáp giật mình khi biết các con số về lực lượng, hệ thống phòng thủ, khí tài của quân Pháp đã được tăng lên nhiều lần so với những điều nghiên ban đầu. Họp các tướng chỉ huy lại ông quyết định tạm thời rời ngày tấn công theo kế hoạch muộn hơn một chút. Ông gọi người lính nhặt được bức thư tình lên. Đó là Thi, một chàng trai Hà Nội.

– Cậu bóc thư à?

– Dạ, tôi không cưỡng được tò mò, thưa Đại tướng!

– Tôi muốn hỏi cảm nghĩ của riêng cậu. Cậu phải nói thật lòng mình!

– Tôi nhận ra rằng kẻ thù của chúng ta cũng là con người…

– Đừng ngần ngại, cứ nói tiếp!

– Tôi muốn bức thư này vẫn được gửi đến người nhận ạ.

– Hình như cậu còn điều gì muốn nói nữa phải không?

– Dạ thưa Đại tướng, đúng vậy ạ. Tôi có một người bạn rất thân ở trung đoàn pháo, cậu ta bị kỷ luật nhốt trong rừng vì phản ứng về trận địa pháo không có hệ thống phòng thủ. Chỉ huy tiểu đoàn pháo nói “đánh nhanh thắng nhanh” với lại khí thế ta trên đầu thù, pháo ta dập nát pháo địch, chúng thất bại rồi, sao phản công lại được, việc gì phải phòng thủ cho tốn sức bộ đội. Cậu ấy bảo, binh pháp xưa nay nói “chỉ khi phòng thủ tốt mới tấn công” thế là cậu ấy bị tiểu đoàn kiểm điểm cho là có tinh thần thủ bại, hèn nhát.

Tướng Giáp nhìn Thi rồi hỏi:

– Nếu cậu là tôi thì sẽ làm thế nào?

– Thưa Đại tướng, tôi xin phép được hỏi lại Đại tướng, với người chỉ huy thì xương máu của người lính là gì ạ?

– Thế theo cậu là gì?

– Dạ thưa Đại tướng, xin Đại tướng trả lời trước ạ!

– Vấn đề là cần thiết hay không cần thiết. Vấn đề là có cách nào khác để đỡ tốn xương máu hoặc không phải tốn xương máu không.

– Dạ thưa Đại tướng, nếu vậy thì, nếu tôi là Đại tướng, tôi sẽ đến đơn vị pháo kia để xem có thực là trận địa pháo không hề có hệ thống phòng thủ hay không ạ. Bởi vì khi Đại tướng quan tâm tới việc đỡ tốn xương máu cho lính của mình chắc chắn Đại tướng sẽ kỉ luật tay tiểu đoàn trưởng và “giải oan” cho anh lính pháo ạ.

Tướng Giáp bật cười trước lời nói của chàng lính Hà Nội nhìn mắt là biết rất đa tình, rất lãng mạn này. Bắt tay Thi rất chặt, tướng Giáp dặn lại Thi: “Hãy tìm mọi cách gửi thư cho cô gái tên Nhàn ấy nhé, đó là mệnh lệnh của tôi”. Nhìn theo Thi cho đến khi Thi đi khuất, tướng Giáp vội vã đến trận địa pháo, ông sững sờ tận mắt nhìn thấy trận địa pháo không có hầm phòng thủ, vậy mà, chẳng ai báo cáo sự thật ấy cho ông. Sau khi điện cho chỉ huy pháo binh của chiến dịch khiển trách nặng nề viên chỉ huy này, ông tìm đến chỗ người lính bị nhốt. Ông nhận ra ngay đó chính là Vượt, người lính mà ông phát hiện không hò héo pháo khi kéo pháo lên núi ngày nào. Ngồi cùng Vượt trên một thân cây đổ, ông khẽ khàng hỏi chuyện người lính.

– Tôi muốn biết cậu sợ nhất điều gì?

– Niềm khát vọng sống lại bị hiểu là sự hèn nhát sợ chết, thưa Đại tướng.

– Cậu có cảm thấy mình là kẻ cô đơn không?

– Phải chăng Đại tướng không cô đơn?

 8.

Hà Nội ngày cuối đông những cơn gió xám ngắt chùm lên những hàng sấu già nua, Navarre đến thăm Nhạn khi biết chuyện bức thư của Jean bị thất lạc không hiểu vì sao lại đến được tay Nhạn. Navarre trầm tư suy nghĩ, rồi hỏi luật sư Hòa cha của Nhạn về tướng Giáp, bạn dạy học với ông ở trường Thăng Long. Ông Hòa kể bố ông Giáp bị Pháp giết, bà vợ đầu tiên cũng bị chết trong tù của Pháp. Navarre im lặng, lúc sau khẽ cười bí hiểm: “Theo kinh nghiệm chiến trường của tôi, kẻ nào vào trận với lòng thù hận ghê gớm thì kẻ đó sẽ mất đi sự sáng suốt, dẫn đến thất bại”. Quay qua Nhạn, Navarre chậm rãi nói như muốn cô gái Hà Nội này nhận biết được đằng sau câu nói mình sắp nói ra còn âm hưởng của nó, một thứ âm hưởng tinh tế vì nó luôn được quyến luyến bởi sự lịch lãm đã thành thương hiệu của người Pháp: “Tôi biết tôi chỉ có thể ủng hộ tình yêu của em với một chàng trai Pháp, nhưng không thể bắt buộc được em có tình yêu với nước Pháp”. Nói rồi viên đại tướng, tổng chỉ huy quân đội Pháp chào ông luật sư và con gái của ông ra xe. Những tiếng còi hụ của xe dẫn đường cho đoàn xe của Navarre vang lên phá tan sự yên bình đến heo hắt lúc này của Hà Nội. Trên xe jeep nhà binh, giữa phố cổ Hà Nội, Navarre trầm lắng hẳn. Sĩ quan tùy tùng hỏi: “Có điều gì ngài không vui ạ?”. Navarre đáp: “Tôi muốn Điện Biên Phủ là mồ chôn cộng sản. Nhưng, quả thật, tôi còn chưa hiểu nhiều về họ và cũng không biết được họ thực sự là ai? Ha ha, một bức thư của một sĩ quan của chúng ta bị thất lạc bên chiến tuyến của họ, và họ đã tìm mọi cách gửi đến người nhận. Phải chăng họ muốn gửi một thông điệp cho chúng ta biết họ là ai?”. Sĩ quan tùy tùng rụt rè hỏi: “Điều này có ảnh hưởng gì đến trận đánh này ạ?”. Navarre thở dài: “Có thể là ảnh hưởng mang tính quyết định”.

9.

 Trong khu rừng già Điện Biên, tướng Lê Liêm hỏi câu hỏi mà từ lâu ông rất muốn hỏi: “Phải chăng bao lâu nay anh trằn trọc suy nghĩ là muốn thay đổi cách đánh ạ?”. Tướng Giáp không trả lời lúc sau ông hỏi tướng Lê Liêm: “Anh vẫn đang học đánh đàn chứ?”. Tướng Lê Liêm gật đầu mặc dù ông chưa thể đoán ra đằng sau câu hỏi ấy là cái gì. Tướng Giáp cười: “Tôi từng mơ mình là nghệ sĩ đàn piano đấy”. Tướng Giáp đưa cây ghi-ta cho tướng Lê Liêm. Tướng Lê Liêm đặt những ngón tay trên dây đàn hồi lâu, như chợt hiểu ra điều gì đó ông bèn gẩy lên giai điệu bản nhạc “Anh hùng” của Beethoven. Tướng Giáp im lặng lắng nghe, khi tiếng đàn dứt, ông nói: “Bản nhạc này Beethoven viết ra để tặng cho Napoléon. Ban đầu ông đặt tên là bản giao hưởng “Anh hùng”, sau, không đồng tình với những cuộc xâm chiếm các nước khác của Napoléon, ông đã đổi tên và không đề tặng Napoléon nữa. Phải chăng anh có ý gì khi đàn bản nhạc này cho tôi nghe?”.

– Anh đang lo cho anh à?

– Tôi không phủ nhận, đúng là có một phần như thế. Tất cả tướng lĩnh, tất cả các cố vấn Trung Quốc, những người dày dặn kinh nghiệm chiến trận và toàn quân, toàn dân đang đồng lòng phương án “Đánh nhanh thắng nhanh”. Ủng hộ cách đánh này, nếu thất bại thì tôi có thể lẩn khuất núp bóng trách nhiệm lịch sử của mình, tôi sẽ chỉ mang tiếng là một tên tướng bất tài. Nhưng nếu tôi một mình quyết định khác, thay đổi cách đánh…

– Thưa anh, đó là cách đánh gì?

– Lúc này tôi chưa thể nói là cách đánh gì và như thế nào. Nhưng, nếu quyết định khác ấy mà thất bại thì tôi sẽ là tội đồ của lịch sử. Chắc chắn là như vậy!

– Nhưng, nếu ngược lại, thưa anh?

– Tôi không bao giờ mong ước mình sẽ là anh hùng. Không, không bao giờ! Nên tôi không bao giờ thích ai đó kể cả Beethoven sống lại viết tặng tôi bản “Anh hùng” nào đó. Vô nghĩa, vô nghĩa!

10.

Căn cứ Điện Biên Phủ, bên ngọn nến, Jean say sưa đọc thư của Nhạn. Nhạn kể lại chuyện Navarre đến thăm khi biết bức thư của Jean bị thất lạc đã được gửi đến địa chỉ người nhận là Nhạn và nhắc lại lời của Navarre: “Tôi biết tôi chỉ có thể ủng hộ tình yêu của em với một chàng trai Pháp, nhưng không thể bắt buộc được em có tình yêu với nước Pháp”.

Nhạn viết: “Anh có nước Pháp của anh, ông Navarre có nước Pháp của ông ta, còn em có nước Pháp của em. Nước Pháp của em là thằng gù ở Nhà thờ Đức Bà, là những câu thơ của Charles Baudelaire viết về dòng sông Seine…”

Jean viết: “Anh chẳng hiểu tại sao anh lại có mặt ở Điện Biên Phủ xa xôi này. Anh cứ nghĩ, nếu như mình không có mặt ở đây thì vẫn tốt hơn, trước hết cho em. Đại tá Piroth nói với anh, ông cũng chẳng bao giờ thích chiến tranh nhưng chiến tranh vẫn cứ là chiến tranh và người lính luôn làm bổn phận người lính, một bổn phận của lòng danh dự quân nhân. Lúc này, anh muốn cuộc chiến kết thúc, bên nào thắng cũng được, miễn là anh sớm được trở về với em. Đại tướng Navarre lo sợ Việt Minh sẽ không đánh Điện Biên Phủ, còn anh và nhiều người lính ở đây lại muốn ngược lại, Việt Minh sẽ bỏ Điện Biên Phủ. Một ngày không tiếng súng vẫn là một ngày hạnh phúc vì không có ai phải đổ máu”.

11.

Tại Bảo tàng Viễn Đông Bác Cổ, Hà Nội, Navarre lặng lẽ xem bảo tàng, gặp giáo sư lịch sử Bernard, Navarre hỏi người Đại Việt chiến đấu chống quân xâm lược Nam Hán, Tống, Nguyên Mông, Minh, Thanh là vì đức vua của họ hay vì điều gì? Bernard đọc “Hịch Tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi nói về lòng yêu nước của người dân Đại Việt cho Navarre nghe.

– Theo ông một nhà sử học Pháp nghiên cứu lịch sử Việt thì tại Điện Biên Phủ người lính Việt sẽ chiến đấu vì điều gì?

– Ngài sẽ nhầm lẫn lớn nếu nghĩ rằng họ chiến đấu để bảo vệ cái “chủ nghĩa” nào đó mà các ngài căm ghét. Mà thực ra theo tôi các ngài cố tình gán cho họ cái “chủ nghĩa” đó để có cớ mà căm ghét, để muốn chính nghĩa thuộc về mình mà che đậy cái thực chất của cuộc chiến tranh này nhằm bảo vệ những quyền lợi của riêng nước Pháp. Tôi ở đây đã lâu, tôi hiểu rằng người dân hầu hết chẳng biết “chủ nghĩa” nào hết cả ngoài “Chủ nghĩa yêu nước”. Nếu họ theo cộng sản thì chẳng qua chỉ vì họ tin vào cộng sản muốn giải phóng dân tộc cho họ. Họ có bị lừa không thì đó là việc của họ. Tôi có thể khẳng định với ngài với tư cách một người nghiên cứu lịch sử khách quan rằng, hiện nay niềm tin ấy là có thật.

Navarre lặng lẽ đi ra nhưng rồi chợt quay lại đến trước Bernard, ông đập bàn mạnh mẽ: “Không! Tôi vẫn muốn lịch sử phải ghi nhận rằng Điện Biên Phủ là mồ chôn cộng sản”.

Bernard không kém cạnh: “Thưa ngài, lịch sử của bất cứ dân tộc nào cũng đều có tiếng nói của nó và ngài đừng quên rằng trước khi là một nhà chỉ huy quân sự, tướng Giáp là một thầy giáo dạy sử”.

12.                                                

Tướng Giáp và nhạc sĩ Hoàng Vân bên một con suối trong rừng. Họ lặng lẽ bên nhau hình như để không gian cho lá reo, cho suối róc rách, cho chim hót. Nhưng rồi đột nhiên tướng Giáp phá cái không gian của gió, của suối, của chim chóc ấy, ông nói: “Tôi vừa được báo cáo lại là tướng Navarre đến thăm Bảo tàng Viễn Đông Bác Cổ. Ông ta muốn tìm câu trả lời nào ở đấy? Ở trong lịch sử theo cách nhìn của ai? Nhiều người cho rằng ông ta ngạo mạn, tôi không nghĩ như thế. Một khi ông ta muốn tìm hiểu chúng ta có nghĩa là ông ta chưa hiểu chúng ta. Nhưng chính chúng ta nhiều khi còn chưa hiểu chúng ta nữa là. Cậu Vượt ấy không thích lời “Vực nào sâu bằng chí căm thù” trong “Hò kéo pháo” của anh, vì vậy đã không hát bài ấy khi kéo pháo à?”. Tướng Giáp cười: “Vậy nhạc sĩ có định sửa lại lời hát ấy không? Hồi nhạc sĩ Văn Cao sáng tác “Tiến quân ca”, có câu “Đường vinh quang xây xác quân thù”, nhiều người nhất là cánh trí thức phản ứng, Văn Cao cũng muốn sửa lại.

