Catalonia – Tình yêu của tôi của George Orwell

Đinh Bá Anh

 catalonia480x420

Nếu chỉ đọc Catalonia – Tình yêu của tôi (Phạm Nguyên Trường dịch, NXB Lao Động, Hà Nội, 11.2013) như một bút kí chiến trường xuất sắc thôi thì thật khiếm khuyết. Tài năng xuất chúng của George Orwell nằm ở chỗ, ông không chỉ chớp được những sự kiện tươi rói, mà trong sự hỗn loạn của các sự kiện, rát rạt giữa sự sống và cái chết, ông vẫn đủ tinh tế và nhạy cảm để nhìn ra những khuynh hướng lớn đang định hình bức tranh xã hội của một nửa thế giới: một bức tranh đáng sợ, hệ quả của những đam mê và những tư tưởng sai lầm.

Các học giả theo khuynh hướng tự do khai phóng như Karl Popper hoặc Friedrich Hayek cho rằng, tư tưởng dân chủ xã hội với hàm nghĩa tạo ra một xã hội mà trong đó mọi người đều bình đẳng về sở hữu tài sản và tư liệu sản xuất, nghĩa là tất cả tài sản và tư liệu sản xuất đều thuộc về nhân dân do nhà nước quản lý, sớm muộn cũng sẽ dẫn tới chủ nghĩa Stalin. Ngay cả khi xã hội ấy tôn trọng các quyền dân chủ, nghĩa là cho phép bầu cử tự do trong một xã hội chỉ toàn đại diện của các đảng phái theo khuynh hướng dân chủ xã hội, thì sớm muộn các hình thức dân chủ này cũng sẽ bị bóp nghẹt. George Orwell là một người chống chủ nghĩa Stalin, nhưng ông vẫn tin vào lý tưởng nhà nước dân chủ xã hội. Trong Catalonia – Tình yêu của tôi, chúng ta nhận thấy một George Orwell từ một người ban đầu chỉ vì căm ghét chủ nghĩa phát xít và có cảm tình chung chung với những người bảo vệ tự do dân chủ mà tình nguyện chiến đấu, đã dần nhận thức được sự phức tạp của cuộc nội chiến và những mẫu thuẫn chia rẽ hàng ngũ những người mác xít. Ông đã miêu tả cuộc sống hồ hởi của người dân Catalonia trong những ngày đầu sau cách mạng xã hội chủ nghĩa với rất nhiều cảm tình, nhưng rồi ông sẽ phải chứng kiến cuộc cách mạng đó bị bóp chết dần dần, không chỉ bởi sự kháng cự của quân phát xít, mà còn bởi chính những người anh em cộng sản. Trải nghiệm cuộc chiến Tây Ban Nha đã khiến George Orwell bừng tỉnh và vỡ mộng về Liên Xô, thôi thúc ông viết hai kiệt tác Trại súc vật1984 để nhận diện chế độ toàn trị kiểu Stalin. Hai tác phẩm kinh điển này bộc lộ thái độ chua xót của tác giả trước những thành quả cách mạng bị đánh cắp và đưa ra những dự cảm đen tối về các chế độ toàn trị tương lai.

Tác giả gửi Văn Việt.

 

 

 

 

Trái Sầu Đâu – Truyện ngắn của Dương Kim Ngân

DUONGKIMNGANVăn Việt: Dương Kim Ngân sinh năm 1980 ở Hà Nội, đang sống ở Hà Nội và làm việc tại Công ty Linh Tâm, chuyên tư vấn về tâm lý tình cảm; cộng tác viên của CSAGA – Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học về Giới, Gia đình, Trẻ em, Vị thành niên. 

Chị có hai con nhỏ: con gái 9 tuổi, con trai hơn 2 tuổi và “thực sự mong muốn các con sống trong môi trường không còn những định kiến khiến chúng không thể sống theo cách chúng muốn”.  

Chị viết Trái Sầu đâu chỉ trong một buổi và đó là sáng tác đầu tiên của chị.

 

 

 

 

Tôi đọc Tháng ba, rét nàng Bân, thấy nhà văn Vũ Bằng ví quả Sầu đâu (xoan ta) giống như người đẹp u buồn, vì quả này trong héo, ngoài tươi, chả khác gì những mỹ nhân ngoài miệng thì cười mà thực ra hàng bữa vẫn chan cơm bằng nước mắt.

Lần đầu, tôi thấy thương cho họ.

Lần thứ hai, tôi thấy họ thật đáng thương.

Lần thứ ba, tôi thấy không chỉ họ, mà đa phần phụ nữ, từ thế hệ các bà, các mẹ, các chị, và cả tôi nữa, có thể đều giống thế, nghĩa là đều đáng thương cả. Chả kể là người đẹp hay người không đẹp.

Chuyện của bà nội:

Bà nội chắc chắn là người đẹp, theo đúng chuẩn mực xưa. Nghĩa là da trắng, người mảnh mai, răng đen hạt huyền, cổ cao ba ngấn… và rất nhiều những tiêu chuẩn khác về hình thức. Nghe kể lại là ngày bà trông cửa hàng đồ mây ở phố hàng Thiếc cho các cụ, đến mấy anh quan Pháp còn mê bà như điếu đổ.  

Nhưng bà chưa bao giờ thẳng thắn nhận là mình đẹp về hình thức, có lẽ, cũng giống như bất cứ phụ nữ cổ xưa nào khác, bà chỉ dám tự hào, dám tự kể và tự tin về vẻ đẹp tinh thần, cái nết của mình.

Bà lấy ông năm mười chín tuổi, và ngay lập tức đảm nhận vai trò “tề gia nội trợ” một cách háo hức. Cho đến ngày mất, bà luôn tâm niệm việc chăm sóc chồng con, chu toàn việc nhà chồng là thiên chức của người phụ nữ. Trên đôi vai mình, bà đã gánh cả gia đình và những niềm tự hào khắc khoải.

Mà bà tự hào về việc gì?

Ông nội là người đào hoa, ngày bà bắt đầu mang bố tôi trong lòng cũng là lúc ông đưa người phụ nữ khác về nhà sống. Bác cả kể rằng ông và người phụ nữ đó nằm giường bên trái thì bà cùng các bác nằm giường bên phải, không có đến một tấm ri-đô ngăn giữa.

Có vẻ bà không ghen, hay đã cố gắng để không tỏ là mình ghen. Bà hòa nhã với cô vợ hờ và vẫn phục tùng chồng. Bà coi việc “trai năm thê bẩy thiếp” là chuyện bình thường, bà phấn khởi thể hiện cái uy của vợ cả, của một phụ nữ biết điều, an phận và nhẫn nhịn chịu đựng cái gông “tam tòng tứ đức” từ mấy nghìn đời đè trên vai mình.  

Bác cả bảo mắt bố tôi giống hệt mắt nhân tình của ông, người phụ nữ mà bà nội có thể nhìn thấy từ giường nằm của mình mỗi đêm. Người phụ nữ ấy nằm gần bà, trong căn nhà của bà, yêu chồng bà và cũng được chồng bà yêu…

Tôi nghe nói khi hoài thai, đứa con trong bụng sẽ giống người mà mẹ hay nghĩ đến. Vậy là chắc chắn bà có nghĩ đến người phụ nữ đó, thậm chí là căm ghét, hận thù, tủi nhục, nhưng bề ngoài bà vẫn bình thản, vẫn tha thứ và rộng lượng. Đó như kiểu một phản xạ có điều kiện mà người ta phải luyện tập trong một thời gian dài. Rất có thể ngày bé bà hiếu động, tinh nghịch nhưng được rèn luyện để trở nên dịu dàng và thùy mị. Rất có thể bà muốn đi học, muốn thành một vĩ nhân, muốn đi đây đi đó, nhưng bị buộc thành một thiếu nữ đảm đang, yêu việc nhà và chỉ muốn ở trong nhà. Dần dà, khi phản xạ có điều kiện trở thành bản năng, bà thản nhiên chấp nhận nằm cạnh chồng mình cùng nhân tình của ông, mặc dù thật đau đớn.  

Mọi chuyện qua đi, những người vợ hờ của ông cũng qua đi, chỉ còn lại bà bên ông. Và bà thường tự hào về điều đó. Sau khi ông mất, vào những dịp giỗ chạp có đầy đủ họ hàng, bà vẫn nhắc lại câu chuyện đó như để chứng tỏ sự rộng lượng, đức hi sinh, lòng kiên nhẫn, vị tha mà một người phụ nữ, đại diện là bà có thể làm được. Liệu đó có phải là đôi cánh giúp bà vượt qua nỗi đau của sự tổn thương?

Chuyện về người phụ nữ tôi chưa từng gặp

Nghe mọi người nói bà ấy khổ vì nhìn trông cái dáng đã thấy không sướng. Tôi không giỏi về nhân tướng học nên không biết cái dáng sướng nó như thế nào và cái dáng khổ nó đáng sợ ra làm sao. Tôi chỉ nghĩ nếu gọi tóc xoăn tự nhiên là khổ thì chắc tai họa đã ập đến với  một phần năm dân số thế giới.

Dù chưa bao giờ gặp bà nhưng tôi có thể đôi phần cảm thấy nỗi đau đó. Trước hết bởi vì tôi là một con người, tôi là một người vợ và cuối cùng, tôi cũng là một người mẹ.

Có con người nào không đau đớn khi bị chà đạp, đánh đập? Có người vợ nào không tủi nhục khi luôn bị chồng nghi ngờ, ruồng rẫy, hắt hủi? Có người mẹ nào không đứt từng khúc ruột khi chứng kiến chồng mình mang đứa con chưa đầy hai tháng tuổi quẳng vào thùng rác – theo đúng nghĩa đen?

Luôn nghi ngờ bà không chung thủy và lấy chuyện đó như một cái cớ để che đậy thói ích kỉ, tính gia trưởng của mình, người đàn ông là chồng của bà, là cha của các con bà chưa bao giờ để cho vợ, con mình có một ngày hạnh phúc. Ông là giáo viên, từng làm phó hiệu trưởng trường Dân tộc Nội trú huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Ông đủ khôn ngoan để luôn biết cách che đậy việc coi thường vợ con bằng cách vu cho họ những điều chưa bao giờ làm và cũng không thể làm.

Ông bảo vợ ngoại tình, theo trai dù bà chung thủy và hi vọng đến cùng quẫn rằng một ngày nào đó sẽ lại được chồng thương yêu và tin tưởng. Ông khẳng định từng ấy đứa trẻ bà có với ông là con người khác mặc dù chúng giống ông từ sợi tóc cho đến màu da, từ dòng máu cho đến mọi tế bào…

Ông vứt một đứa con mới hơn hai tháng tuổi vào thùng rác.

Ông đánh đập, hành hạ và ruồng rẫy một đứa con khác đến nỗi khi nó đã thành một người đàn ông tuổi bốn mươi, vẫn thấy sởn da gà bởi tiếng dép lốp ai đó đang đi giống tiếng roi da mà bố từng dùng để quất mình ngày trước.

Tôi không biết niềm tin của người phụ nữ ấy vào sự thay đổi của chồng lớn đến mức nào khi bà chấp nhận lén cho đi đứa con rứt ruột đẻ ra để làm hòa với chồng, để hi vọng ông tin tưởng và thương yêu mình. Đem cho đứa con là hành động tuyệt vọng nhất mà người mẹ đau khổ ấy có thể làm, dù biết rằng như thế nghĩa là:  

Khi nhìn thấy bất cứ đứa trẻ nào, mẹ sẽ luôn day dứt.

Khi nghe tiếng trẻ gọi “mẹ ơi”, mẹ sẽ giật mình quay lại, và thảng thốt nhận ra đó không phải tiếng con mình.

Vào những đêm đông, mẹ sẽ đau đớn đến đứt ruột, đứt gan khi không biết giờ này con ra sao, ai sẽ ôm con vào lòng, ai sẽ vuốt tóc và hôn lên vầng trán thơm mùi sữa, ai sẽ chăm sóc, nâng niu trong lòng mỗi khi con ốm đau, sài đẹn?

Tôi không biết những cố gắng của người vợ ấy cùng quẫn đến mức nào mà bà nhẫn nhịn khi thấy chồng đánh con đến ngất đi, đuổi nó ra khỏi nhà sống vất vưởng khi mới mười bốn, mười lăm tuổi. Đòn roi quất vào da thịt rồi có ngày sẽ lên da non, liền sẹo, nhưng đòn roi quất vào kí ức, quất vào tiềm thức sẽ mãi còn đó, thỉnh thoảng nó sẽ sống lại, tê tái và buốt giá đớn đau.

Bà đã hiến tế bản thân và con cái cho chồng. Đối với bà, chồng như vị thần ác mà mình vẫn tôn thờ, kính trọng. Tôi cảm thông với nỗi đau của bà, tôi tôn trọng niềm hi vọng và sự chờ đợi của bà nhưng làm sao tôi có thể đồng ý với với sự hi sinh bản thân mù quáng và tuyệt vọng đến vậy?

Thật khốn khổ, vị thần trong lòng bà, người chồng tham lam đó không chấp nhận từng ấy vật hiến tế. Ông ta vẫn bỏ bà đến với người phụ nữ khác, một người có thể không yêu ông ta như bà, chịu đựng ông ta như bà và thần phục ông ta như bà đã từng làm…

Vậy là rất có thể, với một số người, mọi sự hi sinh đều vô nghĩa. Sự chịu đựng, chờ đợi, hi vọng giống như đống củi chỉ tiếp thêm mồi cho đám lửa gia trưởng tham lam thêm bùng lên rừng rực.

Chuyện về những kẻ nô lệ của tự do

Mới tiếp xúc, ai cũng thấy em có vẻ rất tự do. Em có thể vừa có chồng vừa đi công tác quanh năm suốt tháng mà chả bao giờ bị anh ấy bảoi: Em ở nhà đi, sinh con đi, hay nấu cơm cho chồng ăn đi…

Nhưng tự do và có vẻ tự do lại rất khác nhau, mặc kệ hình thức biểu hiện của nó như thế nào!

Không ai hiểu vì sao cô gái bé nhỏ, điềm tĩnh và lơ đễnh đó lại luôn bị tự do thôi thúc. Dường như mỗi lần nghỉ ngơi, ở yên một chỗ hay gắn bó với một người đàn ông là em lại thấy hoảng sợ và bấn loạn. Có lẽ em sợ mình lại giống mẹ, lại tiếp tục cảnh sống trong căn nhà mờ mờ, dưới cái nhìn xoi mói, áp đặt của một ông chồng gia trưởng.

Em ngoại tình, thường thì phụ nữ ít nói ra điều đó. Nhưng em thì khác, em cần nói ra, cần đạp đổ mọi thành kiến, mọi bất bình đẳng giữa nam và nữ. Em muốn thoát khỏi cái vỏ bọc nhỏ bé là bản thân mình để vút lên như một cánh diều, dù là giữa cơn bão. Em khẳng định việc tìm kiếm tình yêu, mặc dù đã có chồng, và cười mỉa vào quan niệm “gái chính chuyên” mà người ta vẫn nói. Bị người đời dè bỉu thì sao? Khinh ghét thì có hề gì? Em có thể làm mọi chuyện để cảm thấy mình đang được tự do, để cảm thấy mình khác hẳn mẹ, khác hẳn sự phụ thuộc, chịu đựng và nhẫn nhục của bà.

Nhiều người nghĩ em đã thoát khỏi những ám ảnh trong quá khứ, nhưng đâu phải, những vết thương đó chưa bao giờ liền sẹo. Em khao khát tự do và bị nó chi phối đến từng giây, từng phút. Đời người, bị giam cầm bởi thành kiến cũng khổ, bị chi phối bởi bất bình đẳng cũng đau, nhưng trở thành nô lệ của tự do thì có hơn gì? Em sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu có thể nghỉ ngơi, có thể ở bên một người đàn ông mà mình yêu, mình cần, mà không cảm thấy hoảng sợ, day dứt và thôi thúc kiếm tìm.

Em giống một kẻ nô lệ của tự do, và làm tất cả chỉ để cảm thấy nó đang tồn tại quanh mình. 

Nghĩ đến nỗi đau của em, tôi nhớ đến bác gái cả, đến rổ lạc luộc và vẻ thảnh thơi của bác trong căn hộ tập thể chỉ hơn hai mươi mét vuông. Chẳng thể lí giải được vì sao tôi luôn cho rằng bác là một phụ nữ hoàn toàn tự do trong khi vẫn sắm vai bà nội trợ chính hiệu. Có lẽ bởi vì trong gia đình bác, mọi công việc đều được san sẻ theo kiểu ai giỏi việc gì thì làm việc đó. Bác trai có thể là người kiếm ra tiền, chịu trách nhiệm kinh tế, nhưng bác gái là người giỏi thu ra, vén vào, giỏi quản lý nhà cửa, con cái. Ai làm việc của người đấy một cách vui vẻ, cố gắng và sẵn sàng chia sẻ nếu người còn lại gặp khó khăn. Giả thử, nếu hai bác có đổi vai trò cho nhau được thì tôi chắc chắn rằng họ vẫn thoải mái và yêu thương như thế, chẳng có gì khác biệt.

Vậy nên, cứ mỗi buổi sáng, sau khi chồng đi dạy, bác bắt đầu ngồi trước ti vi cùng rổ lạc luộc và xem phim. Bác bình thản, vui vẻ và hoàn toàn tự do bởi đã luôn được làm điều mình thích, luôn được sống theo cách phù hợp và yêu thương những người cũng thật lòng thương yêu mình.

Hạnh phúc thật sự nằm ở đâu? Em, một người làm mọi việc để tư do hay bác tôi, một người tự do trong mọi việc mình làm?

Những câu hỏi của con gái

Ngày nhỏ, khi phải sớm học cách nội trợ, cơm nước và lo cho gia đình, tôi hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, vì sao con phải nấu cơm còn em thì không?

Và câu trả lời tôi nhận được thường là:

– Vì con là con gái, còn em là con trai.

Nếu tôi hỏi tiếp:

– Mẹ ơi, vì sao con gái phải nấu ăn, còn con trai thì không?

Và bà sẽ luôn trả lời:

– Vì con gái phải lo chuyện trong nhà, còn con trai thì phải lo chuyện lớn ngoài xã hội.

Vậy là, dù chỉ cách nhau có một tuổi nhưng thế giới của tôi và em trai dường như trái ngược hẳn. Trong lúc em vui vẻ chơi với đám bạn ngoài đường thì tôi ở nhà nhặt rau, vo gạo. Còn khi em đi hết biển này đến núi khác thì tôi ngồi trong phòng học khâu vá và cách nhận biết thế nào là một miếng thịt ngon.

Ngày tôi lấy chồng, Mẹ khấp khởi mừng vì đã đào tạo được một cô dâu tốt, biết nội trợ, dịu dàng, ngoan ngoãn. Chắc mẹ nghĩ, phụ nữ chỉ cần cái vốn như vậy để đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc sau này và mãi mãi về sau.

Oái oăm thay, việc nấu ăn ngon, biết may vá và chăm sóc nhà cửa, con cái không giúp cuộc sống của tôi hạnh phúc theo ước nguyện của mẹ. Kinh nghiệm trong chuyện chọn một mớ rau ngon hay chặt một đĩa thịt gà đẹp chẳng thể ngăn cản những biến cố lớn đến với gia đình nhỏ của tôi. Chồng tôi không thành công trong làm ăn nhưng một người được dạy dỗ để chỉ làm công việc nội trợ như tôi khó lòng cùng anh chia sẻ những khó khăn về mặt kinh tế. Vào lúc đó, tôi bắt đầu nghĩ về công việc riêng và những gì mình có thể làm được ngoài phòng bếp và mấy cái toa-lét phải cọ rửa hàng ngày. Rất có thể hai chúng tôi đang tự khóa mình vào một cái khung cố định trong khi bản thân là những tấm hình động và luôn cần không gian để vẫy vùng.

Tôi nhớ đến một câu chuyện, đại thể là như thế này:

Anh chồng thích nấu ăn, nhưng cô vợ lại nghĩ đó là sở thích kì quặc và khó chấp nhận với một người đàn ông nên cả hai rất hay mâu thuẫn. Một hôm, anh chồng rán cá, anh để nguyên con để trang trí lên đĩa cho đẹp, nhưng cô vợ cứ khăng khăng phải cắt đôi rồi mới rán. Cô bảo: mẹ em nói rán cá thì phải cắt đôi mới ngon. Tức khí, anh chồng gọi điện cho mẹ vợ hỏi rõ lý do tại sao cứ phải cắt đôi con cá. Bà trả lời là từ thời mẹ bà đã làm như vậy, nên bà cứ thế học theo. Anh chàng lại tiếp tục gọi cho mẹ của mẹ vợ, tức là bà ngoại của vợ. Cụ cười móm mém, bảo rằng phải cắt đôi con cá rồi mới rán vì ngày xưa nhà nghèo, không có chảo to, nên mới cần làm như thế…

Nghe nói sau khi biết được nguyên nhân khiến con cá phải cắt đôi, vợ anh chàng này không bao giờ khó chịu khi thấy chồng nấu ăn nữa. Cô ấy biết rằng, đàn ông cũng như phụ nữ, đều có thể thích và nấu ăn ngon được như nhau.

Nhìn lại chồng mình, tôi thấy thương cho anh, và cả cho tôi nữa,vì trong khi anh cố gồng mình để làm một người đàn ông – theo tiêu chuẩn đàn ông của nhiều người – thì tôi cũng cố gồng mình để không khỏi thoát cái mẫu người phụ nữ – theo tiêu chuẩn phụ nữ của nhiều người. Chúng tôi đều giống nhau, như con cá bị cắt khúc nằm trong cái chảo định kiến bé tí tẹo, đang cố gắng để tự gắn liền mà không biết rằng mọi việc chỉ là cần chuyển sang một cái chảo rộng hơn.  

***

Tôi đã đọc bài thơ Hỏi của Giả Bình Ao từ nhỏ và cố gắng tìm lại được nó vì rất muốn đọc cho con gái mình nghe:

Hỏi

Mẹ ơi, mẹ bảo quả táo trên cây chín đỏ là nhờ có mặt trời. Thế thì củ cải đỏ lớn lên trong lòng đất vì sao mà đỏ?
Mẹ ơi, mẹ bảo gà trống gáy thì trời sáng, thế sao gà trống chết rồi mà trời vẫn sáng?

Mẹ ơi, mẹ bảo con không nên hỏi mẹ như vậy, vì làm mẹ không bao giờ sai. Vậy thì con cũng sẽ không bao giờ sai, vì sau này con cũng là mẹ.

Thật tuyệt vời, vì con gái chúng ta một ngày nào đó cũng sẽ làm mẹ, và cháu cũng sẽ nhận được những câu hỏi như trước kia tôi từng hỏi. Chỉ có điều, sẽ là một câu trả lời khác hẳn, kiểu như:

– Mẹ ơi, vì sao con phải học nấu ăn?

– Vì rất có thể, một hôm nào đó, chồng con sẽ mệt, và con cần chia sẻ việc nhà với chàng ta, đúng không nào?

Tác giả gửi Văn Việt.

Thua Tàu trên mặt trận thông tin?

GS TS Nguyễn Văn Tuấn (Australia)

 

Nhiều khi đọc tin tức từ Việt Nam tôi cảm thấy bức bối, khó chịu và bất lực. Trong khi Việt Nam đang bàn về có nên kiện Tàu ra tòa án quốc tế, thì họ đã làm trước ta. Trong khi các quan chức ngoại giao bận rộn họp báo ở Hà Nội thì ở bên Mĩ họ đã lên đài CNN xuyên tạc ta. Nay Bộ Ngoại giao Tàu cộng còn đệ trình lên Liên Hiệp Quốc rằng Việt Nam khiêu khích họ. Họ toàn nói ngược, nhưng nói trước Việt Nam. Những bản tin như thế làm tôi bực mình vì chẳng biết các quan chức Việt Nam ở đâu mà không “phản công” kịp thời, và để cho Tàu làm trước và tự tung tự tác như thế. Tôi tự tin rằng nếu mình trong vai trò có trách nhiệm mình sẽ làm hết mình để huy động chuyên gia hay chính mình phản bác từng điểm một của Tàu và tận dụng mọi thời cơ và thời gian. Nhưng mình chẳng có vai trò gì, mà chỉ là người xem từ xa, và do đó cảm thấy bất lực.

Thật ra, Việt Nam cũng thua Tàu cộng trên mặt trận khoa học. Trên các tập san khoa học quốc tế, tính đến nay có khoảng 50 bài nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa. Trong số này phân nửa là xuất phát từ Tàu cộng. Việt Nam chỉ có 3 công trình liên quan, và phần lớn chỉ từ Ts Nguyễn Hồng Thao. Tôi tự hỏi mấy người làm về khoa học xã hội trong Viện Khoa học Xã hội ở đâu và làm gì trong mấy chục năm qua? Rất có thể thời gian qua, họ không được quan tâm đến vấn đề này thì cấp trên không cho phép vì đảng vẫn còn “nồng ấm” với Tàu. Cũng có thể họ có quan tâm nhưng vì chưa làm quen với văn hoá công bố quốc tế và văn hoá khoa học, nên tiếng nói từ Việt Nam còn rất hạn chế. Nhưng trong học thuật, chứng từ rất quan trọng, và bài báo khoa học là chứng từ. Thành ra, khi xem xét chứng cứ, giới học thuật sẽ nghiêng về Tàu cộng hơn là Việt Nam.

Tôi nghĩ vấn đề Biển Đông là rất hệ trọng, đòi hỏi phải có sự can thiệp và tiếng nói của cấp cao nhất của Nhà nước. Ấy thế mà các lãnh đạo, ngoại trừ thủ tướng, đều im lặng. Người Tây phương có câu “im lặng đáng sợ” rất thích hợp trong bối cảnh hiện nay. Trong không khí im lặng đáng sợ đó thì có dấu hiệu đùn đẩy. Ngư dân “được” khuyến khích ra vùng biển tranh chấp để hứng chịu những cú húc của Tàu cộng, và thậm chí chịu chết. Nhà nước không kiện Tàu cộng nhưng đùn đẩy việc làm đó cho… ngư dân! Bao nhiêu thiết bị hiện đại và đắt tiền không phát hiện Tàu cộng đang xây công trình ở Gạc Ma, nhưng ngư dân phát hiện và… tố giác! Người bình thường như chúng ta đọc những tin đó còn phì cười, huống chi là Tàu cộng. Nếu muốn “chơi game” thì cũng nên chọn cách chơi cho sòng phẳng và chính danh, chứ cứ núp ló như thế thì còn gì là thể diện quốc gia. Tàu cộng chúng nó “chơi game” cấp thấp, chẳng lẽ Việt Nam cũng thấp như chúng hay sao?

Trong khi chính quyền tỏ thái độ nhũn nhặn, khiêm cung và núp ló với kẻ thù (có thể xem Tàu cộng là kẻ thù), thì trong nước người đấu tranh chống kẻ thù một cách ôn hòa lại bị sách nhiễu. Đọc lá thư của thi sĩ Đỗ Trung Quân và thư trả lời của nhà văn Nguyên Ngọc tôi rất sốc. Tôi không ngờ một người hiền lành như Đỗ Trung Quân mà bị an ninh giam lỏng như anh mô tả. Đọc thư của nhà văn Nguyên Ngọc tôi mới biết những ai kí tên vào Văn đoàn Độc lập Việt Nam đều bị – không ít thì nhiều – sách nhiễu. Tại sao lại đối xử với người dân mình một cách thù hằn như thế, trong khi với kẻ thù thì lại tỏ ra quá nhẫn nhịn và khiêm cung?

Việt Nam đang thua Tàu cộng trên mặt trận thông tin, và đó là sự thật. Chúng ta thua không phải vì chúng ta bất tài hay thiếu lẽ phải, mà vì những qui trình mang tính thiết chế giới hạn khả năng ứng phó của các quan chức và giới khoa học. Trong môi trường phải chờ “ý kiến cấp trên” thì việc phản bác quá chậm trễ và chẳng có tác dụng gì. Trong môi trường mà quan chức dè dặt và sợ hãi cái ghế của mình thì im lặng có lẽ là lựa chọn duy nhất của họ. Nếu trong môi trường tự do học thuật và tự do tư tưởng, mỗi khi có quan điểm sai trái và bất lợi cho Việt Nam, các học giả ở ngoài có thể phản bác lập tức. Do đó, để không thua Tàu cộng trong mặt trận thông tin, cần phải tháo gỡ những cái gọi là “chờ ý kiến cấp trên” cho giới học thuật, và trả tự do cho các văn nghệ sĩ.

 

Theo FB Nguyễn Văn Tuấn

Nguyễn Huy Thiệp và bước ngoặt của Văn học Việt Nam sau năm 1975 (kỳ 1)

Lã Nguyên

 

“Trong văn học, ý nghĩa vừa bền bỉ tự bộc lộ, vừa khăng khăng một mực lẩn tránh, tức là, nó chẳng phải là gì khác, mà là một ngôn ngữ, một hệ thống ký hiệu, bản chất của nó không nằm ở thông tin được nó hàm chứa, mà nằm ở bản thân tính “hệ thống”. Bởi thế nhà phê bình không cần tái tạo thông tin của tác phẩm, mà chỉ cần tái tạo hệ thống của nó, hệt như nhà ngôn ngữ không cần nghiên cứu việc giải mã ý nghĩa của câu, mà phải xác lập cấu trúc hình thức đảm bảo cho nó truyền đạt cái ý nghĩa ấy”.

(R. Barthes – Phê bình là gì?)

 

Kỳ 1

 

1. Dẫn nhập

1.1. Mọi bước ngoặt của lịch sử văn học đều là bước ngoặt của ngôn ngữ nghệ thuật. Xin nói ngay, tư liệu khảo sát ở tiểu luận này được giới hạn trong phạm vi văn học Việt Nam giai đoạn 1975-1991. Khảo sát phạm vi tư liệu ấy, trong ý thức phân kì lịch sử của tôi, có hai cột mốc quan trọng được đánh dấu bằng sáng tác của hai nhà văn họ Nguyễn: Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Minh Châu là người mở đường cho tiến trình đổi mới văn học Việt nam sau 1975. Nguyễn Huy Thiệp là tác giả đầu tiên tạo ra bước ngoặt quan trọng nhất của tiến trình đổi mới ấy.

Vậy bản chất của bước ngoặt đổi mới này là gì? Văn học là một nghệ thuật. Nghệ thuật là hình thức diễn ngôn, là phương tiện giao tiếp có chức năng truyền đạt, lưu giữ và sáng tạo thông tin của cá nhân và xã hội. Nhìn từ góc độ như thế, nghệ thuật là một ngôn ngữ. Cho nên, mọi sự đổi mới văn học theo đúng nghĩa của nó đều dẫn tới sự cách tân ngôn ngữ nghệ thuật. Chỉ khi nào tạo ra được bước ngoặt của ngôn ngữ nghệ thuật thì mới có khả năng đưa lịch sử văn học chuyển qua một bước ngoặt mới.

Tôi cho rằng, trong lịch sử văn học Việt Nam sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu là tác giả đầu tiên có ý thức rõ nhất về nhu cầu đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật. Xin nhớ lại truyện Bức tranh ra đời vào năm 1975 của ông. Nhân vật người kể chuyện ở đây là một hoạ sĩ. Độc giả từng quen thuộc với nền văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa sẽ thấy qua lời kể của nhân vật kể chuyện lộ ra mấy điểm đáng lưu ý về bức tranh mà anh ta vừa vẽ xong. Thứ nhất: đây không phải là bức tranh hoành tráng theo kiểu tạc tượng đài các anh hùng thời đại, mà là bức vẽ về thế giới nội tâm đầy bí ẩn của “tôi”, là “khuôn mặt bên trong của chính mình”, “thoạt nhìn xấu xí lạ lùng”. Thứ hai: tác giả tranh không nhập vai người chiến thắng để hát ca, không nhân danh kẻ sở đắc chân lí để thuyết giảng, dạy bảo, mà trò chuyện với cử toạ bằng mặt nạ ngôn ngữ của một tội đồ sám hối, “tự phán xét” bản thân. Thứ ba: nó bỏ “thuốc nước”, thứ “nghệ thuật chấm phá của thần bút”, và “sơn mài” với “không khí lấp lánh hư ảo” để đến với “sơn dầu” cho phù hợp với nội dung biểu đạt [1]. Ba điểm ấy hợp lại với nhau ngầm bảo người đọc, rằng quá trình đổi mới văn nghệ là quá trình giải quy phạm, chuyển đổi hệ hình diễn ngôn. Nó báo hiệu bước ngoặt diễn ra trong văn học sau 1975 sẽ là bước ngoặt của ngôn ngữ nghệ thuật.

Bức tranh của Nguyễn Minh Châu được mở đầu bằng đoạn văn thế này: “Tôi là một hoạ sĩ. Tôi không phải là một người viết văn. Tôi phải tự giới thiệu như vậy ngay từ đầu không hề có ý muốn mong chờ hay cầu khẩn nơi bạn đọc một thái độ rộng lượng. Ngay từ đầu, tôi phải nói như vậy để tự dặn mình, tự ra lệnh cho mình, tôi viết truyện này ra đây là viết cho tôi, cho một bức tranh tôi vừa vẽ xong. Thứ nữa, tôi viết cho một người thứ hai. Viết cho tôi hoặc cho một người thứ hai, một người thợ cắt tóc, thì những điều tôi sắp viết ra đây cũng chỉ là những lời tự thú” [2]. Có thể thấy, đây là đoạn văn rào đón. Nó chứng tỏ, người mở đường cho sự đổi mới văn nghệ giữ thái độ hết sức dè dặt. Vì dè dặt, sáng tác của Nguyễn Minh Châu không thể chọc thủng mạng lưới huý kị dày đặc của hệ hình diễn ngôn đã trở thành khuôn vàng thước ngọc kiểu cũ [3]. Khát vọng đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu tuy da diết, nhưng sự đổi mới trong sáng tác của ông không thể thực hiện triệt để. Xuất hiện vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi xã hội chưa được phép “cởi trói”, văn xuôi Nguyễn Minh Châu trở thành nhịp cầu nối hai thời đại văn học.

Từ năm 1986, xu hướng đổi mới trong văn nghệ Việt Nam chuyển qua giai đoạn cao trào, diễn ra hết sức sôi nổi. Thoạt đầu là những tuyên ngôn lí thuyết rầm rộ. Báo chí cả nước luận bàn về văn học với hiện thực, nghệ thuật và chính trị. Nguyễn Minh Châu kêu gọi: Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ [4]. Kế đến, hàng loạt phóng sự, bút kí làm xôn xao dư luận với những Tiếng đất của Hoàng Hữu Cát, Người đàn bà quỳ của Xuân Ba, Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang… Rồi kịch Lưu Quang Vũ kéo khán giả nườm nượp đến nhà hát, làm thành hiện tượng chấn động. Bộ phận sáng tác tạo nên diện mạo vừa đa dạng, vừa độc đáo của văn học thời đổi mới là truyện ngắn và tiểu thuyết với hàng loạt tên tuổi: Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Lập, Nhật Tuấn, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Ngô Ngọc Bội, Lê Thị Minh Khuê…

Tuy nhiên, trên cái nền của văn học thời này, theo cách đọc của tôi, có lẽ chỉ riêng Nguyễn Huy Thiệp có được những tác phẩm vươn tới sự hoàn thiện nghệ thuật, xứng đáng được gọi là những kiệt tác. Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Khải từng bảo, như tôi được nghe nhiều bạn văn kể lại, ông sẵn sàng đem cả đời văn của mình để đổi lấy một Tướng về hưu. Quan trọng hơn, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp thực sự tẩy sạch hệ thống huý kị và trật tự diễn ngôn kiểu cũ để tạo ra một hình thức diễn ngôn kiểu mới. Cho nên, đọc tác phẩm của ông ta bắt gặp một ngôn ngữ nghệ thuật đầy tính cách tân chứa đựng năng lượng biểu đạt lớn lao đáng kinh ngạc. Tôi gọi sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là bước ngoặt của tiến trình đổi mới văn học sau 1975 với ý nghĩa như vậy.

1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật là hệ thống phái sinh được sử dụng trong giao tiếp thẩm mĩ. Tiểu luận này đặt nhiệm vụ phân tích sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp để làm rõ bước ngoặt lịch sử của văn học Việt Nam sau 1975 như là bước ngoặt của ngôn ngữ nghệ thuật.

Vậy ngôn ngữ nghệ thuật là gì? Có ba điểm cần lưu ý khi khi xác định khái niệm này.

Thứ nhất: hiểu theo nghĩa rộng, mọi hệ thống kí hiệu được sử dụng trong giao tiếp đều là ngôn ngữ. Có ngôn ngữ máy và ngôn ngữ loài vật. Có ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ nhân tạo. Có ngôn ngữ bằng lời và ngôn ngữ điệu bộ. Có ngôn ngữ khoa học và ngôn ngữ nghệ thuật; trong nghệ thuật lại có ngôn ngữ hội hoạ, ngôn ngữ kiến trúc, ngôn ngữ vũ đạo, ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ nhà hát, ngôn ngữ điện ảnh, ngôn ngữ văn học. Giữa chúng có một điểm thống nhất: dù ngôn ngữ gì, chúng vẫn là những cấu trúc biểu nghĩa.

Thứ hai: văn học nghệ thuật “nói” bằng một ngôn ngữ đặc biệt. Loại ngôn ngữ đặc biệt này được kiến tạo chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên như một hệ thống phái sinh. Diễn đạt theo R. Barthes, nó là hệ thống kí hiệu của tư tưởng, có khả năng sinh ra tư tưởng. Xin dẫn một thí dụ dễ hiểu. Sông Đông êm đềm của M. Solokhov viết bằng tiếng Nga. Rừng thẳm tuyết dày của Khúc Ba viết bằng tiếng Hoa. Gió lộng của Tố Hữu viết bằng tiếng Việt. Tất cả những tác phẩm ấy đều thuộc phạm trù văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ta nhận ra điều đó vì văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa nói bằng ngôn ngữ riêng, ngôn ngữ của tư tưởng nghệ thuật. Nó được kiến tạo trên nền tảng của tiếng tiếng Nga, tiếng Hoa, tiếng Việt, hay tiếng Đức, tiếng Pháp… Nhưng tiếng Việt, tiếng Hoa, tiếng Nga, tiếng Đức, hay tiếng Pháp tự chúng không phải là ngôn ngữ nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cho nên không được đồng nhất ngôn ngữ nghệ thuật với ngôn ngữ gốc, ngôn ngữ tự nhiên như nhiều người vẫn thường nhầm lẫn.

Thứ ba: là hệ thống phái sinh, ngôn ngữ nghệ thuật là một trật tự đẳng cấp phức tạp của nhiều ngôn ngữ có quan hệ tương tác, nhưng hoàn toàn khác nhau. Từ trong bản chất, văn bản nghệ thuật là hiện tượng đa ngữ. Là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ, những ngôn ngữ ấy mang tính đơn nhất, tồn tại trong văn bản như những “tử ngữ”. Tiếp xúc với văn bản, muốn đọc, độc giả phải mày mò, tìm kiếm, làm sống dậy cái ngôn ngữ giống như đã “hoá thạch” kia. Cho nên, một văn bản nghệ thuật bao giờ cũng tồn tại nhiều cách đọc, cách đọc nào cũng chỉ là sự thử nghiệm tiềm ẩn nhiều bất cập và sai lầm.

Năm 2001 Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin ấn hành). Đọc cuốn sách, thấy hoá ra, trong quá trình tìm kiếm, giới phê bình không chỉ phân tích ngữ nghĩa, mà còn tranh luận gay gắt về cách đọc sáng tác của nhà văn. Quả là có rất nhiều cách đọc văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều đặc điểm ngôn ngữ trong sáng tác của ông đã được giới phê bình phát hiện nhờ có những cách đọc tinh tế. Cũng có nhiều cách đọc nhầm lẫn. Không ít người đọc văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp bằng cách đọc truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, hay cách đọc lịch sử học trong các giáo khoa thư. Lại có người đọc sáng tác của ông bằng ngôn ngữ chính trị, ngôn ngữ ngoài văn bản. Ta hiểu vì sao những cuộc tranh luận về sáng tác của ông không chỉ sôi nổi, mà còn gay gắt, thậm chí có cả xu hướng qui chụp đầy ác ý.

Tiểu luận này không thể đọc Nguyễn Huy Thiệp bằng tất cả các mã nghệ thuật mà tôi giả định là ông đã sử dụng trong sáng tác. Cho nên, tôi chỉ dừng lại ở một loại ngôn ngữ có quan hệ mật thiết với bình diện khiến sáng tác của ông trở thành bước ngoặt của văn học Việt Nam sau 1975: ngôn ngữ không gian.

2. Từ không gian nhà binh đến không gian sinh hoạt. Bước ngoặt của loại hình ngôn ngữ trong văn học sau 1975

Chắn chắn, không gian là loại ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật. Có hai lí do cơ bản khiến không gian được nghệ thuật sử dụng như một ngôn ngữ biểu đạt. Lí do thứ nhất liên quan tới đặc điểm tri nhận của con người. Nhiều tài liệu khoa học đã chứng minh, ngay những khái niệm trừu tượng nhất, con người vẫn quen hình dung chúng như các đối tượng thị giác. Cho nên, nhận thức thị giác là một trong những phương thức quan trọng giúp con người chiếm lĩnh vạn vật. Chiếm lĩnh bằng thị giác có nghĩa là nắm bắt đối tượng qua màu sắc, đường nét, qua kích cỡ của nó trong không gian, lấy cấu trúc không gian làm phép tắc biểu đạt. Lí do thứ hai liên quan tới đặc trưng của văn bản nghệ thuật. Mỗi văn bản nghệ thuật là một không gian được phân giới theo những kiểu nào đó, một không gian thu nhỏ, hữu hạn phản ánh bên trong một đối tượng vô hạn là thế giới bên ngoài văn bản. Nhà hát và các nghệ thuật tạo hình được gọi là nghệ thuật không gian vì đó là những bộ môn nghệ thuật sử dụng không gian như ngôn ngữ chính yếu. Cứ vào nhà hát, nhìn lên sân khấu, thấy xung quanh bao nhiêu phông màn, cánh gà, phía trước lại có hàng đèn chia tách sàn diễn với khu vực khán giả, ta sẽ nhận ra ngay, văn bản nghệ thuật thuật là một không gian được giới hạn theo những phép tắc nghiêm nhặt. Những phép tắc nghiêm nhặt này làm thành ngôn ngữ riêng của nhà hát. Phải có ngôn ngữ riêng như vậy, sân khấu mới biến thành vũ trụ thu nhỏ đầy tính ước lệ, cho phép con người “cởi trần tư tưởng” để tự nói to lên trước bàn dân thiên hạ những suy ngẫm thầm kín của mình. Trong sáng tác văn học, do không gian thường có tên gọi, nhiều khi tên gọi gắn với những địa danh mà độc giả quá quen thuộc, nên người ta dễ dàng đồng nhất nó với không gian địa lí. Thực ra, ngay cả ở đây, không gian cũng được mô hình hoá để trở thành một hệ thống kí hiệu giống như trong các loại hình nghệ thuật không gian.

Có hai cơ sở giúp tôi chọn tổ chức không gian như một ngôn ngữ để đọc sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.