– Vậy theo ý của anh thì sao ạ? Nhạc sĩ Hoàng Vân hỏi.

– Với tư cách người dạy lịch sử tôi ủng hộ cậu Vượt ấy. Nhưng với tư cách tổng tư lệnh quân đội tôi không cho phép cái ý nghĩ ấy trong bất cứ người lính nào lúc này. Chúng ta không được quyền thua trong trận chiến này. Vì vậy tất cả những gì giúp cho tinh thần, ý chí người lính để giành chiến thắng đều cần thiết với chúng ta. Anh hãy nói với cậu Vượt như vậy. Và đó chính là mệnh lệnh của tôi.

13.

Trong hầm chỉ huy của De Castries, Navarre phấn khích tuyên bố: “Đến lúc này tôi có thể nói với toàn thế giới rằng Điện Biên Phủ là cứ điểm hùng mạnh nhất, bất khả xâm phạm của chúng ta”. Navarre tỏ ra sung sướng khi nghe sĩ quan tình báo báo cáo là hầu hết các sư đoàn chủ lực của Việt Minh đã được điều lên cái bẫy Điện Biên Phủ. Navarre hỏi viên sĩ quan tình báo: “Tôi quan tâm nhất là trong số các sư đoàn chủ lực ấy của tướng Giáp có đại đoàn 308 quả đấm thép của Việt Minh không?”. Khi được viên sĩ quan tình báo khẳng định đại đoàn 308 con cưng của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp dưới sự chỉ huy của Vương Thừa Vũ hiện đang có mặt ở Điện Biên Phủ, Navarre thốt lên: “Vậy là tướng Giáp đã chấp nhận cuộc đối đầu lịch sử này rồi. Trong lúc đó tướng Giáp bị sốt, cần vụ hái lá ngải cứu đắp cho ông, các tướng Hoàng Văn Thái, Đặng Kim Giang và Lê Liêm bước vào hỏi thăm sức khỏe tướng Giáp. Tướng Thái báo cáo về việc ta đã hoàn tất việc chuẩn bị trận đánh. Các sư đoàn chủ lực đã tập kết, pháo đã vào trận địa. Tướng Lê Liêm nhắc lại khí thế bộ đội đang rất hừng hực, mong muốn vào trận sớm. Tướng Giáp hỏi tướng Giang về hậu cần. Tướng Giang đáp:

– Đã có đủ lương thực cho bộ đội và dân công trong ba ngày ba đêm.

-Còn sau đó? Tướng Giáp hỏi.

– Chúng ta sẽ có chiến lợi phẩm của địch ạ. Tướng Giang đáp.

 -Thế còn áo ngực cho dân công thì sao?

– Thưa anh bộ phận quân nhu đang lo ạ.

– Đang lo tức là chưa có, hay các anh cũng định chờ lấy chiến lợi phẩm …

Nguyên nãy giờ ngồi ghi chép cuộc hội ý của lãnh đạo bật cười trước câu nói của tướng Giáp vì áo ngực của phụ nữ Pháp rất to và rộng, tướng Giáp nghiêm sắc mặt: “Cậu cười được à? Là đàn ông chúng ta không thấy xấu hổ khi để chị em dân công đã bỏ nhà, bỏ cửa đi cứu nước mà mặc áo ngực rách hay sao?”. Tướng Giáp ra hiệu mọi người lui ra, chỉ còn lại Lê Liêm.

– Tại sao tôi không hề nghe ai nói về khó khăn? Cả hai đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn và Vương Thừa Vũ, những người nổi tiếng dám nói thẳng nói thật cũng không một lần hé miệng nói về khó khăn, trở ngại. Tại sao vậy? Có chuyện gì đang xảy ra? Duy nhất một người lính pháo dám nói về khó khăn và cậu ta đang bị đơn vị cách ly vì họ cho cậu ta là một kẻ hèn nhát.

– Tất cả họ tin vào anh, thưa anh.

– Bi kịch chính ở đó, khi mọi người chỉ biết đặt niềm tin vào một người.

– Họ còn nghĩ bên anh có các cố vấn tài ba của quân đội Trung Quốc.

Tướng Giáp đập mạnh tay lên thành giường: “Chúng ta chiến đấu trước hết cho chính đất nước chúng ta chứ không phải cho bất cứ ai”.

– Có nghĩa là đến giờ phút này anh vẫn không yên tâm, anh vẫn muốn thay đổi cách đánh?

Tướng Giáp gạt tấm lá thuốc, ông đứng dậy đi đi lại lại rồi nói: “Chúng ta không thể dùng “chiến thuật biển người”, chúng ta không thể dùng “chiến thuật lấy thịt đè người”. Xương máu của lính là xương máu nhân dân, chúng ta không được quyền muốn làm gì thì làm. Khi cha tôi bị Pháp giết, rồi người vợ đầu tiên của tôi bị chết trong tù để lại bé Hồng Anh còn bồng bế, tôi đã đau đớn đến thế nào, thì, những người cha, người mẹ, người con của đất nước này cũng đau đớn như thế khi biết người thân của mình không còn nữa ở Điện Biên Phủ này.

– Theo anh chúng ta phải dừng ngày tấn công 25 tháng 1 như theo kế hoạch đã định? Tướng Giáp nằm xuống giường đắp lá thuốc lên đầu, rồi từ từ nhắm mắt lại mà không trả lời câu hỏi của tướng Lê Liêm.

14.

De Castries điện thoại cho Navarre đang ở Hà Nội: “Thưa ngài, chúng ta vừa bắt được một tù binh cộng sản, người này khai 17g ngày 25/01/1954 Việt Minh sẽ tấn công”. Navarre nhếch cười: “Hãy rải truyền đơn chào đón họ!”. Quyết cùng đám đầu trọc của mình nhặt được một tờ truyền đơn. Quyết đọc to: “Điện Biên Phủ sẽ là mồ chôn các chiến binh cộng sản”. Quyết đưa tờ truyền đơn cho tiểu đội trưởng Ảnh: “Giành cho cậu đấy, đồng chí đảng viên ạ”. Ảnh tỏ ra giận dữ: “Thế không phải giành cho cả cậu nữa à?”. “Không! Vì tớ phấn đấu vào đảng cậu cứ phê tớ, thằng này lãng mạn, tư tưởng lung tung, yêu đương lăng nhăng không có lập trường, đạo đức cách mạng, không thể cho tớ vào đảng. Hơ! Hơ! Hơ…”

Cả đám lính đầu trọc cùng hát: “Hơ hơ hơ… Tây tiến đoàn quân không mọc tóc”, rồi cùng bước đi đều, lắc đầu trọc qua bên này, bên kia rất hài hước.

 Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

 Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

 Có nhớ dáng em trên độc mộc

 Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tướng Giáp xuất hiện từ lúc nào, ông trông có vẻ mệt mỏi vì nhiều đêm mất ngủ. Tiểu đội trưởng Ảnh thấy tướng Giáp liền đứng nghiêm chào: “Chào Đại tướng!”. Đám đầu trọc cũng đứng nghiêm chào: “Chào Tổng tư lệnh!”. Tiểu đội trưởng toe toe miệng: “Tụi nó xuyên tạc thơ, thưa Đại tướng”. Tướng Giáp cầm tờ truyền đơn đọc rồi hỏi: “Cái gì?”. Tiểu đội trưởng Ảnh giọng trở nên nghiêm trọng:“Dạ, bài thơ của Quang Dũng là “dáng người”, chúng nó láo lếu đổi thành “dáng em” ạ. Chúng nó đúng là bọn đầu trọc chẳng coi nhà thơ cách mạng ra gì hết ạ”. Tướng Giáp khẽ cười đến bên Quyết, hỏi Quyết: “Tại sao cậu cầm súng ở Điện Biên Phủ này?”. Quyết gãi đầu đáp: “Dạ, ở làng em có một anh giáo, anh ấy hay đọc bài thơ Tây tiến:

 “Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi

 Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

 Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

 Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.

Và thế là em cứ ước một ngày nào đó…”

Anh lính trọc lùn xen vào: “Thằng Quyết nói thế thôi chứ không phải vậy đâu ạ! Thưa Đại tướng, nó lập trường lắm đấy ạ, nó bảo tao đi đánh tụi Tây đế quốc giành lại độc lập tự do cho nước mình. Đây này, Đại tướng xem nó xăm chữ gì trên ngực nó này. ”

Anh lính trọc lùn kéo vạt áo của Quyết lên, hiện lên dòng chữ “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Tướng Giáp ôm lấy Quyết như để ngực ông áp lên ngực Quyết nơi có lời thề thiêng liêng kia. Cả hai im lặng hồi lâu rồi tướng Giáp lùi ra, tay cầm tờ truyền đơn, giọng dõng dạc: “Người Pháp đã quyết chiến, còn chúng ta?”. Quyết và đồng đội cùng vung tay hét toáng lên: “Quyết chiến! Quyết chiến! Quyết chiến!”.

 Rời đơn vị của cánh lính đầu trọc tướng Giáp đến nơi anh lính bị cách ly. Ông im lặng nhìn Vượt một lúc lâu rồi nắm lấy khuỷu tay gầy guộc củaVượt, giọng ông trầm ấm:

– Cậu hãy trở về đơn vị đi!

– Vậy là Đại tướng cho lệnh kéo pháo xuống rồi ạ?

Tướng Giáp ngạc nhiên trước câu nói ấy của anh lính.

– Sao cậu nghĩ vậy?

– Vì Đại tướng cho tôi trở về đơn vị ạ.

– Nhưng tại sao cậu có thể đoán được điều ấy… kéo pháo xuống? Tôi tin cậu sẽ là một nhà quân sự tài ba trong tương lai.

– Tôi cũng từng mơ ước như vậy, thưa Đại tướng. Từ nhỏ cha tôi đã cho tôi đọc binh pháp của Tôn Tử, của Khương Tử Nha rồi binh pháp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, và đặc biệt Nhân pháp của Nguyễn Trãi.

-Nhân pháp của Nguyễn Trãi ư? “Nhân pháp”? Thú thật với cậu lần đầu tiên tôi nghe đến hai chữ ấy. Cha cậu là ai?

– Dạ, cha tôi là một Việt nho theo phong trào Cần vương của vua Hàm Nghi nhưng thất bại, sau đó ông bị người Pháp bắt rồi treo cổ.

– Vậy tại sao cậu lại không muốn “nuôi chí căm thù”?

– Dạ, vì cha tôi nói, kẻ nào chỉ nuôi chí căm thù kẻ đó có thể chiến thắng trong chiến tranh nhưng không bao giờ chiến thắng để làm Người.

– Tôi quyết định lại, cậu về Bộ Chỉ huy của tôi.

– Dạ, thưa Đại tướng, xin Đại tướng cho phép tôi ở lại đơn vị kéo pháo xuống núi. Kéo pháo xuống sẽ gian khổ hơn nhiều so với kéo pháo lên trận địa, tôi không muốn…

– Vì sao gian khổ hơn?

– Dạ, vì lòng người không đồng nhất, vì không còn ca khúc ấy, hò dô ta nào…

Tướng Giáp nhìn Vượt rồi lặng lẽ bỏ đi. Một quãng, ông dừng lại, ông quay đầu lại nhìn theo Vượt đang lùi lũi leo lên dốc về đơn vị.

Từ trong tướng Giáp vang lên lời nói hướng về người lính: Vì không muốn con người là kẻ thù của nhau nên chúng ta mới có mặt ở đây, Điện Biên Phủ, cậu lính của tôi ạ.

Từ trong Vượt vang lên lời nói hướng về người tướng: Làm Người với đúng bản thể mà Tạo hóa mong muốn mới là chiến thắng cuối cùng của mọi chiến thắng, thưa Đại tướng!

15.

Bộ Chỉ huy của Navarre ở Hà Nội. Navarre đứng ngồi không yên. Điện thoại reo, đầu dây bên kia là De Castries. De Castries báo 17g đã trôi qua, không hề có tiếng súng tấn công của Việt Minh. Có thể họ biết kế hoạch tấn công đã bị lộ nên đã dời ngày tấn công sang ngày khác. Navarre gật đầu đồng ý. Trong lúc ấy tại trận địa pháo của Piroth, Piroth nhìn đồng hồ nói với Jean: “Đã quá giờ. Chúng đã không đánh, có thể chúng đổi kế hoạch. Jean! Ngày cưới của cậu, tôi sẽ tặng cậu một thùng rượu vang chính hiệu ở quê tôi”.

– Cám ơn đại tá.

– Có thật là cậu đánh rơi bức thư tình ở gần chỗ quân Việt Minh?

– Dạ đúng.

– Và cậu tin rằng người của tướng Giáp đã đưa bức thư ấy đến cho người tình của cậu?

– Dạ đúng.

– Cả cuộc đời tôi đã chiến đấu vì Liên hiệp Pháp. Tôi, một người Pháp không thể chấp nhận Liên hiệp Pháp bị tan rã. Cậu hiểu điều đó chứ?

– Tôi chưa hiểu hết, thưa đại tá.

– Nếu trận Điện Biên Phủ thất bại có nghĩa là người Việt Nam sẽ làm nền tảng Liên hiệp Pháp suốt 100 năm nay, niềm tự hào của nước Pháp, sự hùng mạnh của nước Pháp bị tan vỡ ra từng mảnh. Tiếp theo sẽ là gì? Là Lào, Campuchia, rồi Ma-rốc, Angeri, rồi… Cậu hiểu hết ý nghĩa của trận đánh Điện Biên Phủ này chứ? Tôi luôn có tài dự cảm về chiến tranh. Trời phú cho tôi cái tài ấy, rồi cậu sẽ thấy, nếu Điện Biên Phủ thất bại thì tất cả hệ thống thuộc địa làm nên sự hùng mạnh của nước Pháp, nước Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha sẽ sụp đổ. Cậu hiểu ý nghĩa của Điện Biên Phủ như thế nào rồi chứ?

– Dạ, như một Waterloo.

-Còn hơn một Waterloo. Cả thế giới đang hướng về Điện Biên Phủ.

-Nhưng tại sao chúng ta mong muốn khai phá văn minh cho các nước thuộc địa, họ lại luôn đòi giải phóng dân tộc, giải phóng thuộc địa, thưa đại tá?