Thứ nhất, chỉ đơn giản là một giả định. Nguyễn Huy Thiệp là nghệ sĩ tài hoa của đồ hoạ gốm sứ, một loại nghệ thuật đầy tính cách điệu, xa lạ với mọi xu hướng tả chân. Ông viết kịch bản, dựng nhiều vở diễn sân khấu và điện ảnh. Hoạt động nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp cho phép tôi giả định về vị trí của ngôn ngữ không gian trong tư duy văn xuôi của ông.

Thứ hai, từ thực tế khảo sát. Qua khảo sát, tôi thấy, với Nguyễn Huy Thiệp, phạm trù không gian hình như quan trọng hơn phạm trù thời gian. Cách phân đoạn truyện ngắn, tiểu thuyết và cách dựng cảnh trong kịch của của ông dường như chẳng mấy khác nhau. Mỗi chương, mỗi đoạn trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp thường giống như một cảnh, hay một lớp diễn. Thành thử, gần như truyện nào của ông cũng có sẵn phần cốt lõi để chuyển thành kịch bản. Ở một số trường hợp, khi đem truyện ngắn chuyển thể thành kịch bản, tôi thấy Nguyễn Huy Thiệp chẳng phải thay đổi trật tự lớp lang của nó. Ví như truyện Không có vua được chia thành “7 cảnh”: Gia cảnh – Buổi sáng – Ngày giỗ – Buổi chiều – Ngày Tết – Buổi tối – Ngày thường [5]. Bảy cảnh ấy được chuyển thành “7 hồi” của kịch bản Quỷ ở với người [6]. Nhưng chuyện về mối quan hệ giữa đồ hoạ, sân khấu và văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp không phải là chủ đề của tiểu luận này, nên đành để vào một dịp khác mới có thể nói kĩ hơn.

Chủ đề cần nói ở đây là sự khác biệt gay gắt giữa hai mô hình không gian trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và trong văn học trước 1975. Văn học trước 1975 lấy không gian “nhà binh” làm ngôn ngữ chính yếu. Ngôn ngữ chính yếu trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là không gian sinh hoạt thường nhật.

Ta biết, quảng tính là phẩm tính cơ bản của không gian. Trong văn học, phẩm tính này được mô hình hoá bằng nhiều phương thức khác nhau. Gọi tên là một cách mô hình hoá của nó. Mỗi loại hình ngôn ngữ không gian bao giờ cũng có một cách gọi tên rất riêng. Chức năng của nó là tạo ra bức tranh thế giới bằng ngôn từ, gây ấn tượng về sự liền mạch của không gian. Ta nhận ra trong văn học trước 1975, không gian nhà binh trở thành ngôn ngữ, vì ở đây kho từ vựng nhà binh và lớp thuật ngữ quân sự được sử dụng để miêu tả vạn vật, biến toàn bộ thế giới đa dạng thành một “continuum” của những sự vật cùng loại.

2.1. Không gian nhà binh như một loại hình ngôn ngữ trong văn học trước 1975. Trước hết, có thể thấy, hơn ba mươi năm văn học, ở giai đoạn 1945 – 1975, “mặt trận” là từ chủ chốt được sử dụng để mô hình hoá không gian. Mọi không gian sinh tồn của con người đều gọi là “mặt trận”. Nguyễn Đình Thi viết Mặt trận trên cao (1967). “Trên cao” là “mặt trận”. Đọc Đất quê ta mênh mông của Dương Hương Ly, thấy “Hầm mẹ giăng như lũy như thành”. Trong Ngày và đêm của Bùi Công Minh, có “Bục giảng dưới hầm sâu…”. “Lòng đất” là “mặt trận”. Trên mặt đất, toàn bộ đời sống là một “trường tranh đấu”. Từ “ruộng rẫy” đến nhà máy, từ rừng núi đến thành thị, đâu đâu cũng là “mặt trận”. Không gian “mặt trận” bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động xã hội: quân sự và chính trị, ngoại giao và kinh tế, ngay cả “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận” [7].

Trong mô tả nghệ thuật, không gian luôn gắn chặt với thời gian. M. Bakhtin đưa ra khái niệm “không – thời gian” (“chronotope”) có lẽ là với ý như vậy. Cho nên, một khi đã mô hình hoá không gian bằng ngôn ngữ nhà binh, người nói tất cũng sẽ dùng ngôn ngữ ấy mô hình hoá thời gian. Không gian là “mặt trận”, thời gian sẽ được tính bằng “chiến dịch”. “Anh đang mùa hành quân. Pháo lăn dài chiến dịch” (Ngày và đêm – Bùi Công Minh). Ở đây, “chiến dịch”, “mùa hành quân” có ý nói thời gian trong một năm. “Chiến dịch” lại đồng nghĩa với “phong trào”: “Đảng ta con của phong trào” (thơ Tố Hữu). Cho nên, “phong trào”, “chiến dịch” còn là mốc giới thời gian lịch sử: sử Đảng và sử nước. Tố Hữu thường bắt đầu câu chuyện lịch sử từ “Trống Xô-viết Nghệ An vang động” [8]. Trong nhiều bài thơ viết theo lối diễn ca của ông, sau “Trống Xô-viết Nghệ An”, thường có một loạt “phong trào” được liệt kê tuần tự, làm thành cái sườn của câu chuyện lịch sử: “Khắp năm châu, trận tuyến bình dân” – “Bắc Sơn phất ngọn cờ đầu”’ – “Nam Kỳ khởi nghĩa bắc cầu tiến lên” – “Mùa thu cách mạng thành công” – “Chín năm kháng chiến thánh thần” – “Chín năm làm một Điện Biên” – “Đường thống nhất chân ta bước gấp” – “Dân có ruộng dập dìu hợp tác” … (tr. 243 – 252). Quy luật vận động lịch sử được nhà thơ đúc kết thành công thức: “Phong trào tạm lắng, phong trào lại lên” (tr. 245). Công thức ấy trở thành điển phạm của lối kết cấu diễn ngôn “tiền công hậu bổ”, được tuân thủ triệt để trong toàn bộ sáng tác văn học trước 1975.

Trong không gian “mặt trận” và thời gian “chiến dịch”, mọi người đều chung một danh xưng: “chiến sĩ”. Các lão nông như ông Đẩu và ông Hoạch trong Con trâu (1952) của Nguyễn Văn Bổng là “chiến sĩ”. Trai gái như Mị và A Phủ trong Vợ chồng A Phủ (1952) của Tô Hoài đều là du kích. Trong Vùng mỏ (1952) của Võ Huy Tâm, thợ thuyền như Tuấn và Bảo là “chiến sĩ”. Nghệ sĩ là “chiến sĩ” trên “mặt trận văn hoá nghệ thuật”. “Bục giảng dưới hầm sâu”, giáo viên là “chiến sĩ” trên mặt trận giáo dục. Trong thơ Tố Hữu, Bà má Hậu Giang, mẹ Tơm, mẹ Suốt là “chiến sĩ”, bé Lượm là “chú đồng chí nhỏ… Sợ chi hiểm nghèo”. Chào xuân 67, Tố Hữu hân hoan:

31 triệu nhân dân

Tất cả hành quân

Tất cả thành chiến sĩ. [9]

Cuối cùng, vạn vật sinh tồn trong không gian “mặt trận” đều được gọi là “vũ khí”. Ở đây, mọi công cụ đều biến thành khí cụ. Búa liềm là “vũ khí”. Bút mực là “vũ khí”. “Cuốc cày” cũng là “vũ khí” để “hậu phương thi đua với tiền phương”. Con ong, tổ kiến, hòn đá, cái cây là “vũ khí”. Trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, dân làng Kông Hoa dùng đá làm “bẫy” tiêu diệt quân thù. Mỗi khi nói tới tre, hình như nhà văn nào cũng nghĩ ngay nó chính là vũ khí. Nhiều thế hệ học trò từng học thuộc hai bài Tre Việt Nam: một bài là thơ Nguyễn Duy, một bài là tuỳ bút của Thép Mới. Trong thơ Nguyễn Duy, tre “nên luỹ nên thành”. Trong tuỳ bút của Thép Mới, “rặng tre xanh là chiến luỹ bảo vệ làng mạc, xóm thôn”, cây tre “làm gậy, vót chông”, “gậy tre, chông tre kiên cường chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng đại bác…”. Hệt như luỹ tre ở miền Bắc, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, cũng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…”. Thú vị nhất là khi chưa thành vũ khí, cỏ cây đã mang dáng hình khí cụ. Tre của Nguyễn Duy “Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”. Trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành, những cây xà nu con mới mọc lên, “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên trời”. Tôi cho rằng, trong văn học trước 1975, thơ Tố Hữu là nơi thể hiện rõ nhất không gian nhà binh như một thứ ngôn ngữ. Ông có nhiều câu thơ mang sức nặng khái quát về kho vũ khí vô tận của “31 triệu nhân dân… thành chiến sĩ”. Trong thơ ông, “lưỡi lê, lưỡi mác”, “tên lửa, tên tre”, “và thuyền, và xe”, “với cách mạng đều là vũ khí”. Rừng cây là “vũ khí”. Núi đá là “vũ khí”. Cả “đất trời” là “chiến khu”:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng. [10]

Khái quát lại, có thể nói, trong văn học trước 1975, nằm ở vị trí trung tâm của bức tranh thế giới bằng ngôn từ là bốn từ định danh: “mặt trận” – “chiến dịch” – “chiến sĩ” – “vũ khí”. Những từ ấy đã mô hình hoá không gian trong sáng tác nghệ thuật, biến không gian thành một hệ thống kí hiệu, một cấu trúc biểu nghĩa mà tôi gọi là ngôn ngữ nhà binh.

2.2. Không gian sinh hoạt như một loại hình ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Có một ngôn ngữ không gian hoàn toàn khác trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Chẳng phải âm vang của ngôn ngữ nhà binh không còn dội vào trang văn của ông. Để dễ hình dung, xin trích hai đoạn đối thoại trong Tướng về hưu:

Đoạn thứ nhất: “Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cô Lài cũng thế. Tôi cười: “Cha bình quân!”. Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ” (tr. 21. Những chữ in đậm do tôi nhấn mạnh – LN).

Đoạn thứ hai: “Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi. Ông bảo: “Trong này cha có ghi chép ít điều, con đọc thử xem”. Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi: “Ông đi ra trận hả ông?”. Cha tôi bảo: “Ừ”. Cái Vi hỏi: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?”. Cha tôi chửi: “Mẹ mày! Láo!” (tr. 35. Những chữ in đậm do tôi nhấn mạnh – LN).

Hai đoạn trích mô tả cực kì sinh động xung đột ngôn ngữ. Những chữ tôi cố ý nhấn mạnh cho thấy, đây là xung đột giữa ngôn ngữ nhà binh và ngôn ngữ dân sự, ngôn ngữ sinh hoạt thường nhật. Đằng sau xung đột ngôn ngữ là xung đột thời đại, xung đột thế hệ. Ngôn ngữ nhà binh là ngôn ngữ của cha ông, thuộc về thời đại trước. Ngôn ngữ sinh hoạt dân sự là ngôn ngữ của cháu con, hậu bối. Mô tả xung đột ấy, ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp không che giấu “tính xu hướng”. Ở đây, ngôn ngữ nhà binh vang lên giữa những tiếng nói xô bồ, mất hết quyền uy, trở thành “quá khứ giễu nhại”; ưu thế nghiêng hẳn về phía ngôn ngữ sinh hoạt, về phía “cái đương đại đang tiếp diễn” (chữ của M. Bakhtin). Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là cuộc chia tay nhẹ nhàng, nhưng dứt khoát, không chút lưu luyến với ngôn ngữ nhà binh.

Những chuyện được kể lại trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp thường diễn ra ở làng, ngoài phố, trên rừng, hay trong bản. Ngay cả những truyện viết về vua quan, thủ lĩnh nghĩa quân, hay các nhân vật lịch sử cũng không phải là ngoại lệ. “Rừng”, “bản”, “làng”, “phố” là không gian của sinh hoạt thường nhật. “Topos” chủ yếu được sử dụng trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp để mô hình hoá cái không gian sinh hoạt ấy là “nhà”. Xin lưu ý, nó rất khác với “nhà” trong văn học trước 1975. Trước 1975, “nhà” là “hậu phương” nối liền với “tiền tuyến”. Nó là “nhà” “mẹ chiến sĩ”: “Buồng mẹ – buồng tim – giấu chúng con” (Mẹ Tơm – Tố Hữu). Nó còn là nơi bàn chuyện đánh giặc, bàn việc nước, việc quân, như “nhà” má Sáu, chị Sứ trong Hòn Đất của Anh Đức.

“Nhà” của Nguyễn Huy Thiệp là “nhà” theo ý nghĩa thông thường. Nó là nơi người ta sinh ra và dành để lúc già,“cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Mười hai tuổi, ông Thuấn bỏ nhà ra đi, suốt đời “gắn với súng đạn, chiến tranh”, bảy mươi tuổi, “việc lớn… làm xong”, ông lại “về nhà”. Nó là nơi “chôn nhau cắt rốn”, hiện thân của quê hương bản quán, được bao bọc trong không khí, hơi hướm của “làng”, của “bản”, hay của “phố”. “Nhà” là “gia sản”, con cháu nối đời “ăn” thừa tự. Phạm Ngọc Liên xây “nhà”, con cháu “ăn” thừa tự có tới năm đời: Phạm Ngọc Liên – Phạm Ngọc Gia – Phạm Ngọc Chiểu – Phạm Ngọc Phong – Phạm Ngọc Tâm. Nó là nơi sớm tối đi về, là hiện thân của “gia cảnh”. Bậc “đại phú” như Tạ Ngọc Liên có cả một “dinh cơ đồ sộ, giữa là nhà thờ ba gian, chạm trổ long, li, qui, phượng. Nhà tiền tế năm gian, cửa bức bàn, cột tròn, gỗ xoan rừng. Hai gian nhà ngang hai bên, sân gạch Bát Tràng, bình phong, bể nước…” (tr. 366). Dinh cơ ấy kiên cố, vững chãi, hàng trăm năm sau, “nó vẫn cứ trơ trơ trước mọi biến động cuộc đời, thời gian có làm cho nó cũ kĩ, mục nát, hư hỏng đi một vài bộ phận nhưng về cơ bản không thay đổi” (tr.403). Thăm “cơ ngơi” của tướng Thuấn, ông Chưởng trầm trồ: “Cơ ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm” (tr. 32). Nhưng “nhà” cũng có thể chỉ là con thuyền, giống như con thuyền của chị Thắm trong Chảy đi sông ơi. Trong Những bài học nông thôn, “nhà” Lâm đơn sơ, tuềnh toàng, “Nhà lợp rạ, tường đất, ba gian hai chái. Đồ đạc trong nhà chẳng có gì: giữa nhà kê một hòm gian đựng thóc, hai bên bốn cái giường tre, quần áo vắt trên sào buộc dọc tường” (tr. 169). Nhà lão Kiền trong Không có vua “ngoảnh ra mặt phố”, cũng tuềnh toàng đơn sơ như thế.

Dẫu đơn sơ tuềnh toàng, hay kiên cố đồ sộ, “nhà” bao giờ cũng là nơi sinh hoạt gia đình, nơi họp mặt với xóm làng, họ mạc mỗi dịp có chuyện buồn vui. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, sinh hoạt gia đình họ mạc mà ta thường thấy nhiều nhất là ăn uống, tiệc tùng. Có nhiều loại tiệc. Mừng đoàn tụ là một loại tiệc: Tướng Thuấn về hưu, con trai ông cho “mổ lợn”, “mời họ hàng làng nước đến để chia vui” (Tướng về hưu). Khao vọng là một loại tiệc khác: “Năm Mậu Tí (1888), Chiểu đỗ tú tài, Ông Gia làm cỗ khao cả làng. Cỗ to lắm, bảy bát, bảy đĩa” (Giọt máu). Hôm lên đường đi “kéo cưa lừa xẻ”, chị Bường làm cơm, “thức ăn chẳng có gì”, nhưng đó cũng là “tiệc khao” dành cho hiệp thợ (Những người thợ xẻ). Rôm rả nhất là tiệc sinh nhật, ví như sinh nhật Sinh trong Không có vua, hay sinh nhật Thoa trong Huyền thoại phố phường. “Tết”, “giỗ” cũng là tiệc.

Thời gian sinh hoạt trong “nhà” bao giờ cũng theo lịch biểu riêng. Có cơ sở để nhận xét, rằng trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, cấu hình không – thời gian được kiến tạo từ góc nhìn nông lịch. Diễn đạt theo cách của chính nhà văn, thì đó là góc nhìn “thương nhớ đồng quê” và “những bài học nông thôn”. Từ góc nhìn ấy, đơn vị cơ sở của lịch biểu sẽ là “buổi”. Ngày chia thành ba buổi: sáng, chiều, tối. “Buổi sáng”: mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi ngả. “Buổi chiều”: việc hết, ai nấy lục tục về nhà. “Buổi tối”: lễ lạt, đình đám, tiệc nọ tiệc kia. Chuyện thường nhật ở nhà lão Kiền (Không có vua) diễn ra theo lịch biểu như thế. Trong Con gái Thuỷ Thần, một ngày của Chương cũng “đầy ắp những công việc” của “buổi sáng”, “buổi trưa” và “buổi tối”: “buổi sáng”: đi cày, “buổi chiều”: đào đá ong, “buổi tối”: lột giang đan mũ. Theo lịch biểu nông lịch, nếu “ngày” chia thành ba “buổi”, thì mỗi “năm” có ba loại ngày đáng ghi nhớ: “Tết”, “Giỗ” và “ngày thường”. Ở đây, “ngày” và “buổi” tuy tên gọi khác nhau, nhưng đó là những đơn vị đồng hình, đẳng cấu. “Ngày Tết” là điểm khởi đầu, giống như “buổi sáng”. “Ngày Giỗ” bận rộn, náo nhiệt, giống như “buổi tối”. “Ngày thường” vô sự, cũng giống như “buổi chiều” chẳng có chuyện gì. Hiểu như thế, ta sẽ nhận ra lối kết cấu độc đáo của truyện Không có vua. Tác phẩm chia thành bảy phần: Gia cảnh – Buổi sáng – Ngày giỗ – Buổi chiều – Ngày Tết – Buổi tối – Ngày thường. Đây là lối kết cấu theo nhịp điệu vòng quay của đồng hồ, mỗi ngày chiếc kim của nó lặp lại đúng hai vòng, mà “Gia cảnh” nằm ở trên cùng, vị trí của số “không”. Trong phạm vi hiểu biết của mình, tôi chỉ bắt gặp tác phẩm duy nhất là truyện Giáo chủ của A. Chekhov cũng có lối kết cấu theo hai vòng quay lặp lại của kim đồng hồ như vậy. Dĩ nhiên, đồng hồ của Chekhov vận hành theo lịch biểu Kitô giáo. Đồng hồ của Nguyễn Huy Thiệp được chế theo kiểu của nông lịch.

Nguyễn Huy Thiệp có một loạt truyện ngắn viết về các nhân vật và sự kiện lịch sử, ví như Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Mưa Nhã Nam, Nguyễn Thị Lộ, Thương cả cho đời bạc… Ở những truyện như thế, nhiều trường hợp, nhà văn sử dụng cách tính thời gian biên niên. Chẳng hạn, “Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh chiếm Thăng Long, lên ngôi vua, đặt tên hiệu là Gia Long” (tr. 210). “Năm kỉ Dậu (1789), Quang Trung Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt xong Mãn Thanh, tìm cách an dân” (tr. 224). Hoặc: “Năm Tân Dậu (1801), vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh chiếm Phú Xuân, Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc, triều đình Tây Sơn sụp đổ” (tr. 229). Nhưng nếu để ý sẽ thấy, nguyên tắc biên niên còn được nhà văn sử dụng để mô tả những nhân vật hư cấu. Ví như: “Phăng từ nhỏ đã thích phiêu lưu. Y từng tham gia cách mạng 1789 với Xanh Giuýt. Năm 1794, cách mạng Pháp thất bại, Phăng trốn ra nước ngoài. Năm 1797, Phăng theo chân một tàu buôn trôi dạt tới Hội An” (tr. 210). Hoặc:“Năm Mậu Tí (1888), Chiểu đỗ tú tài” (tr. 371). Đặc biệt, có những chuyện rất vu vơ, phi sử kí, cũng được kể theo thời gian biên niên. Chẳng hạn: “Đồ Ngoạn mắt toét, thi hương năm Mậu Thìn (1868), là người thật thà, nhà nghèo lắm” (tr. 368). Hoặc: “Cuối tháng Ba, Sinh tắt kinh, thèm ăn của chua, thỉnh thoảng nôn oẹ…”, “Tháng Năm xảy ra việc lão Kiền ốm, đầu tiên tưởng nhẹ, ai ngờ cứ nặng dần” (tr. 74). Rõ ràng ở đây, giống như ngôn ngữ nhà binh, nguyên tắc biên niên đã trở thành đối tượng giễu nhại. Nó không phải là nguyên tắc mã hoá thời gian của sử kí. Đó chỉ là thủ pháp phong cách hoá của diễn ngôn giai thoại mà tôi sẽ trình bày ở một chỗ khác.

Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp mô tả một thế giới nhân vật cực kì đông đúc. Họ thuộc nhiều thành phần xã hội, làm đủ thứ nghề nghiệp. Xưa, có vua quan, tráng sĩ, thủ lĩnh nghĩa quân. Nay, có tướng lĩnh, bác sĩ, kĩ sư, có giáo viên, sinh viên, học sinh; có rất nhiều nhà báo, nhà văn; có sư sãi, nông dân, lái buôn, người mổ lợn, thợ cắt tóc, thợ vá xe, người đưa đò, lại có cả tướng cướp và cánh “kéo cưa lừa xẻ”… Thế nhưng nghề nghiệp, chức tước, địa vị không làm nên danh xưng, tên gọi của con người. Trong Tướng về hưu có một đoạn đối thoại rất hay giữa ông Bổng với chị dâu, vợ tướng Thuấn. “Ông Bổng hỏi: “Chị ơi, chị có nhận ra em không?”. Mẹ tôi bảo: “Có”. Lại hỏi: “Thế em là ai?” Mẹ tôi bảo: “Là người”. Ông Bổng khóc oà lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người” (tr. 28). Chị Thục trong Những người thợ xẻ bảo: “…Vô sự với tạo hoá, trung thực đến đáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợ không xứng là người” (tr. 166). Lão Kiền trong Không có vua lại nói: “Làm người nhục lắm” (tr. 67). Trong Thương nhớ đồng quê, mẹ Nhâm suốt đời không đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà. Theo bà, “Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người”. Nhưng chú Phụng cho rằng: “Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái” ( tr. 254). Qua bấy nhiêu đoạn trích cũng đủ thấy, “quỉ” hay “người”, “thánh nhân” hay “chó lợn”, đó mới thực sự là những danh xưng mà Nguyễn Huy Thiệp tìm kiếm để gọi tên nhân vật của mình. Thế giới nhân vật trong sáng tác của ông là một nhân loại “nửa quỉ” “nửa người”. Không phải ngẫu nhiên khi chuyển thể truyện ngắn sang kịch bản, Nguyễn Huy Thiệp đã đổi nhan đề Không có vua thành Quỉ ở với người. “Người – quỷ” là vai văn học, là tên gọi duy nhất dành cho tất cả các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.

Vậy là, nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp không “chiến đấu” ngoài “mặt trận” mà sinh hoạt chủ yếu ở trong “nhà”. Mọi hoạt động ở đây không kéo dài thành “chiến dịch”, mà gói gọn trong “ngày”, theo “buổi”. Ngày ngày, sáng – chiều – tối, cái nhân loại “người – quỉ” diễn trò trong ngôi “nhà” giống như vũ trụ riêng của mình. Có thể nói, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đã mô hình hoá không gian, sinh hoạt, biến nó thành một cấu trúc biểu nghĩa, làm nên bước ngoặt của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học Việt Nam sau 1975.

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Chú thích:

[1] Xem: Nguyễn Minh Châu. Tuyển tập. Nxb Văn học. H., 1994. Tr. 353 – 354.

[2] Tài liệu đã dẫn, tr. 353.

[3] Sau này, thái độ dè dặt, cái “hèn” của nghệ sĩ và hệ quả của nó được Nguyễn Minh Châu mổ xẻ trong bài báo nổi tiếng: Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạVăn nghệ, Hà Nội, số 49 & 50 (5-12-1987).

[4] Tài liệu đã dẫn.

[5] Xem: Nguyễn Huy Thiệp. Không có vua. // Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn. Nxb Trẻ. 2003. Tr. 53-78. Mọi trích dẫn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ở phần tiếp theo đều được rút từ nguồn này. Để bạn đọc tiện theo dõi, sau mỗi trích dẫn, chúng tôi sẽ ghi chú số trang và để trong ngoặc đơn.

[6] Xem: Nguyễn Huy Thiệp. Quỷ ở với người. // Nguyễn Huy Thiệp. Tuyển tập kịch. Nxb Trẻ. 2003. Tr. 5-102. Mọi trích dẫn kịch Nguyễn Huy Thiệp ở phần tiếp theo về đều được rút từ nguồn này. Để bạn đọc tiện theo dõi, sau mỗi trích dẫn, chúng tôi sẽ ghi chú số trang và để trong ngoặc đơn.

[7] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 368.

[8] Tố Hữu. Thơ. Nxb Hội Nhà văn, 2007, tr. 245. Mọi trích dẫn thơ Tố Hữu ở phần tiếp theo đều được rút từ nguồn này. Để bạn đọc tiện theo dõi, sau mỗi trích dẫn, chúng tôi sẽ ghi chú nhan đề tác phẩm, số trang và để trong ngoặc đơn.

[9] Tố Hữu. Thơ. Nxb Hội Nhà văn, 2007, tr. 225. (Vào năm 1967, dân số miền Bắc Việt Nam mới chỉ có 31 triệu- LN).

[10] Tài liệu đã dẫn, tr. 183.

Mọi đối phó phi tự nhiên đối với “tính trời” trước sau sẽ chỉ uổng công (thư Nguyễn Huệ Chi)

Thưa các anh chị,

Hiện tượng mà nhà thơ Đỗ Trung Quân bạch hóa trong lá thư trên trang Quê choa, theo tôi có lẽ cũng là hiện tượng không hiếm gặp ở tất cả những ai đã ghi danh vào BVĐ của Văn đoàn Độc lập chúng ta trong vòng ba tháng qua, dầu rằng có thể có người biết mà chẳng muốn nói ra (như tôi, vì cho là chuyện hài hước vô nghĩa) hoặc vì không biết nên không nói.

Trường hợp bản thân tôi, biết rất sớm, do tôi được một người thân quen trong chi bộ Tổ dân phố nơi tôi cư trú kể lại rằng, trong một cuộc họp chi bộ, người ấy được nghe phổ biến: Huệ Chi là một trong 6 nhân vật “sừng sỏ” của Văn đoàn (?!!!). Một cuộc họp khác của Chi hội Hội Cựu chiến binh khu phố, cơ quan chức năng còn phái người đến giao nhiệm vụ cho Chi hội này phải “theo dõi” tôi, nhưng ông Chi hội trưởng là người đứng đắn và cũng rất cứng rắn, nói rõ Chi hội Cựu chiến binh không phải sinh ra để làm nhiệm vụ an ninh mật.

Lại một vài lần tôi tiếp xúc trực tiếp với một vị Hội trưởng một Hội văn nghệ quốc doanh khá danh giá ở Hà Nội (vốn cũng là vị lãnh đạo từng trải ở các thứ hội đoàn này nên rất hiểu nhân tình thế thái) thì có nghe ông Hội trưởng ấy cho biết Ban Tuyên giáo có dặn rất kỹ, những người có tên trong BVĐ của Văn đoàn nhất thiết không thể xuất hiện trên một diễn đàn chính thống nào kể từ nay (tức là từ sau khi BVĐ ra đời).

Như vậy, có thể thấy, cả bí mật và bán công khai người ta đang cố tình o ép Văn đoàn chúng ta và những gì mà anh Đỗ Trung Quân đã phải chịu đựng là chuyện quả không phải cá biệt.

Để tìm nguyên nhân, theo tôi, ngoài sự phản ứng dây chuyền theo lệnh trên mà ta từng thấy trước nay đối với một tổ chức dám ngang nhiên xuất hiện độc lập không cần “đứng trong hệ thống”, cúi mình chịu “sự bảo bọc” của hệ thống, đây hẳn còn phản ánh nỗi sợ bản năng của ai ai đó (những người đang dần mất đi tính chính danh) trước tinh thần tự do sáng tạo vốn là máu thịt muôn đời của người văn nghệ sĩ. “Tự do: đó là một trong những từ khó chịu, mang trong nó giá trị nhiều hơn là ngữ nghĩa, nó ca lên [từ trong tâm khảm] hơn là nói ra bằng lời” (Liberté: c’est un de ces détestables mots qui ont plus de valeur que de sens, qui chantent plus qu’ils ne parlent – Paul Valéry, 1871-1945). Chắc chắn mọi đối phó phi tự nhiên đối với cái mà Nguyễn Du đã gọi bằng một từ Việt rất đắt là “tính trời” trước sau sẽ chỉ uổng công.

Tất nhiên một sự bố cáo chính thức và nghiêm chỉnh của Chủ tịch Nguyên Ngọc với bàn dân thiên hạ vẫn rất cần thiết, tuy có hơi muộn một chút; lẽ ra nếu muốn lên tiếng, bộ phận thường trực BVĐ phải nắm được tình hình để lên tiếng sớm hơn.

 Nguyễn Huệ Chi

Chuyện kể năm 2000 (kỳ 3) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

*

*       *

Đêm ấy hắn không ngủ được.

Hắn nghĩ tới xà lim, tới khu phạt đang chờ hắn. Đó là một khu nhà nhỏ xây riêng. Tường gạch, mái bê-tông khuất nẻo sau một lùm cây rậm. Chứ không giống những nơi giam tù thường, tường là những cây gỗ bằng bắp chân ken sít nhau, mái lá…

Hắn đã nằm xà lim ở P hơn một năm trong khi giam cứu. Nhưng không thể so sánh được với những xà lim ở VQ. Ai đã ở những xà lim này khi ra không còn hình người nữa.

Chính Vũ Lượng đã ở xà lim bẩy ngày. Kỷ luật với Lượng là mười ngày cùm, húp cháo loãng. Đó là thời gian hai người ở toán văn nghệ. Ở toán này thì nhàn. Cũng phải giồng giọt, cày xới, cũng có thợ cày, nhưng còn tập diễn kịch “Người mẹ địch hậu”, tập hát “Tiếng chày trên sóc Bom Bo”. Nhưng đói. Văn nghệ sĩ thuộc toán văn nghệ trại VQ này cũng đói. Món cải thiện duy nhất là ớt chỉ thiên. Nơi toán văn nghệ sơ tán là một hẻm rừng. Không biết ai đã trồng mấy cây ớt chỉ thiên, nhú quả nào, vặt quả ấy, ăn chỉ thấy hôi xì. Có lần hắn vạch lá tìm được một quả già còn sót, ăn cay mà nhớ tự do cồn cào.

Một cú tạt tập thể vĩ đại của toán văn nghệ đã làm xôn xao cả trại. Gặt hái được nhiều mà cuối cùng chẳng ra gì. Cũng chẳng ngờ đâu sự tình lại xảy ra như vậy. Một buổi chiều đi xới sắn ở nương sắn mới đốt trở về, ông quản giáo, ông vũ trang tự nhiên thấy tù chạy hết vào rừng. Ông Vui quản giáo phụ trách toán, kéo violon tàm tạm, vốn dĩ rất lành, thét:

– Làm cái gì thế?

Ông vũ trang gầm lên:

– Đứng lại!

– Nổi loạn à à à…!

Không ai nghe. Những bộ quần áo xám chạy đến bìa rừng. Hắn lao theo anh em.

Những tiếng súng cảnh cáo xé màng nhĩ. Mặc. Một rừng ớt chỉ thiên chĩa những quả đỏ ối lên giời. Nằm mơ cũng chẳng thấy. Băng qua một con suối. Vượt lên một vạt toàn cỏ săng và những cây con lúp xúp. Tới giáp rừng già. Rừng ớt lưu niên đại thụ sum suê, chen chúc, có thể trèo lên được.

Lại những tiếng súng bắn lên trời. Không gì giữ được anh em tù dừng lại. Tất cả lao tới như hoá dại. Ngắt. Hái. Suốt cả quả xanh, bẻ cả cành. Rồi một tiếng súng đanh. Hình như có tiếng kêu hoảng hốt:

– Chết rồi!

– Chết rồi!

Nhưng chẳng ai để ý. Những bàn tay vượn vẫn thoăn thoắt nhét ớt vào túi. Vất ớt vào nón. Vận ớt vào người. Đổ nước đi để nhét ớt vào cặp lồng, vào ống bương.

Ông vũ trang còn trẻ hơn ông Thanh Vân chạy đến, mặt tái mét, run lên vì xúc động.

Một tiếng súng đanh ngay tại chỗ làm mọi người dừng hết việc hái lượm. Mặt ông đằng đằng sát khí:

– Tôi… bắn…

– Quay về ngay! Tôi bắn!

Ông Vui nắm chắc khẩu súng lực, bước tới, nhìn bọn hắn đầy vẻ căm thù:

– Tập hợp!

Cho đến lúc ấy hắn mới biết A Thềnh, một trong những thợ cày của toán, đã trúng đạn, nằm vật trên đám cỏ săng, cạnh những cây ớt ngoài cùng.

Ông vũ trang, khẩu tiểu liên báng rỗng lăm lăm:

– Tất cả tập hợp bên suối!

Cả toán mang ớt đi cạnh xác A Thềnh nằm nghiêng co quắp. Hắn liếc nhanh: A Thềnh mồm há hốc, chiếc răng vàng sáng loé giữa hàm răng nâu xỉn bắt đầu rụng, áo bông xanh vỡ toang. Máu còn đang sủi bọt từ ngực qua áo tràn xuống đất thành vũng. Những quả ớt chín, những quả ớt xanh, cả lá ớt nữa trong bàn tay A Thềnh xoè năm ngón.

Hắn thấy nhói ở ngực và là người đầu tiên dốc cặp lồng ớt xuống đất. Hắn cảm thấy có máu A Thềnh ở đó.

Tới suối, hai ông cán bộ bắt tập hợp và khám rất kỹ. Một quả ớt cũng không lọt.

Bọn hắn ủ rũ đi về buồng. A Thềnh nằm lại. Cán ở lại. Cùng ông vũ trang. Chắc là để làm biên bản.

May cho bọn hắn. Dạo ấy đang B52. Trừ anh em quản chế và nhà bếp, các toán sơ tán cả ngày lẫn đêm. Nếu không, tất cả hẳn đã vào xà lim. Với lại cũng chẳng xà lim đâu mà cùm cả một toán năm sáu chục người. Bọn hắn chỉ bị hạ mức ăn xuống chín ki-lô. Phải nói rằng đói lả.

Đói và nhớ A Thềnh, người Nùng già đã đem lại cho bọn hắn nhiều phút cười thả phanh. Nhất là Lượng. Vì Lượng hay trêu chọc A Thềnh hơn cả. Bởi vì bọn hắn đã tìm ra điểm yếu của A Thềnh: A Thềnh rất sợ bị coi là lẩm cẩm.

Đi làm về, mỏi nhừ, đói, một tay xách bị quần áo ướt một tay xách đồ đựng nước, rã rời cả phần xác lẫn phần hồn, rã rời đến từng sợi tóc, bọn hắn trêu A Thềnh cho vui lên một tý. A Thềnh suýt soát sáu mươi, mặt đẹp, má hóp, tay xách một ống bương nước dài dễ đến nửa thùng nước. A Thềnh có cách đi rất lạ. Chân cứ vất ra đằng trước, ngửa ngửa đầu về phía sau, kiểu đi của những người chuyên lên dốc, xuống dốc, không quen đi ở đường bằng.

Một anh từ phía sau tiến lên, đi ngang A Thềnh buông một câu:

– A Thềnh lẩm cẩm rồi.

A Thềnh giật mình như bị đụng vào chỗ hiểm, đính chính ngay, giọng vẫn nhẹ nhàng:

– Tôi. Không. Lậm. Cậm. Đâu.

Một anh khác tiến lên thế chỗ anh vừa nãy:

– A Thềnh lẩm cẩm đấy. Tôi bảo thật đấy.

A Thềnh nghiêm mặt cất giọng cao đã hơi run run, giọng của người bị xúc phạm:

– Tôi! Không! Lậm! Cậm! Đâu!

Anh thứ ba bước lên với giọng khinh bỉ ra mặt:

– Lẩm cẩm thế còn cứ chối. Nhận đi!

A Thềnh có vẻ mặt tử vì đạo của người kiên quyết đấu tranh cho sự thật, bảo vệ chân lý trước bọn xuyên tạc trắng trợn:

– TÔI! KHÔNG! LẬM! CẬM! ĐÂU!

Theo thế xa luân chiến, Lượng đang đi đằng trước, đứng lại chờ A Thềnh. Cằm vuông, má hóp, râu ria, Lượng quát anh em không được trêu Thềnh pác. Mặt A Thềnh dịu lại. A Thềnh nhìn Lượng trìu mến và cảm động. Lượng nắm tay A Thềnh, ngả hẳn vào vai A Thềnh, đầu gối chạm cả vào cái ống bương đựng nước của A Thềnh, thân mật nỉ non:

– Chỉ có tôi quí Thềnh pác. Thềnh pác có đồng ý thế không?

A Thềnh gật gật sung sướng, tuy môi vẫn hơi run run vì vẫn chưa nguôi tức giận. Nhưng thấy tất cả mọi người, kể cả già Đô tóc hoa râm, mặt chằng chịt những vết nhăn sâu hoắm, cũng long lanh cặp mắt chờ đón trận cuời sắp tới, thì A Thềnh lại cảnh giác. Lượng càng ỏn thót:

– Chúng nó xấu với Thềnh pác lắm. Chỉ tôi tốt, tôi mới nói thật với Thềnh pác thôi.

A Thềnh dãn mặt ra chờ đợi. Lượng nói to dằn từng tiếng:

– Thềnh pác lẩm cẩm quá rồi !

Vừa nói, Lượng vừa du A Thềnh ra và cười hề hề.

Tất cả phá lên cười. Cười ngặt nghẽo. Cười chảy cả nước mắt. A Thềnh loạng choạng vì bị Lượng đẩy, gắng đứng vững, mặt đỏ tía, gầm lên với trời xanh:

– TÔI!! KHÔNG!! LẬM!! CẬM!! ĐÂU!!

Và đi vượt lên, chân lại càng vất ra phía trước. Những người tù ít cười nhất, lầm lũi nhất cũng cười. Lê Bá Di cười, già Đô cười. Già Đô đi cạnh hắn, cái áo bông xanh vá víu, chằm đụp những mụn vá bạc phếch xé ra từ những quần áo tù rách mủn (mấy năm tù cái áo bông của già cũ quá rồi, trông già đeo kính cặm cụi vá áo, khâu bít-tất thật rất sầu đời).

Già cười sảng khoái trước trò chơi của Lượng. Già bảo hắn: “Không biết A Thềnh có biết lẩm cẩm là gì không mà sợ thế?” Và gọi to:

– A Thềnh này. Tiếng Kinh lẩm cẩm là tốt đấy. Người lẩm cẩm là người quý lắm à. Tốt lắm à. Bành lắm à.

A Thềnh giận. A Thềnh không thèm trả lời ai nữa. Hình như A Thềnh cũng chỉ biết mỗi câu tiếng Kinh  “Tôi. Không. Lậm. Cậm. Đâu”, khi nói cứ ngắt ra từng chữ.

Vắng A Thềnh. Con người cao dong dỏng. Mặt đẹp. Má hóp. Cái ống bương nước quá khổ. Buồn. Buồn nhưng phải làm sao cho vui lên. Lượng tìm cách bắt chuyện với anh Mán. Anh Mán hoàn toàn không nói được tiếng Kinh. Anh em người dân tộc cho biết anh ta mồ côi bố mẹ. Đi ở chăn trâu. Làm cháy rừng. Tập trung cải tạo. Điều kỳ lạ là anh ta cũng số lẻ. Anh Mán từ QN lên VQ cùng một chuyến với hắn. Cao lớn, lộc ngộc. Quần áo tù cỡ đại mặc vẫn ngắn cũn cỡn. Mặt mũi vuông vức nhưng ngây ngô. Suốt tháng chẳng thấy nói, chẳng thấy cười. Cũng chẳng biết anh ta buồn hay vui. Nhưng rõ ràng anh ta biết rét biết đói. Vớ được cái gì cũng ăn. Kể cả dế sống. Mùa rét thích sưởi. Quàng chăn sợi đi làm. Quản giáo bắt để chăn ở trại. Rồi thấy anh ta không có cái áo rét nào lại cho mang đi, nhưng bắt phải gấp gọn khi qua cổng trại. Cao hơn mọi người một cái đầu, một nách kẹp cái chăn, nách kia kẹp đôi guốc mộc tự đẽo to như cái hòm, anh Mán là hình ảnh vui mắt nhất trong lúc đi ra đi vào cổng trại mùa đông năm ấy. Đến chỗ làm, đứng ở ruộng khoai, nương sắn, tấm áo choàng phấp phới lại càng buồn cười. Lượng gọi anh là Ô-ten-lô. Thấy toán đi làm về rầu rĩ quá, Lượng đến quàng tay anh Mán:

– Ô-ten-lô. Anh tên là Ô-ten-lô phải không?

Đứng chỉ đến vai anh Mán, Lượng ngước cặp mắt long lanh nhìn lên chờ đợi. Khuôn mặt vàng vàng của anh Mán cúi xuống. Một cái nhìn hoá đá. Một khuôn mặt hoá đá. Lượng kéo hẳn cái chăn đầy rệp của anh Mán khoác trên vai, quấn vào mình:

– Đét-đê-mô-na đâu? Đét-đê-mô-na đẹp lắm. Vợ anh đẹp lắm. Nó có tắc cho anh không?

Im lặng. Như không nghe thấy. Như không có Lượng đang ôm ngang sườn.

– À thôi. Đang đói. Không nói chuyện tình yêu. Đúng rồi, đói bỏ mẹ còn yêu đương gì.

Và Lượng chuyển gam:

– Thế, thế hôm nay bắt được mấy con nhái rồi?

Anh Mán vẫn đi. Vẫn là hoá đá. Vẫn là câm lặng. Bình thản. Nghiêm trang. Không một dấu vết phản xạ.

Lượng lắc đầu, rời anh ta ra:

– Chịu bố!

Lượng là nhân vật nổi trong toán. Vì tật háu đói. Vì tính tình lăng xăng.

Vì Lượng số đen. Hễ tạt cái gì ra tấm ra miếng một tý như nhổ sắn, bẻ bắp cải… y như rằng bị tít.

Lượng còn nổi vì giọng hát và dàn dựng những tốp ca. Khi tập, Lượng lĩnh xướng. Tiếng Lượng vang vang:

Ơi cô gái ơi! Đã bao đêm canh bên nòng súng…

Cán, có số năm tù bằng Phổ, mười tám năm, là toán trưởng toán văn nghệ. Nghe anh em nói lại, Cán là Việt kiều về thăm đất nước. Khi xách va-li ra sân bay thì được mời ở lại vì có những hoạt động nghi vấn (anh em cũng không biết rõ là những hoạt động gì) bị nghi là gián điệp và vào tù. Mười tám năm, bao nhiêu của ngon vật lạ đều do trại cung cấp, Cán rụng mười bảy cái răng và thong manh. Cán bảo Lượng:

– Lượng ở ngoài chắc nhiều em mê lắm nhỉ?