– Cậu hỏi tôi hay cậu muốn truy tôi?

– Ngài rất có tài dự cảm về chiến tranh nhưng tôi tin chắc, ngài không thể dự cảm được vì sao tôi lại yêu một cô gái Việt?

– Ý cậu là sao? Cậu muốn cho người Việt biết rằng còn có một nước Pháp khác chứ gì?

– Tôi nghĩ, nếu có nước Pháp ấy, sẽ không có cuộc chiến tranh này. Sẽ không có Điện Biên Phủ và những cỗ pháo của chúng ta ở đây, thưa ngài.

Piroth gầm lên:

– Ước gì tôi có thể đưa cậu ra Tòa án binh với những ý nghĩ như thế.

– Và, ngài sẽ không còn muốn tặng tôi thùng rượu vang như ngài đã hứa?

– Với một điều kiện. Đó là, cậu phải nói thật cho tôi biết sự khác biệt khi cậu làm tình với một cô gái Pháp và một cô gái Việt như thế nào?

– Phụ thuộc ở tôi “hưởng thụ” hay “dâng hiến” thưa ngài.

– Ngày mai tôi muốn cậu lên máy bay về Hà Nội. Không phải tôi muốn mà là mệnh lệnh của tôi. Dâng hiến, mẹ kiếp! Chinh chiến cả cuộc đời, tôi chưa bao giờ được dâng hiến cả.

16.

Phòng khách nhà luật sư Hòa Navarre nói với Nhạn: Rất cảm ơn em vừa rồi em đã cho tôi đọc những bức thư của Jean. Thực lòng tôi muốn hiểu những người lính Pháp ở Điện Biên Phủ kia đang nghĩ gì và đó cũng chính là lí do vì sao đang lúc nóng bỏng này tôi lại có mặt ở đây.

-Và ngài đã hiểu?

– Nhưng người ta đã không cho phép tôi hiểu.

– Ngài là tổng chỉ huy cơ mà.

– Tôi rất tiếc để thú nhận với em một sự thật rằng chính tôi cũng đang là một quân cờ trên một bàn cờ của những mưu tính toàn cầu. Những bước đi của tôi do người chơi cờ quyết định.

– Việt Nam của chúng tôi cũng đang là một quân cờ, thưa ngài?

– Không dễ gì có thể chủ động được cuộc chơi nếu anh chấp nhận chỉ là một nước nhỏ, nếu anh không có khát vọng lớn cho dân tộc của mình.

– Tại sao ngài lại muốn nói những điều khó hiểu và rất xa lạ ấy với em?

– Vì em là cô gái Việt trong sáng quá, thánh thiện quá, vì một chàng trai đáng yêu của nước Pháp đã và đang yêu em với tất cả trái tim của mình. Mà ở đời này chỉ những người đang thực sự yêu nhau mới có thể làm chủ được trái tim của mình mà thôi.

Navarre ra xe jeep. Xe jeep phóng trên đường phố cổ xưa của Hà Nội rồi lên bờ đê sông Hồng. Navarre lặng nhìn ngắm cầu Long Biên một công trình kiến trúc kì ảo của người Pháp rồi đột nhiên ông nói với sĩ quan tùy tùng của mình hãy đến Thành cửa Bắc. Xe đến Thành, Navarre bước xuống đến chỗ vết đạn đại bác bắn ở cổng thành: “Chúng ta đã bị dồn đến chân tường rồi. Không có cách nào khác, chúng ta cần nhiều hơn nữa những phát đại bác như thế. Đây không còn là cuộc chiến của riêng chúng ta nữa. Hãy gửi thông điệp này đến London, Paris, Washington”.

– Ngài đã chấp nhận thân phận chỉ là một quân cờ trên bàn cờ? Viên sĩ quan tùy tùng hỏi.

-Nếu ngày mai tướng Giáp không ra lệnh tấn công Điện Biên Phủ thì có thể là họ đã muốn chủ động cuộc chiến, chủ động là người chơi cờ.

17.

Bộ chỉ huy của Cogny, Cogny điện thoại cho De Castries: “Tôi không thể hiểu được thực sự ngài Navarre của chúng ta đang nghĩ và muốn gì? Trước đây ông ta thúc ép tôi ủng hộ Điện Biên Phủ, tôi đã không tin một nơi khỉ ho cò gáy chẳng có ý nghĩa chiến lược lại có thể trở thành mồ chôn bọn Việt Minh và là nơi quyết định cuộc chiến. Đến khi tôi trực tiếp thấy căn cứ Điện Biên Phủ thật sự tuyệt vời, tôi ủng hộ thì chính ông ta lại đang có vẻ sao nhãng. Trong ông ta đang có một mâu thuẫn nào đó. Thôi, tôi dừng đây, ông ta đang muốn gặp tôi”. Cogny dừng điện thoại khi Navarre bước vào. Cogny vào thẳng câu chuyện: “Tôi nghĩ, ngày mai tướng Giáp sẽ tấn công”. Navarre cũng vào thẳng điều muốn nói với viên tướng chỉ huy quân Pháp ở Mặt trận Bắc Việt Nam này: “Nếu tôi nói rằng, không những tôi nghĩ rằng mà tôi còn mong rằng ngày mai tướng Giáp sẽ tấn công thì tôi biết ngài sẽ không tin tôi đâu. Không tin cũng phải thôi vì chính tôi lúc này còn không tin vào chính mình nữa là…”. Cogny dò xét: “Dù thế nào chăng nữa chúng ta bằng mọi cách vẫn phải giữ quân chủ lực của tướng Giáp ở Điện Biên Phủ”. Navarre cười vì biết được ý đồ của Cogny: “Phải chăng ngài cho rằng trước đây tôi quyết coi Điện Biên Phủ là trận đánh cuối cùng vì tin rằng mình sẽ chiến thắng nếu đội quân của tướng Giáp là những người lính chiến đấu vì một hệ tư tưởng xa lạ nào đó mà cả hai chúng ta đều căm ghét, được áp đặt từ bên ngoài. Nhưng khi nhận ra mình có thể nhầm, Navarre này sợ sẽ phải đụng đầu với một đội quân yêu nước mãnh liệt như lịch sử Việt Nam chống ngoại xâm đã chứng minh nên ông ta sợ thất bại. Có đúng vậy không? Có nghĩa là Điện Biên Phủ sẽ thành mồ chôn cuộc đời và sự nghiệp lẫy lừng của chính Navarre này, có đúng vậy không?”.

18.

 Điện Biên Phủ, sớm vọng lại đâu đó tiếng gà rừng gáy, tướng Giáp và tướng Lê Liêm ngồi bên đống lửa.

– Mấy ngày nữa là Tết? Hả anh Lê Liêm!

– Đêm mai giao thừa rồi anh ạ. Thưa anh, 17g mai anh vẫn cho lệnh tấn công chứ ạ?

– Cụ Hồ là cộng sản, tôi là cộng sản, nhưng trước hết, trên hết chúng ta còn là những người yêu nước. Người Pháp, người Mĩ sẽ thất bại nếu không nhận ra sự thật này. Bộ đội, nhân dân ta hiện giờ mấy ai biết lý tưởng cộng sản là gì, họ chỉ là những người yêu nước, họ xả thân hy sinh vì đất nước tự do, độc lập. Đó là sức mạnh hơn hẳn của chúng ta và cũng là sự nhầm lẫn tệ hại của phía bên kia. Và, nếu chính chúng ta cũng nhầm lẫn cái sự thật ấy thì chúng ta cũng thất bại.

– Như vậy anh đã tin chắc chúng ta sẽ chiến thắng ở Điện Biên Phủ.

– Với điều kiện chúng ta phải có sách lược đúng, cách đánh đúng. 17g ngày mai chúng ta chưa tấn công. Gà gáy lần thứ mấy rồi nhỉ?

– Dạ không rõ, anh đã thức trắng một đêm rồi…

-Anh cho triệu tập Bộ chỉ huy Chiến dịch, tôi sẽ đưa ra một quyết định quan trọng.

Điện Biên Phủ trời đã sáng rõ, chiếc xe jeep chở Jean và Piroth ra sân bay để Jean về Hà Nội. Điện thoại trong hầm De Castries vang lên. De Castries nhấc lên nghe, đầu dây là Navarre.

– Đại đoàn 308 của Vương Thừa Vũ hiện đang ở đâu?

– Thưa ngài vẫn đang ở Điện Biên Phủ.

– Theo dõi chặt mọi hoạt động của đại đoàn chủ lực này rồi báo cáo cho tôi.

– Rõ!

-Nếu 308 rút lui thì sẽ không có cuộc tấn công nào hết vào lúc này.

– Rõ!

Tại Bộ Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ của Việt Minh, tất cả tướng lĩnh có mặt. Tướng Giáp bước vào mặt ông xanh xao vì bị sốt và nhiều đêm không ngủ, tất cả tướng lĩnh đứng lên chào. Tướng Giáp chậm rãi nói vẫn với âm sắc khá nặng của người Quảng Bình: “Sau nhiều ngày đêm suy nghĩ tôi đi đến quyết định, đây là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời tôi vì quyết định này chống lại quyết định của chính tôi và tất cả các tướng lĩnh, bộ đội, dân công và của cả các cố vấn quân sự Trung Quốc. Tôi ra lệnh kéo pháo khỏi trận địa!”. Tất cả tướng lĩnh nhao nhao lên, trừ Lê Liêm đã cảm nhận được từ trước. Tướng Giáp giơ tay ra hiệu im lặng: “Chúng ta tạm thời rút lui để chuẩn bị cách đánh khác, đó là chuyển từ “Đánh nhanh thắng nhanh” sang “Đánh chắc thắng chắc”. Bởi, theo nghiên cứu của tôi cách đánh nhanh lúc này không thể thắng nhanh được mà chắc chắn sẽ hao tổn vô vàn xương máu dẫn đến thất bại. Còn cách “đánh chắc thắng chắc”, chắc chắn sẽ chiến thắng và ít hao tổn xương máu nhất”. Các chỉ huy vẫn không thôi nhao nhao: “Chúng tôi nghĩ đánh nhanh vẫn có thể thắng nhanh”. Tướng Giáp nghiêm giọng: “Trong quân sự không có từ “có thể”. Ai trong các anh dám đảm bảo đánh nhanh sẽ chắc thắng 100% không? Tất cả im lặng. Vì vậy tôi quyết định chuyển sang “đánh chắc thắng chắc””. Một vị chỉ huy hỏi: “Vậy còn ý kiến của các cố vấn Trung Quốc, thưa anh?”. Tướng Giáp quả quyết: “ Tôi một lần nữa nhắc lại, đây là cuộc chiến của chúng ta!”.

19.

Đêm mù mịt cảm giác như cây rừng và con người cũng như muôn thú hòa làm một, tại một con dốc bộ đội kéo pháo xuống, tất cả im lặng, sự im lặng đáng sợ. Một người thì thào trong hơi thở: “Chỉ còn vài giờ nữa là giao thừa”, rồi tất cả lại im lặng. Cũng trong màn đêm ấy tướng Giáp rảo bước đến lán trại của đại đoàn 308. Tướng Giáp nói với đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ: “Trong ngày mai, đại đoàn 308 phải rời Điện Biên Phủ, rời công khai sang Thượng Lào”. –“Lúc nào quay lại ạ?” –“Cứ tiêu diệt địch ở Thượng Lào rồi chờ lệnh!”. “Thưa anh, nếu rời công khai, máy bay và pháo của địch chắc chắn sẽ oanh tạc đội hình ạ”. Tướng Giáp im lặng một lúc giọng của ông tuy có trùng lại nhưng vẫn toát lên vẻ cương quyết của một nhà cầm quân dám quyết đoán vào thời khắc quyết định: “Vì đại cục của cả Chiến dịch, đó là tổn thất bắt buộc”. “Tôi hiểu, thưa tổng tư lệnh!”.

Cũng đêm, con đường rừng, Quyết đầu trọc một mình băng băng chạy.

Cũng đêm, Hà Nội, cầu Long Biên, Jean và Nhạn đi dạo trên cầu. Họ dừng lại ở chỗ lộng gió, họ nồng nàn ôm hôn nhau.

Vẫn đêm, tại lán của Lài. Quyết thở dốc khều Lài ra. Hai người ôm hôn nhau trong rừng. “Mai anh rời Điện Biên Phủ rồi”. “Anh có trở lại?”. “Chắc chắn trở lại. Nếu em còn ở Điện Biên Phủ anh sẽ đi tìm em”.

Vẫn đêm, Jean và Nhạn ở cầu Long Biên. “Đại tướng Navarre đọc những bức thư của anh gửi cho em, ông ta nói sao?”. “Ông ta im lặng một lúc lâu rồi hỏi em có mong người Pháp chiến thắng ở Điện Biên Phủ không? Em nói em chỉ mong anh trở về vẹn nguyên. Kết thúc rồi phải không anh? Không đánh nhau nữa phải không anh?”. “Anh cảm nhận rằng ngược lại”. “Vì sao?”. “Một người dày dặn kinh nghiệm như đại tá Piroth không dưng lại cho phép anh về Hà Nội với em lúc này. Không dưng đâu. Ông ta có tài dự cảm về chiến tranh, về máu”. “Có nghĩa là…”. “Ông ta nói anh hãy tận hưởng tất cả những gì mà anh đang có, tận hưởng cho cả ông ta nữa”.

Chia tay Vương Thừa Vũ và đại đoàn chủ lực quả đấm thép của mình, tướng Giáp đến đội kéo pháo xuống của đơn vị của Vượt. Bỗng khẩu pháo đứt dây, Vượt xoay càng chuyển pháo lật vào thành ta luy để pháo không rơi xuống vực. Mọi người nháo nhác. Càng pháo hất mạnh Vượt xuống đất rồi bánh pháo chèn lên người Vượt. Tướng Giáp thấy sự cố, chạy lại. Pháo được dừng lại vì vướng vào người Vượt. Vượt nằm bất động. Tướng Giáp đi tới, mọi người dãn ra nhường đường cho ông. Tướng Giáp nhìn thấy Vượt nằm bất động, đôi mắt vẫn mở trừng trừng, ông cúi xuống lấy tay vuốt mắt cho Vượt, ông cố ghìm nước mắt, miệng lẩm bẩm: “Vậy là tôi đã không được gặp cậu để mong hỏi cậu cái câu hỏi mà chính cậu – một người lính đã gieo vào trong tôi, phải chăng “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” chính là “Nhân pháp” của Nguyễn Trãi? Và chỉ kẻ nào nắm được “Nhân pháp” ấy kẻ ấy mới thoát khỏi cái thân phận là một quân cờ”. Tướng Giáp chợt như thấy Vượt đứng trước mặt ông, ông rùng mình cảm nhận như từ người lính này vang lên câu hỏi dành cho chính ông: “Thưa Đại tướng, bàn cờ hay quân cờ chúng ta đang chơi là bàn cờ, quân cờ của chiến tranh, khi ấy ông nói tới “Chiến tranh nhân dân” như chiến lược của chiến thắng, nhưng ông có bao giờ nghĩ đến một bàn cờ khác, với những quân cờ khác sau cái chiến thắng ấy là gì không?”. Tướng giáp lẩm bẩm: “Cậu hãy nói đi, là gì?”. Giọng của Vượt vang lên: “Là “Bình lược Thái bình nhân dân”… thưa ông”. Tướng Giáp thủ thỉ: “Cậu hãy tha lỗi cho tôi, tôi chưa được chuẩn bị cho câu hỏi lớn ấy của dân tộc. Trước mắt tôi lúc này đây sứ mệnh của chúng ta làm sao phải chiến thắng trong trận chiến lịch sử này đã. Thật đau đớn cho tôi, giờ phút của chiến thắng tất yếu ấy một người vô cùng cần thiết cho cái “Bình lược Thái bình nhân dân” kia lại vắng mặt”.

Tướng Giáp một mình đi xuống dốc, không kìm được nước mắt nữa, ông bật khóc như một đứa trẻ.

———————————-

Chú thích (*): Ngày 15.3.1954 khi Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, bất ngờ trước làn đạn pháo tấn công của Việt Minh vào trận địa pháo của mình gây nên tổn thất to lớn, thực hiện lời hứa danh dự quân nhân đại tá Piroth chỉ huy pháo binh của quân Pháp đã tự sát.

 Tác giả gửi Văn Việt.

“China” thay vì “Trung Quốc” – tại sao?

TS Nguyễn Đình Huỳnh

Văn Việt: Gần đây một số nhà báo, nhà nghiên cứu dùng từ “China” trong các bài viết tiếng Việt. Tuy nhiên việc này chưa được chú ý và hưởng ứng nhiều. Văn Việt trân trọng giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Đình Huỳnh, người dành nhiều ưu tư cho vấn đề thời sự này và phân tích vấn đề một cách thấu đáo. Danh có chính thì ngôn mới thuận. Việc dùng “China” thay vì “Trung Quốc” trong nói, viết và nghĩ như đề xuất của tác giả có ý nghĩa không nhỏ đối với nhận thức và thái độ của người Việt Nam trước chủ nghĩa sô vanh, bành trướng Bắc Kinh .

Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống xâm lược, chống đô hộ, chống đồng hóa trong tiếp thu tinh hoa văn hóa, chống lệ thuộc trong quan hệ ngoại bang – trong đó, theo cách nói số liệu mang tính khái quát của người Việt, đã có cả ngàn năm dành cho việc chống xâm lược China, hoặc như ca từ của Trịnh Công Sơn: một ngàn năm đô hộ giặc Tàu

Từ quá khứ người Việt đã nhiều lần ra “tuyên ngôn”: Việt không là China, càng không là quận huyện của China. Như bài thơ Nam quốc sơn hà được cho là của Lý Thường Kiệt: Sông núi nước Nam, vua Nam ở / Rành rành định phận tại sách trời / Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm / Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Hay như Bình Ngô đại cáo: Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Nước non bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác /Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.

Vì vậy, lịch sử Việt Nam cũng là lịch sử của một dân tộc khao khát độc lập. Trong sâu thẳm tâm can, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du làm thơ viết văn bằng chữ Nôm là có nỗi khao khát độc lập trong từng con chữ. Hồ Quý Ly thế kỷ 15 và Quang Trung thế kỷ 18 khi lên ngôi liền ra chiếu chỉ dùng chữ Nôm thay chữ Hán trong toàn hệ thống văn bản hành chính, trong giảng dạy và thi cử, là hai đỉnh cao lưu dấu giấc mơ độc lập thành hiện thực, dẫu ngắn ngủi. Thế mới biết gìn giữ độc lập tinh thần, văn hóa khó triệu lần gìn giữ lãnh thổ khỏi bị xâm chiếm.

Trong dòng lịch sử trang nào cũng thấm máu chống lệ thuộc ngoại bang đó, cùng với ý thức độc lập về ngôn ngữ và chữ viết, là cách xưng hô thể hiện vị trí chủ nhân. Người Việt gọi người nước China đến làm ăn, sinh sống ở nước mình là khách, thậm chí nhấn mạnh tính tạm thời sự có mặt của họ: khách trú. Và mặc cho China ngạo mạn tự xưng Trung Nguyên, Trung Hoa, Trung Quốc với hàm ý đất nước họ là “trung tâm thiên hạ”, có nền văn hóa lớn và sức mạnh kinh tế, quân sự nổi trội hơn các dân tộc và quốc gia còn lại – mà họ khinh miệt gọi quanh: “Bắc Địch – Đông Di – Tây Nhung – Nam Man” – thì văn bản nhà nước phong kiến Việt Nam gọi China theo tên triều đại, như trong bộ Minh Mạng chính yếu gọi China là “Thanh triều”, “Thanh quốc”. Còn dân chúng Việt Nam đều thản nhiên gọi là Tàu. Đôi khi còn là Ba Tàu. Đến nay các học giả còn chưa nhất trí về nguồn cơn nào người Việt đã gọi China là Tàu như vậy.

Mà không chỉ trong dân gian: học giả Trần Trọng Kim, còn là nhà hoạt động chính trị, từng làm thủ tướng chính phủ, khi biên soạn Việt Nam sử lược, bộ sử quốc ngữ đầu tiên của nước ta xuất bản năm 1920, gần ngàn trang viết ông chỉ dùng mỗi từ Tàu để chỉ China. Báo Nam Phong cũng vậy; bậc sĩ phu như Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp cũng vậy; đến các nhà văn thế hệ cách tân Tự Lực Văn Đoàn cũng vậy: Tàu.

Mấy năm gần đây, và nhất là từ khi “mũi dao” 981 đâm vào vùng biển Tổ quốc, khắp nơi, từ quán nước đến nghị trường, từ trang blog đến nhật báo, cách gọi Tàu thay vì Trung Quốc xuất hiện ngày càng nhiều. Đó là phản ứng tự vệ dân tộc, là ý thức đề kháng lệ thuộc, là phủ nhận thân phận “lũ mọi phía Nam” đối với “trung tâm thiên hạ” mà China đã trịch thượng, khinh miệt áp đặt. Nói cách khác, chấp nhận gọi China là “Trung Quốc”, thì trong chừng mực nào đó, là vô tình chấp nhận hệ qui chiếu “Trung Hoa – Bắc Địch – Đông Di – Tây Nhung – Nam Man” của China.

Đặc biệt gần đây, trên các diễn đàn ở nước ta, đã xuất hiện nhiều bài viết dùng China thay cho “Trung Quốc”, như Một đối phương quá xấu của GS Nguyễn Văn Tuấn, hay Suy nghĩ về công thư của ông Phạm Văn Đồng của Hoàng Mai.

China (tiếng Anh), Chine (tiếng Pháp) có gốc từ phát âm theo âm Sin (nhà) Tần, triều đại đầu tiên thống nhất đại lục này, đạt nhiều thành tựu trong sản xuất và ngoại thương. Về sau, tên nước China được các thương nhân trên Con đường tơ lụa sử dụng, phổ biến. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều gọi quốc gia phương Bắc này là China. Và China được chính thức sử dụng trong tất cả văn bản ngoại giao quốc tế. Hơn nữa, trong văn bản tiếng Anh, quốc gia này cũng tự nhận là China.

Người Việt vốn có truyền thống gọi và viết tên các nước không phụ thuộc vào tên họ tự xưng, như Mỹ, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên… nên sẽ không vấn đề gì khi gọi China không theo tên tự xưng. Nhưng người Việt gọi Tàu, China hay Trung Quốc không đơn giản chỉ là gọi một cái tên mặc nhiên và như một thói quen. Bởi thân phận, thậm chí số phận dân tộc Việt sẽ có phần tùy thuộc vào cách gọi đó. Gieo thói quen, gặt tính cách/ Gieo tính cách, gặt số phận (Samuel Smiles)

Vì vậy, người Việt ta hãy gọi China là China.

Thay đổi thói quen như vậy không chỉ giúp người Việt hòa nhập cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực ngôn ngữ mà còn là một hành động cần thiết để “thoát Trung”, xác lập và khẳng định tư cách độc lập, bình đẳng của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam.

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Tinh thần Dịch Lý qua thơ chữ Hán của Phùng Khắc Khoan khi còn là một nho sinh

Đặng Văn Sinh

 

Năm 29 tuổi, Phùng Khắc Khoan (馮克寬) đỗ Giải nguyên khoa thi hương, và mãi đến năm 53 tuổi mới đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ nhưng tiên sinh có biệt tài làm thơ chữ Hán từ rất sớm. Theo một số tư liệu còn lưu truyền trong dân gian Xứ Đoài, năm 12 tuổi chàng thư sinh làng Bùng đã thông hiểu bách gia chư tử, xuất khẩu thành chương, nổi tiếng thần đồng. Việc Phùng Khắc Khoan đi thi muộn và đỗ khá muộn là bởi thời thế không phải do học vấn. Tuy nhiên vấn đề chúng tôi đề cập đến hôm nay không phải là chuyện khoa cử mà là tìm hiểu những đặc trưng thơ Phùng Khắc Khoan qua một số bài tiêu biểu trong thời kỳ cụ còn là một nho sinh, trong đó có những bài làm khi đang còn là vị thành niên.

Nếu xét về toàn bộ quá trình sáng tác, thì, ngoài thơ chữ Hán, Phùng Khắc Khoan còn sáng tác khá nhiều thơ Nôm, nhưng phải khẳng định, dòng chủ đạo làm nên diện mạo thi nhân của cụ vẫn là thơ chữ Hán. Có điều, thơ chữ Hán mà chủ yếu là thơ Đường luật, tiên sinh chỉ mượn hình thức biểu đạt còn nội dung của nó lại hầu như mang tâm thức Việt, diễn đạt được tâm hồn Việt ở vào thời kỳ xã hội Việt Nam trung đại có những biến động chính trị, xã hội phức tạp.

Nói một cách hình ảnh, thơ Phùng Khắc Khoan là Đường thi nhưng lại không phải hoàn toàn là Đường thi mà nó đã bị Việt hóa ở một mức độ nào đấy do nền văn hóa Việt đang trên đà phát triển chi phối. Những bài thơ Tự thuật nhị thủ (自 述 二 首), Nguyên đán thư đường (元 旦 書 堂), Ký nghiêm phụ thị huấn thi (記 嚴 父 示 訓 詩), Đăng Phật Tích sơn (登 佛 跡 山), Viễn ký hữu nhân (遠 寄 友 人), Nguyên nhật (元 日), Bệnh trung thư hoài tam thủ (病 中 書 懷 三 首), Trừ tịch (除 夕), Trừ tịch thư hoài (除 夕 書 懷 三 首), Mộng giác ngẫu thành (夢 覺 偶 成)… được viết khi vẫn còn là một thư sinh chân trắng, nghĩa là chưa vướng vòng tục lụy, người đọc đã thấy lấp lánh một nhân cách văn hóa, một hoài bão lớn.

Một trong những đặc điểm đáng ghi nhận là, Phùng Khắc Khoan đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn hình thức thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tuyệt cú, trong đó có cả những liên hoàn đoản thi với quy tắc vần, niêm, đối rất chuẩn, nhưng nội hàm thì lại biến hóa, đôi khi thoát ly khỏi khuôn khổ cứng nhắc của cấu trúc “đề”, “thực”, “luận”, “kết” hoặc “khai”, “thừa”, “chuyển”, “hợp” để diễn tả một cách sinh động những giá trị văn hóa đạo đức, phong cách tư duy của người Việt. Kỹ thuật viết thơ chữ Hán của Phùng tiên sinh không câu nệ vào điển cố, thi liệu, thành ngữ Hán mà khá linh hoạt, cũng không hiếm trường hợp cụ “phá cách”, dẫn ra các sự kiện đương đại, hạn chế tính ước lệ, nên bài thơ mang được màu sắc văn hóa Đại Việt, tuy về tôn chỉ mục đích vẫn là trung quân, ái quốc, đề cao đạo tam cương, ngũ thường, ca ngợi phẩm chất người quân tử. Bài “Tự thuật nhị thủ” làm năm Quý Sửu (1543), khi mới 16 tuổi, làm cho người ta phải ngạc nhiên về tầm nhìn của một kẻ hàn nho khi chưa ra khỏi lều tranh. Nhìn cảnh đất nước trong thời tao loạn, giang hồ hào kiệt nổi lên khắp nơi tranh quyền đoạt vị theo kiểu “được làm vua thua làm giặc”, Phùng Khắc khoan có một sự so sánh khá độc đáo với loài Úng kê (bọ mẻ): “Thế sự nhàn khan tự úng kê” mà nhà Hán học Trần Lê Sáng đã dịch là:”Thế sự xem ra tựa bọ giòi”. Hình ảnh này khá thú vị. Nếu ai chú ý quan sát lũ bọ nhung nhúc, hết ngoi lên lại lặn xuống trong hũ mẻ, tranh nhau khoảng không gian sinh tồn thì dù không muốn cũng liên tưởng ngay đến bàn cờ thế sự. Hình ảnh so sánh độc đáo này người đọc rất hiếm gặp trong thơ Đường. Cũng bài thơ trên, tuy mới ở tuổi vị thành niên, nhưng tác giả đã thể hiện hoài bão của một kẻ sĩ quân tử qua hai câu luận và câu kết đầy hào khí:

Tùng bách há hiềm sương tuyết đọng

Kình nghê đâu quản lưới chài chòi

Biển Nam sẽ thấy côn bằng dậy

Vỗ cánh tung bay vút tận trời

Sang tết nguyên đán năm Giáp Thìn, Phùng Khắc Khoan 17 tuổi viết bài “Nguyên đán thư đường” (Mồng một tết đề vào nhà học) có hai câu luận chứng tỏ, tuy còn đang độ hoa niên, tác giả đã quán thông kinh sử, hiểu được lẽ biến dịch của tự nhiên, thấm nhuần cái “Đạo” của đất trời:

消 長 默 觀 天 地 道

貫 通 細 認 聖 賢 書

Tiêu trưởng mặc quan thiên địa đạo

Quán thông tế nhận thánh hiền thư

Dịch sát nghĩa câu trên sẽ là;

Lặng nghe trời đất tiêu hao lại nảy nở

Hiểu sâu, quán thông được sách thánh hiền.