Lượng được phân công gánh cơm, một việc mọi người đều mơ ước: Được gần nhà bếp. Được đi về một mình. Không có quản giáo đi cùng. Rộng rãi thời gian. Không giấu được phấn khởi, Lượng bảo hắn:

– Lượng ổn rồi, Lượng sẽ chú ý đến anh.

Đường xa, nhiều dốc, nhiều suối, gánh cơm canh cho mấy chục người ăn, Lượng so vai, rụt cổ, gân cổ đỏ rực, nổi lên như lươn, mồ hôi ướt đầm áo. Lượng coi thường vất vả. Lượng tươi hơn hớn. Lượng đã giữ lời hứa: Cho hắn khi dúm muối, khi bọc ớt. Hắn thái ớt ngâm muối trong túi ni-lông, thêm vào đó mấy đọt măng või luộc. Mặn mặn, chua chua, cay cay, thơm nữa. Coi như một món thức ăn mặn.

Cái dạo mới lên đây, Lượng đói suốt ngày. Đến nỗi một hôm thấy già Đô kêu đầy bụng, không ăn hết suất cơm (thực ra sau khi mấy anh tù chết, già hoảng không thiết sống) Lượng thốt lên rất thành thật “Sướng nhỉ!” Thấy ai ăn cái gì, mắt Lượng cứ sáng lên, cứ phải nhìn vào đấy một tý. Lượng không làm chủ được bản thân mình trước miếng ăn. Hắn thông cảm với Lượng. Ai mới vào mà không bị thế. Ăn ít, không có chất, làm nhiều, giao nước. Đến bữa cơm, cố giữ mình bình tĩnh, hắn vẫn ăn như hổ đói. Lùa. Nhai. Nuốt. Hắn ăn mà không hiểu mình ăn gì. Khi biết mình đang ăn cơm, muốn nghiền ngẫm nhẩn nha, thưởng thức hương vị bùi bùi, ngòn ngọt của cơm độn ngô, hay vị deo dẻo của sợi mì lẫn trong cơm thì cái cùi-dìa đã vét quèn quẹt xuống đáy bát men rồi. Mới sáu giờ chiều, bị nhốt nằm trong buồng nhìn ra thung lũng đã đói. Đã mong đến bữa mì sáng mai. Hắn đã viết thư cho vợ hắn: Anh nghĩ tới em không nhiều hơn nghĩ tới mẩu sắn, củ khoai nhặt được ở dọc đường. Ai mới vào tù cũng phải qua cảnh đói vàng mắt ấy. Đúng là vàng mắt. Có lúc mắt chl nhìn thấy chập chờn một đốm vàng vàng.

Lượng may, Lượng rút ngắn được thời gian đó. Anh em trong toán ghét cái tươi hơn hớn của Lượng. “Nó bành”. “Chỉ có mình là meo(1) thôi”. “Có hôm nó gánh vào rừng khợp no cháy”. “Không có đâu”. Bán tín bán nghi.

Một hôm trại được ăn cá mè. Tin đồn xôn xao từ mấy hôm trước. Cũng là tù nói tội nghe thôi (2), nhưng thường đúng. Anh em hướng về khoản gia vị: ớt, rau thơm, củ sả. Cái gì cũng phải có củ sả.

Bao nhiêu lâu nay thèm chất tanh. Lại cá tươi mới tuyệt. Chứ thứ cá khô mục, nấu riêu chỉ thấy xương sống, xương đầu, hốc mắt vàng khè như xương cải mả chìm trong thứ nước nâu nâu, đục đục, lờ lờ thì nói làm gì. Tanh và khắm đến lộn mửa. (Khi thấy xoong riêu cá khô ấy, hắn ngạc nhiên: Thì ra nhà tù mình cũng cho tù ăn cá mục). Lần này là cá mè tươi thứ thiệt. Thật tràn trề hy vọng và mong đợi từng giờ. Gần trưa mọi người ngong ngóng về phía con suối, nơi cái đầu cui cúi, cái đòn gánh cong trĩu trên hai vai rụt lại của Vũ Lượng vẫn hiện ra.

Khi Vũ Lượng lội qua khúc suối lượn quanh lối mòn tới gần bìa rừng, nhìn cái đòn gánh nhún nhảy, mọi người hỏi to:

– Có không?

Vũ Lượng gào lên:

– Có!

Ai cũng biết là có gì. Vũ Lượng lấy vạt áo tù lau mồ hôi đang túa ra đầy mặt để lộ ra cái bụng lông lá bóng ướt mặc dù đang mùa rét. Cân chuyên chia cơm đến trước tiên. Cân cũng về toán văn nghệ, đóng vai nữ rất giống. Có lẽ vì nước da Cân còn sáng và quan trọng hơn, vẻ mặt Cân còn có cái linh hoạt chứ không bì bì, chết như những người tù khác. Vẻ mặt Cân vẫn còn sống động, vẫn còn nói lên hỉ, nộ, ai lạc của đời thường. Cân reo:

– Cá mè.

Anh em quây quanh những xoong cơm, những xoong cá mè kho xăm xắp nước. Thế rồi, không biết ai đã nói gì với ông quản giáo. Từ trong lán ông bước ra:

– Không được chia vội. Để đấy đã.

(1) đói

(2) Tin đồn

Tất cả ngơ ngác. Ông bắt Lượng gánh mấy xoong cá mè trở về nhà bếp.

Không chờ cá, anh em chia cơm ăn với những thứ gì mình có, mình sột sệt được. Trưa ấy thì sột sệt lu bù. Tranh thủ sột sệt.

Lát sau ông áp tải Lượng ra. Mặt ông hầm hầm:

– Chia đi!

Những xoong cá lần này quả có đầy hơn thật. Nhà bếp đã bù. Lượng đã ăn cá dọc đường. Chẳng biết mấy con. Lượng bị vào xà lim. Hắn còn nhớ hôm Lượng được tha từ xà lim ra, tuy Lượng mới bị cùm, ăn cháo loãng có bảy ngày, chưa hết hạn.

Cũng may là hôm ấy, ông thiếu tá chánh giám thị trông coi cả bốn phân trại từ trại trong ra nói chuyện. Cả trại được nghỉ làm, lên hội trường nghe ông nói. Ông nói rất lạ. Trái ngược hoàn toàn với những điều hắn được dạy dỗ, đối xử. Từ ngày vào tù hắn chỉ quen nghe sỉ vả. Nghe mạt sát. Bọn hắn là một lũ tội phạm. Mỗi người một kiểu khác nhau, nhưng cùng phạm những tội ác với nhân dân, với cách mạng, với Đảng. Bọn hắn là địch. Còn nguy hiểm hơn địch. Pháp, Mỹ, mũi lõ mắt xanh, cầm súng bắn vào nhân dân, ai cũng nhận ra. Nhưng bọn hắn khó nhận diện hơn, nên càng nguy hiểm. Tội lỗi ấy không đáng được đối xử như những con người. Không đáng thở bầu không khí chung với nhân dân. Không đáng được gọi là người Việt Nam, một dân tộc anh hùng. Dân tộc xấu hổ vì bọn hắn. Tuy nhiên Đảng vẫn tin tưởng ở cái phần người còn lại trong mỗi kẻ bọn hắn. Đảng nhen nhúm chút phần còn sót lại ấy.

Và bọn hắn được đối xử đúng như vậy. Con trâu cày, con lợn giống còn được các ông quản giáo vỗ về, vuốt ve tình cảm. Bọn hắn, không ai dám mơ tưởng đến hạnh phúc lớn lao ấy. Một lời động viên thông cảm thôi cũng không dám màng. Không được như những cây rau. Luống rau cải bắp, luống rau muống có sâu, hắn phải đem bình vô-pha-tôc ra xịt ngay. (Bọn hắn ốm thử đi xin viên thuốc ở chỗ ông Chắn, công an y tá xem). Gặp ai cũng phải gọi là ông, là bà. Gặp bà công an kế toán bế con trai lên bốn đi chơi là phải kính cẩn:

– Bà với ông đi chơi ạ!

Nhưng hôm ấy ông chánh giám thị nói rất lạ. Không xỉ vả mạt sát ai hết. Lại giảng về hai chữ đồng bào. Cùng một bào thai. Cùng một bọc. Cùng máu đỏ da vàng. Con Rồng, cháu Tiên. Ông nói mọi người phải quên dĩ vãng. Quá khứ là quá khứ. Quá khứ đã qua rồi. Tương lai mới là quan trọng. Phải nghĩ đến tương lai. Đoàn kết xây dựng một nước Việt Nam của Vua Hùng để lại. Ai nghĩ đến quá khứ là tội lỗi. Thật lạ. Nghe mà mát ruột, mát gan. Nghe mà nghi hoặc. Mà cảnh giác. Mà co người lại. Ông nói: Các anh không phải gọi chúng tôi là ông nữa. Mà gọi là anh. Là chị. Rằng chúng tôi sẽ giao cho các anh tự quản. Giao hẳn chìa khoá cho các anh. Sao lại không nhỉ. Rằng từ nay mỗi bữa sẽ có nhiều món ăn. Rất lạ. Lạ đến mức không tin được. Không một ai tin. Tất cả im phăng phắc. Theo dõi từng câu từng ý. Từng điệu bộ, cử chỉ. Từng nét mặt. Như trẻ con theo dõi xiếc. Theo dõi người dạy thú. Người tung hứng. Người ảo thuật. Hắn liên hệ đến bài báo mà Phổ mới đọc cho cả B cùng nghe, sau tin về toà án Bertrand Russell: Xoá bỏ hận thù, khôi phục tình thương. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng. Rất phi giai cấp. Rất mất lập trường. Khác hẳn những bài báo trước đó.

Giữa lúc ấy có tiếng thét to, đều, ngắt ra từng tiếng của anh em bị phạt xà lim:

– Chúng – tôi – xin – được – nghe – ông- chánh – giám – thị – nói – chuyện.

Đó là sáng kiến của Lượng. Chắt mang cháo xuống xà lim, nói cho Lượng tin quan trọng ấy. Cả năm ông chánh giám thị mới ở trại trong ra trại ngoài một lần. Tận dụng cơ hội, Lượng gọi to anh em ở các xà lim khác, thống nhất gào lên, vì ở xà lim đến hội trường khá xa. Ông chánh giám thị lúc đầu không để ý. Nhưng cái điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại từ phía sau núi vọng lại ông lắng nghe.

– Cái gì thế nhỉ?

Tù chỉ đợi có thế.

– Báo cáo ông, anh em ở xà lim xin được nghe ông nói chuyện ạ.

Ông như chợt hiểu. Hình như đến lúc này ông mới biết trong trại của ông có những người ấy. Ông lại đang nói về tình thương, nghĩa đồng bào, nên thản nhiên nhất đời, ông hạ lệnh:

– Cho các anh ấy ra.

Vũ Lượng đi ra. Xiêu xiêu. Cùng nhiều người nữa. Hắn chưa bao giờ nom thấy Vũ Lượng như thế. Râu quai nón đen sì, kín má. Mắt trũng sâu, lông mày rậm. Tóc rối. Cợp. Áo bông xanh rộng thùng thình. Quần tù xám bạc. Lượng bị mất máu nghiêm trọng. Lượng trông thấy hắn, bước tới. Hắn nhích chỗ, dành cho Lượng. Lượng đứng nghiêm:

– Báo cáo ông chánh giám thị, chúng tôi, anh em trong xà lim có mặt.

– Các anh ngồi xuống.

Lượng ngồi cạnh hắn. Nghĩa là cách dãy trên cùng khoảng ba bốn hàng. Tất cả ngồi bệt xuống những miếng gỗ đặt song song trên nền đất. Hắn nắm chặt tay Lượng. Lượng nói khẽ:

– Meo lắm.

Không biết bằng cách nào, (giờ hắn cũng không nhớ) hắn đã có cái bánh mì đưa cho Lượng. Lượng bóp chặt cái bánh, hai tay khoanh trên đầu gối nhô cao, gục đầu xuống ngoạm. Bàn tay Lượng rứt bánh mì, rứt rất mạnh vì bánh dai, nhưng lại cố để không có một chuyển động đáng ngờ nào. Lượng cúi đầu nhai. Lượng gục đầu ngoạm và rứt. Vai hơi lắc sau mỗi cái rứt. Cái hàm râu ria chuyển động, nghiền, nghiền.

Lượng thở. Phì phò. Ăn gần hết cái bánh Lượng mới ngừng một tý, ngước đôi mắt trắng sâu lên sân khấu cao, nơí ông chánh giám thị đang đứng trước bục.

Xà lim là như thế.

Hắn sẽ vào xà lim. Củ su hào. Túi than. Nắm rau thơm. Quá đủ rồi.
Hắn trằn trọc, lo lắng, suy nghĩ. Gần năm năm tù hắn chưa phải vào những khu nhà biệt lập, hẻo lánh vắng vẻ ấy, trừ hơn một năm giam cứu. Hắn không sợ vào đó là vi phạm kỷ luật, sẽ bị kéo dài thời gian lao cải. Cũng như hắn không tin cải tạo tốt thì sớm được trở về. Không ai tin điều đó, mặc cho quản giáo nói, giám thị nói. Đôi bên quá hiểu nhau rồi. Người nói cứ nói. Thừa hiểu mình nói dối, chẳng ai tin, nhưng cứ nói. Rất thành thật. Thiết tha. Thuyết giảng chân lý. Thuyết giảng con đường. Người nghe làm ra vẻ chăm chú. Rất chăm chú. Mê say. Nhận thức đường đi. Sáng lòng, sáng mắt. Tuy biết tỏng rằng người nói cũng chẳng mảy may tin vào những điều họ nói, thì mình tin sao được. Nhưng vẫn làm ra vẻ tin. Tin thật. Tin lắm. Xuýt xoa, tấm tắc, dù biết người nói nhìn thấu ruột gan mình. Vở diễn cứ thế kéo dài từ năm này sang năm khác. Và vì không ai dám nói ra sự thực ấy, nên vở vẫn cứ diễn. Cứ giả cách nói. Giả cách nghe. Giả cách tin tưởng.

Có là loài vật đâu mà không hiểu được điều sờ sờ ra trước mắt. Nguyễn

Văn Phổ cải tạo tốt thế mà mười tám năm đã được về đâu. Anh em Cầu Giát, Ba Làng đã được về đâu. Tù án hôm trước đánh nhau, hôm sau hết án vẫn được về. Tập trung cải tạo lâu hay chóng là tuỳ thuộc vào tình hình chính trị xã hội chung, đâu có phải vì chấp hành nội qui. Lại càng không phải vì nắm lá rau thơm. Hắn rất thích rau thơm. Gặp là hắn hái. Mùi tàu, rau húng láng, húng chó, rau mùi… Mà mang những thứ ấy về cũng chẳng việc gì. Có lần trực trại khám, bắt được cũng bỏ qua. Hắn đã láu, nhưng không qua được mắt ông ta. Hắn cho các thứ rau thơm vào túi ni-lông, gói vào giữa cái khăn mặt ướt, cầm tay, đi qua chỗ khám, về trại một cách thản nhiên.

– Anh kia! Đứng lại!

Hắn bình tĩnh quay lại, chành miệng bị ra trước mặt ông trực trại một cách tự tin. Bị của hắn hôm ấy chỉ có bộ quần áo ướt giặt ở suối sau khi lao động. Cái điếu cày đã súc sạch nước điếu, kỳ cọ sạch sẽ, cái ca rỗng.

Nhưng ông trực trại, hôm ấy cũng là ông Thanh Vân, không thèm ngó vào bị. Ông bảo hắn:

– Giở khăn mặt ra.

Hắn tưởng ông ta thu túi rau thơm, nhưng ông chỉ nói:

– Các anh tài lắm.

Rồi ông lắc đầu, vẻ không hiểu nổi:

– Ăn cái gì mà hôm nào cũng có anh mang rau thơm vào trại?

Ông không thu. Có lẽ ông chỉ muốn tỏ rằng đừng có qua mặt ông. Không nổi đâu. Ông biết hết. Ông lờ đi cho thì được đấy thôi.

Hắn thầm cảm ơn ông quản giáo và rất muốn nói với ông: “Thưa ông, ông không hiểu chúng tôi. Rau thơm là hương vị của gia đình, hương vị của tự do”.

Nhai ngọn húng, ngọn mùi làm sao không nhớ đến ngày giỗ, ngày tết, ngày ăn tươi, ngày có khách, bố mẹ, vợ con quây quần đầm ấm. Nhớ đến, sống lại những giờ phút ấy. Và nghĩ rằng, tin rằng vẫn còn những cái ấy, kể cả những mùi rau thơm ấy đang đợi mình ở thế giới bên kia. Dù có phải ở đây năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa, thì vẫn còn những cái đó chờ đợi và có thêm nghị lực để vượt qua từng ngày. Từng ngày. Từng ngày một. Hắn nghĩ ngợi, trở mình và thở dài. Già Đô nằm cạnh, khe khẽ:

– Cụ chưa ngủ à?

Hắn chưa đến bốn mươi. Khi bị bắt mới băm tư tuổi. Nhưng già Đô vẫn gọi hắn bằng cụ. Trong tù không được ông ông tôi tôi. Đó là nội qui. Nó lẫn và hạ thấp tiếng ông khi gọi ông quản giáo. Tiếng ông chỉ để nói với cán bộ.

– Chưa.

– Tôi cũng không ngủ được.

Hắn ngồi dậy nói to:

– Báo cáo. Tôi, Nguyễn Văn Tuấn, số tù CR880. Dậy hút điếu thuốc.

Hắn nói vu vơ như vậy, vì đó cũng là nội qui. Hắn đang tra thuốc vào nõ thì ở mãi phía cuối, gần nhà mét có tiếng nói:

– Tôi, Nguyễn Văn Dự, số tù BM229, dậy bắt cái tóp(1) của anh Tuấn.

Thế là không được kéo cho đã, kéo đúng qui cách. Qui cách hút thuốc trong tù đã được tiêu chuẩn hoá. Sẽ nói sau về những cái điếu cầy tiêu chuẩn, nổi tiếng và những người hút thuốc nổi tiếng trong trại. Qui cách hút thuốc lào đầu tiên là mồi thuốc không to, không nhỏ. Vê vừa phải và đặt nó nằm gọn trong cái nõ sạch bong không có tí xỉ nào. Đóm ké, làm bằng gỗ ké, lột dễ như lột giang, trắng, mềm, còn tươi nước cũng cháy đượm. Hắn lúc nào cũng có từng nắm đóm ấy của anh em toán lâm sản cho. Chỉ một khúc gỗ ké bằng cổ tay, lột ra, hút bại.

Đưa đóm vào bập bập mấy cái, kéo vừa phải, lia ngọn lửa quanh cho cháy hết mồi thuốc và dùng hơi dâng nước trong điếu lên sát miệng nõ như nước triều dâng cho tàn thuốc tắt, kết lại thành một viên. Hất mạnh cái điếu, xì một ít nước ra với tàn thuốc. Động tác xì này thật tuyệt. Đầu hơi cúi xuống, rồi hất mạnh lên. Cái tàn có thể bay vòng cầu, qua đầu người khác, rơi đúng chỗ mình muốn cách đó vài ba mét (hắn đã đạt trình độ xạ thủ ấy), nghỉ một tý (có người còn lấy tay xoa xoa miệng điếu) rồi mới ngửa đầu, đưa điếu lên, kéo nhanh một hơi dài. Động tác cuối cùng này cũng lắm cách. Nhiều người đặt điếu chếch về một bên mép mà rít. Phần lớn những anh tù trẻ, tập trung hình sự, cánh lái xe… thích như vậy. Hắn thuộc trường phái chân phương (anh em tù tập trung chính trị thường thuộc trường phái chân phương), hắn úp miệng điếu vào giữa mồm. Tiếng điếu rúc lên lanh lảnh. Rời điếu ra. Thừ thượt một lúc. Rồi nhả khói. Đê mê.

Có anh bắt tóp mất hẳn thú ấy. Chỉ dám kéo một ít. Dành thuốc và dành cả khói lại trong điếu. Qui trình bị phá vỡ, mà lại vỡ ở phần kết thúc tuyệt vời nhất.

Dự biết ý, thì thào:

– Anh cứ kéo mạnh đi.

(1) Hút xái

Hắn lắc đầu đưa điếu cho Dự: “Đủ rồi”.

Dự kéo cái tóp và làm ra vẻ say sưa. Hắn biết Dự hút thế này chẳng ăn thua gì. Cũng như hắn, chẳng đã. Hắn lấy ra gói thuốc lào chỉ còn lại bằng nắm tay, nhưng ưu điểm là được lèn rất chặt để chống mốc, rút ra mấy sợi đưa cho Dự. Dự vê vê lại: Khoảng ba điếu. Dự gật gật với hắn, ra ý cám ơn. Hắn bảo khẽ: “Hút đi”. Dự lắc đầu. Rồi Dự bám vào cái trụ gỗ vuông thẫm bóng, tụt xuống về chỗ. Dự không hút, Dự để dành. Từ chỗ gần nhà mét, có tiếng Dự: “Tôi, Nguyễn Văn Dự số tù BM229 bắt tóp xong, về chỗ”.

*

*        *

Già Đô lúc đó mới dậy hút. Hút thuốc lào đêm không cần kéo cho kêu. Chỉ hạ điếu để điều chỉnh mức nước điếu là sẽ có tiếng kêu vừa phải. Già Đô lo cho hắn. Già không nói, nhưng hắn biết. Sự im lặng của già cũng là một lời động viên, một sự chia sẻ. Già là công nhân kỹ thuật của một xí nghiệp cơ khí, cũng bị đưa lên QN với hắn một lần. Tới QN hắn với già Đô cùng về một toán: toán tăng gia. Hắn làm đơn kêu oan, già Đô cũng làm đơn kêu oan. Nhưng không ai nói với ai. Hắn không biết già mắc tội gì. Chỉ biết khi từ Trần Phú ra đi, già mày râu nhẵn nhụi. Lên đây già bắt đầu để râu. Mãi về sau, khi thân nhau, hắn mới biết già Đô đã lang bạt nhiều nơi đến thế. Già là một lính thợ Pháp quốc trong đại chiến thế giới thứ hai. Từ Pháp già đã tới Algérie, Maroc (cái lý lịch ấy thật tai vạ cho già). Già đã là thợ đốt lò dưới con tàu Commerce Maritimes thuộc hãng Đầu Ngựa. Hải Phòng – Marseille là hành trình những năm tuổi trẻ của già. Làm được hai năm già thôi việc. Chỉ vì già không chịu được những lời mắng nhiếc của chủ, những “Cochon!”(1), những “Espèce d’andouille”(2) từ miệng những người Pháp mỗi khi già làm chưa vừa mắt bọn chúng. Già nắm chặt cán xẻng, mắt long lên:

– Ông không được phép sỉ nhục tôi.

Già bỏ tàu lên thành phố Marseille. Vào quán rượu quen. Uống. Uống nhiều. Và không trở về tàu nữa. Lang thang ở Marseille cho đến đồng frăng cuối cùng, già tìm được việc làm trong một xưởng sửa chữa xe có động cơ. Từ xe gắn máy, các loại ô-tô tới xe nâng, cần cẩu. Tại đây già bị động viên vào một đơn vị cơ giới. Già sang Maroc, Algérie, vẫn làm nhiệm vụ sửa xe.

(1) Đồ lợn

(2) Giống ngu xuẩn

Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc. Già trở về Marseille. Trở về xưởng cũ. Lấy vợ. Cô Jeannette bán hoa quả ở gần bến cảng lớn bổng lên khiến già ngỡ ngàng, xao xuyến. Hai vợ chồng vay vốn mở một tiệm rượu nhỏ. Khách là những người phu pooc-tê, những thuỷ thủ, những người thợ nhan nhản ở thành phố Marseille.

Rồi già biết quê nhà đã được độc lập. Niềm sung sướng lớn lao và nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu biệt xứ bỗng cồn cào trong lòng không chịu nổi. Càng không chịu nổi khi biết tin hiệp nghị Genève đã ký kết. Một nửa đất nước được độc lập. Lại thêm thôi thúc vì chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo đất nước là người từng lâu năm ở Pháp, cũng từng là một mạch-lô. Già về nước. Khi đó bà Jeannette đã sinh cho già một cô con gái xinh đẹp, có nước da trắng của bà, có mái tóc và đôi mắt đen của già Đô. Mặc bà vợ khóc can ngăn, già nhất định về nước. Rồi già sẽ sang đón bà về. Độc lập rồi, xây dựng sẽ rất nhanh. Đất nước sẽ phát triển rất nhanh. Dân tộc ta thông minh, cần cù, chịu khó lại được bao nước giúp đỡ. Đất nước đang cần những bàn tay như già.

Già vào làm ở xí nghiệp cơ khí T. Đó là những ngày hạnh phúc. Già bảo vậy. Khi đó xí nghiệp được phục hồi từ một cơ sở cũ của Pháp. Điều mấu chốt là phải có việc làm, phải có được hợp đồng sản xuất đầu tiên. Vận may đã đến với xí nghiệp.

Giám đốc đi cùng với già trên chiếc xe Java 05 lên Thái Nguyên. Già đã bỏ một ngày xem xét, sửa chữa chiếc xe tòng tọc này đạt mức tốt nhất. Ở đó có một nhà máy giấy cần được khôi phục. Đi lên suôn sẻ. Công việc thì hơi kinh. Nhà máy giấy bị bom. Các bộ phận hoen gỉ rải rác trong rừng, lẫn với cây cối. Người ta hỏi giám đốc của già:

– Các anh làm được không?

Già không biết giám đốc trả lời thế nào vì già quá biết mấy cái máy tiện cổ lỗ của xí nghiệp. Nhưng giám đốc cười khì:

– Có gì mà không làm được. Nhà máy tôi là nhà máy cơ khí mà. Rỗi, mời các anh xuống tham quan xí nghiệp.

Thật đúng là khẩu khí của một giám đốc, một người thợ công binh xưởng.

Tìm được việc làm, hai người phấn khởi phóng xe về. Chiếc Java 05 không phụ công già sửa lăn nhanh trên con đường bụi đất đỏ. Tới thị xã Thái Nguyên già bị công an huýt còi, kiểm tra bằng. Cả hai người đều không có bằng và cũng không có tiền nộp phạt.

Vét các túi chỉ còn sáu hào. Ngồi trong đồn công an, giám đốc bảo họ:

– Các anh còn giữ chúng tôi lâu thì cho chúng tôi báo cơm.

Sự việc không biết ra sao, nếu không có một anh công an đi xe máy Terrot hai ống xả về đồn. Nhìn chiếc xe phụt khói và nghe tiếng máy giảm từ từ trước khi dừng hẳn, già Đô bảo:

– Xe bị rơ séc-măng. Xăng xuống không đều. Ga kẹt.

Anh công an xuống xe nhìn già, ngơ ngác:

– Đúng. Xe đi chậm bị gằn. Cứ phải phóng nhanh mới êm. Sao bác biết?

– Nghe tiếng máy tôi biết. Để tôi sửa cho.

Già lấy đồ nghề mang theo ra. Họ xúm lại quanh già, thành kính nhìn những động tác của già, thành kính nhìn già tháo gỡ, vặn siết các bộ phận máy.

Sau vài lần nổ thử, già nhảy lên xe, phóng chậm và tăng ga đi về cuối phố. Rồi già trở lại, già lượn vòng số 8, già chồm xe vượt qua một cái rãnh nhỏ và đột ngột khựng lại. Đó là những trò thông thường của các chàng sửa xe ở Marseille.

– Được rồi đấy. Nhưng khói vẫn đen. Phải thay séc-măng. Khi nào có tôi thay cho.

Cả đồn công an tròn xoe mắt nhìn già, kính phục một người thợ lành nghề, một diễn viên xiếc tài ba trong nghề lái mô-tô. Họ cảm ơn và mời hai người khách ra về, không quên dặn:

– Lần sau đi nhớ mang bằng lái xe, hai bác nhé.

Còn sáu hào. Mỗi người một bát phở trâu trên dọc đường đi.

Công việc khôi phục nhà máy giấy bắt đầu. Xí nghiệp cơ khí T sống lại. Già nhận phần khó khăn nhất: Khôi phục nồi hơi của máy xeo giấy. Già thử áp lực nồi hơi bằng nước. Già “bút-sê” những lỗ thủng vì mảnh bom bằng đồng đỏ…

Mấy năm sống gian khổ, nhưng già sung sướng vì đã toại nguyện. Già đã được làm việc cho Tổ Quốc.

Ông giám đốc rất quí già. Nhưng rồi ông giám đốc chuyển đi. Ông Phin giám đốc mới, từ Sở chuyển về.

Những năm tháng nặng nề của già bắt đầu.

Muốn tạo nên một không khí hoàn toàn mới, ông giám đốc Phin xét nét những người mà ông cho là thân cận với ông giám đốc cũ. Già Đô cũng nằm trong diện ấy. Nhưng già không quan tâm. Già nghĩ: Già chỉ muốn làm việc. Ông giám đốc nào mà chẳng muốn người dưới quyền làm việc. Ít họp công đoàn, không chịu viết bích báo, già bị nhận xét là chuyên môn thuần tuý. Cái lý lịch đi lính cho Pháp hẳn có một tác dụng quan trọng khác nữa. Không được là đốc công, già bị chuyển về tổ cơ điện làm thợ, với lý do đó là một ngành quan trọng: “Khâu yếu hiện nay, phải tăng cường đề chuẩn bị tốt cho sản xuất”. Người thay già nhận chức đốc công là cháu ông Phin mới thợ bậc bốn.

Già không quan tâm đến điều ấy. Già cũng không quan tâm đến chuyện ông Phin có xe đạp phân phối rồi lại nhận phiếu mua xe đạp phân phối nữa, mà là chuyện ông lấy sắt thép trong xây dựng cơ bản về xây một căn nhà cho ông. Chính ông trưởng ngành cơ điện biết rõ xe ô-tô chở sắt thẳng từ kho kim khí về nhà ông. Dư luận xì xầm, nhưng không ai dám nói. Họp ngành, già nêu ý kiến. Không ai hưởng ứng già, mặc dù ngoài cuộc họp họ rất ủng hộ già. Hội nghị công nhân viên chức, già nêu vấn đề. Không ai giải quyết. Ông giám đốc kỷ luật già vì tội đã vu cáo ông ta. Ông chuyển già đi dọn nhà tiêu, quét xung quanh khu làm việc, hạ xuống bậc lương khởi điểm. Già kiện lên Sở. Ông giám đốc Sở, một thành uỷ viên, bác đơn của già. Già bị đuổi việc và cũng bị đuổi luôn khỏi chiếc giường một trong khu tập thể.

Không có gia đình, già bơ vơ.

Già đấu tranh theo kiểu Pháp: Làm một cái biểu ngữ. Ngồi ngay cổng xí nghiệp. Tay cầm biểu ngữ. Chữ kẻ trong miếng gỗ dán vuông, có cọc cắm ấy là: Phản đối giám đốc xí nghiệp T vô cớ sa thải công nhân.

Thế là già vào Trần Phú. Già lên QN. Trong tù già cô đơn như ngoài đời già cô đơn. Một hôm xếp hàng đi làm, nhớ đến một bài thơ của Vũ Hoàng Chương, hắn khe khẽ đọc. Già ngồi phía trước quay lại:

– Vẫn yêu đời nhỉ?

Đến lúc ngồi nghỉ ở bờ suối, hắn hát một mình bài hát hồi hắn học tiểu học, không hát mà ư ử trong cổ thành nhịp điệu:

Liberté. Liberté chérie (1)

 

(1) Tự do, tự do thân yêu ơi

 

à toi, mon coeur

à toi, ma vie (1)

Thế là già hát thành lời. Tất nhiên là lời Pháp. Già không biết Lê cũng có mặt ở đó. Lê còn trẻ, chưa đến ba mươi, mặt trái xoan, nhưng nhiều trứng cá quá, nên trông cứ thâm sì. Mắt sắc, cứ đảo quanh. Thông minh hay gian giảo. Có lẽ gian giảo nhiều hơn. Lê cũng từ Trần Phú, từ bê dê với hắn chuyển lên. Lê là tù án. Một lịch (2). Về tội gì Lê không nói. Nhưng khi Lê nhận cáo trạng, anh em giật lấy xem và biết tội của Lê: Đột vòm (3) vào nhà các cô gái công trường ăn cắp hai va-li quần áo (họ ghét còn nói là hai va-li ấy toàn xi-líp diềm bâu và vải màn hành kinh).

Lê bị cả bê dê (4) ghét. Trong những buổi học tập về tội lỗi, về chính sách cải tạo nhân đạo của Đảng, hễ Lê bắt đầu ngồi thẳng lưng và liếm môi là bọn hắn biết Lê sắp phát biểu. Lê liếm môi trên, liếm môi dưới mấy cái liền như kiểu tra dầu mỡ trước khi vận hành máy. Sau đó bọn hắn chờ động tác thứ hai: giơ tay. Cách Lê giơ tay nó dứt khoát, tin tưởng với một ngón tay trỏ chỉ ra phía trước và bốn tiếng kèm theo rất nhanh: “Tôi có ý kiến”.

Lê nói. Bây giờ mới là giai đoạn cơ bản trong nỗi khiếp sợ của bọn hắn. Lê nói. Lý luận. Thực tiễn. Sự nhân đạo. Tội lỗi của phạm. Thái độ trong chúng ta. Sự thành khẩn. Chỉ có một con đường. Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại. Ngày xưa kim ngân phá luật lệ. Nén bạc đâm toạc tờ giấy. Bây giờ pháp luật nghiêm minh. Trị bệnh cứu người. Con người là vốn quí nhất. Tính nhân đạo. Tính ưu việt. Công ơn Đảng, Bác. Tội lỗi chúng ta. Quân giải phóng Miền Nam anh dũng hy sinh. Miền Bắc cánh đồng năm tấn. Tương lai xán lạn.

Lê nói dài. Nhiều. Đúng. Thông suốt. Cháo chảy.

Bọn hắn nghe và nhìn vào môi Lê. Hễ Lê còn liếm môi thì bài diễn văn của Lê còn…

Mắt Lê đăm đăm nhìn vào đám thính giả vô hình. Buổi học tập nào Lê cũng nói ngần ấy điều như vậy. Có lẽ người ta cũng ngờ ngợ rằng Lê đã thấm nhuần, Lê ăn năn hối hận, nếu không có một sự việc xảy ra: Lê yểm một cái

   

(1) Trái tim ta thuộc về người

 Cuộc đời ta thuộc về người

(2) năm

(3) vào nhà, ăn cắp

(4) B. D. Buồng D

bánh mì trong lúc chia. Thế là màn kịch của Lê đổ nhào. Bị xử một gậy (1), Lê kêu nặng quá. Và Lê mong được ở lại Trần Phú. Thế nhưng Lê lại phải đi trại Trung ương. Lê cay cú lắm.

Lê đi trước hắn. Hắn gặp lại Lê ở QN, cùng toán. Lê lao động hăng. Tích cực bẩm, sớ. Để được giảm án. Lê đã bóp cổ Voòng Kỷ Mình để Voòng Kỷ Mình lè ra khỏi miệng quả vải thiều vừa tạt được, nhưng chưa nuốt trôi xuống cổ. Lê cầm quả vải ướt nhoe nhoét ấy đi báo cán bộ.

Già Đô hát bằng tiếng Pháp trước mặt Lê có nghĩa là trước mặt cán bộ. Già bị gọi lên giáo dục: Không được nói tiếng nước ngoài. Nói tiếng nước ngoài là phạm nội qui. Già cãi: “Tôi không nói chuyện bằng tiếng nước ngoài. Tôi chỉ hát vài câu tiếng Pháp thôi. Thế còn anh em người dân tộc nói tiếng Hoa thì sao?”

Già cãi rất có lý. Đúng là anh em người dân tộc toàn nói với nhau bằng tiếng Hoa. Đến nỗi hắn cũng thuộc những câu như: “Kỷ tố tỉm” (mấy giờ rồi) “Thủ ngồ mẩu kéng là chà” (đói không sợ bẩn) “Cổi trầu hẩu, tắc kin mìn nhị xập xây tỉm, tỉu háy cái lẩu phồ” (cải tạo tốt, được gặp mặt hai bốn tiếng, ngủ với vợ). Đó là những câu ngồi nhổ cỏ xọng lên cho vui. Và những câu chửi “Tỉu cái nẩu nả, tỉu cái nẩu mủ…”

Cái lý ấy của già khiến già bị phạt. Ba ngày xà lim, hạ mức ăn xuống chín ki-lô. Già đã hiểu cái điều hắn hiểu từ trước, nhưng chính hắn cũng không thực hiện được: Đừng cãi lý với kẻ mạnh. Kỳ ấy hắn mới nhận tiếp tế. Hắn tặng già Đô mấy suất cơm để già Đô ăn thêm, còn lại phơi khô. Đó là một hành động cho máu.

Thế rồi tình cờ, già Đô với hắn nằm cạnh nhau khi chuyển buồng. Hắn với già ăn chung. Để bù lại những thứ già được hưởng của hắn, già tích cực tạt. Và già để râu. Có lẽ già hiểu cái thứ đấu tranh kiểu Pháp ấy hại già. Để râu có lợi hơn. Có thể vì thế mà chóng được về cũng nên.

Râu già Đô mọc nhanh. Dài và hoa râm. Tóc già rễ tre. Râu già rễ tre. Chỗ râu mép lại được hai chòm lông mũi nhọn hoắt cũng rễ tre và cũng hoa râm xông ra chi viện. Khi ăn râu mép, râu cằm, lông mũi trông đến buồn cười. Già rất giữ ý. Già chỉ ăn một ít những thứ tiếp tế hắn lấy ra, mặc dù già tạt được kha khá. Già có thể nướng khoai ngay trước mặt cán bộ mà cán bộ không biết. Già kiếm được cả quả bí xanh gọt vỏ đưa cho hắn xuống suối ăn

(1) năm tù

sống, mát ruột suốt nửa ngày.

Chiến công lớn nhất của già là già đã tóm gọn được một con rồng đất, to bằng cổ tay. Già đang làm thịt một con chão chuộc ở dưới suối thì có tiếng động ngay dưới tảng đá cuội lớn già ngồi. Già ngó xuống: Một con rồng đất. Già vồ hụt. Nó chạy nhanh. Chạy như kiểu thằn lằn và nó chắc cũng là một loại thằn lằn, nhưng có vây lưng từ gáy xuống tới đuôi. Tóm lại: Một chú khủng long bé tý và nhanh nhẹn. Già đuổi, nó leo lên cây. Bò rất nhanh. Tới lưng chừng, nó dừng lại, ngỏng cổ lên nghe ngóng. Già Đô bám vào thân cây leo lên. Thấy động, con rồng đất leo lên cao nữa.

Anh tù nuôi ong Nông Văn Thắng, người Tày, đang đi tìm những tổ ong rừng, bắt về gây đàn cho trại, khi đó cũng có mặt. Anh kêu to:

– Đừng lên, nó chuyển sang cây khác mất đấy.

Thắng rời gốc cây trong đó có những con ong bay vụt ra. Thắng huýt sáo. Con rồng đất ngỏng cổ lên nghe. Thắng bảo:

– Giống này, cứ huýt sáo là nó đứng yên cho bắt.

Nhưng không ai có thể leo lên cành cây chót vót. Thắng giúp già Đô làm cái thòng lọng. Anh chặt một cây nứa dài vót phần ngọn dẻo, làm một cái tròng. Già Đô cầm cây nứa leo lên. Vừa leo vừa huýt sáo. Hoá ra già Đô huýt sáo trong và rất hay.

Liberté, Liberté chérie!

à toi, mon coeur

à toi, ma vie

Đó là khúc hát về tự do đã đưa già tới kỷ luật. Nhưng lúc này già chỉ huýt sáo, chứ không hát lời. Nghe tiếng sáo về tự do, con rồng đất ngây ra. Đến khi già Đô đứng vững trên một cành cây, giơ cái thòng lọng lên cao hơn đầu con rồng đất thì già không huýt sáo được nữa. Già nín thở. Thế là tất cả anh em dưới đất đều huýt sáo. Như một bầy hoạ mi. Chỉ trừ Lê, Lê không thèm nhìn già Đô, không thèm nhìn con rồng. Lê nhìn vào hốc cây nhỏ bên suối, nơi những con ong thợ từ đấy bay vụt ra. Lê lẩm bẩm:

– Tổ này phải bao nhiêu là mật. Ngày nào mình cũng đi qua mà không biết.

Không ai để ý đến Lê. Tất cả đều dẩu mồm ra huýt sáo và nhìn lên già Đô, nhìn lên cái thòng lọng đang hạ dần xuống, run run, đảo đảo trên đầu con vật vẫn ngây ra nghe tiếng nhạc, (Sau này hắn nghĩ. Thật lắm loài chết vì nghệ thuật và thích thú với triết lý ấy của mình.)

– Được rồi!

Tiếng reo đồng thanh như tiếng những người xem bóng đá khi bóng vào lưới.

Con vật giãy giụa. Già Đô tròng tuyệt diệu. Đúng cổ. Già thả chúc cái tròng xuống. Thắng đỡ lấy cây nứa.

Thịt con rồng đất trắng nõn, hai thăn lưng tròn chắc như thăn lợn. Trông thế mà gần miệng cái ca của hắn. Khi làm lòng, già còn bắt được mấy con cua cắp vào lòng. Thắng lợi thật giòn giã.

Hai người ăn được ba ngày. Họ không mời Thắng. Họ biết Thắng chẳng thiếu gì. Mật ong với Thắng là thứ bình thường. Cả trứng gà nữa. Da Thắng đỏ au.

Khi từ Q.N chuyển lên VQ, hắn và già Đô cùng chung một cái khoá tay. Chia nhau mỗi người một nửa chiếc còng số 8. Hắn tay phải, già Đô tay trái. Không biết đi đâu, vì sao phải đi. Đến cuối thị trấn, xe dừng cho anh em tù đi đái. Cứ đôi một nhảy xuống. Hắn và già Đô “hai ba nào” nhảy rất đều. Nếu lệch nhau, kéo nhau ngã dúi, còng số 8 cắt vào đến xương.

Trải qua thử thách năm tháng, hắn biết già Đô quí hắn. Già không ngủ được cũng vì lo cho hắn. Hắn động viên lại già:

– Không có chuyện gì đâu. Cụ cứ yên tâm.

Hắn hút một điếu nữa, lần này được kéo thoải mái, rồi nằm xuống. Già Đô cũng nằm. Lẻ tẻ mấy người nữa dậy hút thuốc hoặc vào nhà mét. Anh em nằm im đấy thôi chứ ít người ngủ được.

Những đêm mất ngủ trong tù thật khủng khiếp. Có những điều gì không nghĩ đến. Cả những chi tiết hồi còn bé tí tưởng đã quên hẳn rồi bỗng vụt sống lại. Như hắn đã nhớ tới một sáng mồng năm tháng Năm, ngủ dậy thấy trời mưa mà hắn buồn mãi. Hắn nghĩ ngay: Phải “giết sâu bọ” trong nhà, ăn chè đỗ đen trong nhà, không được ra ngoài sân. Hắn còn nhớ rõ cái sân sáng hôm đó. Rơm tươi ướt đẫm nước mưa. Cây dâu ở phía góc sân cũng thế.