Tầm vóc của hai câu thơ dường như không phải của một thư sinh 17 tuổi mà là sự từng trải của bậc lão thủ tinh thông Dịch số, hiểu thấu lẽ huyền vi tạo hóa, tiên nghiệm được sự tương thông của Thiên – Địa – Nhân.

Về cấu trúc bài thơ, luật trắc vần bằng, xét về tổng thể đúng 28 chữ âm trắc, 28 chữ âm bằng, trong đó có 6 tiếng lệch thanh điệu, nhưng nằm trong giới hạn cho phép”nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”. Niêm của bài rất chuẩn và các vế đối hoàn chỉnh đến mức khó có thể bắt bẻ:

庭 因 生 草 知 年 紀

符 不 須 桃 覺 鬼 除

Đình nhân sinh thảo tri niên kỷ

Phù bất tu đào giác quỷ trừ

(Sân ngoài cỏ mọc mừng năm mới

Cổng trước không bùa cũng hết tà)

Tuy vậy, thơ Đường, ngoài ý ra, mà phần lớn là “ý tại ngôn ngoại”, thì “từ” (kể cả từ đơn, từ ghép và thành ngữ) thường là hàm súc, biểu đạt được sự vật, hình ảnh, khái niệm, vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Trong khi ấy, tiếng Việt ta có khá nhiều từ nghèo nàn, nên có khi phải dùng vài ba từ hoặc cả một ngữ mới chuyển tải được ý nghĩa gốc. Hơn nữa, dịch thơ Đường còn phụ thuộc vào vần điệu, niêm luật bằng trắc, đăng đối nên rất khó có được một bản dịch đủ ba tiêu chuẩn Tín, Đạt, Nhã. Tuy nhiên, được Ban Biên tập phân công, chúng tôi đành phải mạn phép Phùng tiên sinh tạm chuyển ngữ bài thơ sang tiếng Việt hiện đại như sau:

Mái rạ gió đông đêm trước thổi

Canh năm xuân đã đến hiên nhà

Sân ngoài cỏ mọc mừng năm mới

Cổng trước không bùa cũng hết tà

Ngẫm thấy cơ trời tròn lại khuyết

Mới hay đạo thánh lẽ sâu xa

Tuổi cao sự học hầu cùng tiến

An lạc thanh nhàn ấy chí ta.

 Đặng Văn Sinh dịch

Hơn bao giờ hết, quan niệm “thi dĩ ngôn chí” thật phù hợp với tư tưởng sáng tác của Trạng Bùng. Điều này người đọc thấy rất rõ ở bài thứ ba trong chùm thơ ba bài có tiêu đề chung là “Bệnh trung thư hoài tam thủ”. Xin dẫn cả phần chữ Hán để bạn đọc thấy được cái hồn văn hóa Việt, cốt cách của sĩ phu Bắc Hà ẩn tàng trong Đường thi như thế nào:

 其 三

文 星 久 已 現 馮 村

應 為 吾 家 耀 福 門

父 子 相 傳 儒 是 業

古 今 不 變 道 常 存

青 氈 業 繼 家 聲 舊

白 日 歡 承 綵 色 溫

天 意 至 公 無 厚 薄

只 留 福 做 我 兒 孫

Phiên âm:

Bệnh trung thư hoài tam thủ

 (Kỳ tam)

Văn tinh cửu dĩ hiện Phùng thôn,

Ưng vị ngô gia diệu phúc môn.

Phụ tử tương truyền Nho thị nghiệp,

Cổ kim bất biến đạo thường tồn.

Thanh chiên nghiệp kế gia thanh cựu,

Bạch nhật hoan thừa thái sắc ôn.

Thiên ý chí công vô hậu bạc,

Chỉ lưu phúc tố ngã nhi tôn.

Dịch nghĩa:

Văn tinh lâu nay đã hiện ở làng Bùng,

Nên vì nhà ta soi sáng cửa phúc.

Cha con nối nhau truyền nghiệp nho gia,

Đạo còn mãi xưa nay không biến đổi.

Cái nệm lông xanh nối nghiệp cha ông, nếp nhà theo lối cũ,

Ngày sáng rõ, vui lòng cha mẹ, đượm vẻ vui tươi.

Ý trời rất công bằng, không hậu bạc với ai cả,

Chỉ để phúc lại cho con cháu làm nên mà thôi.

Bài này tác giả làm khi đang ốm, không biết năm ấy cụ bao nhiêu tuổi, nhưng theo trình tự các bài thơ và căn cứ vào cách diễn đạt từ ngữ cùng cảm nghĩ về đạo trời, có thể phỏng đoán năm hai hai đến hai mươi lăm tuổi trước khi đậu thủ khoa kỳ thi hương năm 1557. Như vậy, ngay từ lúc vẫn còn chân trắng, Phùng Khắc Khoan đã hình dung ra tương lai rạng rỡ của mình, hơn thế còn nhìn thấy quá trình phát triển hanh thông của cả gia tộc, chứng tỏ tác giả có tầm nhìn xa trông rộng, có khả năng dự đoán hậu vận trên cơ sở những dữ liệu về xã hội cùng quy luật biến thiên thời cuộc qua các thông số Dịch Lý mà phần lớn các nho sĩ Đại Việt thế kỷ XV,XVI rất am tường. Tư tưởng Lý học được nghiên cứu và vận dụng ở Việt Nam thời trung đại đến mức thần diệu là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong thơ của vị trạng nguyên Cổ Am này, kể cả thơ chữ Nôm, hầu như không có bài nào vắng bóng tư tưởng Dịch Lý, bởi Dịch Lý là lẽ biến thiên của Trời đất và vạn vật. Dịch là biến đổi, Lý là quy luật được quy chiếu từ sự biến thiên vạn vật mà một trong những nét đặc thù là tính tương thông và hằng định. Chính bởi dùng Dịch Lý để nhận diện, phân tích vạn vật nên xác xuất nghiên cứu cho kết quả khá cao. Vì vậy, ta không lấy làm lạ, khi mà có những câu”sấm” của Trình Tuyền Hầu mãi mấy chục đời sau vẫn tỏ ra ứng nghiệm.

Với Phùng Khắc Khoan (tương truyền có quan hệ huyết thống với Trạng Trình), việc kế thừa và phát triển khoa học Dịch Lý như là một công cụ dự doán tương lai là lẽ đương nhiên, Chỉ có điều, ở cụ, mức độ thể hiện kín đáo hơn, tinh tế hơn nhưng không kém phần chính xác. Không phải ngẫu nhiên Trạng Bùng viết:”Văn tinh cửu dĩ hiện Phùng thôn”. Câu thơ phá đề tưởng như là sự cao ngạo, tự phụ của một kẻ cuồng nho nhưng thực chất lại là một tiên nghiệm mang phong cách Lý học, một dự phóng trên cơ sở những dữ liệu có trước làm tiền đề, mà một trong số đó là Phùng Hưng, nhân vật lịch sử lỗi lạc thế kỷ thứ VIII. Sau Phùng Hưng, họ Phùng còn hàng loạt danh thần, lương tướng kế tiếp nhau tham gia chấp chính ở các các triều đại trong suốt chiều dài lịch sử lập nên bao võ công, văn trị.

“Bệnh trung thư hoài” về hình thức cấu trúc theo luật bằng vần bằng, hai câu thực và hai câu luận đối rất chuẩn, niêm chặt chẽ , vần gieo chính xác. Câu phá đề nêu hiện tượng sao Văn Xương xuất hiện trên không phận làng Phùng Xá, câu kết khép lại bài thơ bằng một nhận xét mang tính quy luật. Đó là, đạo trời vốn công bằng không đối xử thiên lệch với bất cứ ai, họa phúc là bởi chính bản thân con người tạo ra:

Dịch thơ:

Văn Xương đến địa phận thôn Bùng

Chiếu ứng nhà ta sáng một vùng

Con nối chí cha hưng nghiệp lớn

Xưa nay chẳng đổi, đạo vô cùng

Nệm xanh kế nghiệp theo đường cũ

Ngày sáng vui hòa khúc nhạc chung

Thiên ý công bằng không lệch lạc

Chỉ lưu phúc đức hiển họ Phùng

Đặng Văn Sinh dịch

Kỳ vọng của Phùng Khắc Khoan không chỉ dừng lại ở việc “đăng khoa, dương danh, hiển phụ mẫu”, cụ còn đi xa hơn nữa khi mà chỉ mới hăm hai, hăm ba tuổi đã nghĩ đến một ngày nào đó, mình sẽ thành bậc lương đống triều đường, phò vua giúp nước. Bài “Mộng giác ngẫu thành” (Tỉnh mộng bất chợt thành thơ) được xem như một dự phóng rút ra từ những tham số Dịch Lý quy chiếu vào hoạn lộ của tiên sinh. Hơn thế nữa, nó còn cái khí và cái chí của bậc anh hùng cái thế, muốn rằng chỉ chịu “ở dưới một người mà ở trên muôn vạn người”. Hai câu thực của bài phải nói là khá táo bạo chứng tỏ một tư chất cứng cỏi, một bản lĩnh khác thường của kẻ sĩ dám dấn thân vì lý tưởng “tu, tề, trị, bình” trong lúc triều đình nhà Lê đang ở vào thời kỳ khủng hoảng chính trị trầm trọng, vua thì hôn quân vô đạo, quan lại thì bất tài, tàn ác, nhũng nhiễu dân lành. Vì thế, đọc bài thơ, ta phải hiểu ý ngoài văn bản. Ông vua mà Phùng Khắc Khoan được diện kiến hẳn phải là ông vua lý tưởng (chỉ gặp trong mộng). Đó là một đấng minh quân, bởi chỉ có minh quần mới xuất hiện lương thần, lương tướng:

面 對 龍 顏 纔 密 邇

親 承 天 語 好 雍 容

Diện đối long nhan tài mật nhĩ

Thân thừa thiên ngữ hảo ung dung

(Được đối diện với long nhan thật là gần

Thân tiếp lời vua thật là ung dung)

Đành rằng, cuộc hội kiến ấy chỉ là một giấc mơ, và những điều tác giả viết ra chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Tuy nhiên, như chúng tôi đã nói ở phần trên, tư duy Lý số của Tống nho đã thâm nhập quá sâu vào nền giáo dục Hán học thời trung đại. Lý số quán triệt mọi suy nghĩ, hành động của nhà nho. Vì thế, có thể xem giấc mộng chỉ là cái cớ để Phùng Khắc Khoan diễn giải quy luật Lý số chi phối cái đã có, cái đang có và cái sẽ có trong sự vận hành xã hội lấy đạo Tam cương ngũ thường làm tiêu chuẩn đào luyện nhân cách con người. Như thế, nếu nhà nho tin vào quy luật tạo hóa, quán thông quan hệ nhân quả, luôn suy nghĩ và hành động theo mô phạm thì việc gặp mặt long nhan, luận bàn quốc sự không phải là quá khó.

Hai câu luận tiếp theo, nhà thơ khẳng định:

到 頭 頓 與 凡 塵 敻

拭 目 頻 添 喜 氣 濃

Đáo đầu đốn dữ phàm trần quýnh

Thức mục tần thiêm hỷ khí nùng

(Quay đầu nhìn lại thấy xa cách phàm trần

Dụi mắt trông lên thấy khí vui nồng nàn)

Về hình thức, bài thơ sử dụng luật bằng vần bằng. Hai câu thực và hai câu luận đều đăng đối, diễn tả tư thế ung dung tự tại của bậc trí giả biết mình, biết người. Hai câu kết, nhà thơ khiêm tốn hạ bút:

 來 日 青 雲 如 得 路

 定 知 天 意 已 先 從

Lai nhật thanh vân như đắc lộ

Định tri thiên ý dĩ tiên tùng.

(Sau này đường mây nếu được nhẹ bước

Thật biết rõ ý trời đã sớm định theo lòng người)

Nói là “ý trời”, nhưng lại kèm thêm vế sau là “lòng người”. “Luật nhân quả”, hay “ý trời” đều hàm nghĩa là quy luật nằm trong tổng thể của “Đạo” mà Dịch Lý là những phạm trù chi phối số phận vạn vật.

Bài thơ Đường thật hàm súc, ý tại ngôn ngoại, được sử dụng lớp từ Hán có giá trị biểu cảm cao (“trường tiêu”, “đáo quân môn”, “phàm trần quýnh”, “thức mục tần thiêm”, “lai nhật thanh vân”…) đọc lên làm ta liên tưởng đến Lý Bạch, Mạnh Hạo Nhiên, Đỗ Tuân Hạc trong những bài thơ mang tầm vóc vũ trụ. Tất nhiên với một thi phẩm như vậy, cho dù dịch khéo đến mấy cũng chưa chắc đã chuyển tải được cái tinh túy mà người xưa ký thác:

Dịch thơ:

Đêm dài ngoảnh mặt trái nhà đông

Mộng đến hoàng cung gặp cửu trùng

Lặng ngắm long nhan gần sát mặt

Tiếp lời thiên tử thật ung dung

Ngoảnh đầu nhìn lại phàm trần cách

Dụi mắt trông lên thụy khí nồng

Ngày khác đường mây ta nhẹ bước

Mới hay trời đất cũng chiều lòng.

Đặng Văn Sinh dịch

 

 

 Đ.V.S.

 Tác giả gửi Văn Việt.