Hắn gọi mẹ, chìa mười đầu ngón tay, mười đầu ngón chân về phía mẹ. Hắn rút những cuốn lá ở các đầu ngón tay, đầu ngón chân ra. Móng tay móng chân hắn đỏ lừ. Có một cuộn lá rơi ra trong lúc ngủ. Ngón ấy không đỏ bằng các ngón khác. Thôi cũng được. Mẹ hắn cầm bàn tay bé xíu của hắn ấp lên mặt. Hắn ôm lấy mẹ.

Đêm nay hắn lại nhớ tới buổi sớm Tết Đoan ngọ ấy. Mẹ ơi. Mẹ chẳng ngờ con lớn lên lại đến nông nỗi này.

Phía sàn bên kia có tiếng “xạch”. Dưới ánh lù mù của ngọn đèn không thông phong ở cửa nhà mét, khói nhiều mà sáng ít, hắn thấy Hợp khe khẽ vén màn đứng lên. Rồi tiếng xuýt xoa, thất vọng của Hợp “Bé quá!” Cái bẫy chuột của Hợp đã sập. Cái bẫy làm bằng miếng gỗ con, với một khúc dây thép uốn có lò xo. Hợp đặt trên giá, lẫn vào đám nội vụ. Không biết Hợp lấy gì làm mồi?

Lâu lắm lại thấy “xạch” một cái nữa. Rồi lại tiếng Hợp thất vọng một mình: “Bé quá”. Làm gì có chuột to. Chuột to đã bị Dự bắt chén hết rồi. Chạy vun vút trên giá là những con chuột nhắt. Con nhỏ lông xám và con to lông vàng hươm. Hắn nghĩ cũng có thể Hợp bẩm thật. Hợp khổ quá. Vợ Hợp đã bỏ Hợp. Chẳng còn ai lên tiếp tế. Hợp đét. Hợp meo. Ngay thuốc lào cũng gay. Hắn không hiểu làm sao Hợp vẫn có thuốc lào hút. Trong khi ấy hắn nhận tắc. Tiếng giở các túi ni-lông đựng thức ăn cứ loạt soạt loạt soạt ở chỗ hắn làm Hợp không chịu được. Có thể thế.

Lại có tiếng “xạch”. Bẫy lại sập. Và tiếng Hợp reo khe khẽ: “Đây rồi”. Có lẽ đã nửa đêm. “Báo cáo. Tôi, Nguyễn Văn Tuấn, số tù CR880, dậy đi đái”. Hắn vào nhà mét. Khai cay mũi, chảy nước mắt. Nhà mét ngày nào cũng cọ rửa, nhưng anh em về chỉ một tiếng là đã khai cay mắt. Hắn nhắm mắt, nín thở, đái, co bụng lại mà đái cho nhanh. Cái mùi khai thật khó tả: Nó đặc sếnh, có thể bốc vào tay được. Nó có gai cứa vào lỗ mũi, chọc lên óc như kim loại. Như rắc ớt vào mắt. Sau này đi làm, hắn đã ngửi lại mùi nhà mét ở xí nghiệp. Đó là mùi trong nhà máy lạnh bị bục ống ga. Có công nhân đã ngất ngay tại chỗ. Thợ sửa chữa vào đó phải đeo mặt nạ.

Mùi a-mô-ni-ắc.

Thơ Hoàng Vũ Thuật

Hoang V ThuatVăn Việt: Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật sinh năm 1945 tại Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, hiện sống tại Đồng Hới, Quảng Bình. Ông làm thơ trước 1975, xuất hiện đậm nét với tập Những bông hoa trên cát (1979). Từ đó đến nay, Hoàng Vũ Thuật xuất bản tới 12 tập thơ, trong đó những tập có tiếng vang như Đám mây lơ lửng (2000), Tháp nghiêng (2003). Cây bút sung sức ở tuổi U 70 này còn gây được ấn tượng ở tinh thần tự đổi mới thường trực, điều khiến ông gần gụi và đồng cảm với các nhà thơ trẻ. Văn Việt xin trân trọng giới thiệu một chùm thơ của nhà thơ Hoàng Vũ Thuật rút từ tập Mùi mới xuất bản tại NXB Hội Nhà Văn. 

 

 

 

chiếc ghế bỏ trống

 

Nhớ nhà viết kịch Phan Xuân Hải

 

tấm thảm mùa hè trải bên cát mặn

khoanh từng ô

anh thường tới đây cạnh con lăn xi măng trườn ra biển

trong tiếng rú tăng tốc bụi mù chở theo đủ loại

nhọc nhằn

đôi mắt đen láy sau cốc rượu vang

 

vắng người năm trước

đàn chim bay qua rớt xuống tiếng kêu thảng thốt

giữa những gương mặt huyên náo

lá dương bắn ngàn mũi tên về phía anh ngồi

đã trống một chiếc ghế

 

thế gian này sẽ còn trống nhiều chiếc ghế

lại thừa hàng trăm chiếc ghế khác

sóng cứ ầm ào cuốn mãi lên bờ

lắm thứ người ta không dùng nữa

anh lượm và đóng gói

hy vọng sẽ được việc

 

rác rưởi sóng sánh vô số kỷ niệm

ở đó anh đọc được bao trang sách

tục tĩu và thánh thiện đắm say và chán chường

như cốc rượu vang đen láy

trôi xuống cổ họng

 

rồi nắng tắt

nặng trĩu đêm dày

sóng bận rộn cuộc tình muôn thuở

ngôi sao vụt sáng nỗi thèm khát

anh nghe cuộc đời cựa quậy

chỗ chiếc ghế bỏ trống.

 

Biển Nhật Lệ, 16/7/2010

 

 

trước nhà thờ Đức Bà Paris

 

đàn chim không biết sợ hãi

chúng sà xuống hồn nhiên

giữa lòng bàn tay

ăn mẩu bánh mì

hình như không biết tôi đến từ xứ sở mà chim

là đặc sản

 

ở đó loài chim bị chém ngang tiếng hót

vặt trụi lông

thiêu trên bếp than rừng rực

ở đó chim không có quyền bay vào trời rộng

bơi giữa hồ xanh trong

chim chỉ biết mua vui yến tiệc

 

hai mươi tám vị tông đồ ngự trên tường cao

hai mươi tám cánh thiên thần

trắng muốt

tôi là thằng gù Quasimođo

đơn độc

kéo hồi chuông

hỡi những hồn oan bé nhỏ bây giờ nơi đâu.

 

Paris, 3/1/2011

 

                       

bóng và anh

 

anh ôm bóng anh hằng đêm

hà hơi lên tóc lên trán hà hơi vào mắt vào môi

hà hơi xuống ngực

hà hơi

bóng biết nói biết đùa bỡn biết tự bảo vệ

đôi khi vượt qua giới hạn

anh yêu bóng anh như yêu người đàn bà

vừa thánh thiện vừa ác quỷ

nửa ấm áp nửa lạnh lùng

 

anh lang thang cùng bóng qua sa mạc đỏ

qua biển cả phù du

những thành quách màu huyết dụ

những đền đài vàng au

bóng

sứ giả của mây và gió

chú chim sẻ cậu sóc nhỏ con mèo con

nhảy loi choi trên xanh

chui vào vạt áo

tất tần tật

 

anh dìu bóng lên ngọn núi chọc trời

ôi nhừ đôi chân bại cả cánh tay

không thể làm gối không thể giúp anh

mỗi khi mỏi mệt

không hát nổi bài hát ngày xưa

bóng sẽ rơi xuống mất

thôi ngủ đây

bóng

 

anh vẽ bóng trên mặt kính mờ sương

rồi dấu mình sau gáy chơi trò ú tim 

mọi cử chỉ mọi việc làm mọi ham muốn

mọi buồn đau

bóng đều tường tận

là người hiểu anh không ngoài ai ra

nhưng bóng vội nhòa

làm sao tìm lại

một giờ bóng giận dỗi bỏ đi chẳng muốn gặp 

anh thành cái xác

 

sớm mai thức dậy anh thấy mình đã khác

mình là bóng

hay bóng là mình

không biết.

 

2/12/2010

 

 

trở về

 

ngôi nhà lỗ hổng không đáy

mỗi khi trở về

từng bước từng bước

âm thầm và

nặng

bóng mất hút trên thế gian này

                       

thắp một ngọn đèn

loãng tối

thắp hai ngọn đèn

đục tối

thắp năm ngọn đèn

câm tối

thắp chín ngọn đèn

đặc tối

                       

sáng ra

tự kéo mình khỏi giấc mê

hòn đá lưu đày

mở những nắp cống

ngạo nghễ bước ra khỏi miệng vực

đi.

 

31/5/2011

Theo tập Mùi

Bàn về tự do

Leszek Kołakowski

Nguyễn Thái Linh dịch

Leszek KołakowskiLeszek Kołakowski: triết gia đương đại nổi tiếng nhất của Ba Lan, được biết đến nhiều nhất với các tác phẩm đánh giá về học thuyết Marx, đặc biệt là cuốn sách ba tập Main Currents of Marxism (Những dòng chủ của chủ nghĩa Marx), là “một trong những cuốn sách về học thuyết chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20” theo nhận định của các nhà phê bình. Tập Các thuyết trình mini về những vấn đề maxi là tập hợp các bài báo ngắn đã đăng trước đây, một cuốn sách được bạn đọc phổ thông rất yêu mến vì cách viết dễ hiểu, nhẹ nhàng, nhiều khi hóm hỉnh mà vẫn nêu được những vấn đề cốt lõi nhất.

 

zdjęcieNguyễn Thái Linh, sinh năm 1975 tại Hà Nội, sang Ba Lan từ năm 14 tuổi, tốt nghiệp Khoa Luật, Đại học Tổng hợp Warszawa. Đã dịch các tác phẩm của các tác giả Ba Lan như Ryszard Kapuściński, Wisława Szymborska, Leszek Kołakowski, Zbigniew Herbert…

 

 

 

 

 

 

 

Có hai phạm vi tư duy nơi vấn đề tự do được suy xét, cả hai đều rất rộng; chúng độc lập với nhau về lô-gíc tới mức việc bản thân từ “tự do” thích hợp với cả hai không còn là điều hiển nhiên. Phạm vi tư duy thứ nhất là cuộc vật lộn vĩnh cửu với câu hỏi: “con người có tự do không?”, tự do từ chính bản chất loài người của mình, từ bẩm sinh đã được hưởng tự do bất khả tước đoạt? Tự do theo nghĩa này – tức là, thí dụ, khả năng chọn lựa, sự chọn lựa hoàn toàn không bị cưỡng bách bởi bất cứ thế lực nào ngoài nhận thức con người – đã vừa bị nghi vấn vừa được công nhận nhiều như nhau trong lịch sử văn hóa. Tranh cãi này có liên quan nhưng không đồng nhất với tranh cãi về tất định luận phổ thông. Nếu mỗi sự kiện đều đã được định sẵn tuyệt đối bởi toàn bộ các điều kiện nơi nó xảy ra, thì việc bàn về tự do lựa chọn chẳng còn nghĩa lý gì. Nếu từ bản chất, luật nhân quả chung là tuyệt đối đến thế thì chúng ta hẳn đã bị buộc phải đưa ra những kết luận đầy nghịch lý. Điều được định sẵn hoàn toàn bởi các điều kiện thì cũng khả lường – “trên nguyên tắc”, mặc dù không nhất thiết “thực hiện được”. Bởi vậy ta có thể tưởng tượng rằng, khi kỹ năng tiên đoán của chúng ta được hoàn thiện đúng mức, một ngày nào đó, trên cơ sở tất định luận, ta có thể đọc, thí dụ, một tin như sau trên báo: “hôm qua Janek Kowalski đã sinh ra ở Piotrkow, người sau này sẽ trở thành nhà soạn nhạc kiệt xuất. Để chào mừng sự kiện này ngày mai Dàn nhạc Giao hưởng Warszawa sẽ chơi bản giao hưởng số 3 mà anh sẽ sáng tác vào năm 37 tuổi.”Tu do

Song tự do không chỉ là sự lựa chọn giữa những khả thể sẵn có, mà còn là sự sáng tạo, làm ra những điều hoàn toàn mới mẻ, hoàn toàn bất ngờ.

Trước kia cả các nhà vật lý lẫn các triết gia đều tin vào tất định luận cứng nhắc; họ không có chứng cớ cho nó, nhưng họ cho rằng niềm tin này là sáng suốt hiển nhiên, chỉ có những kẻ lầm lẫn mới nghi ngờ và nó là cơ sở tất yếu của tư duy khoa học và duy lý. Trong thế kỷ của chúng ta, niềm tin này bị bẻ gãy, chủ yếu nhờ ngành cơ học lượng tử, và gần đây nhất nhờ cả thuyết hỗn độn. Các nhà vật lý đã vứt bỏ giáo điều tất định luận. Tất nhiên từ đây không thể kết luận rằng con người được ban tặng ý chí tự do – các điện tử không có ý chí tự do – mà chỉ có thể khẳng định rằng niềm tin vào ý chí tự do không bị vật lý học xóa sổ hay làm cho vỡ mộng. Không. Có thể, thậm chí theo tôi là cần phải, tin vào sự tự do lựa chọn – theo nghĩa trên – và vào sự sáng tạo lựa chọn mới; tự do là một trải nghiệm sơ đẳng của chúng ta, trải nghiệm của mỗi người; nó sơ đẳng tới mức không thể tách ra thành các phần để có thể phân tích riêng rẽ, do đó có thể cảm tưởng rằng tự do là một thực tại phi chứng minh. Không có lý do nào để không tin vào trải nghiệm này, dẫu chính vì nó sơ đẳng. Chúng ta thật sự là thủ phạm của các hành động mà ta thực hiện, chứ không chỉ là công cụ của các thế lực khác nhau quét qua thế giới, dẫu rằng, tất nhiên, chúng ta bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên. Chúng ta cũng thật sự đặt ra cho mình các mục tiêu, tốt hay xấu, mà chúng ta hướng tới. Các điều kiện ngoại giới hay những người khác có thể khiến mong ước của chúng ta tan vỡ, chúng ta có thể, thí dụ, bị hạn chế về thể lực tới mức không có khả năng thực hiện hiệu quả bất cứ lựa chọn nào, nhưng chúng ta vẫn không bị lấy mất năng lực lựa chọn, mặc dù bị mất đi khả thể sử dụng thứ tự do này.

Như vậy là thứ tự do này được ban cho con người đồng thời với nhân tính của họ, là nền tảng của nhân tính ấy, tạo ra con người như một điều gì đó đặc biệt từ bản chất.

Ở đây không có lý do gì để chúng ta khẳng định theo thánh Augustin và Kant, rằng chúng ta chỉ tự do khi lựa chọn cái tốt chứ không chọn cái xấu, do đó tự do của chúng ta được xác định qua nội dung sự chọn lựa chứ không phải bản thân khả năng chọn lựa. Khẳng định như vậy nghĩa là gói gọn các học thuyết luân lý vào chính khái niệm tự do.

Song ta cũng nói về thứ tự do không hiện hữu trong bản chất tồn tại của chúng ta, mà lại là tác phẩm của văn hóa, của đời sống tập thể và pháp luật. Tự do theo nghĩa này là phạm vi các hành động của con người mà tổ chức xã hội không cấm cũng không bắt buộc, do đó con người có thể chọn những gì họ thích, làm hay không làm điều gì đó mà không gây ra nguy cơ bị trả đũa. Tự do theo nghĩa này tất nhiên là có mức độ, nó có thể nhiều hay ít hơn và ta thường so sánh các thể chế chính trị khác nhau bằng thước đo tự do – từ những thể chế nơi tự do gần bằng không, tức các thể chế toàn trị với hình thức cực đoan (ví dụ nước Nga thời Stalin, Trung Quốc thời Mao Trạch Đông và các chế độ cộng sản châu Á khác, Đức Quốc xã), đến các thể chế nơi các lệnh cấm và mệnh lệnh được giới hạn đến tối thiểu. Các chế độ toàn trị luôn có tham vọng điều chỉnh mọi hành vi của con người và không để cho các cá nhân có quyền chọn lựa. Các chế độ độc tài nhưng không toàn trị thì muốn lấy đi tự do của con người trong mọi lĩnh vực nơi tự do có thể là mối đe dọa cho chính quyền, nhưng trong các vấn đề không ảnh hưởng đến việc giữ chính quyền thì chúng không hướng tới việc kiểm soát tuyệt đối và không cần phải có một hệ tư tưởng toàn diện, bao quát.

Dễ thấy là mặc dù tự do theo nghĩa này có thể bị giảm thiểu đến bằng không, song nó lại không thể trở thành vô hạn. “Tình trạng tự nhiên” giả định mà trước đây các lý thuyết gia về đời sống xã hội xét đến, nơi không có bất cứ quyền lợi, luật lệ, bất cứ tổ chức đời sống tập thể nào, mà chỉ là cuộc đấu tranh không dứt của tất cả chống lại tất cả, chưa từng tồn tại, nhưng nếu tình trạng này có tồn tại đi chăng nữa, thì nó cũng sẽ không bao giờ là tình trạng tự do vô hạn. Không thể nói rằng trong một thế giới như thế “mọi thứ đều được phép” (hay “được làm mọi thứ”), vì một điều có thể được phép hay không là bởi một luật lệ nào đó. Nơi không có luật thì cũng không có tự do, từ này sẽ mất ý nghĩa; nói cách khác tự do trong thế giới của chúng ta luôn bị giới hạn. Robinson Crusoe không hưởng thụ sự tự do vô hạn, nói cho cùng thì anh ta không hưởng thụ chút tự do nào hết. Tự do – lớn hơn hay nhỏ hơn – chỉ có thể có được ở nơi có gì đó được phép và có gì đó bị cấm (xin nhắc lại, để vấn đề được sáng tỏ hơn, một câu tiếu lâm mà tôi không biết của ai, có từ thời chiến tranh thế giới thứ nhất: ở Áo những gì không bị cấm là được phép, ở Đức những gì không được phép là bị cấm, ở Pháp mọi thứ đều được phép kể cả những gì bị cấm, ở Nga tất cả mọi thứ đều bị cấm kể cả những gì được phép).

Qua đây chúng ta thấy rằng, mặc dù hai nghĩa trên của từ “tự do” rất khác nhau, tới mức có thể có tự do theo nghĩa thứ nhất mà không có tự do theo nghĩa thứ hai, song chúng có liên hệ với nhau ở mức độ ta có thể sử dụng cùng một từ mà không ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới, miễn là chúng ta không trộn lẫn các nghĩa đó với nhau. Trong cả hai trường hợp đều nói đến khả năng lựa chọn: trong nghĩa thứ hai là về các điều kiện tình thế của sự lựa chọn, về những gì nói chung tổ chức xã hội và luật pháp chừa lại cho chúng ta lựa chọn; trong nghĩa thứ nhất là về các điều kiện tinh thần của chính chúng ta cho sự lựa chọn và sáng tạo, về bản thân thực kiện rằng chúng ta có quyền năng lựa chọn và sáng tạo, mặc dù khả năng này của chúng ta không giả định bất cứ điều gì về phạm vi các lợi ích mà ta có thể thực sự lựa chọn.

Có hai sai lầm phổ biến cần chú ý khi nói về tự do. Sai lầm thứ nhất chúng ta mắc phải khi đổ vấy khái niệm tự do cho mọi đòi hỏi của con người và mọi lợi ích mà người ta khao khát. Thật ra cũng chẳng có gì không ổn trong câu: „tôi đã tự giải phóng khỏi cơn đau” hay “cơn đói”; nhưng mặc dù không bị đau hay bị đói là đòi hỏi cơ bản nhất của con người, thì cũng không đúng nếu nói rằng khi đòi hỏi này được thỏa mãn, chúng ta sẽ được hân hưởng một thứ tự do cụ thể nào đó. Khi đó nói về “tự do” là nhẫm lẫn bởi vấn đề ở đây không phải là phạm vi cũng như khả thể chọn lựa hay sáng tạo bất cứ thứ gì. Cơn đau qua đi và như vậy là tốt, loại bỏ cơn đau là lợi ích vô cùng đáng khao khát; lợi ích đáng khao khát cũng có thể là quả táo cho người đang đói hay giấc ngủ cho người mệt mỏi hay bất cứ thứ gì mà con người thèm muốn. Nhưng loại bỏ cơn đau hoặc ăn táo không phải là một thể loại tự do, mà là lợi ích đáng khao khát. Biết bao người trong thế kỷ chúng ta, và trước kia nữa, đã hy sinh đời mình trong cuộc đấu tranh cho tự do đúng nghĩa, nên việc kéo giãn ý nghĩa của từ này ra cho bất kỳ thứ gì bất kỳ khi nào con người khao khát sẽ làm mờ tối mạng lưới khái niệm của chúng ta và tước đi năng lực của từ chuẩn; cốt lõi của khái niệm bị đánh mất. Sự phân biệt phổ biến giữa “tự do đối với cái gì đó” và “tự do để làm điều gì đó” là không cần thiết.

Sai lầm thứ hai là khi cho rằng tự do theo nghĩa pháp lý thứ hai sẽ không có ý nghĩa nếu các đòi hỏi khác không được đáp ứng. Đây là một lý lẽ trước kia được những người theo chủ nghĩa cộng sản sử dụng phổ biến: “việc nhà nước có tự do chính trị thì giúp được gì cho một người thất nghiệp đói khát?” Nhưng nó giúp được đấy. Cái đói có thể là một cảm giác cấp bách hơn sự thiếu tự do chính trị, song khi các tự do này hiện hữu, những người thất nghiệp đói khát có nhiều cơ hội hơn rất nhiều để phấn đấu cải thiện số phận, họ có thể tố chức đấu tranh cho lợi ích của mình và có thể đòi hỏi quyền lợi nếu thấy mình bị thiệt thòi.

Do vậy, nếu việc gọi mọi lợi ích đáng khao khát là tự do là sai (dầu sao thì một trại tập trung không có nạn đói là điều có thể hình dung, nhưng sẽ là mạo hiểm nếu khẳng định rằng trại tập trung này bảo đảm cho các tù nhân các tự do nhất định, trong khi đó một thể chế tự do bảo đảm các tự do khác), thì không có gì phải nghi ngờ rằng tự do trong nghĩa pháp lý cũng là một ích lợi rất đáng khao khát; ở đây nó là lợi ích tự thân, không chỉ bởi nó là công cụ và điều kiện để đạt được các lợi ích khác.

Ít nhất từ đây dẫn đến kết quả là càng nhiều tự do (theo nghĩa này) càng tốt. Nguyên tắc này không thể được chấp nhận một cách vô hạn định. Chắc chắn phần đông trong chúng ta cho là tốt khi nhiều hành vi trước kia bị trừng phạt giờ đây không còn bị trừng phạt nữa, ít nhất là ở các nước văn minh (ví dụ đồng tính luyến ái hay phép thuật). Nhưng không ai có tư duy lành mạnh lại đòi hỏi tự do đi xe bên phải hoặc bên trái đường tùy thích. Ở nhiều nước có những ý kiến cho rằng trẻ em ở trường có quá nhiều tự do, quá ít kỷ luật và điều đó ảnh hưởng tới cả chất lượng giảng dạy lẫn giáo dục đạo đức và công dân. Hơn nữa hoàn toàn không chắc là trẻ em từ những tuổi nhỏ nhất muốn có càng nhiều không gian chọn lựa càng tốt, mặc dù khao khát này lớn lên theo tuổi tác; có lẽ trẻ nhỏ chấp thuận một cách tự nhiên rằng người lớn bảo cho chúng biết cần phải làm gì và chúng không đòi hỏi người lớn để chúng tự lựa chọn. Chính người lớn chúng ta trong nhiều việc cũng dễ dàng nghe theo sự lựa chọn của người khác; chúng ta không tự tin và chờ đợi lời khuyên của các chuyên gia dẫu biết rằng không phải chuyên gia nào cũng xứng đáng được tin tưởng. Ta biết rằng sự chọn lựa tốt thường phụ thuộc vào hiểu biết về sự vật, và không ai có thể khoe mình có kiến thức đầy đủ trong mọi chuyện khi cần chọn lựa. Chúng ta có tự do nhưng thà không sử dụng nó đối với những việc chúng ta không thành thạo.

Tóm lại, không có một nguyên tắc quan trọng chung xác định tự do nhiều hơn hay ít hơn bao nhiêu là tốt đối với chúng ta. Đôi khi chúng ta có cơ sở cho rằng tự do cũng có thể quá nhiều, không chỉ quá ít, và rằng tự do vượt ra ngoài một số khuôn khổ sẽ gây hại. Chắc hẳn sẽ an toàn hơn nếu luật pháp mắc tội khi cho phép quá nhiều hơn là quá ít tự do để công dân tự quyết, nhưng ngay cả nguyên tắc này cũng không thể được thừa nhận vô hạn chế.

(Trích từ tập “Các thuyết trình mini về những vấn đề maxi”, NXB Znak, Kraków 2008)

Dịch giả gửi Văn Việt.

Thư ngỏ thứ hai của nhà thơ Đỗ Trung Quân kính gửi nhà văn Nguyên Ngọc và Văn đoàn độc lập

Kính thưa ông và Văn đoàn

Ngay sau khi có thư ngỏ của tôi trên blog Quê Choa và trên mạng Internet cũng như FB cá nhân, tôi đã được thư ngỏ phản hồi nhanh chóng của ông đại diện cho Văn đoàn. Điều ấy khiến tôi yên tâm với tôn chỉ của Văn đoàn ngoài việc hoạt động cho một nền văn học ngay ngắn và mở rộng vì quyền tự do sáng tác, còn là lên tiếng kịp thời cho mọi thành viên khi gặp những vấn đề có dấu hiệu trấn áp dưới mọi hình thức, đi ngược quyền con người và sáng tác như trong Hiến pháp đã quy định.

Với tư cách cá nhân, tôi trân trọng cảm ơn Văn đoàn qua tiếng nói chính thức, công khai và minh bạch của ông trong trường hợp của tôi về vai trò trong văn đoàn như “ngộ nhận“ hay quy kết của an ninh nhà nước Việt Nam.

Tôi trân trọng cảm ơn Văn đoàn và câu trả lời của tôi sau thư ngỏ của ông, nhà văn đại diện Văn đoàn với an ninh Việt Nam việc tôi có rút tên hay không là: KHÔNG!

Kính chúc ông sức khỏe và anh chị em văn đàn bình an.

Đỗ Trung Quân – Nhà thơ

Tp HCM 13- 6 -2014

THƯ NGỎ GỬI NHÀ THƠ ĐỖ TRUNG QUÂN VÀ TẤT CẢ NHỮNG AI QUAN TÂM ĐẾN QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO HỘI HỌP VÀ LẬP HỘI Ở VIỆT NAM

Ngày hôm nay, 12/04/2014, trên trang mạng bolapquechoa có đăng thư ngỏ của nhà thơ Đỗ Trung Quân gửi nhà văn Nguyên Ngọc và Văn đoàn Độc lập Việt Nam, sau đó được trang mạng Văn Việt của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam (gọi tắt là BVĐVĐ) đăng lại ngay tức thời. (http://vanviet.info/van-de-hom-nay/thu-ngo-nha-tho-do-trung-quan-gui-van-doan-doc-lap/ hoặc [nếu bị tường lửa] http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://vanviet.info/van-de-hom-nay/thu-ngo-nha-tho-do-trung-quan-gui-van-doan-doc-lap/). Trong thư có đoạn: “… tôi được một nhân vật thuộc ngành an ninh thông báo lý do canh giữ tôi đến hôm nay ngoài việc xuống đường [chống China xâm lược] như dư luận trong và ngoài nước đã biết, tôi còn là THƯ KÝ VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP, còn là cầu nối, một trạm liên lạc của Văn đoàn”. Nhà thơ Đỗ Trung Quân yêu cầu VĐ ĐL trả lời công khai ông có được giao chức trách nói trên hay không?

Về vấn đề này, BVĐVĐ xin chính thức tuyên bố:

 1/ Nhà thơ Đỗ Trung Quân là một thành viên của BVĐVĐ trên cơ sở tự nguyện tán thành Tuyên bố của BVĐVĐ và đăng ký tham gia BVĐVĐ. Ngoài tư cách đó, ông chưa được giao bất cứ công việc gì của BVĐVĐ.

2/ Việc mỗi thành viên BVĐVĐ nhận và thực hiện công việc theo sự phân công của Trưỏng ban – nhà văn Nguyên Ngọc là việc hoàn toàn nội bộ của BVĐVĐ. Không ai có quyền, bất kể nhân danh tổ chức hay cơ quan nào, sách nhiễu các thành viên BVĐVĐ về việc này.

3/ Trong suốt thời gian từ khi BVĐVĐ tuyên bố ra mắt (03/03/2014), đã có những hiện tượng sách nhiễu, gây khó khăn với không ít thành viên BVĐVĐ, như: ngăn cản các thành viên BVĐVĐ xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng (báo chí, truyền hình…), lặp lại đúng hệt các thủ đoạn xấu xa đối với Nhân văn Giai phẩm cách đây hơn nửa thế kỷ; gây áp lực với nơi làm việc của thành viên và trực tiếp với thành viên để “vận động” họ rút tên khỏi BVĐVĐ; vu cáo trắng trợn rằng BVĐVĐ là một tổ chức chính trị hoạt động nhờ tài trợ nước ngoài…

Những hành vi trên đã không lay chuyển được đại đa số thành viên BVĐVĐ. Nhiều người đã khẳng khái trả lời KHÔNG với mọi áp lực nhằm buộc họ rút tên khỏi BVĐVĐ.

4/ BVĐVĐ kịch liệt phản đối những hành vi sách nhiễu nói trên đối với các thành viên BVĐ, vì:

Đó là những hành vi vi phạm pháp luật và Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội của công dân.

Vu cáo, xúc phạm uy tín danh dự của tổ chức và công dân.

Chia rẽ khối đoàn kết dân tộc trong lúc đất nước đòi hỏi sự đồng thuận, một lòng của toàn dân, đặc biệt của giới trí thức, để đối phó với cuộc xâm lược của China đang diễn ra vô cùng nguy hiểm trên mọi mặt trận, trong đó văn hoá là một mặt trận hết sức then chốt.

5/ Lập trường nghệ thuật của BVĐ đã thể hiện rõ trong Tuyên bố Vận động ngày 03/03/2014 (http://vandoandoclapvietnam.org), đó là: “góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi.”

Lập trường chính trị của BVĐ đã thể hiện rõ trong Tuyên bố về vụ giàn khoan Hải Dương 981 (http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://vanviet.info/van-de-hom-nay/tuyen-bo-cua-ban-van-dong-van-doan-doc-lap-viet-nam-ve-viec-trung-quoc-cho-gian-khoan-hd-981-va-cac-tau-vu-trang-xam-chiem-vung-bien-thuoc-chu-quyen-viet-nam/) chỉ 4 ngày sau khi China kéo giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. BVĐ tự hào là tổ chức dân sự đầu tiên ở Việt Nam lên tiếng chính thức về sự kiện nghiêm trọng này, phản đối mãnh liệt hành động xâm lược của China và ủng hộ Nhà nước Việt Nam thi hành mọi biện pháp mạnh mẽ và tỉnh táo để bảo vệ chủ quyền đất nước.

Trang mạng vanviet.info của BVĐVĐ ra mắt từ 19/3/2014 đến nay đã thể hiện cụ thể lập trường nghệ thuật và chính trị trên, thu hút lượng bạn đọc và cộng tác viên đông đảo, mặc dù ở nhiều nơi bị chặn bằng tường lửa.

6/ Những tổ chức nghề nghiệp yêu nước có lập trường và hoạt động lành mạnh như BVĐVĐ không có lý do gì là đối tượng sách nhiễu, ngăn cản của bất cứ cơ quan, tổ chức nào với lý do an ninh chính trị tư tưởng văn hoá.

BVĐVĐ yêu cầu các cơ quan hữu trách chấm dứt những hành vi sách nhiễu bất hợp pháp của một số cá nhân, tổ chức đối với BVĐVĐ và các thành viên BVĐVĐ. BVĐVĐ tuyệt đối tin tưởng rằng lý tưởng và những việc làm đúng đắn của mình luôn được sự ủng hộ và hưởng ứng của đông đảo người viết văn và bạn đọc trong, ngoài nước.

 

Ngày 12/6/2014

 

Thay mặt Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam

Nguyên Ngọc

Giai cấp mới của Milovan Djilas

Giai cap moiVăn Việt: Giai cấp mới – cuốn sách nổi tiếng làm thay đổi cách nhìn của thế giới về chủ nghĩa cộng sản được viết bởi một người cộng sản – Milovan Djilas. Văn Việt xin giới thiệu Lời người dịchLời giới thiệu của nhà xuất bản Giấy Vụn cho bản tiếng Việt của tác phẩm này được phát hành năm 2010 để độc giả hiểu phần nào tầm quan trọng của nó, nhất là ở thời điểm này.

 

 

Lời người dịch

Milovan Djilas, nhà hoạt động chính trị Nam Tư, sinh ngày 12 tháng 6 năm 1911 tại làng Podbishtre, gần thành phố Kolashin, nước Cộng hòa Trenogori. Ông học luật và văn chương tại trường tổng hợp Belgrad, vào Đảng Cộng sản vào năm 1932, lúc vừa tròn 21 tuổi. Ngay trong năm đó, ông bị chính quyền bắt tù vì tổ chức biểu tình. Ông tiếp tục hoạt động sau khi được tha vào năm 1935 và gặp Tito vào năm 1937, rồi trở thành một trong những người bạn chiến đấu thân cận nhất của Tito trong thời Chiến tranh Thế giới II. Sau chiến tranh, Milovan Djilas được bầu làm Phó Tổng thống Nam Tư. Năm 1948, khi Nam Tư xung đột với Moskva về ý thức hệ, ông được giao phụ trách công tác tư tưởng với nhiệm vụ chứng minh cách hiểu chủ nghĩa cộng sản của Tito là đúng.

Nhưng cuộc đời thật trớ trêu, chính việc phân tích một cách khoa học chế độ cộng sản ở Nam Tư đã cho thấy những mặt trái của nó và suy rộng ra là mặt trái của chế độ chuyên chính vô sản nói chung. Vì những hoạt động lý luận “ngược dòng” của mình, năm 1954, Milovan Djilas bị khai trừ khỏi Đảng, bị tước hết các chức vụ, và năm 1955 thì bị xử tù án treo. Tháng 12 năm 1956, Milovan Djilas bị xử 3 năm tù vì đã ủng hộ cuộc khởi nghĩa ở Hungary. Bản thảo tác phẩm Giai cấp mới được Milovan Djilas hoàn thành trong tù, được bí mật gửi ra nước ngoài và xuất bản ở New York vào năm 1957. Vì vụ này ông bị kết án 7 năm tù giam. Milovan Djilas được tha trước thời hạn vào năm 1961. Ngay sau đó ông cho xuất bản từng phần tác phẩm Nói chuyện với Stalin, và vì vậy mà năm 1962 ông lại phải ra tòa một lần nữa.

Năm 1966, Milovan Djilas được ân xá và được chính phủ cấp lương hưu vì có công trong cuộc kháng chiến chống phát xít, nhưng vẫn bị cấm xuất bản trên lãnh thổ Nam Tư, cấm phát biểu với giới báo chí trong thời hạn 5 năm. Song điều đó không ngăn được ông tiếp tục sáng tác. Trong thời gian từ 1970 đến 1986, ông bị cấm xuất ngoại. Năm 1982, ông lên tiếng ủng hộ Công đoàn Đoàn kết Ba Lan, và trong những năm 1990 ông liên tiếp lên án chính sách của chính quyền Milosevich. Trong số các tác phẩm của Milovan Djilas xuất bản từ năm 1966 có thể kể thêm: Xã hội không hoàn hảo, xuất bản năm 1969;  Hồi ký của một nhà cách mạng, xuất bản năm 1973 và Tito: chuyện nội bộ, xuất bản năm 1980.

Milovan Djilas mất ngày 20 tháng 4 năm 1995, thọ 84 tuổi.

Giai cấp mới được dịch sang tiếng Nga và được xuất bản trước hết theo lối Samizdat từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước, sau đó in trong tập sách dưới nhan đề Bộ mặt của chế độ toàn trị, cùng với hai tác phẩm: Nói chuyện với Stalin Xã hội không hoàn hảo.

Phạm Nguyên Trường

 

 

Lời giới thiệu của nhà xuất bản Giấy Vụn

Cuốn sách đang mở trước mặt các bạn đây là một tác phẩm đặc biệt, vì nhiều lẽ. Thứ nhất, nó là sách chính trị của một chính trị gia. Thứ hai, nó vạch ra những nhược điểm căn bản, thậm chí là “cốt tử”, có tính bản chất, của cả một phong trào, một cuộc cách mạng, mà sau này trở thành một chế độ, một chủ nghĩa của thế kỷ 20 (và rơi rớt tới tận bây giờ trong thế kỷ 21): chủ nghĩa cộng sản.

Và thứ ba là, nó lại do chính một người cộng sản kỳ cựu đặt bút viết nên: nguyên Phó Tổng thống Nam Tư dưới thời Joseph Tito – Milovan Djilas. Như tác giả đã viết trong lời nói đầu: “Tôi, một trí thức đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi. Từ những chức vụ thấp nhất, từ các tổ chức cơ sở cho đến quốc gia và quốc tế; từ việc thành lập một đảng cộng sản chân chính, chuẩn bị cách mạng, đến việc tham gia xây dựng cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Với những bạn đọc quan tâm đến chính trị, có lẽ, chỉ chút ít thông tin về thân thế của tác giả cũng đã đủ là một lời hứa hẹn rằng bạn sẽ được đọc một cuốn sách xứng đáng.

Thực tế còn hơn thế: Cuốn sách không chỉ chứng minh cho bạn rằng thật bõ công bỏ thời gian để đọc tác phẩm phê phán chủ nghĩa cộng sản của một đảng viên cộng sản – quả thật bạn đã đúng khi chú ý tới thân thế của tác giả. “Giai cấp mới” còn đi xa hơn, nó chứng minh sự tồn tại của những đặc điểm mang tính chất đặc thù của chủ nghĩa cộng sản: kiêu ngạo và hợm hĩnh, phản khoa học, quan liêu, dối trá… Thật ra, rất nhiều đặc điểm này là cái ta đều đã biết. Nhưng Milovan Dijlas mới là người chỉ ra chúng một cách có hệ thống, thuyết phục và hấp dẫn hơn cả. Ta hãy nghe ông nói:

 “Một người thuộc giai cấp nào đó không có nghĩa rằng người đó đã có một khối tài sản nhất định. Điều đó càng đúng đối với chế độ cộng sản: sở hữu mang tính tập thể. Ở đây muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị”.

 “Về mặt lý thuyết thì mọi người đều có thể leo lên. (…) Ở đây mỗi người chỉ cần một phẩm chất, đấy là lòng trung thành tuyệt đối đối với đảng (thực ra là với giai cấp). Nhưng đấy lại chính là điều khó khăn nhất. Giai cấp mới giống như một hình kim tự tháp: đáy to, càng lên trên càng hẹp dần. Để đi lên, chỉ ý chí không chưa đủ, còn cần phải hiểu và “vận dụng lý luận” nữa, cần phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp nữa”.

Ở đây điều thú vị là, độc giả có thể đọc cuốn sách không phải theo cái cách “đọc để biết, biết chỉ để mà biết”. Bởi vì, nhìn nhận được những đặc điểm ấy của “giai cấp mới” – tức là tầng lớp quan liêu, tầng lớp hưởng đặc quyền đặc lợi của đảng cộng sản, theo định nghĩa “chỉ mặt đặt tên” của Milovan Dijlas – chúng ta sẽ thấu hiểu được những gì đang diễn ra rất gần với mình, ngay trên chính mảnh đất nơi chúng ta đang sống. Chúng ta sẽ hiểu được vì sao trong quá khứ không xa, ở Việt Nam, từng có những cuộc tranh trừng nội bộ đẫm máu, những cuộc “đảo chính cung đình” mà mọi sự đều diễn ra sau bức màn đỏ một cách bí mật và mưu mô, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn và lâu dài tới số phận nhân dân và đất nước về sau. Sẽ hiểu vì sao lại phải có những chiến dịch tuyên truyền, những cuộc vận động chỉnh đốn Đảng rầm rộ. Sẽ hiểu, sẽ nhìn nhận mọi sự dưới ánh mắt duy lý hơn, bình thản hơn, và tất nhiên, sáng suốt hơn.

Với suy nghĩ ấy, chúng tôi xin được trân trọng giới thiệu cuốn sách này đến bạn đọc.

Tháng 2/2010

Gió dại, chữ nghĩa và văn chương

Phan Huy Đường

Nhà văn khôn ngoan không nên đụng tới những từ nguy hiểm như quốc gia, cộng sản, ngụy, việt cộng… Những món đó khó nuốt, khó ăn khách, nhất là hôm nay. Ngược lại, nhà văn có bản lĩnh, có tài, nên dùng chúng. Chỉ nhà văn như thế mới dùng nổi, mới thực hiện nổi một chuyện cần thiết nhưng khó, cải tạo tiếng nói, khai tử ngôn ngữ thời chiến, khai sinh ngôn ngữ thời bình.

Chiến tranh thường là thời điểm khiến con người sống tận gốc, như một con thú, như một con người, như một con thú đòi làm người: con người là một con thú phải học làm người, mỗi thế hệ phải tự mình tái tạo nhân giới, gánh lên vai lịch sử của cha anh, đương đầu với thiên nhiên và nhân loại đương thời, sáng tạo ngày mai. Trong chiến tranh, con người biết xử sự với nhau một cách tàn bạo hơn thú: nó có một cái gì phải bảo vệ, quý hơn sinh mạng của nó. Bình thường nó tuyệt đối hoá, thần thánh hoá, sinh vật hoá, những giá trị khiến nó chấp nhận những hành vi man rợ đối với người khác. Vì người khác biến nó thành thú, để được làm người, nó phải tiêu diệt người khác như tiêu diệt các con thú khác. Ðể có thể làm việc ấy, trước hết, nó phải biến đối tượng của nó thành thú. Công cụ độc nhất cho phép thực hiện điều đó là ngôn ngữ, vì con người tư duy bằng ngôn ngữ, vì người Việt Nam tư duy, xúc động bằng tiếng Việt Nam. Tiếng Việt thời chiến là di sản của cha anh để lại cho thế hệ người Việt hôm nay. Nó vừa là nhân cách, vừa là thú tính của người Việt trong nửa sau thế kỷ thứ 20. Chúng ta, người Việt hôm nay, giống nhau và khác nhau ở đó. Ngôn ngữ đó là chúng ta, là đối tượng, là thử thách đối với nhà văn.

Ðọc Gió dại, truyện ngắn của Bảo Ninh, điều làm ta giãy nẩy, chính là cái tiếng Việt ấy ! tiếng Việt của cuộc đời thực, của một thời đại đã làm ra chính ta. Ngụy, nhạc vàng, việt cộng, cộng sản… Ðó là thế giới của ta, là tâm hồn ta, một thế giới có Ngụy, lính ngụy, nhạc ngụy, ca sĩ ngụy, ngụy cái, ngụy con… một thế giới có Việt cộng, Vi Ci, gooks, cộng cái, cộng con… một thế giới trong đó ta có thể nhẹ lòng lên đạn, bóp cò, vì ở đầu nòng súng chỉ có ngụy đực, ngụy cái, ngụy con, chỉ có cộng đực, cộng cái, cộng con, không có người, không có đồng bào.

Ai đã tạo ra cái thế giới đó ? Về khía cạnh lịch sử, xin nhường các sử gia nghiên cứu, phân tích. Cần thiết, bổ ích, nhưng không quyết định.

Ai đã tạo ra ngôn ngữ này ? Chính chúng ta. Ðương nhiên, những chính khách, những guồng máy tuyên truyền, nhồi sọ có vai trò của chúng. Nhưng chưa bao giờ tự chúng có thể hiện thực hoá khái niệm, biến khái niệm thành sức mạnh vật chất, thành động lực của xã hội, của Lịch sử. Chính chúng ta đã làm điều ấy, đang làm điều ấy, và do đó, chỉ có chúng ta, những người sống sót, mới có thể “gỡ” những “giây oan” ấy.

Bàn về Việt Nam hôm nay, vì ước mơ hoà hợp dân tộc, có người chủ trương tránh những từ ngữ chuyên chở quá khứ khốc liệt kia, phó mặc cho thời gian hàn gắn những vết thương của quá khứ. Khốn nỗi, con người không chỉ là một sinh vật. Có những vết thương không dày xéo da thịt, mà thấm vào hồn, đọng trong ngôn ngữ, do đó không thể nhờ thời gian hàn gắn. Vì ngôn ngữ là hình thái tồn tại vượt thời gian của con người, vì ba trăm năm sau vẫn còn người khóc Tố Như, thời gian không là liều thuốc trị bệnh cho ngôn ngữ. Chỉ có thể quên. Quên tiếng nói, quên bản thân mình ! Ðiều đó cũng có thể. Nhưng ta thừa biết, người ta chỉ có thể cố ý quênnhững gì người ta nhớ mãi. Người Việt còn vương vấn với Việt Nam không bao giờ quên được những gì đã khiến Việt Nam thành Việt Nam hôm nay, khiến mình thành mình hôm nay, không bao giờ quên được chính mình. Hơn thế, những sai lầm ta nỡ quên cũng là những sai lầm ta và con em sẽ mắc lại.

Tác phẩm của Bảo Ninh đẹp ở chỗ ấy. Nó không quên gì cả. Nó đập cửa tương lai từ chính quá khứ kia. Nó ôm ngôn ngữ thời chiến để cải tạo tiếng Việt, để sáng tạo ngôn ngữ Việt Nam thời bình. Chỉ có chính trị và văn chưong, xuyên qua quần chúng, làm được chuyện ấy, vì đối tượng cơ bản của chính trị và văn chương là con người, là ngôn ngữ. Nhưng nhà chính trị có khi dùng ngôn ngữ để nô lệ hoá con người, trong khi ngôn ngữ của nhà văn chỉ thành văn khi nó giải phóng con người. Chính vì thế, tuy tác phẩm của Bảo Ninh không có những luận điểm phê phán chế độ, tố cáo những tệ nạn xã hội, chính trị…, mà Bảo Ninh được vinh dự bị đập đích danh trong buổi họp BCH TU Ðảng CS Việt Nam hồi đầu năm 1993. Anh làm được chuyện nguy hiểm nhất đối với người cầm quyền bảo thủ, phản động, anh hoàn lại ngôn ngữ cho tác giả chân chính của nó, cho nhân dân. Trong ngòi bút của anh, bỗng nhiên Ngụy hết Ngụy, Việt cộng hết Việt cộng. Tất cả trở thành người Việt, trong một thời điểm lịch sử có thật, trong đó người Việt Nam đã từng coi nhau là Ngụy, là Việt cộng. Trong ngòi bút của anh, NgụyViệt cộng hết là đặc tính của một loại sinh vật khắc tính với ta. Nếu người xưa có thể coi nhau là Ngụy, là Việt cộng, đương nhiên người ngày nay cũng có thể coi nhau là người Việt nam, là người, chẳng cần quên quá khứ, có thể nhớ tất cả, nhưng vẫn muốn sống với nhau vì tự thấy có chung “một quê hương và một mối tình”, một tiếng Việt, của chung và của riêng từng người. Tiếng Việt ấy đương nhiên là một tiếng Việt trong đó mỗi người Việt đều có mặt, có mặt người. Tái sinh, tái tạo ngôn ngữ là như thế. Văn chương từ đó mà hình thành. Nó là lời mời của một con người tự do, mời những con người tự do cùng mình chung sống, cùng mình tái tạo và sáng tạo ngôn ngữ chung, sáng tạo tương lai nhân bản cho thời đại của mình. Ðó là nguồn gốc của Ðẹp. Ngoài nguồn gốc ấy, không có cái gì, từ một thế giới siêu nhân, đảm bảo được tính nghệ thuật của một tác phẩm. Vì vậy, nhà chính trị bảo thủ, phản động chẳng bao giờ ưa nhà văn chân chính.

Phân tích dễ, sáng tác khó. Sáng tác ngôn ngữ đòi hỏi sự hiện diện và sự ưng thuận của người khác, đòi hỏi cả lý lẫn tình và, khi cần, buộc lý phục tình, đòi hỏi nghệ thuật. Lý luận văn học khác văn chương ở đó. Phân tích, bình luận, mài giũa cả nghìn trang, chưa chắc viết được một câu đượm chút tình. Vì đã lý luận thì lý át tình, lôgíc của vũ trụ, lẽ sinh tồn, và niềm âu yếm ai ai, phải thống nhất trong con người, với tư cách một vật thể, một sinh vật, một con người, Việt Nam par-dessus le marché. Cũng bình thường. Tình yêu có khi có khả năng vượt lý trí, ít nhất cái lý trí khốn nạn của hôm nay.

Một đặc điểm trong văn của Bảo Ninh chính là không bao giờ cần giải thích. Ðể làm ta cảm thấy sự tha hoá của chính ta khi ta dùng những từ như Ngụy, nhạc vàng… với nội dung thời chiến, Bảo Ninh không thèm lý sự. Anh chỉ khơi một giọng hát, giọng hát vàng của một con đĩ ngụy. Nó đủ sức cuốn một đoàn biệt động quân trên đường đi đầy cất cao tiếng hát, hoà thành một bè đồng ca. Ðể nói với đời, với người:

 “Trong cuộc huynh đệ tương tàn

 Chúng ta chỉ là con sâu cái kiến

 Nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây

 Một thời chúng ta cũng có

 Một quê hương và một mối tình…” 

Nó làm ta thấy cô đơn, thèm được hoà nhập vào giọng hát ấy. Nó nhắc ta những gì ta đã mất trong cuộc chiến hôm qua: một quê hương và một mối tình, quê hương và mối tình chung của người Việt, của con người. Vì thời đại đó (hay vì chính chúng ta ?) chỉ cho phép chúng ta, từng người một, có một mối tình riêng. Nó không cho phép chúng ta, tất cả, có một quê hương, một mối tình, chung. Nó buộc chúng ta làm Ngụy, làm Việt cộng. Nó không cho phép chúng ta làm người, vì chúng ta chỉ là người Việt.

Ngược lại, tên Việt cộng, tên lính bắc kỳ vào Nam để giải phóng Tổ quốc, sau khi đã hiểu: “Ðến với Diệu Nương tôi đã từng hưởng những phút giây chưa từng được hưởng ở quê nhà ngoài kia. Nhiều năm qua rồi tôi vẫn không quên và thực sự ra thì cũng không thể nào quên nổi”, lại bắn chết Diệu Nương, và chấp nhận: “Cuộc chiến đấu đang chờ đợi sẽ là lối thoát cho tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi sẽ chiến đấu và sẽ quên.” Ta cảm và hiểu liền, anh sẽ chiến đấu tới cùng, nhưng anh sẽ không bao giờ quên được. Vì anh nhớ tất cả quá khứ, kể cả những gì anh bị tước đoạt và những gì anh đã tước đoạt, anh có khả năng đập cửa tương lai. Tương lai của con người, trong tính chất người, vươn lên từ chính cái quá khứ không thể quên ấy, vừa không nên quên, vừa không thể chấp nhận mãi, với tất cả những nét man rợ của nó, với tất cả những giá trị đã giúp con người tiếp tục sống và chiến đấu, tiếp tục làm người.

Sẽ có một ngày, chúng ta, chính chúng ta đây, sẽ có lại một quê hương và một mối tình – chung, một tiếng Việt trong đó tất cả những từ ngữ của cha anh để lại sẽ được gột rửa, sẽ biểu hiện, một cách bình thường và nhân đạo, sự khác biệt vô cùng, mà vẫn anh em, giữa những con người cùng một nguồn gốc. Ngày ấy xa hay gần, tùy thuộc một phần vào tác phẩm của nhà văn, của nghệ sĩ. Bảo Ninh là nhà văn khiến ngày ấy xích gần lại.

9-1993

Tác giả gửi Văn Việt.

Mũi tên – Truyện ngắn của Di

Văn Việt: DiDi viết một phần truyện này (Đây là thời đại của chúng tôi – ban đầu có tên Tôi không thích đi học) khi đang là học sinh cấp ba. Sau đó, được gợi ý liệu có thể viết thành một truyện có tính “truyện” hơn, cô đã biến nó thành Mũi tên như dưới đây.

 

cho những ai đã từng là học sinh, và đang là

 

 

1.

 

Từ sáng thứ hai, người ta không ngừng nói về cô ấy. Ý tôi là, trên ti vi, trên báo giấy, trên báo mạng hay chỉ đơn giản là truyền miệng từ người này qua người khác. Họ nói rất nhiều. Họ hầu hết bình phẩm. Đúng là người đàn bà xấu số.

Tôi biết cô ấy hồi cấp một. Cô lúc nào cũng ủ rũ, chẳng bao giờ tham gia vào các hoạt động tập thể như cảnh sắt bắt kẻ trộm hay cá sấu lên bờ. Cô có một nhóm bạn nhỏ, vài đứa con gái, thi thoảng có một thằng con trai. Đứa con trai này cũng chẳng chơi với ai trong lớp. Hồi ấy tôi không có mấy ấn tượng về đứa trẻ này. Tôi muốn nói, cô ấy đáng lẽ cũng chỉ là một bạn học từng ngồi phía trên tôi vào năm lớp bốn mà thôi.

Hết cấp một chúng tôi vào học tại một trường cấp hai liên thông. Vậy là chúng tôi học với nhau bốn năm nữa. Không rõ vì lí do gì, tôi bắt đầu tìm cách nói chuyện với cô. Lên lớp tám, chúng tôi được xếp ngồi gần nhau. Tôi phát hiện ra rằng cô ấy thích vẽ điên cuồng và có một niềm đam mê khác là đọc. Không phải đọc sách hay đọc truyện tranh hay một cái gì cụ thể, cô ấy chỉ đơn giản là có niềm khoái cảm lạ thường với việc đọc mà thôi. Khi không còn gì để đọc, cô đọc sách ngữ văn và lịch sử. Đọc hết sách giáo khoa rồi, cô mượn quyển từ điển anh-việt của tôi để đọc trong giờ ra chơi.

Suốt những năm cấp hai, tôi có một vài bạn gái. Hầu hết là học sinh trong trường. Họ lớn hơn hoặc nhỏ hơn tôi, họ cao hơn tôi hoặc thấp hơn tôi. Họ giàu có hơn tôi và họ đi học bằng xe máy. Tôi cặp kè với họ một thời gian, rồi sau đợt nghỉ hè ai đi đường nấy.

Tôi lên cấp ba cũng tuần tự y như vậy. Đi học, tốt nghiệp, thi đại học, ra trường, kiếm việc làm, ổn định cuộc sống, có bạn gái, ngủ với nhau ba lần một tuần, thi thoảng ra ngoại ô chơi hoặc vào công viên hóng gió. Tôi không gặp lại cô ấy nữa.

Thứ sáu vừa rồi, trong khi công ty liên hoan mừng tất niên, tôi chui vào một góc và lên mạng kiểm tra kết quả trận đấu ngày hôm trước. Việc xem tỉ số chỉ mất độ mười lăm giây cộng trừ năm giây chờ mạng chạy, nhưng thực lòng tôi thấy mệt và hơi bia rượu làm dạ dày tôi đau. Tôi nán lại trong văn phòng một lát và lướt mạng. Trong lúc xem các tin tức về kinh tế chính trị chuyện hài các kiểu, tôi để ý thấy một mục nhỏ, ghi cáo phó. Chẳng vì lí do gì, tôi ấn vào xem vui vậy thôi. Sáng hôm ấy tôi thấy tên cô ở dòng thân nhân người chết. Con gái cô tự tử ba ngày trước, hình như là treo cổ trong phòng riêng. Tôi ghi lại địa chỉ của cô và lên lịch tới nhà cô vào một ngày gần đó.

Chúng tôi được nghỉ một đợt dài. Ban đầu tôi tính đi du lịch đâu đó, làm một chuyến sang châu phi hoặc mexico buôn thuốc phiện, không thì tới mỹ và nhân tiện thì đến las vegas luôn. Thậm chí tôi còn mua một lô sáu bàn chải đánh răng và dao cạo râu mới để đề phòng trường hợp tôi làm mất những cái cũ trong lúc đi, một cái túi du lịch chuyên dụng và một tá quần áo mùa hè. Hôm đó tôi về nhà, tống tất cả vào tủ rồi khóa lại. Tôi đọc mục cáo phó một lần nữa, khẳng định chắc chắn rằng đó chính là cô ấy rồi đi ngủ.

Có rất nhiều lần, trong những giấc mơ, tôi thấy mình trở về những tháng ngày của tuổi mười lăm trong quá khứ. Thực ra mà nói tôi không nhớ được nhiều lắm những ấn tượng về khoảng thời gian ấy. Tôi biết rằng tôi phải mặc đồng phục, áo sơ mi trắng và quần tây tím than, đeo khăn quàng đỏ. Tuy nhiên có một thứ gì khác luôn gợi tôi nhớ về hình ảnh tôi khi ấy, đứng bên ban công của tầng hai, trước cửa lớp và có lẽ đó là giờ chào cờ vào buổi sáng thứ hai, sân trường nhung nhúc người nhưng các hành lang và lớp học thì trống rỗng. Mỗi khi nhắm mắt lại tôi thường trở về căn phòng ấy. Tôi đứng đút tay vào túi quần, nhìn ra bên ngoài một lúc thật lâu, tôi nhìn về phía những tòa nhà cao và bầu trời sạch sẽ. Dưới sân trường, thi thoảng lại vọng lên tiếng thầy hiệu trưởng đang chỉ đạo các học sinh khối lớp sáu dàn hàng sao cho đều đặn, nhắc nhở một vài học sinh lớp chín bỏ mũ ra và đừng nói chuyện tào lao nữa. Tôi khá chắc về những chuyện ấy. Ý tôi là, chuyện nó phải xảy ra như thế mà.

Khi tôi trở vào lớp để chuẩn bị chép bài tập về nhà, tôi thấy cô ấy ngay. Bàn của chúng tôi là bàn đầu tiên dãy ngoài cùng bên tay phải, sát cửa sổ. Tôi ngồi trong góc, cô ngồi cạnh bên. Vậy là, cô ấy ngồi ở đó. Cô cúi thấp xuống bàn như cô vẫn làm khi vẽ, mái tóc ngắn rủ xuống che đôi tai xinh xắn của cô. Cô có một cái cổ thanh mảnh và trắng như những đụn tuyết bám lấy cành cây, đôi khi chúng còn tỏa ra mùi hương của hoa mộc. Đó là một ngày dịu dàng không có nắng. Ngày hôm đó chẳng có gì. Tiếng loa vẫn dội đều đều và lan tới khắp mọi nơi trong trường học. Tôi thì ở đó và cô cũng ở đó, rồi chúng tôi như bị đông cứng lại giữa lưng chừng thời gian.

Sáng hôm sau tôi dậy sớm hơn mọi ngày nửa tiếng, làm vệ sinh cá nhân kĩ tới mức tôi làm đủ mọi thứ cho răng miệng mà tôi chưa từng làm suốt ba mấy năm qua. Bữa sáng tôi có thói quen ăn ngũ cốc với sữa không đường và một bát bột ngô nhỏ. Sau đó tôi đọc báo và ăn táo, uống cà phê. Sáng nay tôi chỉ uống trà, màn ăn táo có thể để sau. Tôi mặc vest nhưng thấy trịnh trọng quá, tôi thay áo sơ mi và quần bò, thế rồi lại thấy đơn giản quá, tôi quyết định chọn một cái áo phông trắng và quần âu, khi kết hợp chúng vào với nhau tôi mới thấy tủ quần áo của tôi là một cuộc khủng hoảng. Tôi suy nghĩ một lát rồi quyết định tôi cần phải hỏi ý kiến của chuyên gia.

-em này, em thích anh mặc thế nào? – thông thường bạn gái tôi sẽ rất ghét nếu tôi gọi cô ấy trước chín giờ sáng hàng ngày trừ chủ nhật. Cô ấy sẽ rú lên và bảo với tôi rằng đừng hòng có chuyện sờ vào cô ít nhất một tuần tới. Tuy nhiên lúc này đành phải chịu thôi.

-không mặc gì. – cô ấy nói.

-vest? Hay là mặc đơn giản? Anh nghĩ là anh nên mặc vest. Như thế nhìn sẽ nghiêm túc hơn. – tôi nói.

-vest nhìn già lắm, buồn nữa. Tùy anh. Với em thì anh mặc gì cũng được. Đằng nào anh cũng đâu có đẹp trai – cô đáp.

-được rồi, anh sẽ mặc vest vậy. – tôi bảo cô rồi chào tạm biệt.

Đường phố những ngày tết tôi còn lạ gì. Vắng vẻ và giống như là bối cảnh trong một bộ phim viễn tưởng của mỹ khi con người ta đã chết sạch và khỉ nắm quyền cai quản trái đất. Trên xe, tôi mở nhạc của Wham rồi nghĩ thế nào đó, tôi tắt đi, chẳng nghe gì cả. Có một sự yên lặng quái đản nào đó trong không khí và bởi vì tôi nghĩ mình có thể nghe thấy nó, nếu tôi chịu khó lắng nghe. Tôi lái xe xuyên qua ánh sáng và bầu không khí như vô hình của thành phố.

Cô sống trong một khu tập thể. Nhà cô ở tầng năm, số phòng 504. Tôi chỉnh lại cà vạt trước khi bấm chuông. Tôi ấn cái nút nhỏ màu đỏ hai lần. Sau đó tôi yên lặng và quan sát nó. Đã có bao nhiêu người nhấn chuông? Trong số đó có bao nhiêu người được vào và bao nhiêu người bị từ chối? Tôi nằm ở đâu? Loại hai hay loại một? Cô ấy sẽ mở cửa chứ?

Cô ấy sẽ mở cửa chứ?

Cô ấy sẽ không bao giờ mở cửa.

 

2.

 

Họ hỏi tôi rất nhiều về việc làm thế nào tôi lại có mặt ở nhà cô vào đúng ngày hôm ấy. Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tới nỗi đột nhiên tôi cũng đâm tự hỏi chính mình. Vì sao tôi lại đến nhà cô vào ngày hôm ấy nhỉ?

-tôi biết tin con gái cô ấy vừa mất, vậy là tôi quyết định tới thăm. – tôi trả lời, lần thứ một ngàn không trăm lẻ một. Viên cảnh sát ngồi trước mặt tôi ghi gì đó vào tờ báo cáo của anh ta, nhìn tôi rồi đóng nắp bút lại.

-anh là bạn của người chết à? – viên cảnh sát hỏi. Cậu ta có cái dáng vẻ yếu ớt và trẻ con thế nào đó, nhưng mà không phải loại bọn to hơn bắt nạt được. Có cái gì sâu thẳm trong đôi mắt cậu ta khi hỏi tôi tất cả những câu hỏi mà người khác đã hỏi đến vài chục lần suốt những ngày hôm ấy. Kiểu như là cậu ta đặt ra câu hỏi mà chẳng thèm bận tâm đến việc ai sẽ trả lời.

-vâng, đúng rồi. Bạn học cùng cấp một và cấp hai – tôi đáp.

-cấp ba thì sao? Anh không có thông tin gì hay giữ liên lạc với cô ấy à? – viên cảnh sát hỏi, hai tay anh ta nắm thành nắm đấm và đặt ngay ngắn hai bên. Anh ta sẽ không đánh tôi, tôi biết thế, anh ta không có cái vẻ gì là sẽ làm như thế cả.

-vâng. Tôi không hề gặp lại cô ấy suốt những năm cấp ba cho đến giờ  – tôi trả lời.

-được rồi – viên cảnh sát nói – anh là bạn học với cô ấy gần mười năm, sau đó hai người mất liên lạc mười năm tiếp theo, và đột nhiên anh quan tâm cô ấy tới mức ngoài anh ra không một bạn học nào biết địa chỉ nhà của cô ấy. Anh có vẻ là một người bạn tốt, theo tôi thì là vậy – viên cảnh sát nói. Nếu anh ta đang mỉa mai tôi, tôi cũng sẽ không cách nào nhận ra được. Anh ta nói mọi điều bằng cái giọng bình thản không lên không xuống, không ngữ điệu không trọng âm, không biểu lộ bất cứ một dạng tình cảm gì. Tôi không biết phải trả lời thế nào cả, tôi im lặng.

-anh có thể về. Về đi thôi. Sau này nếu có chuyện gì chúng tôi sẽ gọi anh sau – viên cảnh sát trẻ nói, anh ta đứng lên, đóng tập báo cáo lại rồi bỏ ra khỏi phòng.

Nhưng tôi đã ngồi ở đó một lúc lâu.

“Tôi đợi ai đó ra mở cửa. Rồi tôi nhớ ra con gái cô ấy đã mất. Mục cáo phó không nhắc tới người chồng hoặc bất kì người thân nào khác. Tôi thử nhòm vào bên trong qua cánh cửa sắt mắt cáo rồi thử đẩy một chút. Và thì nó cứ vậy trượt ra thôi. Tôi bước vào. Bóng tối của căn nhà như cảnh giác một người lạ, nó lùi dần ra xa tôi như ánh sáng tạo thành một vòng tròn quanh ngọn nến. Tôi cứ thế, đâm thẳng vào bóng tối. Tôi không rõ nó sâu ra sao nhưng cuối cùng ngón chân tôi cũng chạm đến đáy. Ở dưới đó tôi bắt gặp cô ấy. Đôi tai nhỏ nhắn mà tôi từng rất thích hiện ra lồ lộ trước mắt tôi. Mái tóc ngắn của cô giờ đã dài quá nửa và được buộc gọn gàng lên bằng một sợi dây chun nhỏ. Cô ngả người về phía sau, hai tay đặt trên đùi. Đôi mắt cô nhắm lại. Tôi chậm rãi tiến về phía cô và chạm vào tai cô. Đôi tai mát như một miếng thạch rau câu để lâu ngày trong tủ đá. Căn phòng nhỏ, có cửa sổ nhìn ra bên ngoài và tấm rèm in họa tiết hoa đỗ quyên phấp phới bay. Giường được trải ga và hai cái gối xếp ngay ngắn. Cô ngồi trước bàn trang điểm, như thể cô đang tô lông mày thì buồn ngủ và thế là cô nghĩ, ồ chỉ một chút thôi, rồi điều chỉnh tư thế cho thoải mái, hơi ngả người ra sau và khép mắt lại. Giấc ngủ đến nhanh, bởi vậy nó sâu hơn cô tưởng. Nó sâu đến tận cùng.

Cô yêu giấc ngủ này đến nỗi không một ai có thể lấy nó đi khỏi cô được nữa”.

-anh không sao chứ? – bạn gái tôi hỏi. Cô ngồi ghế lái và tôi nhớ ra ban nãy cô đã đến đón tôi từ sở cảnh sát. Có lẽ tôi đã ngủ ngay khi bước vào xe.

-không sao, chỉ chợp mắt một tí – tôi dụi mắt rồi nói. Nắng tỏa rực rỡ tới phát chói, tới phát đau. Đồng tử tôi nheo lại và tôi che mắt theo phản xạ. Tôi ghét cái sự rõ ràng đến gay gắt như vậy. Nó nói rằng đây là hiện thực chứ không phải một giấc mơ. Và điều đó thì mang ý nghĩa gì được chứ? Nó nghĩa là cô ấy đã thực sự chết rồi. Cô không còn ở đây nữa. Cô không còn ở đâu nữa. Tôi biết cô đang nằm ở bệnh viện nào và người ta sẽ thiêu cô. Tôi biết rõ nhưng đằng nào thì cô cũng sắp biến mất rồi. Sự nhận thức này giờ chẳng còn nghĩa lý gì cả.

-anh nên ngủ đi. Mọi thứ sẽ khá hơn sau khi anh ngủ dậy – cô nói. Cô đang cố gắng trấn an tôi. Nhưng tôi không tài nào ngủ được nữa. Ồ thôi nào, chẳng phải đây vẫn là thế giới sau khi tôi thức dậy hay sao?

Tôi vào phòng ngủ và khóa cửa lại. Bạn gái tôi hỏi liệu tôi có đủ ổn để cô có thể về nhà hay không. Cô sẵn sàng ở đây với tôi, suốt đêm, cả ngày mai hay cả ngày hôm sau nữa. Nhưng tôi nói cô có thể yên tâm và về nhà. Lúc này tôi tốt nhất nên được bỏ lại một mình.

Những ngón tay tôi vẫn còn mát. Cảm giác đó thoang thoảng như một mùi hương lúc được lúc mất lướt qua. Tôi chạm những ngón tay lên mặt mình. Chúng lạnh và hầu như mất cảm giác. Tôi muốn nghĩ ngợi về một điều gì đó nhưng nghĩ mãi mà không rõ nên nghĩ tới điều gì. Vậy là cô ấy tới.

Cô mặc bộ đồng phục và có lẽ đó là phiên trực nhật của chúng tôi. Cô nói cô sẽ nhận phần lau bảng và thay vào đó tôi có thể đi kê lại bàn ghế hoặc quét nhà. Lau bảng xong cô sẽ giúp tôi một tay. Thường là vào buổi sáng, khi đó cô nói nhiều hơn những lúc khác trong ngày. Khi có mọi người trong lớp và chúng ồn ào náo nhiệt như đại nhạc hội của loài ong, cô sẽ ngồi yên trên ghế của mình và cặm cụi vẽ. Hoặc đọc. Cô đọc đủ thứ và hôm nào đó tôi có thể sẽ cho cô mượn thẻ thư viện của tôi. Học sinh ai cũng phải làm một cái thẻ thư viện nhưng hình như cô làm mất nó rồi. Vào giờ ra chơi, tôi cùng lũ bạn chạy khắp nơi và làm đủ trò trong lớp. Có những ngày khác, tôi gục mặt xuống bàn và vờ ngủ, nhưng thực chất tôi ngắm nghía cô từ góc độ nhìn lên như người ta nhỏ bé quá phải ngước mắt mà xem một bức tượng á thần. Tôi thử tưởng tượng cảm giác được chạm vào đôi tai cô và miết nhẹ ngón tay lần theo những đường rãnh của nó, trượt xuống chiếc cổ thon thả mong manh và lùa sâu vào mái tóc. Tôi chạm vào cô chậm rãi và bí mật bằng mắt bằng không khí bằng những ánh nhìn như xuyên thấu như đâm ngang. Thi thoảng tôi tin rằng cô biết. Hẳn là cô biết. Một cái sự gì đó nếu được lặp đi lặp lại một thời gian quá dài như vậy thì thật khó không bị nhận ra. Cô ấy đã nhận ra, phải rồi, là tôi luôn muốn cô, mãi mãi.

Vào mùa hè, khi tôi đến trường để chơi bóng cùng bọn bạn, đôi khi tôi nhìn thấy cô đứng trên ban công. Cô khoanh tay đứng đó, lúc nào cũng dõi lên bầu trời như đang tìm kiếm một cánh chim hoặc một vì sao. Cô chẳng bao giờ nhìn thấy tôi ở gần ngay bên dưới. Cô lúc nào cũng như đang tìm một thứ gì đó ở rất xa. Tôi cũng bắt gặp cả bố mẹ của cô. Mẹ cô tóc dài, mặc đồ công sở. Bố cô đậm người, tóc cắt ngắn gọn gàng và mặc áo sơ mi xanh, quần âu, áo vest vắt trên tay. Họ đi cùng nhau nhưng không trò chuyện. Cũng chẳng thấy ai cười. Tôi đã mong cô không bị khiển trách vì chuyện học tập. Ở trên lớp, điểm số của cô chưa cao bao giờ.

Tôi ngủ thiếp. Tôi ngủ chập chờn, một lát sau tôi lại mở mắt ra như chưa bao giờ nhắm. Tôi ra khỏi giường và lôi cái ví từ trong áo vest. Có một thứ mà tôi không nói với viên cảnh sát trẻ kia hay những viên cảnh sát già cỗi khác. Trong ví của tôi có một lá thư viết tay, giấy kẻ li và những hằn gấp của thời gian nổi lên đặc quánh. Những con chữ nhỏ li ti tuy mờ nhưng tròn trịa và dễ đọc. Tôi đã đọc một lần khi tôi ở nhà cô, bây giờ tôi nghĩ mình sẽ đọc lại một lần nữa.

Tôi đã dành cả đêm để đọc nó, đọc đi rồi đọc lại.

3.

Đây là thời đại của chúng tôi

 

Cách đây rất nhiều năm, tôi được cho đi học. Bằng một lẽ nào đó, bố mẹ tôi thấy cần phải cho con mình đi học, để tuân theo những quy tắc thông thường trong đời sống xã hội, để làm một gia đình bình thường, có những đứa con bình thường được đến trường theo mong muốn của những bậc làm cha mẹ. Thế là tôi bắt đầu đi học, như rất nhiều đứa trẻ khác cùng trang lứa. Trường cấp một của tôi là ngôi trường danh giá nhất nhì trong thành phố lúc bấy giờ, không may, trường cấp hai và cấp ba của tôi cũng vậy. Kiểu như khi hàng xóm sang chơi nhà tôi vào ngày tết, sau khi lì xì họ hỏi, nào, thế cháu nhà đang học trường gì nhỉ và khi tôi nói cho họ nghe tên trường, họ sẽ ồ lên và, à, ra là trường đó, thế cháu hẳn phải học giỏi lắm. Suốt những năm đi học tôi đã đối mặt với điều này, chưa một lần tự hỏi vì sao chỉ nghe tên một sự vật sự việc gì đó mà người ta có thể quy chụp tính chất của nó và những người liên quan đến nó là một. Đó là một sự vội vàng đầy thiển cận. Tôi không phải một đứa trẻ học giỏi. Một lần cũng không và sẽ chẳng bao giờ là vậy.

Lên cấp hai, cuộc sống học tập của tôi bắt đầu xuất hiện những dấu vết trắc trở. Tôi phát hiện bản thân không thể nuốt nổi các môn tự nhiên và rằng chúng đang giết chết tôi từng ngày. Nhưng ngoài tôi ra, không ai biết điều đó. Tôi muốn nói là, cả thế giới đều biết tôi đầu hàng các môn tự nhiên nhưng không biết chúng đang giết chết tôi từng ngày. Điều đó rất quan trọng, không phải ai cũng biết. Lẽ thường tình, tôi lao vào học thêm. Tôi cũng lo lắng chứ, nhưng sao bằng bố mẹ tôi cho được. Tôi học, học và học như một cỗ máy có đầy rơm trong đầu và người ta nhồi nhét đủ thứ nào các món chất nổ, các công thức tính toán thời gian, các con số có những kí hiệu khốn khổ trên đầu và vâng, những thứ đó đã trở thành một công cụ tuyệt vời cho cuộc sống của tôi biết mấy. Tức là chúng chẳng làm gì cả.

Không biết có bao nhiêu đứa trẻ được cho đi học thêm từ hồi lớp một ở xung quanh tôi. Lần đầu tiên nghe chuyện này tôi nói, im đi, làm gì có chuyện đó. Ấy là sự thật. Tôi không hiểu người ta có thể đưa thứ gì mang tầm cỡ khó hiểu vào đầu một đứa trẻ sáu tuổi, thôi nào, chúng hãy còn nhỏ đến thế cơ mà. Ở cái tuổi như vậy người ta cần làm những điều ngu ngốc như nghịch giun và lăn lê trên sàn nhà, nhổ hoa và đi tè lên nền đất trống, hay vui hơn một chút chúng có thể đánh những thằng bé cùng tuổi và túm tóc một vài đứa bé gái mà chúng thích. Đó mới là những công việc chính của một đứa sáu tuổi, không phải ngồi yên trên ghế trước mặt là tờ bài tập toán, hay tiếng anh, hay tiếng việt và chúng cầm bút trong tay chịu không hiểu thứ gì đang diễn ra trước mắt mình. Những con kiến nhỏ bò trên trang giấy, chúng không biến mất khi bọn trẻ nghiền nát bằng những ngón tay.

Nhưng thực sự thì, mọi thứ chỉ bắt đầu khi tôi lên cấp hai, sau đó là cấp ba. Tôi có thể nói trước điều này, tôi ít nhất trên dưới mười lần muốn đấm vào mặt một thầy cô giáo nào đó, ra khỏi lớp và đi làm ở trạm xăng. Xin mời, tôi là một tấm gương xấu cho bất kì ai muốn trở thành người tốt. Nhưng khoan, các vị có biết tôi không? Đấy, chưa gì đã lại chơi trò chơi theo một cách thiển cận rồi. Các vị cần phải tiếp xúc với gốc rễ của vấn đề, không thì cũng nên nghe cô ta trình bày về cuộc đời của cô ta theo trình tự, cho nó có lớp lang. Có cái này ở người lớn mà tôi thấy thật buồn cười, rằng tại sao các vị chẳng bao giờ nhận ra cần thay đổi. Các vị không bao giờ lắng nghe trọn vẹn con cái của mình. Ý tôi là, các vị nghe chúng nói, nhưng không bao giờ hiểu hết tất cả, các vị nghe đấy, nhưng không hiểu. Chúng đang nói gì đó và thậm chí chúng còn chưa kịp nói cho ngọn ngành thì các vị đã bắt đầu phản bác lại trong đầu mình, những ông bố bà mẹ tâm lí hơn một chút thì đợi con nói xong mới bắt đầu sắp xếp lại các lí luận phản bác. Các vị hầu như đều phản bác.

Quay lại với việc đi học của tôi. Cấp hai là một thiên đường của những điều phức tạp, nhưng nó hãy còn là một thiên đường. Tôi lên cấp ba sau khi kết thúc lớp chín. Từ trước khi thi bố mẹ tôi đã xác định được ngôi trường cần phải vào, làm gì để đạt được nó và tất nhiên là sự hợp tác từ tôi. Nhưng hình như mục đích của hai bên không giống nhau. Bố mẹ muốn tôi vào trường tốt, một phần tốt cho tôi, còn lại tốt cho họ. Đó là chuyện đương nhiên, bố mẹ nào chẳng muốn có gì đó để tự hào về con mình. Ai cũng thế, tất cả mọi người. Trong khi đó mục đích của tôi là vào cùng một trường với bạn bè mình, chưa kể đó là một trường tốt, được đánh giá cao và sau này tôi sẽ được trấn an bằng nhiều lời khen ngợi. Tôi đi học thêm trong tâm trạng phấn khởi, cứ vài bữa tôi cúp học một lần. Sau khi nhận kết quả đỗ, thực tình tôi không vui mừng cho lắm. Nó chỉ đến một cách hiển hiện và rõ ràng khi các cô dì chú bác họ hàng nội ngoại của tôi mừng tôi tiền, ít ra ngôi trường này đã được đóng một cái mác đặc biệt đến thế mà, cái mác của lòng dân. Đến đây tôi muốn nói, những đứa trẻ mười sáu tuổi chưa thể quyết định được cuộc đời của chúng đâu. Bố mẹ chúng đóng một vai trò cực kì quan trọng trong đời chúng, tác động vào chúng, ảnh hưởng lên chúng. Chúng đi đâu, làm gì, tuổi mười sáu không thể nào quyết định được. Chúng chưa đủ khôn ngoan, chưa đủ chín chắn, chúng để mặc mọi thứ và chúng không biết phải làm sao cho đúng. Khi đó, bố mẹ chúng dắt chúng đi. Bố mẹ tôi đã dắt tôi vào cấp ba, một thế giới mới nơi tôi ngày ngày tìm mọi cách trốn chạy.

Tôi ghét đi học. Tôi nhận ra điều này năm tôi học lớp mười một. Khi đó tôi đã sa sút hết mức và không thể tệ hơn được nữa. Mọi chuyện quay cuồng và chúng tôi quay cuồng theo. Tôi, gia đình tôi, mối quan hệ của tôi xuống dốc với mọi người, trường học đè lên tôi, đổ sập dưới chân tôi. Tôi biết được rằng tôi chưa bao giờ thích đi học. Có rất nhiều lựa chọn trong cuộc đời mỗi người. Đến một lúc nào đó các lựa chọn sẽ đến tay tôi. Khi đó tôi được quyền làm chủ cuộc đời mình. Có những lựa chọn sai lầm, có những lựa chọn đúng đắn, nhưng làm thế nào tôi biết được. Phải làm thử thôi, làm tất cả chúng, nghĩ ra là làm. Tôi không muốn uổng phí mọi giây phút trong đời mình kể từ khi tôi nhận ra phải trân trọng nó nhiều hơn. Cuộc đời chúng ta ngắn hơn chúng ta tưởng, đến một lúc nào đó không biết được, nó sẽ vụt khỏi tay và biến mất đi. Phí phạm từng ấy năm trong đời để làm những việc không thích, tôi coi đó là một tội ác, là một mối nguy hàng đầu cho xã hội bởi khi đó chúng ta không bao giờ biết được những kẻ đang chán nản và đầy tội lỗi ấy sẽ làm gì. Chúng sẽ làm gì ư? Đơn giản lắm, chúng sẽ phá bỏ mọi khuôn phép và vận hành thế giới nhỏ bé của chúng theo cách riêng, những đứa trẻ hãy còn quá nhỏ và say mê những trò chơi dại. Có nhiều gia đình để con họ đi học, nhìn chúng học bài, làm bài tập, được điểm tốt, thế là sướng. Tôi không tán thành việc đó. Họ không ở bên con mình ngay từ khi mọi chuyện bắt đầu, khi con họ đột nhiên muốn buông xuôi và chúng mệt mỏi tới nỗi không muốn cố gắng nữa. Những đứa như vậy thường khép mình vào một cái vỏ kiên cố và vững vàng và chúng cố thủ trong đó không bao giờ ló ra. Tận sâu bên trong chúng tính toán những phương thức tàn bạo nhất cho cuộc sống của mình, có những đứa quyết định từ bỏ nó. Chúng chẳng làm gì cả, và từ bỏ nó.

Tôi chưa gặp những đứa trẻ cảm thấy chán nản với cuộc sống của mình. Tôi cần gì phải gặp. Bởi tôi là một minh chứng điển hình, đang hít thở và đang sống, tôi biết rõ cảm giác buồn chán bất lực đó như thế nào, tôi cũng biết những đứa trẻ như tôi đang phải đối mặt với mọi thứ ra sao. Tôi nghĩ mình biết. Có lẽ có rất nhiều những đứa trẻ như vậy, chúng không thấy hài lòng với cuộc sống hiện tại, khuôn khổ hiện tại và chúng muốn chạy thoát nhưng không thể. Khi chúng gây chuyện và bố mẹ chúng hỏi, tại sao con không tâm sự với chúng ta khi con bế tắc, trời ạ chúng phải trả lời thế nào đây? Bố mẹ, các vị đã không ở bên con các vị khi chúng cần, vậy thì đừng bao giờ đòi hỏi chúng phải kể cho các vị nghe hôm nay chúng thấy thế nào, chúng mệt ra sao và chúng muốn được nghỉ một buổi học ở trường. Chúng sẽ không bao giờ nói bởi ngay từ đầu chúng đã không được phép nói ra rồi. Con cái lớn lên bằng nỗi sợ. Nỗi sợ bị đánh, bị mắng, bị chửi rủa, có những đứa học cách sống chung với nó và ổn, có những đứa cũng học cách sống chung với nó và bị tổn thương. Những đứa ổn sẽ sống theo cách riêng của chúng và âm thầm không để ai biết được, những đứa không ổn sẽ kiệt quệ từng ngày và kết quả chúng sẽ bỏ cuộc, rất sớm thôi. Số lượng trẻ vị thành niên tự sát không ít. Ta quy kết cho căn bệnh trầm cảm. Vậy nguyên nhân của căn bệnh trầm cảm là gì? Tôi nói, đó là những áp lực trong cuộc sống.

Thế giới này không tạo ra áp lực. Con người mới là kẻ làm điều đó. Tôi đã từng mơ đến một thế giới nơi chúng ta sống bình đẳng với nhau, được làm những điều chúng ta muốn, làm những thứ chúng ta thấy mình cần phải, nơi con người sống với nhau bằng lòng tốt và hòa bình, và những bậc người lớn hiểu con cái của họ hơn. Trong tôi có một phần luôn tin rằng tội ác của con người tất thảy đều bắt nguồn từ giáo dục. Những đứa trẻ sinh ra đều mang một lòng tốt nguyên thủy. Bố mẹ chúng là người điều chỉnh và định hình cho lòng tốt ấy. Giả sử có một đứa sinh ra với tố chất sát nhân trong đầu, bố mẹ chúng sẽ là người bật công tắc khởi động nó lên, hoặc họ sẽ tắt nó đi vĩnh viễn. Nhân cách một đứa trẻ không phụ thuộc vào những gì người ta dạy chúng ở trường, ở trường người ta không dạy chúng tình yêu. Người ta dạy chúng làm thế nào để nổi trội hơn đứa khác và công khai đứa nào dở hơn đứa nào hay hơn. Ai nói trường học là nơi đào tạo các chủ nhân tương lai của đất nước thì tôi sẽ cười vào mặt họ. Các chủ nhân tương lai của đất nước lúc này đang tán phét với nhau và làm bài tập trong nỗi hân hoan hơn người của chúng. Chúng không được dạy làm thế nào để đưa đất nước lên một tầm cao hơn, khiến người dân tự hào về nòi giống của mình hơn, chúng chỉ được dạy làm thế nào để kiếm được nhiều tiền nhất và xây được nhà to nhất. Chủ nhân tương lai của đất nước, tôi tin, là những đứa trẻ có những suy nghĩ nghiêm túc về việc này từ khi chúng nhận thức được mọi chuyện.

Có người sẽ nói, chạy theo ham muốn là con đường nhanh nhất để xuống dốc. Tôi trả lời, chạy theo những ham muốn của anh và duy trì nó, anh sẽ được lên thiên đường. Cái khó trong việc làm theo mong muốn của bản thân là không bao giờ tin vào những mong muốn ấy. Các vị luôn đắn đo và quá quan tâm đến suy nghĩ của người khác. Chính vì thế, các vị luôn thất bại theo ý họ.

Tôi không thích đi học. Bởi trường học không đem lại cho tôi cái gì, ít ra là những cái người khác tin là họ nhận được. Tôi không có niềm vui, không có đam mê, tất cả là nghĩa vụ, là một áp lực. Và tôi biết tôi không phải người duy nhất. Đã đến lúc những đứa trẻ được nói rồi.

 

4.