Chùm thơ Trần Mộng Tú

TRan Mong Tu

 

 

 

 

 

 

Biển đảo hận ca

 

Ai cũng nói xưa Tàu đô hộ

1000 năm ta có mất nước đâu

100 năm Tây trên đất Việt

Nước vẫn còn nguyên đâu có mất mảnh nào

 

Ta không mất vì lòng dân về một mối

Một mối từ vua quan cho đến thứ dân

Ngậm đắng nuốt hờn nhưng trái tim vẫn hừng hực cháy

Vẫn cùng chung chí hướng giữ vững nước non nhà

Cả một nước từ trên xuống dưới

Khư khư ôm trong lòng từng mảnh đất cha ông

Ngoại bang đô hộ, dân lành khốn khổ

Một mảnh sông con vẫn chẩy trong lòng

 

Ta không mất vì không chia không bán

Người lãnh đạo dân không giấu mặt cúi đầu

Đảo với đất không phải của riêng cho một số người có quyền định đoạt

Như món đồ riêng trong túi lấy cho đi

 

Hoàng Sa hận Trường Sa ôm mặt khóc

Nước mắt này mặn như giọt biển kia

Những con tàu Việt Nam chưa ra khơi đã đắm

Những ngư dân chết đuối ngay trên bờ

 

Mỗi quốc gia có riêng bầu trời gọi là không phận

Dưới bầu trời hải phận có lằn ranh

Không phải vì kẻ nào có sức mạnh có quyền xóa biển

Kẻ yếu chỉ biết đứng nhìn và thế giới lặng thinh

 

Hãy trả lại Hoàng Sa

Hãy trả lại Trường Sa

Đảo của biển Việt phải thuộc về nước Việt

 

Nếu ta không giành lại đảo hôm nay

Nếu ta không giành lại đất hôm nay

Nếu ta không giành lại biển hôm nay

 

Ngày mai ta sẽ mất cả bầu trời.

 

Ngày 15 Tháng 5 năm 2014

 

 

 

Nước và Biển

 

        Nếu biển không còn Nước

          tìm đâu đường chân trời

          nếu Nước bỗng mất biển

          lằn ranh nào định nơi

                                          Nếu anh đánh mất biển

                                  anh bơi về hướng nào

                                  khi anh buông theo sóng

                                  Nước anh ở phương nao

  Nếu Nước không còn biển

  Nước mất luôn bầu trời

  anh không còn gì lại

  chơ vơ một phận người

                                  Anh cho đi phần biển

                                  anh cho đi thịt da

                                 anh cho đi tiếng nói

                                anh cho đi mẹ cha

         Một mai anh ngồi khóc

         anh gọi biển trở về

  biển không còn Nước nữa

  sóng dội khô trong hồn

                                           Anh gọi thịt da lại

                                   thịt da lạc ngoài khơi

                                   anh gọi mẹ cha ơi!

                                  khác biệt rồi tiếng nói

          Nước đã mất theo biển

  muối trôi qua kẽ tay

  anh ngồi ôm mặt khóc

  biển ơi và Nước ơi!

 

 

Tháng  12/ 2009

 

Bài ca ngư phủ

 

Cá ơi!

 

Thôi giã từ nhau nhé

những chiếc vẩy hồng vẩy bạc của ta ơi

cái đuôi em ngúc ngoắc ngoài khơi

xa xôi lắm ta không còn với tới

em lặn xuống thật sâu

em sẽ bơi về đâu

tàu ta bồng bềnh tìm em trên sóng

chưa thấy em ta đã chết cùng tàu

chưa thấy em xác ta đã trôi theo rong trên biển

hay thân ta bị bắt giam trên một vùng đất không quen

 

Cá ơi!

 

Thôi giã từ nhau nhé

những chiếc vẩy hồng vẩy bạc của ta ơi

em bơi về phía Nam hay tạt về phía Bắc

làm thế nào ta tìm lại được nhau

ta gọi tên em bằng ngôn ngữ nước nào!

 

Ta đứng trên bờ bối rối

Hồng ơi, Chim, Thu, Nụ, Đé ơi!

ở quê ta những tên đó có tự lâu rồi

các em chính là một phần đời sống Việt

 

Rong rêu ơi!

có nhớ bao lần theo cá về cùng lưới

em mang cả đại dương vào khoang thuyền này

ta nhặt màu xanh trên những ngón tay gầy

thấy đời ta với rong rêu là một

 

Ta đi trên bờ hát bài ca ngư phủ

Trường Sa ơi nước chẩy về đâu!

Hoàng Sa ơi  có nhớ những thân tàu

đã nhuộm trắng những vệt loang của muối

Ông cha ta đã bao đời tiếp nối

giữ từng giọt nước thiêng liêng

      

Hoàng Sa ơi !

Trường Sa ơi!

Đảo của ta ơi!

 

Có ai đó nhầm tên em với tên phụ nữ

nên bán em đi không cần giấy thông hành.

 

Tháng  12/2007

 Tác giả gửi Văn Việt.

Chén nước mắm và bao vải bột mì

Trần Mộng Tú

 

aai2
Tranh Đỗ Trung Quân

Sang Mỹ cả gần bốn mươi năm rồi, thế mà mỗi lần dọn cơm lên bàn cho chồng con  tôi vẫn lúng túng với chén nước mắm. Hôm nay có cần không? Bao giờ nhìn bữa ăn dọn ra, cũng chần chừ giữa có và không một phút. Cuối cùng thế nào cũng phải rót một chút nước mắm vào cái chén nhỏ, đặt giữa bàn. Có khi suốt bữa ăn không ai chấm vào, nhưng không có nó, hình như bữa ăn chưa gọi được là hoàn tất. Dù sau này các con đã ra riêng, chỉ có hai vợ chồng, đã bỏ thói quen ăn mặn, thế mà chén nước mắm vẫn luôn luôn hiện diện trong bữa ăn.

Thập niên đầu, khi các con còn nhỏ chưa dùng nước mắm chấm trong bữa ăn thì tôi còn cha mẹ. Cha mẹ ăn cơm bao giờ cũng có chén nước mắm, chanh, ớt để bên cạnh như một thói quen, một điều ắt có như cái bát, đôi đũa vậy. Dù bất cứ hôm đó ăn món gì, có cần đến nước mắm chấm hay không.

Rót chút nước mắm ra cái chén nhỏ, mùi thơm mằn mặn bốc lên, như ngửi thấy cả quê nhà, sao mà nó gợi tình, gợi cảnh thế, nó Việt Nam quá đỗi. Không có chén nước mắm, bữa ăn không gọi là đầy đủ được và lại càng không phải bữa ăn của một gia đình Việt Nam. Đĩa thịt, đĩa cá, bát canh, đĩa xào, bầy đầy bàn. Nhìn đi, nhìn lại, vẫn như thiêu thiếu một cái gì. À, thì ra thiếu chén nước mắm. Thế là chưa ngồi xuống ghế được.

Ai đó cất tiếng:

– Chưa có nước mắm.

– Hôm nay, có món nào cần chấm đâu.

– Sao lại không, cứ mang nước mắm ra đây, thế nào cũng cần đến.

Thế là người đi tìm chén rót nước mắm, người đi kiếm chanh ớt đem ra. Chưa có chén nước mắm, bữa ăn chưa bắt đầu. Chén nước mắm sao mà quan trọng thế!

Trong những truyện viết về quê nhà nghèo khổ, bao giờ mâm cơm nhà nghèo, không có thịt cá gì, cũng được tả bằng chén nước mắm để cạnh đĩa rau cho cả nhà cùng chấm vào ăn với cơm hẩm. Chén nước mắm là phần bổ dưỡng nhất cho cả nhà vì nó có chất đạm từ cá. Nó giúp cho miếng rau trở nên đậm đà để miếng cơm hẩm dễ ăn hơn.

Chén nước mắm đó nhiều khi được chắt ra từ một cái tĩn nước mắm đặt ở trong bếp, hay ngoài mái hiên nhà. tĩn nước mắm mẹ làm bằng những con cá cha đánh lưới đem về. Những con cá nhỏ sót lại sau khi đã lựa những con cá lớn mang ra chợ bán để mua gạo, mua vải may quần áo, mua thuốc đề phòng ốm đau.

Đôi khi chén nước mắm đó là chén cuối cùng làm ra từ những con cá cha đem về. Vì lần đi biển vừa qua cha đã không trở lại bờ nữa. Cả nhà chấm chung chén nước mắm đó thì làm sao mà quên được. Nếu một người nào đó trong gia đình, thoát được cảnh cơ hàn, có đời sống khá giả hơn, ăn những món ngon hơn, chắc đôi khi hồi tưởng lại, khó lòng mà quên được cái chén nước mắm ngày xa xưa đó. Những giọt nước mắm thơm và mặn như những giọt lệ.

Sống đời văn minh, phú quý nên sinh lễ nghĩa. Bây giờ trong gia đình ăn cơm chung với nhau, rất nhiều nhà không còn chấm chung một chén nước mắm nữa. Không biết từ bao giờ, người ta nhiễm thói quen, chén nước mắm của ai người đó chấm, chấm chung không lịch sự, không vệ sinh dù là giữa những người trong một gia đình.

Từ chỗ riêng tư này chén nước mắm thành ra lạc lõng, nó không được đặt ở giữa bữa ăn nữa, nó mất hẳn cái đia vị quan trọng cho bữa ăn của cả gia đình. Chấm chung một chén nước mắm mới thấy cái ấm cúng, cái tình chia sẻ trong bữa ăn.

Chỉ có mâm cơm của người Việt mới có chén nước mắm. Nói không ngoa, chén nước mắm nhất định góp phần làm nên văn hóa ẩm thực Việt Nam.

Từ chuyện ăn sang đến chuyện ngủ. Tôi nhớ ở quê nhà, anh, chị, em, trai gái, lên bốn, lên năm thường được ngủ chung với nhau, có khi đến bảy, tám tuổi vẫn ngủ chung giường. Gia đình khá giả một chút thì có phòng riêng cho con trai, con gái, nhưng vẫn không có chuyện mỗi người một giường.Với gia đình nghèo, khi còn bé, anh chị em đều nằm chung giường không phân biệt trai gái. Nghèo hơn nữa thì cả cha mẹ và con cái nằm chen chúc ngủ với nhau trên một cái giường trong gian nhà một phòng. Mùa hè quạt cho nhau, mùa đông ủ hơi ấm cho nhau. Chuyện ngủ như thế thì chuyện ăn, chấm chung môt chén nước mắm là lẽ đương nhiên.

Những cô cậu của thời chấm chung chén nước mắm, anh chị em nằm chung một giường này, khi đi xa họ có bao nhiêu điều để nhớ. Nhớ lúc ăn thì phải nhường từ miếng cơm, phải nhịn từ giọt nước chấm. Lúc ngủ chị co người lại nhường chỗ cho em nằm, anh chịu lạnh nhường chăn cho em đắp. Kỷ niệm mặn và ngọt ùa vào đời sống, theo họ mỗi ngày, nhắc họ bổn phận phải bù ngang, đắp dọc, sống sao cho đời sống có ý nghĩa hơn.

Chuyển sang đời sống Âu Mỹ hiện tại, mỗi người phải có một phòng riêng. Nhất là trẻ em, trai và gái, chúng không phải chung phòng. Ngay cả những người xin hưởng trợ cấp nhà cửa, nhà nước cũng xếp cho một căn nhà có đủ phòng cho các em khác phái tính. Các em được học từ nhỏ: Cái này là của tôi, không phải chia với ai cả. Sự riêng tư phải được tôn trọng.

Căn buồng nhỏ của cậu bé hay cô bé là chỗ riêng tư, không ai có quyền được bước vào. Muốn vào, phải gõ cửa, phải xin phép mới được vào. Vào rồi, cũng không được nhìn với cặp mắt kiểm soát. Ngay cả bố mẹ chỉ làm việc này khi con không có mặt ở đó. Khi ăn thì miếng ăn nào đã chạm tay vào là phải cầm lên, không được đặt xuống, miếng nào đã bỏ vào đĩa mình không gắp sang đĩa người khác dù thân đến đâu.

Ăn riêng, ngủ riêng, mỗi con người trưởng thành có một ốc đảo cho riêng mình.

Có buồn không nhỉ? Có người cho rằng, như thế là dậy đứa trẻ đời sống văn minh, kỷ luật và tự lập. Nhưng đôi khi, sự ích kỷ cũng đi theo nó.

Chẳng biết ở những vùng thôn quê Âu Mỹ, người ta sống thế nào nhỉ. Có cái gì chung đụng mỗi ngày để làm hành trang nhét vào túi trên đường tha hương không? Khi trưởng thành nơi xa lạ, có gì để nhớ?

Có chứ, chồng tôi lớn lên ở nông trại Mỹ, thuộc vùng Dillon bang Montana (1949-1957). Anh kể cho tôi nghe về chuyện đi học. Từ lớp một đến lớp năm học trong một phòng học (One-room school). Mấy nông trại liền nhau chỉ có một cô giáo. Học trò nào may mắn ở trong nông trại có lớp đó tọa lạc thì không phải đi xa, còn những trò ở nông trại khác cũng phải dậy từ sáng tinh mơ để đến trường, học mấy tiếng và khi về thì trời cũng sắp sang chiều. Khi các con lớn lên, nhiều gia đình gửi con ra tỉnh học, hoặc bán trại đi như trường hợp gia đình chồng tôi, vì họ biết là họ sẽ có việc làm ở tỉnh (mẹ chồng tôi là Trung Úy Y Tá thời Đệ Nhị Thế Chiến).

Những thầy hay cô dạy ở “Một phòng học cho cả trường” đó chắc chắn sẽ được học trò của mình nhớ đến khi họ đi xa, họ đã trưởng thành.

Có khác gì lắm đâu với những lớp học của Thầy Đồ ngày trước ở quê nhà Việt Nam.

Thời Suy Thoái Kinh Tế Thế Giới (Great Depression 1929-1939) những bà mẹ Mỹ ở nông trại đã biết truyền tay nhau những công thức nấu ăn không có muối, làm bánh rất ít đường. Biết mỗi chủ nhật, mọi người mang thức ăn đến nhà thờ ăn chung với nhau để người có nhiều hơn chén đường, muỗng muối chia sẻ cho người không có chút muối, đường nào (do đó có chữ pot luck).

Những bà mẹ Hoa Kỳ khôn ngoan còn biết dùng bao bột mì, bao thực phẩm gia súc may quần áo cho con mặc đi học. Họ nói người chồng nông phu của mình đòi hỏi nơi bán bột mì, bán thực phẩm cho gia súc phải in hoa vào bao thì họ mới mua (nên những xưởng bán thực phẩm đã cho in hoa vào những bao vải). Tiền bạc vào thời kỳ khủng hoảng đó rất khó khăn nên công thương, nông nghiệp phải nhượng bộ với nhau.