 

Bố mẹ của cô là nhân viên công chức nhà nước. Họ làm việc tận tụy gần ba mươi năm ròng rồi sau đó về hưu. Họ không có mặt trong đám tang của cô ấy. Vì thế, theo như lời bạn gái tôi, tôi nên là người đứng ra chủ trì mọi sự. Những người hàng xóm sống cùng tầng với cô ấy nói rằng từ khi cô tới sống ở đây, hiếm có khi nào họ bắt gặp nhà cô có khách hay họ hàng hoặc bạn bè qua lại. Luôn luôn là thế, người mẹ đi làm từ sáng đến tối khuya, còn đứa con gái thì đi học từ sáng tới chiều, rồi nó đi học thêm và thế là hai mẹ con cứ vắng mặt từ sáng sớm đến tối mịt. Tôi nghe nói cô làm ở bưu điện nhưng không rõ cô giữ vị trí nào. Tôi không nghĩ mình cần phải thông báo cho bất kì ai ở công ty của cô. Không rõ vì sao tôi có cảm giác rằng cô muốn tôi làm thế.

Đám tang nhỏ, một vài người sống ở nhà bên, tôi và nhân viên nhà tang lễ. Những bà bác đó, họ bảo với tôi rằng, cô gái này là một người tốt, khi tôi ngã ở cầu thang cô ấy đã đỡ tôi vào nhà và thường sang thăm hỏi giúp đỡ tôi, phải rồi, một người thêm vào, mặc dù cô ấy thường về muộn nhưng những kì họp hàng tuần của khu cô luôn có mặt đầy đủ và đôi khi nếu cô ấy có ý kiến gì, cô sẽ tham gia và đóng góp đầy thiện chí. Còn con gái cô ấy thì sao, tôi hỏi. Họ nói, con bé đó ít nói lắm, nó chẳng chào hỏi ai bao giờ, nó không thích mẹ nó, tôi nghĩ vậy đấy. Đó là lí do vì sao nó tự sát, đúng thế, đó là lí do vì sao mà nó lại chết đấy.

Vì nó đâu có thích mẹ nó, phải không?

Gần đây, tôi hay uống. Ban đầu tôi chỉ uống cognac hoặc vodka, sau đó vẫn chưa đủ, tôi chuyển sang uống rhum không pha nước. Tôi thức tới sáng và cố gắng suy nghĩ, cố tìm ra hay thử hình dung một lí do thích hợp. Tôi hay đọc lại lá thư mà cô đã viết. Tôi nghĩ về cô theo phương diện mới này. Cô quả thực là một cô gái táo bạo và mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng chịu nhiều tổn thương. Ý tôi là, cô rõ ràng có một cái nhìn quyết liệt về việc học hành và tin rằng nền giáo dục hiện tại là một sai lầm lớn. Nhưng cô đã chẳng thể làm gì. Cô ấy không thể làm gì được.

Cô lớn lên, đương đầu với mọi sự một mình, có một đứa con và, có lẽ chỉ là tôi nghĩ quá lên thôi nhưng tôi đã tin chắc rằng cô không muốn con gái cô phải chịu đựng những khủng hoảng mà cô đã từng có. Và bởi cô biết thế nào là tổn thương và thế nào là bế tắc, cô đã luôn cố gắng theo sát con mình như cô từng mong muốn. Cô tìm cách cứu nó nhưng bằng một lẽ nào đó, chính cô lại đẩy con gái đến bước đường cùng. Đứa trẻ đã viết ra lá thư ấy đâu có phải là cô. Đứa trẻ mười sáu tuổi đó đã bị đứa trẻ mười sáu tuổi mười-năm-về-sau giết chết. Cái áp lực của sự trưởng thành đó đã khiến cô nhận ra cái gông cùm cha mẹ cô đặt lên cô, giờ đây tự tay cô đặt lên con gái mình.

Tôi tìm thấy lá thư này trên bàn trang điểm, đang được mở trước mặt cô. Tôi cũng biết không phải cô đã chết, mà tự đáy lòng cô chỉ muốn cứu chuộc lấy chính mình. Cứu cái đứa nhỏ mà cô đã từng là, một đứa trẻ có niềm tin mãnh liệt vào sự công bằng và hòa bình, và rằng tất cả những đứa trẻ đều xứng đáng được sống và học tập như cuộc đời chúng đã định ra. Cô đã tự loại bỏ phần người-lớn trong cô và bằng cái chết, cô ấy mười-sáu-tuổi một lần nữa.

Tôi nghĩ rằng mình nên đi ngủ. Tôi thấy mệt. Sau khi đặt báo thức, tôi ghi vào lịch làm việc một cái hẹn với tòa soạn vào ngày mai. Tôi nghĩ tôi sẽ làm một cái gì đó. Phải, đúng vậy đấy, nếu cô không thể cứu lấy con gái mình, có lẽ cô sẽ cứu được những đứa trẻ khác. Những đứa trẻ cũng là học sinh, cũng đang bị đè nghiến dưới sức nặng của sự trưởng thành trước mặt, của cha mẹ chúng, của xã hội của nhà trường, Cánh tay của cô ấy dù nhỏ bé như vậy nhưng chúng lại có sức mạnh của ngôn từ. Cô sẽ cùng những đứa nhỏ này nâng cái gánh nặng trên vai chúng lên để chúng có thể ngẩng đầu mà nhìn thấy bầu trời xanh thẳm. Để không phải cúi đầu mà nhìn xuống.

Cô ấy có thể.

Cũng lâu rồi tôi mới lại ngủ ngon.

 

2014-02-03

12:20 am

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Thư ngỏ nhà thơ Đỗ Trung Quân gửi Văn đoàn Độc lập

Kính gửi nhà văn Nguyên Ngọc
Kính gửi Văn đoàn Độc lập
 
Thưa ông,
Từ hơn một năm nay, sau những cuộc xuống đường mà tôi có tham gia mỗi cuối tuần thứ Bảy và Chủ Nhật cửa nhà tôi luôn được canh giữ bởi 4 an ninh thường phục.
Hoặc không cho tôi ra ngoài nếu tình hình Biển Đông căng thẳng, hoặc chỉ canh gác gây áp lực tâm lý với tôi như một kiểu đàn áp tâm lý.nhưng tôi đã dần quen, quen đến nỗi chỉ thông báo mình bị giám sát mà không hề có hình ảnh nào để chứng minh. Điều ấy khiến tôi cũng bị dư luận nghi ngờ rằng có thật chuyện ấy hay không ? Ngày Chủ Nhật 8 tháng 6-2014 tôi buộc mình phải chụp hình một trong hai an ninh trẻ làm nhiệm vụ canh giữ trước hẻm ngõ nhà tôi [tôi đã đưa hình ảnh lên mạng FB hình một an ninh phải che mặt khi tôi chụp ảnh]
Thưa ông,
Khi Nhà nước, chính phủ và báo chí đã công khai lên tiếng gọi đích danh kẻ hai mặt là Trung Quốc, lẽ ra công an phải chấm dứt canh giữ một người xưa nay xuống đường bày tỏ thái độ chống ngoại xâm quyết liệt nhưng ôn hòa như tôi, trái lại họ vẫn canh giữ tôi như hiện tại. Tôi khó hiểu vì điều ấy. Tôi chỉ có thể kết luận chính quyền nói một đàng làm một nẻo hoặc ai đó tư thù cá nhân tôi, nhưng điều khó hiểu ấy đã được minh bạch sau đêm tôi tham dự kỷ niệm chúc mừng Nữ hoàng Anh Elizabeth Đệ nhị mà tôi là khách được Lãnh sự quán Anh tại tp HCM mời cùng nhiều nhân vật khác mà tôi cũng không xa lạ trong thành phố này.
Thưa ông,
Trong buổi tiếp xúc ấy tôi được một nhân vật thuộc ngành an ninh thông báo lý do canh giữ tôi đến hôm nay ngoài việc xuống đường như dư luận trong và ngoài nước đã biết, tôi còn là THƯ KÝ VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP, còn là cầu nối, một trạm liên lạc của Văn đoàn.
Thưa nhà văn lão thành kính mến,
Vì lý do đó tôi xin được ông xác nhận cho vài điều cần thiết, xác nhận bởi sự minh bạch của chúng ta:
1- Tôi có phải là thư ký và là trạm liên lạc của Văn đoàn hay không?
2- Nếu không, tôi thật sự thất vọng bởi hóa ra tôi có tiếng mà không có miếng, mong Văn đoàn hoặc trao cho tôi chức trách ấy cho đúng khẳng định của an ninh, hoặc tôi phải xin rút tên khỏi Văn đoàn vì ngoài việc ký tên, tôi chỉ là kẻ đang chịu những trách nhiệm không có thật.
Thưa ông,
Việc ký tên vào danh sách 61 [62 ?] người của Văn đoàn là do tôi tự nguyện. Mục đích nó đã nằm trong tuyên ngôn của Văn đoàn tôi không nhất thiết dẫn lại. Nhưng thú thật xưa nay tôi ít được thông báo những quyết định mang tính tuyên ngôn của Văn đoàn, thậm chí còn không rõ ai là những người phụ trách từng mảng văn học của Văn đoàn. Tôi không có gì thắc mắc ngoại trừ kết luận của an ninh tư tưởng thành phố như đã hé cho tôi biết. Vậy trở lại vấn đề, tôi chỉ muốn xác minh kết luận ấy mà thôi còn việc họ tiếp tục canh giữ tôi hay không với tôi là vô nghĩa
Tôi có trách nhiệm thông báo cùng Văn đoàn, kính chúc anh chị em bình an.
 
Sài Gòn 12-6-2014

Đỗ Trung Quân – Nhà thơ – Nhà báo đã nghỉ hưu non

Nguồn: http://bolapquechoa.blogspot.kr/2014/06/thu-ngo-nha-tho-o-trung-quan-gui-van.html#more

 

Từ tư tưởng của Fukuzawa nghĩ về đổi mới giáo dục hiện nay

TS Nguyễn Khánh Trung

Đọc “Khuyến học” của Fukuzawa Yukichi (Phạm Hữu Lợi dịch, 2014), tôi có cảm tưởng như ông đang nói với dân Việt, với Chính phủ Việt Nam ngay lúc này, chứ không chỉ nói với người Nhật Bản thời Minh Trị (1868-1912). Những tư tưởng, những phân tích, mô tả của ông có ý nghĩa đến kinh ngạc với Việt Nam hiện nay từ chính trị, kinh tế đến văn hóa xã hội; từ những điều to lớn tầm quốc gia đại sự như chủ trương “thoát Á nhập Âu” trong tổ chức quản trị xã hội, trong cách thức và mục tiêu giáo dục, đến chuyện “chí sĩ rởm”, chuyện “rượu uống người” để phản ánh tình trạng mất tự chủ của người dân bởi “muôn hình vạn trạng” trong đó có nạn nhậu nhẹt.

Giáo dục con người tự chủ và khai sáng

Tư tưởng bao trùm trong tác phẩm là tư tưởng về giáo dục con người tự chủ và khai sáng. Cũng như Rousseau của Pháp, với Fukuzawa, một nền giáo dục khai minh phải là một nền giáo dục đào tạo con người tự chủ về tư duy, về phán đoán, có khả năng phản biện, có khả năng tự tồn tại, tự xoay xở… Con người tự chủ là con người không chạy theo trào lưu thời thượng, hay chịu sự chi phối của dư luận, hay bất kỳ điều gì mà không suy xét, không lấy lý trí của mình để đánh giá và tự mình đem ra các quyết định.

Một dân tộc tự chủ và trưởng thành là một dân tộc sẵn sàng học tất cả những điều hay cái đẹp đến từ mọi nơi nhưng không làm mất căn tính của mình, vì sự học hỏi là một quá trình chọn lọc dựa trên lý tính chứ không phải đơn giản là những hành động bắt chước. Fukuzawa phê phán tất cả những hủ tục, những mê tín, những huyền thuyết làm u mê dân chúng, ông phê phán quan niệm học để làm quan, cách học tầm chương trích cú, hư học của Trung Hoa, nhưng ông cũng phê phán cả những người chạy theo phương Tây một cách hời hợt như một phong trào mà không suy xét thấu đáo.

Ông kêu gọi nhà trường, các bậc phụ huynh phải đào tạo được những công dân tự chủ, độc lập, có trách nhiệm, dám dấn thân để bảo vệ chân lý và công bình xã hội. Với ông, sự độc lập của các cá nhân sẽ làm nên sự độc lập của quốc gia, là vốn quý thúc đẩy sự phát triển, nhưng cũng là thuốc đề kháng bảo vệ sự độc lập của đất nước. Ông viết: “nếu có lòng yêu nước thì mỗi người chúng ta đều phải suy nghĩ trước hết về độc lập cho bản thân mình, rồi hãy giúp đỡ người khác cùng độc lập” (tr. 61-62).

Sự lệ thuộc là nguyên nhân của mọi điều xấu, một cá nhân lệ thuộc là cá nhân không thể minh định, không có lập trường, dễ dàng a dua, chạy theo phong trào, đám đông, hình thức, vọng ngoại. Nó cũng là nguyên nhân của sự nịnh bợ, luồn cúi với những người có chức quyền, nhưng lại hay xách mé, coi thường những người dưới mình kiểu thượng đội hạ đạp.

Vấn đề của giáo dục Việt Nam và chương trình Đổi mới

Khi hệ thống giáo dục không lấy sự tự chủ, khai minh khai trí làm trọng tâm trong việc đào tạo, làm đích đến của nền giáo dục, mà chỉ lo chăm bẵm “đúc” những con người công cụ theo một mô hình nào đó có sẵn để dễ bề sai khiến, thì nền giáo dục đó làm cạn kiệt nguồn nguyên khí quốc gia. Tạo ra những “Hồn Trương Ba, da hàng thịt, cơ thể mình trở thành nơi trú ngụ của linh hồn người khác” (tr. 144).

Những điều Fukuzawa viết ở trên thật có ý nghĩa, nó phản ánh mọi vấn đề trong xã hội Việt Nam nói chung và trong giáo dục Việt Nam hiện nay nói riêng, mà chúng ta đang hằng ngày tranh luận. Trong giáo dục nước ta hiện nay, những tính cách riêng, những điều tự chủ trong tư duy và hành động, khả năng phê phán, những chính kiến… không được khuyến khích phát triển, tập tành thành những thói quen cho học sinh, ngược lại, giáo dục đang là cỗ máy khổng lồ nghiền nát và làm hòa tan những điều này trong những định hướng chung, những chủ thuyết có sẵn, những phong trào thi đua có tính tập thể, ép tất cả vào một cái khuôn được định nghĩa bởi các nhà lãnh đạo chính trị. Khi không có một lập trường dựa trên những giá trị chắc chắn, không chính kiến, không có cái gì riêng của mình làm điểm tựa, không có khả năng tự chủ, người trẻ sẽ dễ dàng chạy theo những trào lưu nhất thời, buông mình cho những tệ nạn, mặc kệ thời cuộc kim tiền và truyền thông xô đẩy.

Học sinh chúng ta hết cấp phổ thông có thể trở thành những con người biết nhiều những kiến thức, nhưng lại không thể có sự độc lập trong tư duy, trong phán đoán, trong việc đem ra các quyết định, thiếu các kỹ năng để có thể xoay xở trong công việc và trong cuộc sống… Ngày 29/11/2013, Ngân hàng Thế giới đã công bố báo cáo có tựa đề “Phát triển kỹ năng: Chuẩn bị lực lượng lao động cho một nền kinh tế hiện đại ở Việt Nam”, trong đó đã chỉ ra đa số cán bộ chuyên môn (80%) của Việt Nam thiếu các kỹ năng cần thiết như kỹ năng tư duy sáng tạo và phê phán, khả năng trình bày, tính toán, giải quyết vấn đề, khả năng ghi nhớ và tốc độ tư duy. Cũng ở khía cạnh này, các phân tích kết quả cuộc thi PISA mới đây đã chỉ ra, mặc dù Việt Nam được xếp hạng khá cao, nhưng riêng “Sự cởi mở, linh hoạt trong giải quyết vấn đề của học sinh” thì bị xếp 67/68 nước tham gia.

Theo cách phân tích của Fukuzawa thì hậu quả của những điều này là sự lệ thuộc và có thể dẫn đến mất độc lập. Cá nhân thì chỉ sống dựa vào người khác, dựa vào những thứ có sẵn, đất nước lại lệ thuộc vào ngoại bang vì quốc gia không thể tự tin và có thể tự chủ khi các công dân của mình không thể tự tin và tự chủ.

Tôi không tìm thấy trong các nội dung văn bản chính thức hiện hành liên quan đến “mẫu người tự chủ” được định nghĩa một cách rõ ràng trong các phần nói về mục tiêu giáo dục. Cũng vậy, trong Báo cáo tóm tắt Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục…” trước đây, và “Dự thảo đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa” của Bộ Giáo dục vừa mới được trình bày trước Quốc hội, không thấy nội dung này mặc dầu đã có những cố gắng tham khảo giáo dục của các nước có nền giáo dục phát triển.

Tôi nghĩ, muốn đưa đất nước đi lên, chúng ta phải cải cách giáo dục, và nền giáo dục đó phải lấy “mẫu người tự chủ và có trách nhiệm” làm đích đến. Từ đó mới xác định lại chương trình nội dung, cách thức tổ chức, đánh giá… Nếu không, công cuộc đổi mới hiện nay rồi cũng sẽ thất bại dẫu cho có đầu tư 34 ngàn tỷ hay hơn thế nữa, vì chúng ta vẫn tiếp tục “lạc đường”, bởi cả thế giới tiến bộ từ rất lâu đã lấy mẫu hình này làm mục tiêu giáo dục trong mọi cấp bậc, từ giáo dục gia đình đến giáo dục nhà trường.

Một người bạn tôi đã so sánh hoàn cảnh Nhật Bản vào thời Minh Trị, trong đó Fukuzawa viết tác phẩm “Khuyến học” tương tự như hoàn cảnh của Việt Nam trong thời mà Nguyễn Trường Tộ sống và liên tục gửi những điều trần của ông lên cho nhà Nguyễn nhưng không được lắng nghe. Thế nhưng hiện nay, chúng ta thấy những gì mà Fukuzawa phản ánh trong tác phẩm này lại là những gì chúng ta đang chứng kiến hàng ngày. Như vậy, chẳng lẽ, gần 150 năm trôi qua, mà nước ta đang giậm chân tại chỗ, trong khi Nhật đã là một cường quốc hùng mạnh trong tốp đầu của thế giới?

Tác giả gửi Văn Việt.

Về kí hiệu học các khái niệm “xấu hổ” và “sợ hãi” trong cơ chế văn hoá

Iu. M. Lotman

Người dịch: Lã Nguyên

 

1. Trong nhân chủng học và xã hội học, sau những công trình nghiên cứu của Lévi-Strauss, có một định nghĩa đã được khẳng định, theo đó văn hoá là một hệ thống chế tài bổ trợ được áp đặt lên hành vi tự nhiên của con người. Chẳng hạn, ham muốn tình dục là một nhu cầu thuộc về tự nhiên, nhưng khi nó đã phục tùng những cấm kị bổ trợ (cấm kị về đồng tông, về địa điểm và thời gian, theo nguyên tắc có – không sự chế tài của giáo hội và luật pháp), thì chức năng tự nhiên nhường chỗ cho văn hoá.

2. Từ giác độ tâm lí học, phạm vi các giới hạn bị loại hình văn hoá áp đặt lên hành vi có thể chia thành hai lĩnh vực: lĩnh vực được điều tiết bằng sự xấu hổ và lĩnh vực được điều tiết bằng sự sợ hãi. Trong một ý nghĩa nhất định, điều đó có thể dẫn tới sự khác biệt rất nhỏ trong chuẩn mực hành vi về mặt pháp luật và đạo đức. Tuy nhiên, không phải mọi chuyện bao giờ cũng có thể giải thích như vậy.

3. Việc phân chia các nhóm tập thể chịu sự giới hạn của xấu hổ và các nhóm chịu sự giới hạn của sợ hãi hoàn toàn trùng với sự phân chia thành “chúng ta – họ”. Với ý nghĩa như thế, đặc điểm của những chế tài được áp lên “chúng ta” và “họ” vô cùng khác nhau. “Chúng ta” về mặt văn hoá là một tập thể mà trong đó có sự vận hành của những chuẩn mực về sự xấu hổ và danh dự. Sợ hãi và sự cưỡng bức lại quyết định thái độ của chúng ta với những “người khác”. Sự xuất hiện của các tục lệ đấu súng, toà án danh dự nhà binh trong giới quý tộc, dư luận trong xã hội sinh viên (từ chối cứu giúp theo kiểu thương hại), toà án văn nhân, toà án thày thuốc trong giới công chức, ý đồ sử dụng các chuẩn mực riêng trong “nội bộ” giới mình, không cần tới sự hỗ trợ của toà án, công an, nhà nước – đó là các bằng chứng thể hiện những dạng khác nhau của ý đồ vận dụng các chuẩn mực về sự “xấu hổ”, chứ không phải sự sợ hãi, trong nội bộ giới của mình.

4. Chính ở lĩnh vực trên, tính giai cấp của văn hoá bộc lộ rất rõ: ở thế kỉ XVIII, nếu trong nội bộ, theo lí tưởng, tập thể quý tộc được tổ chức bằng những chuẩn mực về danh dự mà ai vi phạm, sẽ thấy rất xấu hổ,  thì ở phía bên ngoài, trong quan hệ với tập thể nông dân, nó lại áp đặt cho họ những điều cấm kị làm cho sợ hãi. Nhưng trong nội bộ của mình, thế giới nông dân cũng được tổ chức bằng sự xấu hổ. Trong quan hệ với ông chủ quý tộc, người ta có thể làm những việc mà trong nội bộ thế giới của nông dân bị xem là đáng xấu hổ. Ở đây cho phép tìm tới sức mạnh bên ngoài (“nhà vua”, “quan trên”). “Danh dự” đòi hỏi giải quyết mọi vấn đề bằng sức mạnh bên trong tập thể (liên hệ với việc “mật báo”, “tố giác” trong tập thể học đường).

5. Việc mô tả dựa vào sự phân chia thành các chuẩn mực mà trong tập thể này nếu vi phạm thì sẽ xấu hổ, và những chuẩn mực do sự sợ hãi buộc phải thực hiện, có thể trở thành cơ sở thuận tiện cho việc phân chia các loại hình văn hoá.

6. Mối tương quan giữa hai loại hình định chuẩn cho hành vi của con người trong tập thể có thể biến đổi đáng kể. Nhưng sự hiện diện của cả hai và sự phân biệt chúng rõ ràng là rất cần thiết đối với cơ chế văn hoá. Có thể phân chia một cách giả định ba giai đoạn trong tương quan lịch sử của chúng.

a) Ở giai đoạn sơ kì, tổ chức hoạt động của tập thể con người đòi hỏi phải có một cơ chế khác biệt so với tất cả các cơ chế tồn tại trong thế giới động vật. Bởi vì thế giới động vật biết rất rõ cơ chế sợ hãi, còn cơ chế xấu hổ là đặc điểm riêng của con người, nên chính cơ chế này mới trở thành nền móng điều chỉnh các điều cấm kị đầu tiên của nhân loại với tư cách là con người văn hoá. Đây là những chuẩn mực để hiện thực hoá các nhu cầu sinh lí, — chắc chắn đó là lớp cổ xưa nhất trong hệ thống cấm kị mang tính văn hoá. Việc chuyển đổi sinh lí thành văn hoá được điều chỉnh bằng sự xấu hổ.

b) Khi nhà nước và các nhóm xã hội thù địch với nhau xuất hiện, nhân tố thống trị xã hội có sự chuyển dịch: con người bắt đầu trở thành một “sinh vật chính trị” và sự sợ hãi trở thành cơ chế tâm lí cơ bản của văn hoá. Sự xấu hổ điều chỉnh tất cả những gì là chung nhất đối với tất cả mọi người, còn sự sợ hãi xác định đặc tính riêng biệt của họ đối với nhà nước, tức là xác định những gì làm nên nhân tố thống trị về văn hoá ở giai đoạn ấy.

c) Giai đoạn thứ ba: trên cái nền của tổ chức nhà nước toàn dân, xuất hiện tập thể của những nhóm mang tính cá thể nhiều hơn: từ những tổ chức tự hình thành của các giai cấp cho đến những đoàn thể, phường hội thân tộc, láng giềng, nghề nghiệp, xưởng thợ, đẳng cấp… Mỗi một nhóm như thế tự xem mình là đơn vị của một tổ chức cao hơn so với tổ chức điều chỉnh hành vi của tất cả những người còn lại. Điều chỉnh bằng sự xấu hổ bắt đầu được xem là chỉ dấu của một tổ chức tối thượng.

Cần nhấn mạnh rằng, ba giai đoạn nêu ra ở trên chủ yếu có ý nghĩa lôgic – phát hiện, bởi vì dòng chảy thực tế của các tiến trình lịch sử hiển nhiên là diễn ra phức tạp hơn nhiều, và hiển nhiên là bằng muôn vàn nẻo đường hết sức phong phú, đa dạng.

7. Ở giai đoạn thứ ba, bao giờ cũng có một mối quan hệ bổ trợ giữa các phạm vi xấu hổ và sợ hãi. Chúng tôi có ý muốn nói, người biết xấu hổ, thường không sợ hãi, và ngược lại, kẻ hay sợ hãi, thường không biết xấu hổ. Lại nữa, sự phân bố các phạm vi thường mang tính co giãn và tạo thành đối tượng của sự tranh đấu với nhau. Chẳng hạn, văn hoá quý tộc Nga thế kỉ XVIII tồn tại trong bối cảnh giằng kéo qua lại giữa hai hệ thống: từ quan điểm của hệ thống này, mỗi quý tộc là một thần dân bị lệ thuộc vào “họ”, hành vi của nó do sự sợ hãi điều chỉnh. Nhưng từ một hệ thống khác, anh ta lại là thành viên thuộc về một  “cơ thể cao quý của giới quý tộc”, nhập vào cái tập thể “chúng ta” và chỉ thừa nhận luật lệ của sự xấu hổ. Tương quan giữa các phạm vi ấy là thế này: lĩnh vực “xấu hổ” có tham vọng trở thành cỗ máy điều tiết duy nhất đối với hành vi bằng cách khẳng định bản thân ở chính những biểu hiện mà chúng ngầm bảo, rằng sẽ rất xấu hổ nếu thấy sợ hãi. Điều này có quan hệ với vai trò đoàn thể của đấu súng, với yêu cầu về chữ dũng của chiến binh, với giá trị tuyệt đối của lòng quả cảm như vốn dĩ (liên hệ với cái chết vô mục đích của công tước Andrei trong Chiến tranh và hoà bình, khát vọng sống của chàng và sự bất lực ngự trị tất cả nhường chỗ cho sự sợ hãi: “thật xấu hổ, thưa ngài sĩ quan”, “Nỗi sợ… xấu hổ” đã dẫn Lenski đến rào chắn). Lĩnh vực “sợ hãi” trong quan hệ với giới quý tộc Nga thế kỉ XVIII được duy trì một cách thụ động hơn. Điều này được quyết định bởi sự đồng tình mang tinh thần đẳng cấp của chính phủ với giới quý tộc, nhờ đó, bản chất độc tài của nhà nước chuyên chế đối với giai cấp quý tộc tỏ ra mềm mỏng hơn. Trong thực tế, nó được thể hiện trong sự thiếu nhất quán, vì thế, chính phủ chống lại việc đấu súng, nhưng vẫn cho phép các luật lệ về danh dự tồn tại bên cạnh các chuẩn mực luật pháp.

8. Tính chất bổ trợ của các quan hệ giữa sự “xấu hổ” và “sợ hãi” như là giữa các cơ chế tâm lí của văn hoá cho phép tổ chức mô tả về mặt loại hình từ các hệ thống mà trong đó sự phì đại của lĩnh vực “sợ hãi” dẫn tới sự biến mất của phạm vi “xấu hổ” (liên hệ với Biên niên sử của Tacitus, Nỗi sợ hãi và tuyệt vọng của đế chế thứ Ba của Brecht) cho tới những hệ thống mà trong đó, xấu hổ là bộ máy điều chỉnh duy nhất các điều cấm.

Việc mô tả các hành vi được xem được xem là “không sợ hãi” , hoặc, “không xấu hổ” có một ý nghĩa văn hoá đặc biệt. Ở trường hợp sau, cần lưu ý hành vi “không xấu hổ” từ quan điểm bên ngoài (chẳng hạn, các tín đồ của chủ nghĩa hư vô Nga ở giữa thế kỉ XIX được xem là những kẻ vi phạm các chuẩn mực về sự xấu hổ, vì  họ khẳng định một loại hình đạo đức kiểu mới trong lịch sử), hoặc hoặc từ quan điểm cá nhân (những kẻ cynique, hippie).

1970

 

 

Nguồn: Лотман Ю.М. Семиосфера. — С.-Петербург: “Искусство – СПБ”, 2000. С. 664-666.

Dịch giả gửi Văn Việt.

Chuyện kể năm 2000 (kỳ 2) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

*

*        *

Đã hơn bốn tháng kể từ ngày Ngọc lên thăm hắn.

Hắn vừa cảm thấy như mới gặp Ngọc hôm qua, lại vừa như thấy lâu quá rồi, một thời gian đằng đẵng.

Tất cả mọi thứ Ngọc đem lên đã gần hết. Khi Chắt mở hòm của hắn, trong hòm chỉ còn chừng vài lạng đường chảy nước, một bọc các túi ni-lông giặt sạch cuộn bó vào nhau và một túi cơm khô, thứ cơm độn ngô vàng vàng, trăng trắng.

Nhưng trong hòm hắn lại có một cái bếp than. Đó là một cái ống bơ sữa bò có mấy que thép làm ghi chia đôi hộp. Phía dưới đục làm lỗ thông gió. Cái bếp được để sang một bên.

Chắt cùng hắn giũ tung cái chăn bông to sù, vỏ bằng vải ka-ki vụn đã sờn thủng ở những gân cạnh đường may cộm lên. Không có gì đặc biệt. Bị. Đấy mới là cái cần xem. Hắn khoác bị đi làm và khoác bị về. Một túm rau thơm ướt đẫm nước gói trong một mảnh ni-lông. Một củ su hào bánh xe đã vặt trụi lá hắn tạt được ở vườn rau bên kia suối. Lúc rửa chân tay đi về hắn tót sang, hai tay quơ hai cái là xong…

Ông Thanh Vân gật gù hài lòng.

“Quả tớm”(1) rồi! Hắn bình tĩnh nghĩ. Chắt đặt nắm rau thơm, củ su hào ra một chỗ. Ông Thanh Vân lấy chân đá đá vào cái hòm ra hiệu. Chắt kéo cái hòm ra phía ngoài. Ở giữa hòm gỗ và bức vách là một cái ống quần tù rách một đầu đã được khâu liền, đầu kia buộc túm phồng phồng như một con chuột cống. Đó là một túi đựng than củi. Chắt nhấc cái túi ra. Hắn ấp úng:

– Báo cáo ông. Tôi bị ốm quá, mạn phép ông mang tí than về nấu cháo…

Không thèm nghe, không thèm nói nửa lời, ông Thanh Vân đá vào các

(1) Quả tang

thứ phạm qui và đá cả vào cái hòm. Rồi ông tụt xuống đất. Hắn nhấc vội túi đường, túm ni-lông trong hòm. Chắt xếp các tang vật vào hòm, cắp mang ra.

Còn lại những người tù im lặng. Rồi mỗi người một câu, ầm lên. “Thế là mất sột sệt rồi”. “Ông ấy làm căng quá nhỉ”. “Tôi giả A Tuấn con dao đây”. “Mẻ to rồi”. “Chắc có thằng nào bẩm”. Một anh tù trẻ măng nhảy từ sàn bên kia sang chỗ hắn. Đó là Cân, giáo dân Phát Diệm, mới vào tù mấy tháng nay. Nước da Cân vẫn sáng, săn và thấy rõ hồng cầu. Không giống nước da tù ngăm ngăm tai tái, bờn bợt, sưng sưng kín mít nỗi lòng, khuôn mặt Cân vẫn còn nét riêng, đó là cái linh hoạt, cái biểu hiện tình cảm ra bên ngoài. Từ con người Cân vẫn còn bóng dáng uyển chuyển của Tự do, của đồng ruộng, của luỹ tre gió thổi.

– Hẳn có một thằng chó nào bẩm đây.

Hắn nói và nhìn vào một anh tù ngồi ở sàn bên kia, cũng tầng trên, chênh chếch chỗ hắn ngồi. Già Đô tiếp: “Đó là cái chắc”. Già cũng nhìn vào người ấy.

Trong tù cũng như ngoài đời, hắn căm thù nhất sự phản bội.

Rất nhiều cái nhìn hướng về anh tù sàn bên kia.

Đó là Hợp, một anh lính ngụy quê ở Bắc Ninh đã tập trung cải tạo tới năm thứ chín. Vẫn bình thản chữa cái bẫy chuột, anh ta chép miệng:

– Đã khổ thế này rồi mà còn hành hạ lẫn nhau. Chó lại đi giết chó.

Nhìn Hợp, nghe Hợp nói, hắn lại phân vân, không biết có phải Hợp bẩm không. Anh ta mới ở trại Phú Sơn chuyển về. Cũng như hắn ở trại Q.N chuyển lên.

Sau 16 tháng 4, số lẻ (1) các nơi nườm nượp về đây. Xe chạy đi chạy lại và nhả ra bao nhiêu tù mặt lạ hoắc.

Anh em ở Phú Sơn cho biết: Hợp thích bẩm, sớ (2) để lập công, sớm được trở về. Muốn gì hắn cũng phải tổ chức bữa uống chè tối nay. Vẫn phải sột sệt. Để cho kẻ nào làm li-cai-tơ (3) thấy rõ họ đã thất bại. Thực lòng hắn rất đau. Nhìn vào chỗ để nội vụ trống một khoảng, hắn xót. Cái hòm. Cái hòm không thể thiếu được của hắn. Hắn đã viết thư cho vợ xin cái hòm sau vụ mất cắp hai gói kẹo. Và vợ hắn đã đèo bằng xe đạp đi gần trăm cây số lên cho hắn. Hắn đã mang cái hòm vào trại trước bao cặp mắt thèm thuồng của các bạn tù.

(1) Tù chính trị (mang số lẻ)

(2) Báo cáo bằng giấy tờ, văn bản

(3) indicateur (chỉ điểm)

Cái hòm đã gắn với hắn đi bao toán. Từ Q.N đến V.Q. Cái hòm với bao nhiêu công dụng. Cái hòm gia sản, tổng kho. Cái hòm ấy mà chác, giá trị không kém cái cặp lồng tốt nhất.

Hắn tiếc túi than. Đây là một túi than đặc biệt. Không phải loại than củi thông thường. Đi làm, việc đầu tiên là phát hoả cái đã. Kiếm cây que đốt lửa đùng đùng. Mùa rét thì sưởi. Mùa hè thì hút thuốc lào. Dúi ngầm vào đó củ khoai, cái bắp ngô nếu tốt số tạt được. Anh nào thích than thì đi tìm củi chắc vứt vào, rồi nhặt than ra, lấp đất lên. (Tất nhiên là phải rình lúc quản giáo không có mặt). Rồi liệu mà bồng về. Đó chỉ là thứ than hoa thường thấy.

Mẻ than vừa mất của hắn là một mẻ than đặc biệt. Lâu rồi toán hắn đốt lửa trên một gốc cây to. Lửa cháy ngún xuống rễ sâu dưới lòng đất. Phải đến tuần lễ sau hắn mới lang thang ra đấy bới đống tro, xem còn ít than sót lại không và phát hiện ra những cái rễ cháy âm ỉ trong đất từ bao giờ. Chúng đã tắt, còn lại than.

Hắn bới đất. Nậy một khúc than nguyên hình rễ cây. Một khúc nữa. Hắn đào. Im lặng đào. Lưng một bị than. Thỏi nào thỏi ấy như than đá, nặng, óng ánh, rơi vào nhau kêu thành tiếng sang sảng. Hắn đã bồng về trại trót lọt, mặc dù hôm ấy ai đi qua cổng trại cũng bị khám. Hắn đã chuẩn bị. Hắn cho than vào cái ống quần tù để dưới đáy bị. Hắn để bộ quần áo ướt lên trên. Và cái ca rỗng nằm nghiêng ở phía trên nữa, cạnh cái khăn mặt ướt. Sau cùng là cái điếu cày nằm chênh chếch từ đáy bị tới miệng bị.

Thấy khám xét, nhiều người sợ hãi. Hắn rướn lên đứng trên cùng. Chờ khám xong một toán, hắn hớn hở bước lên, tay chành sẵn miệng bị. Ông quản giáo không nhìn, phẩy tay ra hiệu cho hắn vào. Hắn bước qua bao nhiêu của cải quí như vàng vất dưới đất, ngay cạnh lối đi, sát bốt gác: nắm lá khoai, túm lá sắn non, túi than, những bó đóm. Có cả những mẩu sắn và mấy củ khoai, chẳng biết của ai mà sao không khợp ngay ở chỗ làm đi, bồng về đến đây để mất. Mẻ than đã nằm gọn trên giá, sau cái hòm. Mẻ than nặng, đượm, chắc, bỏ mấy hòn cháy suốt cả tối, không phải thêm than. Hắn mới sột sệt mấy bữa, còn đun được mươi ngày nữa mới phải lo.

Thế là bây giờ tay trắng.

Hắn ra sân đi bách bộ cho khuây.

*

*        *

Buổi chiều hôm ấy cũng như bao buổi chiều khác.

Những giây phút tự do cuối cùng của một ngày. Những giây phút chưa bị nhốt cuối cùng của một ngày. Chỉ lát nữa thôi, bọn hắn sẽ được lùa vào trong chuồng. Khoá. Nhốt. Như nhốt gà nhốt vịt. Như nhốt trâu bò.

Xam xám, vật vờ, cánh phạm đi quanh sân trại. Người đi một mình, nghiền ngẫm như bao chiều rồi nghiền ngẫm. Người khoác tay nhau rủ rỉ. Chẳng hiểu họ chuyện những gì. Chẳng qua là tri kỷ gượng mà thôi. Vì ở cái chốn này không một ai tin ai. Không một ai cởi mở cùng ai. Cũng có những ngoại lệ, cũng có những người tin nhau. Nhưng chẳng có chuyện gì để nói mãi cùng nhau suốt năm này sang năm khác, bởi vì cuộc đời tù của họ có gì đâu ngoài một chuỗi lặp đi lặp lại những đói, khổ, buồn, nhớ, tuyệt vọng…

Nhưng buổi chiều hôm ấy có một sự kiện làm thay đổi cuộc sống đều đều, buồn tẻ trong trại: Một chiếc xe ô-tô bịt bùng từ ngoài cổng tiến vào sân trại. Mặc dù có tấm vải bạt phủ kín đầy bụi bị mưa dầm làm bết thành từng mảng, nhìn chiếc xe, anh em tù biết ngay là có phạm mới. Không sai. Từ ca-bin, các ông công an nhảy xuống. Cửa sắt cuối đuôi xe mở.

Và hơn hai chục người ăn mặc toàn xi-vin khoá tay đôi một nhảy xuống. Đám tù mới đứng cụm vào một chỗ ở đầu dốc, lối lên hội trường.

Đôi bên đứng cách nhau một khoảng an toàn vừa đủ tò mò nhìn nhau. Hắn cũng đứng ngó đám lính mới. Những người mới đến còn chưa nhuộm một màu tù vì chưa mặc quần áo số, nhưng chỉ ngày mai thôi, đố ai phân biệt được cũ mới từ quần áo đến dáng đi. Lại bắt nữa. Đến bao giờ mới được ra hở giời?

Bỗng có tiếng gọi to bên cạnh hắn:

– Vĩnh! Kiều Xuân Vĩnh!

Tiếng Phổ.

Một người cao, gầy đứng giữa đám tù mới giơ cánh tay không bị khoá lên hoa hoa trên không đáp lại:

– Chào anh Phổ. Khoẻ không?

Phổ cười rất tươi. Phổ cùng toán hắn, nay đã chuyển sang toán chăn nuôi.

– Khoẻ. Nhớ trại quá, lại vào à? Lâu chưa?

Anh tù tên Vĩnh cười:

– Cáo chết ba năm quay đầu về núi. Ở Cổng Giời về được hơn hai năm.

Đang làm thợ mộc thì bị xúc.

– Đến đây khi nào?

– Vĩnh đến đúng 17 giờ 30 giờ GMT, nhưng còn đỗ ngoài kia làm thủ tục nhập kho. Vĩnh đã gặp ông giám thị: “Báo cáo ông thượng uý giám thị phân trại. Tôi đại uý Kiều Xuân Vĩnh có mặt”.

Đứng giữa đám tù bị còng tay ngơ ngơ ngác ngác, Vĩnh lại cười. Cười kha kha.

Tất cả há hốc mồm nghe. Phổ bảo với mọi người xung quanh:

– Cậu Vĩnh này là đại uý trẻ nhất đấy. Tốt nghiệp trường sĩ quan Đà Lạt ít ngày là lên trung uý ngay. Rồi do có tướng quân sự lại đẹp trai, tiếng Pháp nói như gió, nên được cấp trên phong đại uý. Chết vì cái đại uý. Tăng trước mười năm…

Câu chuyện Phổ nói bị ngắt quãng vì anh em được phân công trực nhật đã bưng những xoong cơm xoong canh (tù chuyên gánh cơm chỉ có nhiệm vụ gánh cơm nước một bữa trưa ra chỗ làm và lấy suất ăn sáng) từ nhà bếp đi lên cái dốc xoai xoải tới giữa sân. Cả trại ầm lên. Tiếng gọi nhau “Khợp thôi!” “Khợp thôi!”. Tiếng gõ bát đũa. Tiếng đếm bát đũa của từng mâm. Tiếng chân người huỳnh huỵch chạy từ xa về buồng giam, nhảy lên sàn lấy bát đũa chạy vội ra.

Bữa cơm chiều hôm ấy sao mà ngon. Dù lòng hắn không yên. Lòng anh tù tập trung cải tạo làm sao mà yên được. Yên tâm cải tạo, câu ấy đúng với ai, chứ không đúng với anh tù không án. Ngon như cơm tù. Phải ghi vào từ điển thành ngữ ấy.

Nhưng hãy bắt đầu từ việc chia cơm đã. Đó là một sự im lặng. Im lặng tuyệt đối. Trong sân trại, anh em tù đứng thành mấy chục vòng tròn. (Bao nhiêu mâm thì bấy nhiêu vòng). Những vòng người quần xám, áo xám, mắt trắng dã, mặt nghiêm nghị, căng thẳng, chăm chú nhìn nồi cơm, nồi canh, đếm số bát. Một nhận xét đầu tiên:

– Cơm hôm nay sao ít thế nhỉ?

– Cơm nát.

– Lại độn nhiều khoai quá.

– Đánh đánh cho nó đều, Cân ạ.

– Rau cũng ít quá.

Đó là những thất vọng dù quen thuộc, nhưng vẫn là thất vọng. Cơm đã ít. Lại độn khoai. Lại chỉ có một món rau lõng bõng nấu trong vạc đen sì.

Cách đây ít lâu, ông chánh giám thị đã thực hiện được lời hứa: Bữa ăn có nhiều món. Rau bắp cải mọi khi luộc thì nay chia làm hai: Thái nhỏ muối dưa xổi và luộc. Một tý rau thơm. Một tý muối hoà với nước hàng làm nước chấm. Nhiều bữa có một con cá khô mủn hoặc hai miếng thịt vịt đang đâm lông ống vừa thui vừa luộc, khét lẹt, mỏng dính. Bốn năm món chia chác thật phức tạp. Cân chia ba bốn lần. Nguyễn Văn Phổ nói:

– Tôi mà làm giám thị, tôi sẽ cho ăn nhiều món hơn nữa. Để chỉ chia thôi cũng đã chết. Không còn thời gian nghỉ nữa.

Sau những tiếng xì xầm, giờ đây cả sân lại im lặng. Và căng thẳng. Quá căng thẳng. Tất cả dán mắt vào cái muôi của người chia cơm, vào cái bát được đưa lên cân. Nghĩa là một que củi thẳng và khô làm cán cân. Một đầu treo hòn cuội. Đó là quả cân. Một đầu làm cái quang để vừa một cái bát men hai mươi. Người ta đã lấy một cái bát của một anh cố định làm trọng lượng bì. Qua thực tế người ta khía những nấc ở cán làm định mức trọng lượng. Nấc ngoài là nấc mười tám cân. Nấc trong là nấc mười lăm cân, mười ba cân. Thông thường việc chia có thừa thiếu chút ít. Thừa thiếu càng trở nên phức tạp, khi nhà bếp thổi khô quá hoặc nát quá như hôm nay làm đảo lộn trọng lượng bình thường, phải thêm bớt nhiều lần. Nhìn thìa cơm đổ thêm vào bát mình thì vui, nhưng nhìn cái thìa của người chia cơm xắn tàn bạo vào suất cơm trong bát mình nó vẹt lẹm đi, buốt lòng như có ai bấu rứt đi quả cật. Xén rồi lại xén nữa vì vẫn chưa đủ. Chưa hết một vòng.

– Sao lại nhích vào thế, Kỷ Mình?

– Cơm hôm nay ít lắm à.

– Nhưng nó nát, nó nặng.

– Nặng cũng ít à.

– Gượm, để cho nó đứng hẳn lại đã. Cân còn đang đảo mà.

Ôi! Trông kìa, có hai muôi thôi mà đã được một suất rồi. Ít quá!

Kỷ Mình và Cân cứ chia, cứ xúc. Cầu sao còn được tản (1) nữa. Chứ thế này thì ít quá. Có khi còn được tản nhiều là khác. Nhưng mới có sáu suất mà đã vẹt nửa xoong cơm rồi. Lại miếng khoai kia. Cầu sao nó đừng vào bát của mình. Miếng khoai to quá.

– Dầm dầm khoai ra, Cân ạ. Cho nó đều.

 

 

(1)Chia thêm

– Được rồi. Được rồi.

Cơm trong nồi còn ít quá. Khéo thiếu mất. Không, nhưng mà chỉ còn ba suất nữa thôi. Trong xoong to trông nó thế, chứ ba suất thì đủ. Một suất nữa rồi. Sao suất này trông có vẻ nhiều thế nhỉ. À! Nó đã bốc hơi một ít. Đỡ nát hơn. Suất ấy của ai nhỉ. Cán. Cán may rồi. Ai chẳng biết được chia ở cuối xoong bao giờ cũng nhiều hơn một tý vì cơm đã nguội đã bốc hơi.

Nhưng Cán thì không chú tâm đặt bát ở cuối hàng đâu. Chỉ có Lê mới làm như vậy. Ở QN, Lê cứ làm như vô tình ra sau và đặt cái bát men mười sáu(1) của Lê ở cuối hàng. Việc ấy kéo dài được nửa tháng thì bị Kỷ Mình và cả toán phát hiện ra. Nhưng không ai nói gì. Chỉ có Kỷ Mình trả lời bằng hành động. Kỷ Mình cân cơm và đổ ở cuối hàng trước. Khi Lê chuyến bát về đầu hàng, Kỷ Mình lại cân cho bát đầu hàng trước. Lê xếp bát ở giữa hàng, Kỷ Mình đổ từ giữa hàng xoè ra hai đầu. Như một trò chơi ú tim. Như chuyện cổ tích vậy. Lê chẳng dám nói gì. Đành ngậm đắng nuốt cay.

Kỷ Mình chia rất công bằng và không một lần nào suất của Kỷ Mình nhiều hơn suất của người khác. Kỷ Mình vẫn dằm dằm vun vun xúc xúc. Đáy xoong đã lộ ra, những hột cơm dính với khoai bê bết. Không biết chỗ kia chia đôi có được hai suất không? Một suất. Hơi nặng một tý. Xúc ra nửa thìa. Phải nói Kỷ Mình xúc rất chính xác. Mười mấy năm chia cơm có khác. Còn lại trong nồi hơi ít, nhưng trông thế thôi. Vét vào, vun vào chắc chắn sẽ đủ. Đủ là tốt. Sao? Kỷ Mình còn bớt lại à? Không xúc hết à. Xem nào. Vẫn hơi tươi! Xắn một nửa thìa rồi. Vẫn còn tươi, hơi ngỏng. Một xíu nữa. Cái cân bềnh lên hạ xuống. Lại hơi chúc. Ngón tay Kỷ Mình gẩy gẩy mấy hạt cơm ở đầu thìa xuống bát. Được rồi. Ngang cân rồi. Chỉ gần chục hột mà ngang cân. Các cụ bảo “con ruồi đỗ nặng đồng cân”. Đúng thật. Thế là được tản rồi. Mỗi người được một thìa đấy. Còn bát này, bát này chưa. Bát này chưa. Kỷ Mình nhoài người ra đổ vào những bát ở xa. Còn một tí nữa. Tản nữa. Mỗi người hơn chục hột. Còn miếng cháy nữa đấy. Bẻ ra làm hai mươi suất. Được chưa. Thôi mang vào nhé. “Một tý, một tý không cần à!” Nói thế thôi chứ ai mà không cần. Miếng cơm trong tù ngọt hơn cả đòng đòng.

Mọi người cúi xuống nhấc bát cơm, bát canh đứng lên. Có anh đổ ụp luôn bát canh vào bát cơm, cho cù dìa đảo đảo, đứng ăn ngoém hết tại chỗ. Có anh bưng ra ngồi ở góc sân. Kỷ Mình còn lấy tay nhặt mấy hạt cơm dính vào

 (1) Đường kính mười sáu cm

thành xoong.

Hắn và già Đô hai tay hai bát bưng vào buồng. Già Đô cẩn thận trút hai bát rau làm một. Rồi già giở cái cặp lồng của hắn ra. Một cặp lồng rau ngân ngẩn. Cả ngày chỉ ngồi chặt hom sắn, già Đô với hắn cấu vội được một nắm rau tàu bay, khi đi ngang qua khu cơ quan, già tranh thủ suốt được một nắm lá ớt, lá hoa mào gà. Mặc ông áo xanh hét:

– Anh kia làm gì đấy. Có đi vào hàng không?

Hai tay hai nắm rau, ngắt cả cành, già trở về hàng và vừa đi vừa ấn chiến lợi phẩm vào bị. Nhìn già, hắn nghĩ đến những nơi già đã đi qua, đã in dấu chân: Khải Hoàn Môn, tháp Eiffel. Marseille…

May là chỗ làm có nhiều rau tàu bay. Người ta bảo ăn rau tàu bay hại máu. Bọn hắn ăn chỉ thấy ngon. Còn lá mào gà, lá ớt ăn như rau dền vậy. Họ lặng lẽ nhai. Mỗi người một tâm tư. Đắm chìm trong tâm tư ấy.

Vũ Lượng từ nhà mét bước ra. Đó là một anh tù trẻ hơn hắn, cằm vuông, má hóp, râu quai nón. Tay xách một cặp lồng bốc khói, thơm ngào ngạt, thật hấp dẫn. Mùi thơm váng cả buồng giam. Nhưng hắn không quay đầu về phía ấy.

Ở trong tù thái độ đối với miếng ăn là quan trọng. Rất quan trọng. Nhận một quả tắc. Thái độ đối với quả tắc thế nào đây. Không thể mời tất cả mọi người. Nhưng cũng không thể quay mặt vào tường, ăn một mình những món ăn ngoài đời, những món ăn của tự do. Cũng không thể chờ đến lúc đi ngủ, chui vào màn ăn một mình trong bóng tối, tiếng giở các túi ni-lông loạt soạt. Tạt được củ sắn, một kỳ công đấy. Thiết kế rất công phu, chớp thời cơ ngàn năm có một, bồng về trót lọt, đói hoa mắt, nhưng chớ ăn một mình. Trong tù quan hệ con người bị lột truồng. Không thể che đậy. Không thể giả dối. Không thể đánh lừa được ai. Có hai điều quyết định nhất khi anh sống trong tù: Một là thái độ của anh trước bạo lực. Nghĩa là thái độ trước các ông công an, các ông quản giáo, các ông giám thị. Thái độ trước tù đày. Hai là thái độ trước miếng ăn trong khi lúc nào cũng đói rã rời.

Giữ được hai điều đó anh sẽ là người tù chân chính, được cộng đồng công nhận. Mà giữ được hai điều đó nghĩa là phải sẵn sàng chấp nhận những công việc nặng nhọc nhất, meo nhất. Đừng mơ tưởng đến toán nhà bếp, đi nuôi ong, chăn trâu. (Ai bảo chăn trâu là khổ. Không, chăn trâu sướng lắm chứ. Đúng thế đấy. Chăn trâu sướng lắm. Vì được tương đối tự do. Thoải mái sột sệt). Đừng hy vọng cái án cao-su co lại.

Hắn làm được cả hai điều ấy một cách đơn giản tự nhiên. Không phải cố gắng. Vì đó là bản chất của hắn. Chưa bao giờ hắn bẩm, sớ, phản bội anh em, để mua về cho mình một chút lòng tin của giám thị. Điều này dễ thôi. Vì hắn biết chẳng ai tin bọn hắn. Vì hắn biết các ông ấy chỉ là thủ kho. Là những người giữ chìa khoá kho chứa một mặt hàng đặc biệt, biết đi lại, ăn uống như người, nên càng phải cẩn tắc.

Bởi vậy hắn còn tìm mọi cách tránh gặp gỡ các ông ấy. Cái dạo mới từ trại Q.N chuyển lên đây, tù các nơi dồn về nườm nượp, xe con, xe tải, xe ca ngược xuôi như một bến xe náo nhiệt, cái dạo ấy hắn đã được chỉ định làm toán trưởng. (Chắc là có sự bàn giao của trại Q.N, một sự bàn giao tốt về hắn). Hắn lễ phép trình bày với các ông ấy là sức khoẻ hắn kém, hắn không am hiểu nông nghiệp, nên không làm toán trưởng toán làm đồi được. Giám thị đã chỉ định một người khác. Thực ra hắn không muốn làm toán trưởng dù toán trưởng không phải lao động. Chỉ xem xét anh em làm, đôn đốc nhắc nhở anh em. Đi theo ông quản giáo nghe ông nói về công việc, nhắc nhóm này làm dối, nhóm kia ngồi nghỉ quá lâu rồi đấy, hút thuốc gì mà hết nửa ngày thế, nắng cũng nhúc nhắc ra làm thôi, từ sáng đến giờ chưa được mấy công việc. Rồi: “Báo cáo ông, cho anh em củng cố lại cái nhà phân”. “Báo cáo ông, chỗ sắn bị nhổ trộm ấy, tôi đã hỏi nhưng không biết ai. Anh Chí Lồng Sếnh không làm ở đấy. Anh Lượng cũng bảo không có ở đấy…”

Những việc ấy hắn không làm được! Quá sức của hắn. Hắn chỉ có thể sống và làm khổ sai như những anh em tù bình thường khác. Dù phải làm đến kiệt sức. Dù có phải phơi mình ở nương sắn tháng Sáu, nắng chang chang, dù có phải lội xuống suối lạnh buốt giữa mùa đông tháng giá, tím bầm hai chân, vục nước gánh lên đồi tưới rau, phải đút hai bàn chân cóng lạnh không còn cảm giác vào đống lửa, hắn cũng vẫn thấy dễ chịu hơn việc làm toán trưởng, suốt ngày báo cáo ông, báo cáo ông… Dù bàn chân cóng dại cho vào lửa mãi mới thấy nóng, khi đã thấy nóng rồi rút vội chân ra, nhưng cái nóng ở chỗ gan bàn chân da dày, cứ khoan mãi vào người, xoáy mãi vào người, bổi hổi bồi hồi, xuyên lên tận bẹn, phải nằm lăn ra bên cạnh đống lửa mà xuýt xoa, mà kêu, mà cười ra nước mắt thì vẫn còn hơn. Vì bên cạnh mình không phải là ông quản giáo mặc bộ quần áo vàng. Mà là già Đô, là Lượng, là Cân, là Lê Bá Di cũng đang lăn lộn với cái nóng dùi xuyên tuỷ như mình. Làm toán trưởng. không phải lao động, nhưng mất tự do đến hai lần, luôn phải giữ nét mặt kính cẩn và đau khổ, phải quát giục anh em tù khác. Hắn không làm được.

Hắn cũng chưa bao giờ đặt miếng ăn lên trên nhân phẩm. Điều này khó hơn. Cũng may hắn là người cầm bút. Cái máu sĩ đã giúp hắn.

Lượng không về chỗ mình mà cầm cặp lồng đến thẳng chỗ hắn, nụ cười trên khuôn mặt đỏ và nhọ:

– Khợp không? Làm tý nhớ?

Đó là một sự chia sẻ với tổn thất hắn vừa chịu. Là sự tuyên chiến với người vừa bẩm để hắn bị khám, bị thu nội vụ. Như một lời tuyên bố của đồng minh khi lâm chiến. Lại càng quý giá vì người ấy là Lượng, một người quá coi trọng miếng ăn, luôn luôn đói. Lượng cùng quê, thổi kèn clarinette, mới bị đưa lên gần một năm nay. Làm sao bị bắt tù lại là tù chính trị thì có mà trời hiểu. Món quà tặng của Lượng, giá trị vật chất là to lớn, tuy chưa biết rõ nội dung nhưng giá trị tinh thần còn to lớn hơn nhiều.

Hắn hỏi, giọng ấm áp:

– Gì đấy?

– Gà đồng.

Hắn ỡm ờ:

– Ếch à?

Đào đâu ra ếch. Lượng cũng ỡm ờ:

– Không. Em của ếch thôi.

– Nhái à?

Lượng gật gật.

Hắn chìa nắp cặp lồng ra. Lượng xúc cho hắn non nửa, khoảng dăm con. Lượng bảo:

– Sột sệt ở chỗ làm rồi. Về chỉ hâm lại thôi. Nguội ăn sợ tanh. Tanh như nhái mà lại.

Rồi Lượng về chỗ. Chỗ của Lượng cạnh chỗ Cân, sàn phía bên kia.

Lượng sột sệt nhái rất khéo. Chỉ với muối thôi. Nhưng căn bản là có ớt. Và một tý rau thơm. Hắn gọi sang sàn bên với Lượng:

– Đặc sản. Ngon lắm! Mai có lại tiếp tục nhé.

Lượng cười:

– Giá có tý mều(1) thì tuyệt.

(1) mỡ

– Một tý thịt ba chỉ nữa.

Lượng cười rất tươi:

– Một tý đậu phụ, một tý chuối xanh, một tý lá lốt, một tý nghệ, một tý rau rút!

– Thế thì thành món cháo rìu đấy.

Lượng rất vui. Vui vì đã giúp đỡ được bạn, người đã giúp đỡ Lượng rất nhiều. Lượng muốn đến với hắn trong lúc hắn đang gặp khó khăn. Như hắn đã làm thế với Lượng. Lượng muốn ăn chung với hắn, nhưng hắn đã có già Đô rồi. Việc hắn ăn chung với già Đô làm Lượng nể phục. Vì già Đô không tiền lưu ký. Không có ai gặp mặt. Không một quả tắc. Thông thường người ta chọn người ăn chung, ngoài phần tình cảm cũng phải “môn đăng hộ đối” nghĩa là người của ngon vật lạ chỉ trông vào trại thì ăn với nhau, người nhận tắc ăn với người nhận tắc. Lượng ăn một mình như số đông anh em tù với phương châm Cá nhân tác chiến cá nhân bành (1).

Hắn hỏi khẽ già Đô:

– Bên Pháp người ta có ăn ếch không?

Già Đô cũng trả lời rất khẽ:

– Có chứ, ăn mạnh. Nhưng chỉ ăn đùi thôi. Bên Đông Âu không ăn.

Họ nói gần như thì thào. Sợ có ai nghe tiếng, bẩm với cán bộ là già Đô với hắn ca ngợi Pháp.

– Chỉ tẩm bột rán chứ gì.

Già Đô gật đầu.

– Ăn thế không ngon. Tôi thích nhất ếch om. Nó còn nguyên vị ếch.

– Nó là do thói quen thôi. Dân mình ăn được mắm tôm, nhưng không thể ăn được phó-mát. Mà đó lại là thứ rất ngon. Nhất là phó-mát Hà Lan. Ngon và bổ nữa.

– Tôi chưa được ăn phó-mát. Mắm tôm cũng không biết ăn. Nhưng vào đây biết ăn rồi.

Tự nhiên già Đô ngồi thẳng lên, nhai một cách chăm chỉ. Hợp đã vào. Mấy người khác đã ăn xong ở ngoài sân, mang bát vào. Và đã xách ống bương, cặp lồng nước ra rửa bát.

Thấy Hợp, Lượng hỏi to như có ý khiêu khích.

– Ngon không?

 

 

(1) một mình xoay sở, một mình no.

Ngồi ở sàn bên dưới, Voòng Kỷ Mình trả lời thay hắn:

– Hẩu xực à.

– Không biết mai còn làm ở đấy nữa không? Nhiều nhái lắm.

Kỷ Mình đã ăn xong chui ra đứng giữa lối đi:

– Mai vẫn làm ở đấy. Lúc đi tắm thấy ông quản giáo nói với ông vũ trang thế mà.

– Vẫn trảm mộc xì quát, Kỷ Mình pác à?(1)

Lượng làm ra vẻ giỏi tiếng Hoa.

– Lượng phấn khởi quá đấy. – Hắn nói.

Lượng vừa nhai xương nhái vừa cười:

– Tối nay, anh bảo gì Lượng cũng làm.

Rửa xong bát đũa, hắn đi ra ngoài sân, qua chỗ Lượng đang lấy cát đánh cặp lồng. Bàn tay Lượng nhọ nhem. Cặp lồng nấu xong phải đánh ngay. Để mai còn xách đi làm. Các ông ấy thấy nhọ là chết với các ông ấy. Nấu trong nhà mét, cấp tập, nhọ lắm. Nấu ở chỗ làm đỡ hơn. Cời than hồng ra đặt lên. Không có than thì đắp đất chung quanh nồi, cặp lồng rồi nấu. Hoặc không đắp đất, có nhọ đấy, nhưng đánh rửa ở ngoài suối vẫn thoải mái hơn. Có những anh ăn luôn ngoài suối chỉ đánh cặp lồng không. Có anh mang cả cặp lồng đựng thức ăn đang sôi xuống suối đánh cát. Vớt nước vào cặp lồng, cặp lồng bốc khói, khô ngay, nóng cả cát ướt.

Ngày nào cũng đánh cặp lồng là một cái thú. Đánh tỷ mẩn. Cả đáy, cả nắp, cả bên trong bên ngoài, cả cái gờ, cả chỗ quai, cả những chỗ lõm vào. Sáng loáng. Một ông áo xanh đã phải kêu lên:

– Các anh thật lạ. Đem nấu cho nó nhọ. Rồi lại đánh cho nó sáng. Mai lại nấu lại nhọ, lại đánh.

Rõ ràng các ông không hiểu bọn hắn. Không đánh sáng gô, cặp lồng, nó sẽ két lại ngay. Nhọ, không cho được vào bị khi cần phải yểm một cái gì đó. Để gô, cặp lồng nhọ đen là tự tố cáo mình trước các ông áo vàng. Là khiêu khích các ông ấy. Là mất cái thú chăm sóc cho gia tài của mình, cái cần câu cơm của mình. Là nhỡ ra khi cần phải chác là mất hẳn đi một nửa giá trị.
Hắn cầm ống bương nước giội cho Lượng, bảo Lượng tối sang uống chè rồi hắn đi bách bộ quanh sân. Đám tù mới đến có Kiều Xuân Vĩnh đã biến đi đâu. Chắc là nhốt rồi. Nhiều người như hắn đi quanh cái sân rộng. Quanh quanh.

 

 

(1) Vẫn chặt hom sắn, bác Kỷ Mình à?

Như kiến trong miệng chén. Hắn nhìn trời âm u. Lại sắp mưa đây. Bao nhiêu buổi chiều rồi. Những buổi chiều cứa vào lòng. Những buổi chiều tuyệt diệt vô phương. Hắn bỗng nhìn thấy Cân. Cân đang ngồi với một người trên cái ghế băng ở đầu hội trường trên gần đỉnh đồi cao. Hắn bước về phía đó. Nhận ra Hoá đang ngồi bên Cân, hắn lảng ra chỗ khác. Hoá là một tu sĩ. Theo cánh tù nói, Hoá đã bị buộc tội “lợi dụng những buổi giảng đạo để kích động giáo dân chống lại chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp, và gây rối an ninh trật tự”. Anh em công giáo trong trại vẫn tìm đến Hoá để xưng tội, rửa tội.

Và bây giờ Cân đang ngồi bên Hoá.

Hoá ở toán khác.

Hắn đã có một cuộc đối thoại với Hoá, khi Hoá còn cùng một toán với hắn. Hai người xới sắn. Mỗi người một bên luống. Những cây sắn cao ngang đầu gối. Băm băm gốc sắn, vun đất ở rãnh lên luống. Đó là công việc nhẹ nhàng. Nhưng làm lâu cũng mệt. Cũng thở. Hắn hỏi Hoá số lệnh Hoá đã chịu. Hoá bảo kém một năm đầy ba lệnh.

Hắn bảo: “Thế thì anh có nhanh cũng phải mười năm”. Nếu tù hai lệnh là sáu năm, thì sang năm thứ bảy đã được về. Đằng này Hoá đang ở năm thứ tám. Thế là phải ba lệnh. Hết lệnh thứ ba, người ta mới xem xét. Có được ra ngay thì cũng một năm nữa. Tổng hợp các người tù tròn lệnh (ba năm, sáu năm, chín năm, mười tám năm…) cũng phải mất vài tháng. Suy nghĩ, cân nhắc, họp hành hàng tháng. Và nếu mình có trúng số độc đắc, được có tên trong danh sách tha, thì cũng phải chờ vài tháng viết quyết định, vào sổ đóng dấu gửi từ Bộ về trại. Rồi trại vào sổ, xem xét và có thể giữ lại ít ngày…

Hoá bảo:

– Có nhanh nhất cũng phải hai năm nữa.

Rồi Hoá cười:

– Nói thế để có cái mốc mà nghĩ đến thôi. Hai năm nữa được về là tốt lắm rồi.

Hắn cũng nghĩ đến cái mốc của hắn. Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại.

Thế mà chỉ cần cái khúc đệm để được ra tù thôi cũng tính tới hàng năm!

Sự kiện dồn hết anh em số lẻ về đây và những người mới bị bắt như Cân, Lượng là một triệu chứng xấu. Rất xấu. Sau một thời gian ngưng chiến, máy bay Mỹ ném bom trở lại càng làm cho tình hình của bọn hắn xấu đi.

Hoá hỏi:

– Anh là cộng sản à?

– Cả nhà tôi là cộng sản. Là đảng viên. Nhưng tôi thì chưa. Tôi là quần chúng.

– Vì sao anh chưa được kết nạp?

– Đã có lúc tôi phấn đấu, nhưng chưa được vào.

Hoá nhìn hắn từ đầu đến chân. Định nghĩa cái nhìn ấy là: Anh nói thật. Tôi quí anh vì anh nói thật.

– Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?

– Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”.

– Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực.

Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm. Bố hắn đã nói nhiều lần: Trung ngôn nghịch nhĩ. Thế mà đến bây giờ hắn mới hiểu được điều ấy.

– Chắc là anh viết báo có điều gì…

Hắn cười. Không trả lời. Ai cũng tưởng hắn viết lách gì đó bôi đen chế độ. Cũng như ai cũng biết hắn là nhà báo. Là cộng sản. Cả trại tù này biết hắn là cộng sản. Có người nửa đùa nửa thật nói với hắn:

– Ông cộng sản bị tù đày nhiều, ông ấy cải tiến nhà tù khiếp thật. Bao giờ đến ông chống Đảng này lên cầm quyền còn khiếp nữa. Ông ấy lại cải tiến một lần nữa, chỉ có chết.

Đúng là nhà tù của ta đã cải tiến rất nhiều. Những khe hở của nhà tù đế quốc đã bị bịt kín. Một cái bánh chưng gửi vào cũng được cắt ngang dọc, xem có tài liệu gì trong ruột bánh không, không sao để dành được, chỉ hai ngày sau là mốc xám dài bằng đốt ngón tay đã mọc xù lên dọc hai bên vết cắt. Khi còn giam cứu, gói đường gửi vào cũng bị đổ tung ra. Bao thuốc bị bóc. Điếu thuốc bị xé. Hắn và Hoá thận trọng trao đổi. Trong tù rất thận trọng. Chẳng nên làm phức tạp tình hình. Chẳng nên làm mình thêm lo lắng. Ở ngoài đời tự nhiên đã bị khoác cái tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Vào đây lại thêm tội chống đối thì chỉ có mục xương. Nên tù chính trị ai cũng giữ mồm giữ miệng. Chỉ cởi mở với rất ít người đã qua thử thách. Như với già Đô. Với Giang.

Chẳng ai nói với ai những điều sâu kín trong lòng, nhưng tất cả đều hiểu rằng: Không ai chấp nhận cái thứ tù không án. Tù không có ngày về. Không một ai chấp nhận chế độ ăn uống lao dịch khủng khiếp mà họ đang chịu đựng. Hắn quý trọng anh em tù Công giáo. Tất cả đều sống kiên cường, đúng mực. Tốt với bạn tù. Không ai là Giuđa. Không ai bẩm sớ. Có lẽ đó là anh em thực hiện lời dạy của Chúa. Thử thách này cũng là thử thách trước Chúa.

Thấy Cân đang ngồi với Hoá, hắn vòng về phía sau hội trường. Ngồi một mình. Đấy là nơi cao nhất của quả đồi được lấy làm trại tù. Hắn nhìn anh em đi vật vờ, vô mục đích. Những thân hình xác xơ trong những bộ quần áo xác xơ. Những cái đầu cúi chậm rãi đếm bước. Chờ thời gian trôi. Chờ tối xuống. Để ngày mai lại hệt như hôm nay. Hắn nhìn hàng rào ken dày dưới chân đồi. Cỏ mọc lút. Không ai dám tới. Ra đấy làm gì, nếu không có ý định trốn trại. Ở đó vắng teo. Như cầu Hiền Lương, khu phi quân sự. Tháng Tám năm ngoái, bọn hắn đã được ra chỗ đó. Bão. Bão to làm hàng rào đổ mấy chỗ. Bọn hắn phải đẵn gỗ, đẵn cây, đẵn nứa giồng lại. Chỉ một ngày xong. Để nhốt chính bọn hắn. Bao giờ thì mình cũng tự làm hàng rào, làm nhà tù nhốt mình. Đời là thế!

Già Đô đến ngồi cạnh hắn. Già đã đi đảo một vòng và biết khối tin thời sự. Già bảo:

– Cái đám mới lên ấy nhốt chung với toán lò vôi. Chưa phân toán. Có một anh ở Bộ N tên là Đức. Từ Hoả Lò chuyển lên. Còn cái anh Kiều Xuân Vĩnh chính họ Cao. Dòng dõi Cao Bá Quát. Sau vì sợ tru di tam tộc nên đổi thành họ Kiều. Thấy bảo chỉ thêm cái chấm vào thôi thì chữ Cao thành chữ Kiều.

Hắn cơ hồ tuyệt vọng:

– Tình hình xấu lắm, cụ ạ. Ngoài ấy lại đang bắt.

– Hội Vũ Lượng thổi kèn làm gì mà cũng tù chính trị.

– Thì tôi với cụ làm gì mà cũng tù chính trị. Mưu đồ gì. Chống đối gì. Chỉ có tin tưởng ở các ông ấy quá. Tội của chúng mình không phải là mất lòng tin mà là tin tưởng quá.

– Sống thế này không điên kể cũng lạ thật.

– Tôi cũng mong tôi điên. Thật khốn nạn vì mình vẫn không điên lên được.

– Đêm qua, tôi mơ thấy con bé con bên Pháp. Nó vẫn như lúc tôi từ biệt nó. Tôi mơ thấy quán rượu của bà Jeannette. Tôi vào ngồi ở quán. Con bé chạy ra hỏi: Que buvez vous?(1) Vẫn cái giọng nói ấy. Nó chẳng nhớn lên chút nào. Tôi ôm lấy nó: “Không nhận ra bố à? Con mèo con của bố”. Nó khóc, nó giãy tụt khỏi tay tôi. Rồi nó gọi: “Mẹ ơi! Có khách!” Vợ tôi ra đứng sau quầy: “Ông dùng gì?” Tôi cũng nói như một người khách: “Cho một cốc vang và một xăng-đuých”. Kỳ lạ… Bà Jeannette cũng không nhận ra tôi. Tôi thì nhận ra cả hai. Nhưng cứ ngồi uống như một người khách lạ.

Già Đô cúi đầu. Hắn thở dài, thèm được như già Đô, giọng rầu rầu:

– Tôi mất khả năng nằm mơ rồi. Đã bao lần tôi ao ước nằm mơ thấy vợ, thấy con. Nhất là các cháu. Lần cuối cùng tôi nằm mơ là thời gian còn ở xà lim 75 Trần Phú(2) cách đây hơn ba năm rồi. Phải nói tôi mong nằm mơ thấy các cháu lắm. Thế rồi cầu được ước thấy. Tôi nằm mơ thấy thằng cháu lớn. Hai bố con ở dưới đầm. Nước tới cổ tôi, cổ cháu, mênh mông, nắng loá. Sóng nữa. Tôi bơi lại chỗ cháu. Và cứ thế túm đầu thằng bé mà tát nó, đánh nó. Nó khóc, nó khóc thảm thiết: “Con lạy bố rồi, bố đừng đánh con nữa”. Tôi vẫn cứ ấn nó xuống mà đánh. Nó nhô lên, tóc ướt đẫm. Nó khóc. Nó gào khóc đau đớn: “Con lạy bố rồi. Bố đừng đánh con nữa”. Tôi choàng tỉnh. Run lên. Toát hết mồ hôi. Trống ngực đập thình thịch. Nghĩ thương con quá. Sao tôi lại đánh nó? Tôi chỉ mong nằm mơ thấy chúng, được gặp chúng trong mơ để ôm ấp, yêu chiều. Thế mà mơ thấy nó tôi lại đi đánh nó.

– Tôi cũng thế. Tôi cứ ngồi uống như một khách hàng, thế mới khổ chứ.

Hắn lặng im. Hắn đang nghĩ đến cái ước mơ nằm mơ thấy con của hắn, nằm mơ thấy thằng lớn một lần nữa để hắn sửa chữa tội lỗi làm bố của hắn. Sao hắn lại đánh con hắn như đánh đòn thù? Sao hắn lại là một thằng bố độc ác, vũ phu đến thế? Thằng bé gào lên trong mơ, những tiếng gào thảm thiết cứ vọng mãi bên tai hắn: “Con lạy bố rồi. Bố đừng đánh con nữa”. Sao phải lạy bố, hở con? Ôi! Con tôi, những đứa con khổ đau, côi cút ở bên kia thế giới.

Hắn than thở:

– Đêm nào đi ngủ tôi cũng ao ước nằm mơ thấy cháu một lần nữa. Nhưng từ bấy đến nay tôi không nằm mơ thấy gì hết. Tôi hoàn toàn mất khả năng nằm mơ rồi. Đấy là lẩn nằm mơ cuối cùng của tôi. Tôi thương nó quá.

– Tôi cũng ít nằm mơ. Giá đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy Marseille. Thật là một thành phố… Không. Hải Phòng không thể nào bì được. Hải Phòng

(1) Ông uống gì

(2) Tên trại giam ở P . Gọi vậy vì nó nằm trên đường Trần Phú, số 75, nhiều khi còn gọi tắt là Trần (chẳng hạn như “Thằng ấy v ào Trần rồi!”)

xa biển. Đằng này biển gầm thét ngay nơi mình ngủ. Thật là vĩ đại. Những người dân ở đấy thẳng thắn, cởi mở, vui tính… Ông Martin với cây đàn violon và cả bầu đàn thê tử. Đến đâu là hội ở đó. Trẻ con người lớn quây lấy. Thật là những người vô tư lự.

– Đời cụ thật sung sướng. Biết đây, biết đó. Tôi thì từ bé lên rừng, ăn rau muống của cách mạng. Bây giờ lại lên rừng. Rau muống chẳng có mà ăn.

– Tôi về nước với bao ý định tốt đẹp. Thật không ngờ.

– Tôi ao ước được như cụ. Được một lần leo lên tháp Eiffel, đứng trước Khải Hoàn Môn.

Họ nói với chính họ. Mỗi người mang trong lòng nỗi khổ đau quá lớn, đến nỗi trong một lúc không còn khả năng tiếp thu được nỗi lòng người khác.

Có tiếng kẻng vang lên. Một hồi dóng dả dội vào rừng xanh. Kẻng điểm danh buổi tối.

*

 

*        *

Mọi người lặng lẽ trở về, tụ tập ở khoảng sân trước cửa buồng giam. Chờ cho đến khi thấy ông Quân, theo sau là Chắt từ buồng bên đi đến, tất cả về chỗ ngồi. Người nào ngồi đúng chỗ người ấy. Người sàn trên chiếu thẳng xuống người sàn dưới, đôi ngồi sàn bên này đối đối xứng với đôi ngồi sàn bên kia, xếp bằng tròn, tay đặt lên đùi, ngửa lòng bàn tay lên, đầu cúi nhìn xuống. Đó là nội qui bắt buộc. Ông Quân đi giữa hai hàng sàn gỗ. Ông đi giữa hai hàng tù quần áo số xám xịt ngồi thành dãy như bụt mọc. Ông dứ dứ cái bút máy vào từng người, miệng lẩm nhẩm. Ông đếm bên phải, ông đếm bên trái. Dứ bên trên, dứ bên dưới. Những mặt tù lì lì, bí ẩn. Vẻ mặt ông Quân lạnh lùng, khó hiểu không kém.

Người ta đã tính những lần ông Quân phải đếm trong ngày. Sáng mở cửa ra: Đếm. Đi làm: Đếm. Trưa về: Đếm. Chiều đi làm: Đếm. Đi làm chiều về: Đếm. Đi ngủ: Đếm. Tổng cộng sáu lần đếm trong ngày. Trại cứ tính một nghìn tù cho chẵn. Vậy thì một ngày ông Quân phải đếm sáu nghìn người. Một năm ông phải đếm hơn hai triệu người. Mà ông làm quản giáo đã được hai chục năm rồi, làm từ khi tập kết. Ông đã đếm bốn chục triệu người tù.

Thật là một sức lao động vĩ đại.

Một năm hai triệu khuôn mặt mệt mỏi, lờ đờ, xám xịt diễu qua mặt ông.

Có lẽ vì soi mãi vào tấm gương ấy, ông cũng biến dạng: Mệt mỏi, lạnh, chai, không một tình cảm nào biểu hiện ra ngoài. Ông đã nhiễm phóng xạ của bọn hắn.

Ông đã đếm xong.

Ông bước ra.

Chắt đóng hai cánh cửa, khoá lại.

Khi cánh cửa đóng lại một lúc, nghĩa là đủ thời gian để ông Quân vào phòng bên cạnh, phòng giam ồn lên. Nói. Tẩm quất. Sắp xếp lại nội vụ. Và sột sệt.

Lửa lại cháy đùng đùng trong nhà mét. Khói mù mịt. Chất đốt chủ yếu là nứa. Không hiểu sao họ vẫn kiếm ra nứa.

Có một lần hắn đã lấy được cả một cây nứa để giữa sân trại, trước mắt các ông áo xanh(1) và các ông áo vàng(2) đứng trên năm bốt gác chính và phụ cao ngất. Trước mắt hàng trăm người tù. Đi làm về, thấy bó nứa để giữa sân, ngon quá, hắn nhìn lên các bốt gác quan sát. Rõ ràng người trên bốt quay mặt vào sân (nhìn sinh hoạt trong sân tù, dù sao cũng vui hơn nhìn ra rừng già, nhất là buổi chiều tà). Hắn thản nhiên rút một cây nứa dài, chạy vào buồng, gác lên quá giang, cạnh những cây nứa khác, phơi bộ quần áo ướt của hắn và gìà Đô lên đấy. Vừa xong, thì một ông quản giáo chạy vào buồng, giận dữ:

– Anh nào vừa ăn cắp cây nứa chạy vào đây? Đâu rồi?

Hắn đã nằm dài trên sàn, lờ đờ khuôn mặt, dửng dưng với những lời quát nạt của ông. Cứ để ông ta tìm trong gần trăm bộ quần áo số này kẻ đã cầm cây nứa chạy vào đây. Cây nứa của hắn cũng như mọi cây nứa khác đang mang trên mình những bộ quần áo tù rỏ nước, như đã nằm đấy từ bao giờ.

Đó là cách dự trữ chất đốt an toàn nhất và cũng là thứ chất đốt tuyệt diệu nhất đảm bảo cả bốn tiêu chuẩn: nhanh, dễ nhóm, dễ dập, chóng sôi. Chất đốt còn là những mẩu củi, cành cây gẫy, quang sảo rách, thùng gánh nước đái vỡ (3)… Nghĩa là tạt được, bồng được về thì vẫn có thức đun.

Người không đun nấu thì quây quần từng nhóm nói chuyện, người nhóm bếp than đun nước pha trà. Anh khác quay mặt vào tường giở suất cơm ra ăn. Có thể anh ta kiếm được cái gì lưng lửng bụng lúc đi làm, nên lùi bữa lại, để đêm đỡ đói. Có thể anh ta ăn thêm với đồ tiếp tế. Những chỗ nào nổi

(1) Công an vũ trang

(2) Công an quản giáo

(3) Thùng làm bằng gỗ thông

bếp than, được coi là loại giầu có, sang trọng. “Nhẩm xà”, uống chè. Có chè uống đều đặn đâu phải chuyện đùa. Phải rất mạnh. Chè lạng là nhất. Thứ này quá sang. Cũng có lần hắn thắng đậm. Hắn tạt được một nắm ở chỗ sao chè của trại. Chè Hà Giang, chè loại hai, đều sang. Chè “chín hào ba”(1) cũng là lý tưởng, được đánh giá ngang với chè U, thứ chè bồm, đồng bào thiểu số ở U sao, ngai ngái mùi ám khói. Bí quá thì lấy lá một loại cây, pha uống ngăm ngăm, ngòn ngọt, hình như có mùi cam thảo. Bọn hắn gọi là cam thảo nguyên.

Hội chè của hắn được mọi người vì nể. Uống khá đều, cho ít chè thôi, lúc tàn thì đặt lên ninh. Hai cái chén hạt mít lau tráng cứ bóng loáng. Tất nhiên vừa uống vừa nghe ngóng. Có tiếng mở khoá thì phải vứt ngay được bếp than đi trước khi ông ấy đến. Có khi ông ấy im lặng đi chung quanh buồng không một tiếng động. Như hổ.

Hôm ấy hắn vẫn sột sệt. Già Đô đưa cái ca con tí xíu của già ra. Đó vừa là cái ấm vừa là cái siêu, ưu điểm là mỏng, đun rất chóng sôi. Hắn lấy bó ni-lông đựng các đồ tiếp tế đã ăn hết và đã được giặt sạch mà ông Thanh Vân để lại cho hắn. Hắn chọn hai túi, một túi đựng kẹo, một túi đựng xúp, và hắn xé một mảnh quần đùi cũ. Hắn bện hai thành phần giẻ và ni-lông thành hai cái đũa dài. Đó là những thanh nhiên liệu.

Già Đô lấy ra một dụng cụ chuyên dùng khác: Một vòng tròn bằng dây thép lồng vừa khít ca có tay cầm dài chống nóng. Già Đô cầm ca. Hắn đun. Lửa bập bùng dưới đít ca. Khói nhiều. Nóng ít. Khói và mùi ni-lông khó chịu. Nhưng không sao. Đượm ra phết. Ca mỏng. Nước đã kêu kêu.

Có tiếng chân đến cửa sổ của hắn. Hắn dụi ngay lửa xuống cái bát sắt đã chuẩn bị sẵn. Rất nhịp nhàng, già Đô đặt cái ca lên trên. Hai bàn tay người nào nắm vào cửa sổ. Tất cả giật mình. Người ấy đu lên: Chắt! Hắn hoảng.

– Khét lắm đấy, các bố ạ. Ông ấy biết là chết đấy. Này, cho miếng cháy này.

Chắt đưa qua cửa sổ cho hắn miếng cháy con và biến mất.

Hắn bị bất ngờ. Ngạc nhiên và ấm lòng. Hắn mới lên đây được một năm. Nhưng thấy tù trật tự trại ở đây khác hẳn Q.N. Tù trật tự trại Q.N là Thất, một anh tù to béo da đỏ au, một vận động viên, trưởng phòng thể dục thể thao một huyện, án hai năm vì biển thủ công quỹ. Không trò chuyện với ai bao giờ, lúc nào cũng đi sau ông Quân (Phải, vẫn là ông Quân. Ông Quân

(1) Chè cám (chín hào ba gói)

cũng từ Q.N chuyển lên trại này sau hắn ít ngày) như cái đuôi. Có lẽ vì suất ấy quá thơm, nên anh ta giữ gìn cẩn thận lắm. Khi tù đi làm, khi tù về trại, Thất đứng bên này cổng, đối diện với ông Quân. Thất cũng đếm. Thất nhắc nhở tù bỏ nón, bỏ guốc. Đi dép thì được. Đi guốc qua mặt quản giáo là không được. Là không tôn kính cán bộ. Là vô lễ.

Nhưng Lê Bá Di đi guốc. Lê Bá Di thì không thể có dép. Người Quảng Trị, tù cũng đã mười năm, gia đình không thể theo đuổi từ trong ấy lên mãi VQ, QN mà tiếp tế được, Lê Bá Di hoàn toàn sống bằng trại. Bữa ăn sang nhất của Di là ba lạng thịt trâu kho chuội choại ngày Tết. Một năm có một lần. Không thuốc đánh răng, không khăn mặt (Di lấy quần áo rách làm khăn mặt) không tiền lưu ký, không bít-tất, không dép… Lê Bá Di đẽo lấy guốc đi. Và cứ đi guốc qua cổng trại.

Thất gọi nhắc nhở. Lê Bá Di cứ đi. Không biết Di không nghe tiếng, hay biết nhưng cứ làm theo ý mình. Thất chạy tới túm vai Di quát mắng và chỉ xuống đôi guốc, sừng sộ. Di cúi xuống nhặt guốc và bỗng nhiên, hắn và tất cả không ngờ: Di quật guốc vào mặt Thất. Hẳn là chỗ guốc ấy có cái đinh lòi ra. Thất vuốt mặt. Mặt đầy máu. Tay đầy máu.

Thất im lặng. Ông Quân im lặng. Bọn hắn im lặng đi qua. Hắn không ngờ Di lại hành động như vậy. Di cùng toán với hắn. Người nhỏ thó, trán hẹp, đầu nhỏ, nhưng quai hàm bạnh ra. Những anh em cùng tù với Di ở Cổng Giời bảo: trước Di không thế đâu. Nhai sắn nhiều nên quai hàm mới bạnh ra. Ai nhai sắn nhiều đều có kiểu mặt hổ mang bành như vậy.