Trong cái trường chỉ có một phòng học đó có nhiều em thấy mình mặc quần áo giống bạn (dù không phải là đồng phục) nên các em hiểu thế nào là cùng chung sự thiếu thốn.

Hóa ra ở đâu những nông gia, những người nghèo cũng có những nét đáng yêu trong đời sống khổ cực.

Đôi lúc làm vườn, nhớ đến quê nhà tôi hay nghêu nghao câu hát: Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói/ Có những cánh đồng cát dài/ Có luỹ tre còm tả tơi/ Ruộng khô có những ông già rách vai/Cuốc đất bên đàn trẻ gầy/ Có người bừa thay trâu cày/  Làng tôi luôn luôn vương vài đám khói/ Những mái tranh buồn nhớ người/ Xơ xác điêu tàn vì ai/ Nửa đêm thanh vắng không một bóng trai/ Có tiếng o nghèo thở dài/ Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi. (Quê nghèo- Phạm Duy)

Đôi lúc tôi nghe chồng tôi kể chuyện nông trại ở quê nhà, ngày còn trẻ, tôi cũng nhớ đến câu hát của anh học trò nghèo: When I was just a youngster and hardly in my teens/ I went to school on many a day with my faded old blue jeans/ The patches they were many the seat was all thread bare/ But a poor girl didn’t notice and a poor boy didn’t care (Life of a poor boy – E.C. McCarty)

Từ chén nước mắm trong mâm cơm Việt Nam đến những chiếc áo may bằng bao bột mì trong nông trại Mỹ là một chặng đường thật xa nhưng cho tôi nhìn thấy cái đẹp của sự chung đụng chia sẻ ở nơi nào cũng giống nhau. Nhất là cái chung trong hoàn cảnh túng nghèo. Cái đẹp đó đi vào văn chương và âm nhạc rung động mình suốt cả một đời.

 

Tháng 5/2014

Tác giả gửi Văn Việt.

Tiểu thuyết lịch sử – Nguyễn Triệu Luật

Đây là toàn tập các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật, từ Hòm đựng người (1938) đến Chúa cuối mẻ (1945) do NXB Văn hoá Thông tin và Trung tâm Đông Tây xuất bản cuối năm 2013.

Nguyễn Triệu Luật sinh năm 1903, mất năm 1946. Trong thời gian sáng tác không dài, ông đã để lại 8 tiểu thuyết và một cuốn viết dở dang đăng nhiều kỳ trên nguyệt san Tiểu thuyết thứ Bảy. Bên cạnh tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Triệu Luật còn viết khảo cứu tâm lý học, chính trị – xã hội (như cuốn Vấn đề Ba Lan) và nhiều bài báo ký bằng những bút hiệu khác nhau trên các báo Nam Phong tạp chí, Phụ nữ thời đàm, Tri tân, Tao đàn, với ý thức khai sáng cho đông đảo công chúng.

Quan niệm về “tiểu thuyết lịch sử” của tác giả:

“… viết “tiểu thuyết lịch sử” (roman historique) không cần theo phép của Sử học. Tác giả chỉ phải tưởng tượng ra một “chuyện có thể có” ở một thời đại, rồi đem chuyện ấy lồng vào khung thời đại ấy. Mục dích là lấy một chuyện không đâu mà làm sống một thời đại. Những tiểu thuyết “Notre-Dame de Paris”, “Quatre-vingt treize” của Victor Hugo, “Les filles d’autrefois” của Léon Daudet, đều là bịa đặt, nhưng đọc truyện đó, ta thấy cả thời đại hồi vua Louis và hồi Đại Cách mạng sống lại” (Lời nói đầu tiểu thuyết Hòm đựng người). 

Theo sách Tiểu thuyết lịch sử – Nguyễn Triệu Luật.

Thơ Đỗ Quang Nghĩa

dqnSinh năm 1961 tại Hà Nội
Hiện sống tại Berlin – Đức
 

 

 

 

 

 

 

1.

Tiếng hát vang – những nỗi buồn đa sắc

miên man trôi miền ký ức không lời.

 

Có nhu cầu đứng giữa hào quang

và nhu cầu ngồi trong bóng tối.

 

Khát vọng được thăng hoa

và khát vọng vẫn giữ được chính mình

không chỉ trong câu hát

không chỉ một đêm nay.

 

2.

Một ngày ta xa Hà Nội

và xa em.

Một ngày ta xa Sài Gòn

và xa nước.

Một ngày

xa

những đôi tình nhân buồn thê thiết.

Chỉ mong đừng ước như người già

hẹn ngày về

của những nắm tro.

 

3.

Vì đã nở mấy hôm

vì mưa xuân

                   và gió xuân

những cánh đào phai

nhẹ nhàng rơi xuống đất.

 

Bên những gốc đào xưa: dòng-sông-thời-gian,                                                                     

đi qua đời thật chậm,                                                                     

như ngừng trôi.

 

4.

 

Ðã thấy trong gương tóc đen chen tóc bạc

bốn năm con xa nhà.

 

Này là nét của mẹ

này là nét của cha

này là mũi tẹt da vàng

(lẫn làm sao cho được).

 

Những ngày kiếm ăn quanh

những ngày gào thét hão

lý tưởng nào, tìm kiếm suốt đời con!

 

Bố ơi,

tóc bố không còn sợi đen

con còn phiêu bạt mãi

càng già con càng thương bố hơn.

 

 

5.

 

Ràng buộc với cái gì cũng sợ

đành ràng buộc với tự do.

 

 

6.

Sau dãy núi là mặt trời hoàng hôn

sau màu vàng thu là những cuộc đời lá.

 

Nước mắt có khi rơi, sau một lần hạnh phúc.

hay miệng cười như không,

                                           sau năm tháng tơi bời.

 

Mai,

        mặt trời lại lên,

                                 phía bên kia dãy núi.

 

 

 

7.

Khi yêu đương đang thành mốt như chiếc quần jeans

em có còn chung thủy?

Anh trút hết mồ hôi trên chuyến xe khách

người và người ồn ào khó chịu

em có còn dịu dàng?

 

Cơn gió bụi tháng ngày

               cuốn phăng đi bao niềm hoài ước

trôi nổi ngang đời bao nỗi hoài nghi

vận người đổi thay nào ai đoán trước.

 

Anh không tự hiểu mình

em không hiểu nổi anh.

 

Một lần xa hóa ra vĩnh viễn.

 

Chiếc quần jeans bạc gối

chuyến xe bus cuối cùng bỏ khách đợi ngang đường.

 

 

 

8.

Ilmenau

 

Bây giờ đã đến lúc viết về những bờ lau bên hồ thời xa vắng

sao quá bơ vơ trước hứa hẹn đầu đời.

 

Bây giờ đã đến lúc viết rằng khi ấy

máu trong người chậm lại lúc đôi nọ hôn nhau ngang dốc chiều, tuyết, mưa.

 

 

Bờ lau mọc lúc vào xuân

đứa bạn cùng đường nay đã chết

vẫn biết còn sống còn cơ hội bất tử

vẫn muốn dang tay vẫy lối bạn về.

 

Thời xa vắng không giữ được em,

khao khát quá nhiều – đời người quá hẹp.

 

Trở lại

20 năm sau

hồ

những bờ lau

dập dờ

xanh

lửa.

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Số phận của một phát minh

(Trích tiểu thuyết Anthem [nghĩa đen là “nhạc thiều”] của Ayn Rand – tựa đề của Văn Việt)

Bản dịch của Trần Đan Hà  

Ayn_Rand1Văn Việt: Ayn Rand (1905 – 1982) là nhà tiểu thuyết, triết gia, biên kịch sân khấu và điện ảnh Mỹ gốc Nga, tác giả cuốn tiểu thuyết Suối nguồn (Fountainhead) đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam. Tư tưởng của bà là đề cao chủ nghĩa ích kỷ hợp lý, cái tôi, các quyền của cá nhân như những gì gắn bó tự nhiên với con người; dĩ nhiên như thế bà chống lại thứ “chủ nghĩa tập thể”, “lý tưởng vì mọi người” giả dối mà chế độ Xô viết đã áp đặt lên toàn xã hội. Anthem, xuất bản năm 1938, là một tiểu thuyết ngắn mang tính phúng dụ, trong đó bà thể hiện những đặc tính tiêu cực của một xã hội đồng phục và khẳng định sự chiến thắng của “cái tôi” được phát hiện trở lại bởi những con người dũng cảm không chấp nhận sự bưng bít kiềm toả của các thiết chế thống trị. Trong truyện, tên các nhân vật đều là các Danh từ chung có đánh số, như một nguyên tắc của chế độ nhắm thủ tiêu cá nhân.

 

 

 

CHƯƠNG VII

Trong cánh rừng này trời tối đen. Những cành lá sột soạt trên đầu chúng ta, màu đen thẫm tương phản với vầng kim ô còn vương lại trên cao. Rêu mềm ấm dưới chân. Chúng ta sẽ ngủ trên rêu này nhiều đểm, cho tới khi những thú dữ trong rừng kéo tới phanh thây. Chúng ta không có giường chiếu gì ngoài thảm rêu này, và cũng chẳng có tương lai, ngoài thú dữ rừng đen.

Giờ thì chúng ta già rồi, nhưng hồi sáng này thì chúng ta vẫn còn trẻ, lúc mang chiếc hộp thủy tinh đi dọc theo các con đường của thành phố để tới Dinh Học giả. Chẳng có ai chặn chúng ta lại, vì chẳng có ai ở Lầu Trừng giới đi ra đây, còn những người khác thì chẳng biết gì. Chúng ta đi dọc theo các hành lang trống vắng rồi bước vào đại sảnh nơi Hội đồng Học giả Thế giới đang trang nghiêm ngồi họp.

Lúc bước vào chúng ta không thấy gì khác ngoài bầu trời xanh chói lọi ở mấy ô cửa sổ lớn. Rồi chúng ta trông thấy các vị Học giả ngồi quanh một chiếc bàn dài, trông họ giống như những đám mây không hình dạng cuồn cuộn dâng lên nền trời xanh. Có những vị học giả nổi tiếng mà chúng ta biết tên, và cả những vị đến từ nhiều miền đất lạ mà chúng ta chưa từng được nghe nói tới. Trên tường phía trên họ có treo một bức tranh lớn minh họa hai mươi người đã phát minh ra đèn cầy.

Tất cả họ đều quay đầu nhìn lại lúc chúng ta bước vào. Những con người thông thái vĩ đại của trái đất không biết nên nghĩ gì về chúng ta, họ nhìn chúng ta với vẻ thắc mắc tò mò, như thể chúng ta là một phép lạ. Sự thực là bộ đồng phục lao động của chúng ta bị rách tả tơi và vương đầy những vệt máu khô màu nâu. Chúng ta giơ cao cánh tay phải lên và nói:

“Xin được chào những người đồng chí danh giá của Hội đồng Học giả Thế giới.”

Rồi Tập Hợp 0-0009, người lớn tuổi và thông thái nhất trong Hội đồng, cất tiếng hỏi:

“Ngươi là ai, hở người đồng chí? Vì trông ngươi không giống một học giả.”

“Tên chúng ta là Bình đẳng 7-2521,” chúng ta đáp, “và chúng ta là một Phu Quét đường của thành phố này.”

Liền ngay đó như thể có một trận cuồng phong thổi qua sảnh đường, vì tất cả các học giả đều lên tiếng cùng một lúc, với vẻ kinh hoàng và giận dữ.

“Một Phu Quét đường! Một Phu Quét đường bước vào giữa cuộc họp của Hội đồng Học giả Thế giới! Thật không thể tin được! Như vậy là chống lại mọi quy định và luật lệ!”

Nhưng chúng ta đã lường trước cách khiến họ phải ngậm miệng.

“Các người đồng chí của chúng ta!”, chúng ta nói, “Vấn đề không phải ở chỗ chúng ta là ai, cũng không phải ở điều phạm giới của chúng ta. Vấn đề chỉ là ở các người đồng chí.  Đừng nghĩ gì cho chúng ta, vì chúng ta chẳng là gì cả, nhưng hãy nghe chúng ta nói, vì chúng ta đang mang tới đây một món quà mà chưa ai có được. Hãy nghe chúng ta nói, vì chúng ta đang nắm giữ tương lai của loài người trong tay chúng ta.”

Thế là họ lắng nghe.

Chúng ta đặt chiếc hộp thủy tinh của chúng ta lên bàn trước mặt họ. Chúng ta nói về nó, về cuộc tìm kiếm dai dẳng của chúng ta, về đường hầm của chúng ta, về cuộc đào thoát khỏi Lầu Trừng giới. Suốt trong lúc chúng ta nói, không một bàn tay nào nhúc nhích, không cả một cái chớp mắt. Và rồi khi chúng ta đặt dây dẫn vào hộp  tất cả bọn họ đều chồm tới, dù vẫn ngồi trong ghế, chăm chú nhìn. Còn chúng ta vẫn đứng, mắt dán vào sợi dây dẫn. Và chầm chậm, chầm chậm, như một giòng máu được bơm, lưỡi lửa đỏ run rẩy lập lòe trong sợi dây. Rồi cả sợi dây phát sáng rực.

Thế nhưng có một nỗi kinh hoàng bùng lên tán loạn trong những người của Hội đồng. Họ nhảy dựng lên, chạy xa khỏi chiếc bàn, và đứng nép vào tường, túm tụm vào nhau cơ hồ muốn tìm kiếm hơi ấm của người khác để lấy lại can đảm.

Chúng ta nhìn theo họ, và cười, rồi nói:

“Đừng sợ hỡi các người đồng chí của chúng ta. Trong sợi dây dẫn này có một năng lượng kỳ vĩ, nhưng rất dễ kiểm soát. Nó là của các đồng chí. Chúng ta đem nó tới đây cho các đồng chí.”

Bọn họ vẫn không hề nhúc nhích.

“Chúng ta đem đến cho các đồng chí năng lượng của cao xanh!” chúng ta kêu lên, “Chúng ta trao cho các ngươi chìa khóa đi vào lòng đất! Hãy giữ lấy và đón nhận chúng ta vào làm kẻ khiêm tốn nhất trong số các đồng chí. Hãy để chúng ta làm việc với nhau để cùng khai thác nguồn năng này, khiến nó giải tỏa bớt nỗi cực nhọc cho con người. Hãy cùng vứt bỏ nến và đuốc đi. Hãy làm cho thành phố của chúng ta ngập tràn ánh sáng. Hãy cùng mang đến một thứ ánh sáng mới cho loài người!”

Thế nhưng họ vẫn đứng nhìn chúng ta, và bỗng dưng chúng ta thấy sợ. Vì mắt họ, những đôi mắt bất động, nhỏ hẹp và hung ác.

“Hỡi các đồng chí của chúng ta!” chúng ta kêu lên, “Các ngươi không có gì để nói với chúng ta ư?”

Và rồi Tập Hợp 0-0009 bước ra trước. Họ đi tới bàn và những người khác làm theo.

“Có chứ,” Tập Hợp 0-0009 nói, “Chúng ta có rất nhiều thứ để nói với ngươi.”

Thanh âm của giọng nói họ cất lên khiến cả sảnh đường lặng ngắt như tờ, và khiến trái tim chúng ta đập  mạnh.

“Phải,” Tập Hợp 0-0009 nói, “chúng ta phải nói nhiều điều với một kẻ khốn nạn dám phá vỡ hết mọi luật  lệ mà lại còn khoác lác về những tội lỗi tày đình của mình! Sao ngươi dám nghĩ là cái đầu của ngươi thông tuệ hơn những người đồng chí của ngươi? Và nếu như các Hội đồng đã chuẩn y là ngươi phải làm Phu Quét đường, sao ngươi dám nghĩ là ngươi có thể được trưng dụng cho một việc gì đó to tát hơn việc quét đường?”

“Sao ngươi dám nói, đồ quét đường tồi tệ?” Công đoàn 9-3452 nói, “là ngươi chỉ làm có một mình, suy nghĩ chỉ có một mình, mà không phải là với nhiều người chứ?”

“”Ngươi đáng bị thiêu sống,” Độc lập 4-6998 nói.

“Không, chúng sẽ bị đòn roi,” Nhất Trí 7-3304 nói, “cho tới khi không còn là gì nữa dưới những ngọn roi đó.”

“Không,” Tập Hợp 0-0009 nói, “chúng ta không thể quyết định về điều này ngay được đâu, các đồng chí. Chưa từng có một tội phạm như thế này, và nó không phải để cho chúng ta phán xét. Cũng chẳng phải cho bất cứ một Hội đồng nhỏ lẻ nào. Chúng ta sẽ giao thứ sinh vật này cho Hội đồng thế giới và để họ làm mọi thứ.”

Chúng ta ngước nhìn lên họ van nài:

“Các đồng chí của chúng ta! Các ngươi nói đúng. Hãy để cho Hội đồng thực hiện ý nguyện của họ đối với thân xác chúng ta. Chúng ta không bận tâm. Nhưng còn ánh sáng? Các ngươi sẽ làm gì với ánh sáng đó?”

Tập hợp 0-0009 nhìn chúng ta, rồi mỉm cười.

“Vậy ngươi nghĩ là ngươi đã tìm ra một nguồn năng mới,” Tập hợp 0-0009 nói, “Có phải tất cả các đồng chí của ngươi đều nghĩ vậy không?”

“Không,” chúng ta đáp.

“Những gì không được tập thể nghĩ thì đều không đúng,” Tập Hợp 0-0009 nói.

“Ngươi đã làm việc về những thứ này một mình ư?” Quốc tế 1-5537 nói.

“Đúng vậy,” chúng ta nói.

“Những gì không được thực hiện bởi tập thể thì không thể tốt được,” Quốc tế 1-5537 nói.

“Trong quá khứ có nhiều người trong Hội đồng Học giả đã từng có những ý kiến kỳ lạ,” Đoàn kết 8-1164 nói, “nhưng khi đa số các đồng chí học giả bỏ phiếu phản đối thì họ phải từ bỏ ý đó, ai ai cũng vậy cả.”

“Cái hộp này là đồ vô dụng,” Liên Minh 6-7349 nói.

“Nếu đó là cái thứ mà chúng muốn tuyên bố đã chế được,” Hòa hợp 9-2642 nói, “ thì nó sẽ mang lại sự hủy diệt cho Bộ Đèn cầy. Đèn cầy là một vật dụng hữu ích tuyệt vời cho con người, toàn thể mọi người đều đã công nhận. Như vậy đèn cầy không thể bị phá hủy bởi chỉ một kẻ tùy tiện này.”

“Vật mọn này sẽ phá vỡ kế hoạch của Hội đồng Thế giới,” Nhất Trí 2-9913 nói, “mà khi không có Kế hoạch của Hội đồng Thế giới thì mặt trời cũng không mọc được. Phải mất hết năm mươi năm mới có được sự chấp thuận của tất cả các Hội đồng đối với Đèn cầy, và để có được quyết định dựa trên số phiếu cần có và để chỉnh sửa lại kế hoạch để làm đèn cầy thay vì làm đuốc. Điều này ảnh hưởng hàng ngàn, hàng vạn công nhân làm việc để đạt chỉ tiêu của Nhà nước. Chúng ta không thể làm lại Kế Hoạch Năm mươi năm quá sớm được.”

“Và nếu vật này có thể giảm nhẹ lao động vất vả của con người,” Đồng Đẳng 5-0306 nói, “thì nó là một tội lỗi tột cùng xấu xa, vì con người tồn tại không ngoài lý do gì khác hơn là để lao động vì người khác.”

Lúc đó Tập hợp 0-0009 đứng dậy và chỉ vào chiếc hộp của chúng ta:

“Cái thứ này,” họ nói, “phải bị tiêu hủy.”

Và tất cả cùng đồng thanh la to:

“Nó phải bị tiêu hủy!”

Thế là chúng ta nhảy tới bên bàn.

Chúng ta giằng lấy chiếc hộp, kẹp nó vào một bên hông, rồi chạy về phía cửa sổ. Quay người lại chúng ta nhìn họ một lần cuối, tiếng gào chúng ta bật tung ra từ trong cuống họng nghe không còn ra tiếng người:

“Một lũ điên!” chúng ta kêu to. “Các ngươi là một lũ điên! Điên trăm lần điên!”

Vung nắm tay đập tung cửa sổ, chúng ta nhảy ra ngoài qua trận mưa thủy tinh loảng xoảng.

Chúng ta té ngã, nhưng không hề để vuột chiếc hộp khỏi tay mình. Rồi chúng ta chạy. Nhắm mắt nhắm mũi mà chạy, và nhà cửa, người ta cứ vùn vụt trôi lại phía sau, nhòe nhoẹt vô nhân ảnh. Và rồi con đường như thể không còn bằng phẳng dưới chân chúng ta, mà cứ nhảy chồm chồm lên trước mặt, khiến chúng ta những tưởng mặt đất sẽ trồi lên và đập vào mặt chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn cứ chạy. Chúng ta biết không có nơi chốn nào cho chúng ta chạy tới, nhưng vẫn biết rằng mình phải chạy, chạy cho tới nơi tận cùng của thế giới, chạy cho tới ngày cuối cùng của đời mình.

Đến một lúc thì chúng ta chợt nhận ra mình đang nắm trên nền đất xốp, rằng chúng ta đã dừng chạy. Những thân cây cao ngất mà chúng ta chưa từng được thấy đứng quanh chúng ta trong niềm tĩnh lặng vô cùng. Và rồi chúng ta chợt hiểu. Chúng ta đang ở trong Rừng Hoang. Chúng ta đã không hề nghĩ tới nơi này, thế nhưng đôi chân chúng ta đã đưa dắt trí khôn, và đôi chân đã đưa chúng ta tới Rừng Hoang – ngoài ý muốn của chúng ta.

Chiếc hộp thủy tinh của chúng ta đang nằm kề bên. Chúng ta bò về phía nó, ngã đè lên nó, đôi tay che kín mặt, và chúng ta cứ nằm yên như thế.

Chúng ta nằm yên như thế một lúc lâu. Rồi chúng ta đứng dậy. Nhặt chiếc hộp lên, chúng ta đi sâu vào rừng.

Chúng ta đi đâu, điều đó chẳng là chi cả lúc này. Chúng ta biết họ sẽ không đuổi theo chúng ta, vì họ chẳng bao giờ  vào Rừng Hoang. Chúng ta chẳng có gì để mà sợ họ. Khu rừng đã hủy diệt hết mọi nạn nhân của chính nó. Nhưng điều này cũng chẳng khiến chúng ta hãi sợ. Chúng ta chỉ ước được thoát đi xa thật xa khỏi thành phố và khỏi bầu khí quyển bao trùm trên nó. Thế nên chúng ta cứ tiếp tục bước, chiếc hộp trong tay, con tim trống vắng.

Giờ chúng ta đang thảm bại. Những ngày còn lại của chúng ta sẽ là một mình, bất luận chúng là gì. Và chúng ta đã nghe nói về sự băng hoại được tìm thấy bên trong nỗi cô độc. Chúng ta đã tự tách mình ra khỏi thực thể của các đồng chí của chúng ta, và không hề có lối về cho chúng ta, cũng không có cứu chuộc.

Chúng ta biết rõ những điều này, nhưng chúng ta không bận tâm. Chúng ta không còn bận tâm gì nữa trên trái đất này. Chúng ta mệt.

Duy chỉ có chiếc hộp thủy tinh dưới đôi cánh chúng ta là đang tiêp bồi dũng khí cho chúng ta. Chúng ta đã nói dối với chính mình. Chúng ta đã không hề kiến tạo chiếc hộp ấy vì sự tốt đẹp cho các đồng chí của chúng ta. Chúng ta tạo ra nó vì chính nó. Tự thân nó đã ở trên tất cả các đồng chí của chúng ta, và sự thật của nó đứng trên sự thật của họ. Tại sao chúng ta phải phân vân về điều này? Chúng ta đâu còn sống bao nhiêu ngày nữa. Giờ chúng ta đang đi về phía những con thú nanh nhọn lẩn quất đâu đó giữa rừng cây tĩnh lặng này. Chúng ta chẳng có gì để nuối tiếc ở phía sau.

Thế rồi một cơn đau chợt nhói lên. Chúng ta nghĩ tới Kim Nhân. Chúng ta nghĩ về Kim Nhân, người mà chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Thế rồi cơn đau qua nhanh. Như vậy là tốt nhất. Chúng ta đang là một thứ quỷ ám. Sẽ tốt hơn cho Kim Nhân nếu họ quên đi cái tên chúng ta và tấm hình hài mang cái tên đó.

 

Dịch giả gửi Văn Việt.

Làm sao để thoát Trung? – Diễn giả: T.S Giáp Văn Dương

Văn Việt: “Thoát Trung” là con đường không thể khác để bảo vệ chủ quyền, độc lập và phát triển bền vững của đất nước, phục hưng văn hoá dân tộc, cải cách thể chế toàn diện theo con đường dân chủ. Đó là ý chí của toàn dân vốn ấp ủ từ lâu, và trong tình thế hiểm nghèo hiện nay bộc lộ rõ ở vụ “giàn khoan”, những nhà cầm quyền thực lòng yêu nước cũng phải suy tính. Tất nhiên, từ ý chí đến hành động, cần có bước hoạch định chiến lược và những chiến thuật hiệu quả. Đây là lúc phát huy tinh thần “Diên Hồng”, động viên toàn dân hiến kế cứu nước. Văn Việt hoan nghênh NXB Tri Thức đi đầu trong công việc hệ trọng này và xin chuyển tới bạn đọc lời mời tham dự Hội thảo.

(Ghi chú: diễn giả Giáp Văn Dương là tác giả tiểu luận “Thoát trung luận”, có thể đọc tại đây: http://www.viet-studies.info/GiapVanDuong_ThoatTrungLuan.htm)       

 

Diễn giả: T.S Giáp Văn Dương

Thời gian: 14:00 – 16 :30, thứ Năm, ngày 05 tháng 06 năm 2014

Địa điểm: Hội trường tầng 3, Liên hiệp các hội Khoa học kĩ thuật Việt Nam, 53 Nguyễn Du, Hà Nội

******

Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã bộc lộ rõ hơn nguy cơ về sự đe dọa từ TQ đến toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, đó chỉ là bể nổi của tảng băng chìm. Thực tế, đe dọa của TQ đối với sự độc lập của Việt Nam không chỉ ở vấn đề chủ quyền, mà sâu xa và toàn diện hơn rất nhiều, ở mọi góc cạnh: kinh tế, văn hóa, thể chế, ý thức hệ… Riêng về kinh tế, thống kê cho thấy có đến 90% các dự án tổng thầu rơi vào tay TQ.

Theo cách nhìn đó, Việt Nam đang dần trở thành một dạng thuộc địa mới của TQ trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa và tư tưởng. Đây chính là chiếc cùm vô hình của Việt Nam trong suốt hàng nghìn năm qua, không cho Việt Nam bứt phá để phát triển nhanh hơn và hội nhập sâu rộng hơn với thế giới văn minh.

Vậy làm sao để thoát Trung? Làm sao để phát triển? Làm sao để tự giải phóng mình, hầu tự bảo vệ mình và kiến tạo một thời kỳ phát triển mới? Đâu là những trụ cột của một xã hội văn minh mà Việt Nam cần xây dựng? Mỗi cá nhân cần phải làm gì, các chính sách lớn cần phải điều chỉnh theo hướng nào trong bối cảnh mới này?

Các câu hỏi trên đây sẽ được thảo luận và trả lời phần nào trong cuộc tọa đàm này.

Thông tin diễn giả

TS Giáp Văn Dương sinh năm 1976, tốt nghiệp Kỹ sư ngành Hoá dầu Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1999, Thạc sĩ ngành Công nghệ Hoá học Đại học Quốc gia Chonbuk (Hàn Quốc) năm 2002, Tiến sĩ ngành Vật lý Kỹ thuật Đại học Công nghệ Vienna (Áo) 2006; từng làm việc tại Đại học Liverpool (Anh) và Đại học Quốc gia Singapore (NUS).

TS Giáp Văn Dương là người sáng lập và điều hành cổng giáo dục trực tuyến mở đại trà GiapSchool tại địa chỉ www.giapschool.org

VÀO CỬA TỰ DO