Râu Di đen sì, kín cằm, kín mồm, môi dưới thưỡi ra thâm thâm, cứ như nhọ mõm. Di không chơi thân với ai. Việc Di, Di làm. Lầm lũi như cái bóng. Nhưng gánh khá. Gánh khoán, Di cứ chơi sáu mươi ki-lô phân trâu bò chạy vài cây số, lội bốn suối, vượt vài dốc.

Di cũng rất tự trọng. Có lần hắn cho Di một véo thuốc lào, thế là hôm sau gặp nhau ở bờ con suối cạn, Di dúi cho hắn hai cái bánh khoai vừa bằng cái trôn bát, như hai cái bánh trứng cáy ở quê hắn, toàn xơ. Chắc Di tranh thủ xuống ruộng khoai đã dỡ, mót được.

Di lành. Di khổ. Di ít nói. Bỗng nhiên Di khùng. Nhưng Di lại bị hành hạ theo cách khác.

Buổi chiều đi làm về, hắn đã lấy nước uống và đang đi sang bên toán mộc chơi, thăm Giang, người bạn tù cùng giam ở 75 Trần Phú, thì sau lưng hắn có tiếng rầm rầm. Tiếng thét. Tiếng kêu ú ớ. Hắn quay lại. Thùng nước đổ chỏng chơ. Một đám đông đang đá, đạp, đấm. Lê Bá Di nằm lăn dưới đất. Ba Đen, Phi Cốc, Triều Phỉ, Lập Ba Tai… những tù tập trung hình sự cao lớn, bấy lâu ngứa ngáy chân tay đang đánh đòn hội chợ. Toàn những miếng hiểm. Toàn những miếng vào bụng, vào sườn, vào ngực. Ợ. Ợ. Cứ mỗi đòn Di nhận, Di lại ưỡn lên. Ưỡn, nhưng không kêu. Chỉ ợ ợ. Đòn cuối cùng là một cú đánh bằng gót của Ba Đen nện thẳng xuống mỏ ác. Tứ chi Di rúm lại. Ợ. Ợ.

Thoắt một cái, tất cả đã biến hết. Trận đòn rất nhanh. Như chưa hề xảy ra. Chỉ một mình Di. Quần áo xám, số đỏ, lấm láp, nằm co trên đất. Mắt nhắm nghiền thiêm thiếp. Một lúc sau, Di mở mắt, chớp chớp. Không nhăn nhó, không kêu rên một lời, Di gượng ngồi dậy. Nhặt cái (1) lăn lóc, đứng lên phủi quần áo. Đi đến chỗ thùng sắt chắt tí nước cặn còn sót lại, cầm gô vào buồng đặt lên sàn như không có chuyện gì xảy ra.

Hắn đi về phía toán mộc và thấy ông Quân đang lặng lẽ hút thuốc sâu kèn ở cổng trại. Ông có biết không? Hẳn là ông biết. Ầm ầm như thế làm sao không biết. Cũng như cả trại biết Thất đã xuỳ bọn đàn em dạy Lê Bá Di một bài học. Và cũng là dạy tất cả cánh phạm bài học.

So với Thất, Chắt thật dễ chịu. Có lẽ cũng vì Chắt tù lâu quá rồi. Chắt, tập trung hình sự, đã ngót chục năm. Chắt hiểu cánh tập trung. Hắn chưa kịp nói lời cảm ơn với Chắt về miếng cháy thì Chắt đã đi. Hắn lại nhóm lửa. Lác đác vài bếp than. Còn tất cả nằm dài im lặng. Như những xác chết. Anh em đang “mặc niệm tới gia đình”. Hắn lấy ra hai cái chén mắt trâu men trắng. Hắn tự hào về hai cái chén của mình.

Hai cái chén sứ men trắng này làm hội của hắn nổi lên. Nó cũng giống như ngoài đời, người ta uống nước bằng chén cổ đời Lý, đời Trần. Quá ư sang trọng. Bởi vì trong tù người ta uống nước bằng nắp ca, bằng bát… Có chè mà uống là tốt lắm rồi. Hai cái chén “tù bảo” ấy hắn đem từ trại QN lên. Kỷ mệm của Cương, người sĩ quan trẻ tuổi nhất của khoá huấn luyện cuối cùng của lớp sĩ quan Đà Lạt. Cương gầy gò. Không gia đình. Chỉ khoảng ngoài 30 tuổi, nhưng đã chín năm tù. Răng rụng hết. Móm. Đầu trọc. Nom mặt Cương giống hệt cái sọ đầu lâu nằm giữa hai khúc xương bắt chéo trong tấm biển Nguy hiểm chết người. Cũng hốc mắt sâu thế nằm dưới cái sọ to. Cũng hai má hóp, quai hàm xương xẩu. Cương ở toán lâm sản. Cùng với những người tù thiểu

 

 

(1)Hộp sữa Guigoz bằng nhôm.

số lực lưỡng. Những Hỉn Sán, Cắm Xìn (không phải Xìn Cắm) những Tằng Xình Quay… leo núi như dê rừng. Cương loẻo khoẻo, nhưng vẫn vác những bó nứa, những cây gỗ đúng tiêu chuẩn. Một buổi lang thang trong rừng đào măng cho ông quản giáo, Cương đi vượt sang bên kia núi và thấy một cây lớn. Trong một hốc trên cây, một bát hương, tàn hương phủ đầy mùn lá mùn gỗ mục. Một cuộn giấy đựng hương phải cố gắng lắm mới nhận ra hình dạng. Và bốn cái chén mắt trâu.

Cương đi đến cây vả gần đấy, hái mấy trái chín để vào trong hốc cây thay cho đồ lễ và xuýt xoa khấn vái thần núi, thần rừng cho xin hai cái chén. Cương đem chén xuống suối, đánh rửa sạch sẽ rồi đem về cho hắn. Mãi sau này hắn mới biết tất cả những chuyện ấy. Hắn cũng thấy hơi chờn chợn.

Nhưng đó là chuyện về sau.

Hai cái chén ấy làm hắn với già Đô nổi tiếng. Nhiều người mang cả chè sang đây uống. Những người thân như Xìn Cắm, Tảng ở QN, Lượng, Cân ở VQ thì mượn về uống tăng hai.

Nhưng hôm nay hắn muốn mời Cân và Lượng sang cùng uống với bọn hắn. Hắn tụt xuống đất và leo lên sàn bên kia. Ngay chỗ Cân. Cân đang ngồi giữa chiếu, xếp bằng tròn, quay mặt về phía tường. Hắn xển đến cạnh Cân, đặt tay lên vai Cân thì thào:

– Sang uống…

Hắn bỗng im bặt, vì Cân ngồi im như tượng gỗ. Không quay lại. Cũng không trả lời. Hắn hiểu. Cân đang cầu nguyện, đang độc thoại trước Chúa. Lượng nằm, thấy hắn tới, vùng dậy:

– Anh về đi, Lượng sang ngay.

Ba người ngồi xụp xoạp. Già Đô uống bằng bát vậy. Cam thảo nguyên đã ngấm. Nước đỏ ngăm ngăm, ngòn ngọt. Vẫn còn cái thú tuyệt vời này. Hôm nay phải uống lâu một tý, già Đô ạ. Uống chè, nhắm cháy. Ngon hơn cả bánh đậu xanh. Hơn cả kẹo trứng chim. Chắt thật là một người tốt. Cám ơn anh. Tôi sẽ nhớ anh cho đến lúc chết. Lượng ơi, tý nữa hát cho mình nghe.
Từ chỗ tận cùng xã hội này, mình đã thấy tận cùng của cái phi lý. Đúng như Lượng nói: Nếu như bây giờ được tha về nhà, có tiếng gõ cửa, ra mở, thấy có một người tự xưng là Giời thì cũng chẳng có gì ngạc nhiên. Cứ việc mời Giời vào uống chè mà không phải băn khoăn. Mọi việc đều có thể xảy ra. Sao lại không có một ông Giời xuống uống chè với mình được. Cân nó vẫn còn cầu nguyện. Nó dọn mình trước Chúa. Nó có một niềm tin vào Chúa. Còn mình chẳng biết tin vào đâu nữa. “Sung sướng thay những kẻ có lòng tin”. Đó là một câu phương ngôn Pháp.

Mỗi người đến đây bằng một con đường khác nhau. Một hoàn cảnh khác nhau. Hắn khác. Lượng khác. Già Đô khác. Nhưng đều giống nhau ở một điểm: Sự ngây thơ. Nhẹ dạ. Cả tin. Và đều phải trả giá. Ngọc có lại thăm Trà Mi. Mình mong muốn hai người thân thiết với nhau. Hắn uống cam thảo nguyên và im lặng. Lượng, già Đô im lặng.

Thơ Đoàn Huy Giao

anh ĐHG-minh hoa bao Tien phongVăn Việt: Đoàn Huy Giao (tên khai sinh Nguyễn Trí) sinh năm 1946 tại Quảng Ngãi.

Trước 1975 làm báo, làm thơ, cùng bạn bè chủ trương tập san Tương lai hướng về những người lao tác. Đã in hai tập thơ: Cho con vật hai chânPhẫn nộ ca.

Sau 1975: Đạo diễn nhiều phim tài liệu, chủ yếu ở vùng Tây Nguyên: Lá hát, Sự huyền ảo của văn hóa rừng, Tây Nguyên miền mơ tưởng, Những dòng sông trong rừng, Gỗ thiêng, những dấu chân phương Nam… (Đài Truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng). Đã xuất bản các tập thơ: Trái tim mạ non, Ngọn lửa cuối cùng, Con chim gỗ nhìn tôi.

Mấy năm gần đây cặm cụi ”vào rừng làm rẫy, xây bảo tàng” (theo cách nói của Lý Đợi) trên bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng.

Đoàn Huy Giao dự định xuất bản tập thơ Và thứ năm nữa là Lửa uống đi Thơ.

Văn Việt trân trọng giới thiệu một số bài thơ rút từ tập thơ này.

Thảo luận

I.

 

Trên đường gió nghênh ngang. Tôi tông đầu vào gã bóng cuồng.

Lên tiếng.

 

Tôi: Thưa ngài đền sao không ở?

Cuồng: (chỉ vào bụi mù cười sảng)

Tôi: Thì ra là thế!?

Cuồng: Còn ngươi?

Tôi: (chỉ chiếc thòng lọng hình chiếc lá bàng tranh chấp mùa)

Cuồng: À à à…

 

Chúng tôi chia tay trong bóng mù. Tháng chạp.

Đấy không phải là cuộc hội ngộ hư vô.

 

II.

 

Vào một đêm mê sảng, tôi sãi cánh bay lên đỉnh núi cao chưa hề ai đến. Gió thốc dữ dội. Trước mặt là tảng đá mụ mị.

 

Tôi: (tự nhủ) Mình đến đây làm gì?

Tảng đá: (vọng ra) Để tìm sự trần trụi.

Tôi: Trần trụi thường im tiếng!

Tảng đá: Đúng ra là chỉ nói đến sự im tiếng!

Tôi: (gió dạt) Còn ai nghe?

Tảng đá: Sự trần trụi của chính ngươi Nghe!

 

Thế là đôi cánh tôi biến thành đôi cánh tảng đá. Bay vèo.

Gió. Và khinh bạc.

 

III.

 

Trên sân ga. Tôi chia tay nàng. Tàu lừng khừng chuyển bánh. Sắt thép gào lên ngày tận thế. Tôi cúi xuống an ủi mũi giày bết bùn.

 

Tôi: Tình yêu hay nỗi cô đơn?

Mũi giày: (bùn khô quánh)

Tôi: Bây giờ thì ta đi đâu? Về đâu?

Mũi giày: (vang lên trên thềm ga) Ta đi trong tình yêu!

Tôi: Thôi! Đủ rồi.

Mũi giày: (trong tiếng cười sảng cuốn theo bụi còi tàu)

Câu chuyện này xảy ra vào chiều ba mươi tết Nhâm Thân 1980.

 

IV.

 

Chứng mất ngủ là kẻ thù của bóng đêm và cũng là tình yêu của ánh sáng. Không cưỡng lại được, tôi tìm gặp Saint John Perse. Trên bãi biển.

Tôi: Cùng một thứ vũ khí mà chúng ta lâm trận, thưa ông?

John: Vâng!

Tôi: Cuộc chiến chưa khởi đầu tôi đã là tên đào tẩu.

John: Làm gì có kết thúc! Không có chiến bại!

Tôi: Thưa vâng.

John: “Và sự giải đáp trong anh là do tia sáng của trái tim ban cho.” (*)

Tôi: Thưa vâng.

John: “Không phải cái văn bản đâu, mà chính ngay sự việc.”(*)

Tôi: Đa tạ ông.

Tôi chia tay nhà thơ. Và khói thuốc trong đêm mơ màng chờ sáng.

                                                                                   

V.

 

Lep chạy trốn đến một ga xép nào đó của nước Nga hoang lạnh. Trên bước đường cùng tôi gặp ông trong cơn hấp hối.

 

Tôi: Thưa cụ, Ana bỏ đi rồi!

Lep: (thều thào) Được.

Tôi vuốt mắt nhà văn. Dường như ông mỉm cười. Và tôi phóng thẳng ra phố bán sách cũ.

 

VI

 

Cầm trên tay bông cúc tàn thu hầu chuyện Tchekov. Ông tìm chữ còn tôi ngáp vặt.

Tôi: Này bác Antôn! Người đàn bà phù phiếm đâu rồi?

Nhà văn: (Bỏ kính lau mắt) Ngủ quên với con chó nhỏ đã tắt thở trong rừng phong rồi.          

Tôi: Ôi! con chó nhỏ.

Nhà văn: (Bỏ kính lau mắt).       

 

Không hiểu sao tôi thấy ông như cánh vạc trong sương. Cứ chập chờn chập chờn giữa chữ và lá phong chuyển mùa.

 

VII.

 

Thời đại điện tử chẳng là cái gì của tốc độ phi mã.

Tôi sấn sổ với một tia nắng chiều.

 

Tôi: Đời ta là phần còn lại trước lưỡi gươm đao phủ!

Chu Thần: Rõ thế!

Tôi: Vậy thì ta tồn tại là chỉ với không gian.

Chu Thần: Không! Với cả thời gian.

Tôi: Bố khỉ! “Tồn tại hay không tồn tại”.

Chu Thần: (Dí quạt vào trán tôi cười khà rồi dốc cạn gáo rượu biên tái)

Buổi chiều tà trên không trung cứ vọng mãi lời cãi cọ của

chúng tôi trên bến Sông Trà.

 

VIII.

 

Khi tôi trở về thì tia nắng sớm len qua khe cửa ngự trị trên giá

sách lũ lượt kẻ sống người chết.

Tôi: Hỡi người bạn thân thiết đến cùng ta sau một đêm trắng!

Tia nắng: Anh là thằng mê mù trong ngữ nghĩa.

Tôi: Và… sao nữa?

Tia nắng: Anh là con bò trong trại cải huấn của gió.

Tôi: Được! Sao?

Tia nắng: Anh không làm chủ được ai, được cái gì.

Tôi: Cảm ơn! Thế là đủ.

Tia nắng cáo lui ra ngoài. Và chúng tôi cùng song hành

 trên đường mưa hiu quạnh.

 

IX.

 

Sau tất cả lãng du vô lối còn đây khoảng trống và tôi.

Chúng tôi cùng nhâm nhi với bóng của bóng tôi.

Tôi: Chẳng phải ngoài khí quyển, cũng chẳng phải hơi men,

        ta đang rơi tự do không trọng lượng.                     

Khoảng trống: Có một thứ trọng lượng mà riêng ngươi mới nhận ra.

Tôi: Là sự cô đơn?

Khoảng trống: Cao hơn cả sự triệt tiêu, cao hơn cả sự khởi đầu và kết thúc.

Tôi: Như mặt biển ngủ mê trong tinh thể muối?

Khoảng trống: Như sự từ bỏ. Sự đào thải.

Tôi: Cái chết là iso chuẩn nhất khi ta còn nhìn sống.

Khoảng trống: (mỉm cười) Khỉ thật! Iso.

 

Sau đó chúng tôi ngồi lặng thinh vĩnh viễn, như là không có đêm không có ngày. Không có tất cả.

 

­­­­­­­­­­­­­­­________________________

(*) Thơ Saint John Perse

 

 

Uống đi thơ!

 

Đây mùa thu vang rền trong đáy men ngũ cốc. Ngươi hãy tránh xa ta mỹ từ nước mắt. Hãy cuốn đi gió chết cánh buồm. Hãy nung chảy mũi lao ngấm thuốc mê hoang tưởng mà ngươi phóng ngược. Như phóng ngược nỗi quạnh hiu vào góc trời mù.

Ta chỉ là đứa trẻ mưa phùn long nhong tìm gì quanh bán đảo. Gió chướng lật tung từng mảng đời gió cát. Xương cốt được đánh số chia phần theo từng ô điên dại.

Hoan hô xương cốt gió hiu hiu.

 

Uống đi thơ!

 

Rờn rợn thay thảm lá rừng cổ sơ phơ phất linh hồn ai mà ngươi cố tiêu diệt như tiêu diệt chính linh hồn mình. Mấy thứ biện chứng pháp tào lao ăn no ngủ kỹ. Đẻ đái. Hò reo. Rồi ăn no đẻ đái.

Chất non tơ cơn cháy khát không còn chước tẩy rửa linh hồn ngươi sau cánh cửa đất đai. Thứ đất mà vì ngươi nó lặng lẽ tái sinh.

Hạt mầm trong đêm đen. Giọt mồ hôi trong đêm đen. Thứ ánh sáng trong đáy nụ cười báo thức một kỷ nguyên. 

Uống đi thơ!

Nàng nảy mầm tựa mảnh gốm lửa thô kín đáo lóe nhìn trong bụi tre bên đường. Thứ ánh sáng nực mùi phân bò và hoa nhài vừa tan thuốc nổ.

Mảnh gốm không có lỗi lịch sử, không có lỗi sột soạt truy tầm giai cấp dưới cùng một bầu trời mưa nắng. Chỉ có nàng và mùi cỏ tàn thu là tinh chất làm nên tia chớp bí ẩn cho mảnh vỡ loé nhìn trưa nọ.

Anh đừng cố kết câu chữ làm gì. Hỡi anh bạn tự mãn trong đám ngôn từ tẩy não. Cho dù anh là tay thợ cả siêu hạng làm gia nô trên đống ve chai những linh hồn phiêu dạt.

Uống đi thơ!

Súng còn nổ trong đầu anh, còn chĩa thẳng vào chính dòng máu của dòng máu anh, vào sự căm thù mái rạ nơi anh oe oe cất tiếng chào đời.

Nổ đi! Nổ đi! Nổ nữa đi! hỡi tay chơi nô lệ. Cái xác mà anh khát máu tìm kiếm còn dẫy dụa trong nấm mồ ngữ nghĩa hình súng ngắn lăm lăm của tên trung úy bộ binh. 

Tấm kính những đôi giày đinh bại trận lầm lì soi trong bụi mù đẻ trứng. Những con chữ và bộ điệu bài ca chiến thắng.

           

Uống đi thơ!

          

            Và que lửa dày vò trên biển tối. Cánh hải âu và chất gây mê. Sóng dềnh phận mỏng còn sót lại mảnh ván thuyền trôi dạt.

Đừng khước từ. Đừng đi tìm sự bình yên trên sa mạc ký tự gõ vào đêm chết chóc.

Tôi là đứa con hoan lạc của tàn tro chiều đông quanh bếp than náo nhiệt. Thứ náo nhiệt của mùa màng lao lực. Tôi đã gieo hạt đã nhổ cỏ bón phân rồi thu hoạch. Ông bà cụ kỵ tôi cũng đã làm như thế trong hân hoan cay đắng.

Ta đâu báng bổ chi ôi đất mẹ của ta bờ tre gốc rạ. Mỗi hạt cơm là hạt ngọc của trời. Kẻ thừa mứa nước cồn lênh láng người đói lả mặt xanh.

            Uống đi thơ!

            Huyền thoại một nhóm người trên núi cao kể rằng tổ tiên họ khởi thủy là con chó.

Ta đã qua nhiều đô thị rừng rực ánh hào quang dẫy chết mà ta không tìm thấy huyền thoại ngươi ở đâu. Những người chó trong đám mây nhão bạc trôi đi. Và những cơn mê rào rào trong đám cổ nghị trường cùng chia phần giọng hót sẵn khuôn. Máu xương vung vãi.

Cứ uống đi thơ. Ta cấm ngươi buồn bã.  Uống nữa đi vùng carbon nặng mùi hoang tưởng mà ngươi đã ngửa mặt tôn sùng.

            Uống đi!

            Uống đi!

            Uống đi thơ!

            Tôi mơ thấy đám tang tôi đi giữa làn sương trắng. Chim thú hót vang trời. Đất đai mỉm cười đón linh hồn độ lượng. Mùa thơ ngẩng cao đầu chào hừng đông trên vai người anh em đi lại.

Những dấu chân không tên. Những mái chèo không tên. Những đôi cánh không tên. Những đáy mắt chứa bầu trời không tên.

Mùa thu hoạch trái tim tôi liên thông với trái tim người yêu dấu. Không gian như thể giọt nước tràn ly được trả về cho sông hồ đồng cỏ. Ôi giọt tái sinh lằng sâu vào đất đai ta mùa giải hạn.

            Uống đi thơ!

Uống nữa đi. Trong thế giới bầy đàn

Anh có hai ngọn đèn chờ sáng

Một trắng

Một đen

Một cho anh. Và một cho kẻ khác

Cần phải biết mỉm cười. Với sóng.

            Uống đi thơ!

Bài cho một giọng

 

Nàng đem trái tim trầu cau

rải trên cánh đồng nho tươi xa xứ của Châu Âu

như rải từng giọt trăng xanh

ngang dọc ngõ chân trâu

mùi hoa nhài

và máu.

 

Bonjour đạn bom

bonjour xa xứ.

 

 

Cái lưỡi uốn bên trong của nàng như mạ non bị dập

nhưng tôi tin

trái tim em rồi cũng sẽ đâm chồi.

 

Tiếng thở dài cuối cùng nàng gởi cho tôi

là giọt máu của buổi chiều buồn lắm.

 

Bonjour Việt Nam.

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Gã Phục điên từ bao giờ?

Tô Hoàng

NGKP 1
Nhà văn Nguyễn Khắc Phục

1

Tôi viết những dòng này không nhắm “rủa” ông bạn vàng của tôi – nhà văn Nguyễn Khắc Phục. Cũng không nhắm biện minh cho những gì anh đã và đang nói; đã và đang làm hôm nay. Tôi kể lại câu chuyện xảy ra với anh cách đây đã ba chục năm mà tôi là một chứng nhân.

Trước hết bởi một nỗi day dứt lâu nay thường ám ảnh tôi: Mình biết một sự thật về Phục mà khoảng chục năm trước không thể kể, không thể viết, bây giờ được “tháo cũi sổ lồng”, sao mình không kể đi? Nếu bỗng dưng một ngày nào đó ông bạn nhiều bệnh tật, hay nghĩ ngợi, thích dâng hiến đến kiệt cùng sức lực này bỗng nhiên đốc chứng muốn đi theo đám bạn bè Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Nguyễn Lâm, Nghiêm Đa Văn, Tường Vân, Phạm Tiến Duật, Lý Biên Cương…? Tôi viết còn vì một thôi thúc nữa: Sao thiên hạ bây giờ nhiều người mắc phải căn bệnh “quay quắt” khốn khổ đến như vậy? Họ đang cố thanh minh thanh nga rằng họ sáng suốt, họ rạch ròi đã từ rất lâu; họ đã biết xua tay không hề tham dự vào công việc này, sự kiện nọ; họ bị bắt buộc, bị thúc ép, họ không mù quáng, cuồng tín đâu, nhưng họ đơn chiếc, lẻ loi, mà đã là số ít họ “đành” phải theo số đông.

Tôi sẽ kể lại chuyến đi Liên Xô học đạo diễn điện ảnh VGIK của Phục vào mùa hè năm 1980.

Có người nói, anh sang Moskva không học nổi nghề này nên “bị đuổi” về nước. Có người nói anh ở nước Nga đâu đó một năm rồi mới về Việt Nam. Lại có người khẳng định anh chỉ ở Moskva chừng hai tháng. Lại có người vắn gọn: Gã ấy làm sao sống nổi ở nơi ấy thì bỏ về cũng phải thôi…

Tôi là người bạn đồng hành lớn tuổi duy nhất cùng sang Moskva với Phục chuyến ấy, tôi cũng không rõ nguyên do nếp tẻ ra sao. Thành thử nghe gì, thấy gì cứ kể lại để bạn hữu, đồng nghiệp của anh biết cho vui thôi…

Phục lưu lại Moskva chừng hơn tháng.

Nhớ trước hôm ra sân bay về nước khoảng hai, ba ngày, Phục mở toang cái vali và gọi bạn bè tới:

“Các cậu muốn gửi cho bố mẹ, vợ con phim ảnh, đồng hồ báo thức, sâm nước [những mặt hàng dạo đó về Việt Nam bán chạy, lời lãi khá cao] cứ ném ráo vào đây, tớ sẽ chuyển giùm cho. Nhưng làm chứng giúp tớ một điều: Tớ sang Nga và quay về ngay như thế này không phải để đánh quả đâu nhé!”.

Ngược thời gian, cách đó chừng ba tuần, tôi theo Phục lên sứ quán Việt Nam tại Liên Xô. Một gã quan chức mặt bự thịt, mắt ti hí gian giảo vừa nhìn thấy Phục đã cao giọng phủ đầu: “Anh thừa biết, bao nhiêu người mơ ước mà không được sang đây. Còn Nhà nước bỏ tiền mua vé máy bay, chi tiền cho anh ăn học ở đây 5 năm nữa, bỗng dưng anh nằng nặc đòi về lại Việt Nam là sao? Anh dám phung phí từng ấy tiền bạc của Nhà nước a?”.

Gã quan “Sứ” thao thao, hùng hổ đến toát cả mồ hôi trán. Phục im lặng, cười cười. Chờ cho gã kia thấm mệt, Phục hỏi: “Thưa, ông đã nói hết chưa?”. Gã kia chán: “Hết rồi!”. Đến lượt Phục: “Bây giờ tôi xin phép được hỏi lại ông. Đúng, Nhà nước đã tốn từng ấy tiền mua vé máy bay cho tôi. Nhưng sang tới đây tôi tự thấy mình sẽ không học tiếp nổi. Vậy xin hỏi ông, Nhà nước có nên tiếp tục tốn tiền để cho một thằng như tôi ở lại đây thêm 5 năm nữa, hay nên cho tôi về nước để giảm bớt chi phí ăn học của tôi 5 năm tới?”. Lẽ đương nhiên quan “Sứ” đuối lý đành ký xoẹt vào tờ đơn để Phục “hồi hương”!

Trước khi kể tiếp chuyện du ký ngắn ngày của Phục tại nước Nga, người kể chuyện xin được lược ghi tiểu sử trích ngang sáng tác của Phục – tính đến thời điểm đó:

Bạn văn chương cùng lứa tuổi chúng tôi hẳn còn nhớ, khoảng những năm 1966, 1967, 1968 những truyện ngắn của Đỗ Chu hầu như thống lĩnh văn đàn của những cây bút trẻ mới xuất hiện những năm đầu chiến tranh chống Mỹ. Bất ngờ, trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội xuất hiện truyện ngắn “Hoa cúc biển” và ngay sau đó là “Ngã ba Vô Tình” của Phục. Vẫn là chất trong sáng, nhân hậu, đầy chất thơ như văn chương của Đỗ Chu, mà khác hẳn Đỗ Chu, mà tài năng ngang ngửa Đỗ Chu. Một cú mở đầu ngoạn mục khiến thiên hạ lao xao. Và Phục nhanh chóng gia nhập hàng ngũ cùng những Thi Hoàng, Hoàng Hưng, Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt… Rồi Phục lên đường vào chiến trường Khu V để không bao lâu sau có ngay trường ca “Ăn cốm giữa sân”, kịch “Vườn thầy Năm”. Vào năm 1977, 1978, anh có kịch bản văn học “Thành phố không bị chiếm” (Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới – Hội Nhà văn đã in vở kịch này thành sách), đạo diễn Phạm Kỳ Nam dựng thành một bộ phim truyện nhựa dài với tên mới “Tự thú trước bình minh”. Từ chiến tranh bước ra, 30 tuổi, gia tài văn chương như vậy đâu có phải là mỏng?

Chín tháng học tiếng Nga ở Hà Nội, Phục vui vẻ, hào hứng. Và thấy rõ, Phục cũng hào hứng với chuyến ra nước ngoài lần đầu. Sau tháng 4 năm 1975, Phục lang thang ở Sài Gòn, vùi đầu đọc đủ các loại sách, tiếp xúc với đủ loại người, làm quen và hưởng thụ nền văn minh Akai, Honda chừng hai năm. Trước chuyến sang Nga, anh tỏ ra “sành điệu” để “tân trang” cho tôi nào giày mũi quả táo, quần ống loe, áo chim cò thắt túm ngang lưng… những mốt thời thượng thuở ấy của Sài Gòn. Nhưng tôi đoan chắc rằng, Phục vẫn rất yêu, thậm chí sùng mộ Liên Xô và nền văn hoá Nga Xô viết, như tất cả anh em thế hệ tôi. Chả thế mà, khi con trai tôi chào đời, nhờ Phục đặt tên giúp, anh đặt tên cháu là Tô Đoài Minh. Phục giải thích cho vợ chồng tôi hiểu “Đoài Minh tức Phương Tây sáng”. Cái Phương Tây ấy, ở thời điểm ấy, tôi đoan chắc đối với Phục tuyệt nhiên không phải, chưa phải là Pháp, là Đức, là Mỹ như địa chỉ trong tim bạn trẻ bây giờ.

Vậy sao Phục lưu lại ở Moskva chỉ hơn một tháng và nằng nặc đòi về?

2

Máy bay rời sân bay Nội Bài (hồi đó những bác thợ cày quanh vùng vẫn có thể ngang nhiên khoác áo tơi lá, thung thăng dắt trâu cắt qua đường băng) vào một chiều mùa hè mây giăng mù mịt, mưa rơi tầm tã. Mù mịt, tầm tã như thế qua đất Lào, Myanmar. Và máy bay hạ thấp độ cao, nghỉ tiếp dầu ở hai sân bay Calcutta (Ấn Độ), Karachi (Pakistan). Vào tới phòng đợi sân bay là chìm ngập trong những quầy hàng đủ loại quần jean, áo pull, rượu mạnh; là lần đầu nhìn thấy tivi màu với các chương trình quảng cáo của Nhật, của Mỹ. Cái gì cũng mới, cũng lạ đến hoa cả mắt, chóng cả mặt. Phục tỏ ra sành sỏi giải thích cho chúng tôi mọi thứ. Thiếp ngủ chừng 7, 8 tiếng đồng hồ, 3 giờ sáng xe chở chúng tôi vào thành phố Moskva. Ấn tượng đầu tiên – thành phố chỉ một màu điện đỏ vừa đủ soi tầm nhìn (sau này chúng tôi biết rằng, người Nga không khuyến khích vui chơi về đêm, cần ngủ sớm để tái sản xuất sức lao động, vì thế khoảng 9, 10 giờ tối nhà máy đèn được lệnh giảm công suất). Tuyệt nhiên không hề có những tấm biển nhấp nháy đèn đủ màu để quảng cáo hàng. Thỉnh thoảng lướt qua cửa xe là những khẩu hiệu thắp bằng bóng điện to đùng: “Liên Xô – trụ cột hoà bình”, “Vinh quang thay Đảng Cộng sản Liên Xô”, “Nguyên tử dùng vào mục đích hoà bình”, “Lao động là vinh quang”… Chỉ vào những tấm biển ấy, Phục nói bên tai tôi: “Y hệt bên nước mình!”.

Chúng tôi phải theo học 9 tháng tiếng Nga nữa tại Khoa dự bị tiếng, Đại học Lomonosov. Người ta giải thích, học nghề đạo diễn, tiếng Nga phải giỏi cả nghe lẫn nói. Đã học một năm tiếng Nga tại Trường Ngoại ngữ Thanh Xuân – Hà Nội, lại thêm một năm ngoại ngữ nữa ư? Sau chiến tranh Phục đang ấp ủ bao nhiêu dự định cho tiểu thuyết, trường ca, kịch bản điện ảnh và sân khấu (như ta biết, sau khi ở Nga về, Phục lần lượt cho ra đời bộ ba tiểu thuyết “Học phí trả bằng máu”, “Đầu sóng”, “ Thành phố đứng trước biển” và hàng chục vở kịch sân khấu…). Phải chăng, đây là lý do để Phục đòi về nước?

Phục học tiếng Nga buổi đực buổi cái. Không cặp, không túi, cuốn vở tập nhét túi quần. Thời gian còn lại thường ngồi cà phê hút thuốc, đăm chiêu. Hoặc ra rạp xem phim để về giễu cợt, chê bai các phim công thức, giáo huấn của Điện ảnh Xô viết. Ở lớp dự bị tiếng, dù học để tăng cường khả năng nghe và nói tiếng Nga nhưng cũng đủ các môn như địa lý, lịch sử, văn chương, chính trị. Giáo trình phát cho sinh viên, Phục lật xem rất nhanh và phát hiện cũng rất nhanh: “Địa lý, sử sách, văn chương ráo trọi đều nói về người Nga, nước Nga thôi. Không một dòng nào đả động đến văn hoá văn minh thế giới cả. Thế nghĩa là làm sao?” – Phục lưu ý chúng tôi. Ở Moskva chừng ba tuần, Phục mua một tấm bản đồ thành phố Moskva về mở rộng trước mặt chúng tôi để có thêm một phát hiện nữa: “Người Nga tự hào coi Moskva là trung tâm văn hoá của nhân loại. Các cậu xem này, đến ông Paven Coorsaghin, bà Zoia Cosmedienskaia còn được đặt tên cho đường phố. Thế mà đố tìm ra một bức tượng, một dãy phố nào mang tên Cervantes, Shakespeare, Dickens, Hugo hay bà Marie Curie?”.

Nhưng điều khiến Phục buồn bã, nghĩ ngợi nhiều hơn cả có lẽ là tình trạng “cứu đói khẩn cấp” – như mấy chữ Phục thích dùng dạo đó, của lưu học sinh, nghiên cứu sinh người mình ở Moskva. Sáng lên lớp, trưa ăn nguội ở quầy buffet, ngay sau đó túi nải khoác vai, như một đàn kiến tha mồi, chúng tôi đã vội vã sục sạo các ngõ ngách Moskva để lùng hàng; hoặc tới các khách sạn có người quen từ Việt Nam sang để bán hộ hàng kiếm chút lời, nhờ vả để gửi hàng về cho người thân trong nước. Còn phải 3 hay 4 năm nữa người Việt lao động xuất khẩu mới sang bên này, nhưng việc mua bán, nhận hàng sang gửi hàng về nhà đã trở nên sôi sục, năng động và thiết thực nhất của sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam. Bởi một lẽ đơn giản: gửi về được tới Việt Nam cứ 5 cuốn phim “Svetma” Nga bán đi đã bằng một tháng lương, một chiếc bàn là Nga bằng 4 hoặc 5 tháng lương của cha mẹ, vợ con mình. Mà ở quê hương thì đang đói, đang thiếu đú mọi thứ. Từ mảnh vải hoa, chiếc soong nhôm, cái phích đựng nước đến sợi mayso, cái kim khâu, cục xà phòng đen, nắm bùi nhùi bằng thép để cọ bựa cơm trong nồi… Cái gì gửi được về Việt Nam cũng đều có giá, đều được cha mẹ, vợ con viết thư sang tỏ ý hỉ hả, mừng rỡ coi người chồng hay đứa con ấy như một người anh hùng, một bậc cứu tinh. Những chàng lính, những cô thanh niên xung phong chúng tôi, thoát chết vì chiến tranh, vội vã lấy vợ lấy chồng, vội vã sinh con để nối nghiệp tổ tông, phải lao vào cuộc mưu sinh này còn là điều hợp lẽ. Đám trẻ hơn, mới 16, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông, sang đến đây cũng đã biết bó mồm bó miệng, dành dụm từng đồng rúp học bổng để mua hàng Nga gửi về trợ giúp cha mẹ nuôi đàn em nhỏ. Mua chân gà, cẳng heo (những thứ ở cửa hàng bán từng ký người Nga mua về cho chó ăn dần ) để nấu và đưa ra ngoài cửa sổ giá rét thành thịt đông ăn cả tuần với bắp cải luộc. Thay nhau nghỉ ở nhà, rắc gạo rủ chim bồ câu vào phòng, bắt chim để hầm để ninh, để bớt tiền mua thịt thà, bơ sữa… Chứng kiến các em các cháu như đàn kiến tụ vào, toả ra ở các cửa hàng cửa hiệu để kiếm một loại kháng sinh, chiếc đồng hồ báo thức gửi về cho cha mẹ, nghĩ mà tội nghiệp. Đàn chú, đàn anh đã không biết tới tuổi thanh xuân vì bị cuốn vào cuộc chiến; chả lẽ đến lượt các em, các cháu cũng không được sống đúng tuổi hồn nhiên, vô tư của chúng vì miếng cơm manh áo hay sao? Loắt choắt, bé như viên kẹo cũng len lỏi, chen lấn giữa các bà phụ nữ Nga bụng to như cái thúng để giành giật mua cho được mươi mét vải láng đen, dăm ba chục mét vải màn. Giữa mùa đông giá rét, các em các cháu toát mồ hôi, lôi kéo, khênh vác hàng chục thùng gỗ nặng chịch khỏi cửa hàng. Hỏi ra, mỗi thùng chứa khoảng 50 cục xà phòng đen…

Phục không đi “đánh hàng” nhưng dù ngồi ở ký túc xá, tối tối Phục vẫn phải chứng kiến cái không khí hỉ hả, mãn nguyện hoặc than van, ủ dột vì bị làm nhục sau một buổi chiều đi “đánh quả” trở về của đám đồng hương lớn bé. Những lúc như thế, anh thường im lặng, hít hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác và dù râu tóc chưa bạc phếch như bây giờ, nhưng tôi nhớ như in gương mặt anh nhăn nhúm, méo mó y như một quả táo khô. Nhớ một lần, sang chơi bên Nhạc viện Chaikovsky về, Phục bỏ cơm, chăn trùm kím đầu, tôi đã ngỡ anh bị cảm lạnh. Nằm lâu lắm, Phục hất chăn ra, nhỏ giọng với tôi: “Thằng K, thằng H bên ấy hôm nay nói thẳng vào mặt mình: Học hành, nghiên cứu làm gì. Hãy vứt ráo sách vở vào sọt rác mà đi buôn thôi! Đã tới thời buổi thằng nào nhiều tiền, thằng ấy là thống soái! Có tiền thì bằng cấp, chức tước, tiếng tăm, thậm chí đến quyền lực cũng mua được tất. Có đúng là đã xuất hiện thời buổi ấy rồi không, ông?”.

Có thể vì bức tranh ảm đạm của người Việt ở Moskva như vậy mà Phục nằng nặc xin về nước? …

3

Trở về với chuyện “Tại sao họ lại giống mình thế?”. (Sau này, khi tâm sự với một anh bạn Nga, anh ta sửng sốt hỏi lại chúng tôi: “Tại sao chúng tao giống chúng mày a? Phải ngược lại chứ! Chúng mày giống chúng tao mới phải. Thi hào Puskin chẳng từng nói: Tất cả đều từ ống tay áo này mà bay ra là gì?”).

Phục tìm đâu được quyển Điều lệ của Đoàn Komxomon (Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên Xô) quăng cho chúng tôi. “Đọc ngay phần mở đầu thôi! Có phải trong ấy ghi Đoàn thanh niên là cánh tay, đội hậu bị của Đảng không? Chả lẽ các bậc tiền bối của chúng ta chỉ là những người dịch tồi thôi à?”.

Thời gian đầu, sinh viên Việt Nam Khoa dự bị tiếng Nga được bố trí ở tầng 3, tầng 4. Ít lâu sau bị dồn hết lên tầng 8 – tầng cao nhất, cùng với sinh viên các nước châu Phi. Lý do đơn giản, vì hay mang nước mắm đi lại trong tháng máy, hay nướng chân gà, chân giò heo trong khu bếp chung – những mùi vị mà người Nga rất dị ứng. Ở đầu thang gác lối xuống tầng dưới có treo một tấm panô dán ngay ngắn chừng trên 20 tấm bưu ảnh về đời sống và hoạt động cách mạng của ông Lênin. Một buổi sáng, trên tấm panô ấy có ai bóc lấy đi bốn tấm. Những ô trống quả là nom như những con mắt mù. Buổi chiều, ông phụ trách người nước ngoài – một sĩ quan Hồng quân cấp tá thời chiến tranh – bỗng triệu tập tất cả sinh viên Việt Nam trong một cuộc họp. (Tôi xin nói ngay, tất cả những cựu sĩ quan Liên Xô đã từng tham gia Chiến tranh cứu nước năm 1941-1945 như ông phụ trách chúng tôi và những người chúng tôi có dịp làm quen sau này, đều rất nhân hậu, rất thương yêu, tôn trọng sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam nói chung, cánh lính chúng tôi nói riêng. Đối với đám sinh viên là lính chúng tôi, điều đầu tiên các cựu binh Nga thường quan tâm là, vấn đề tiếp tục việc học hành và giải quyết công ăn việc làm cho các quân nhân Việt Nam sau chiến tranh ra sao? Bởi theo họ, đây từng là vấn đề đeo đẳng lâu dài và làm đau đầu xã hội Xô viết hàng chục năm sau khi chiến tranh kết thúc). Tôi còn nhớ rõ, sau khi ông già cựu binh người Nga phụ trách Khoa dự bị tiếng giải thích lý do triệu tập cuộc gặp mặt, Phục là người giơ tay đầu tiên cật vấn, đại ý: Tại sao ở đầu bên kia tầng 8 có rất đông sinh viên châu Phi mà mất mấy tấm bưu ảnh Lênin, ông lại triệu tập riêng sinh viên Việt Nam? Đợi Phục nói dứt, ông già Nga mỉm cười hiền lành trả lời: “Nếu các sinh viên châu Phi mà yêu ông Lênin đến như vậy, chúng tôi thật mừng! Các bạn Việt Nam cứ bình tĩnh góp ý với nhau, làm như thế là không văn hoá đâu!”. Hôm sau, họp riêng Việt Nam lại, chúng tôi tìm ngay ra, thủ phạm là một em sinh viên quê Nghệ An đã bóc bốn bức bưu thiếp Lênin để gửi về quê cho cha mẹ. Còn lý do à? Đơn giản lắm. Để bớt được vài chục xu mua bốn tấm bưu ảnh – số tiền ấy có thể mua hai cái bắp cải! Tối ấy Phục lục xục trong chăn mãi không ngủ, khói thuốc lá phun kín căn phòng, anh cười nói với chúng tôi: “Cái anh vô sản Việt Nam yêu lãnh tụ Lênin quả là theo đúng cách Việt Nam!”.

Một chuyện khác. Gần ký túc xá của chúng tôi, có một khuôn viên nhỏ trồng cỏ xanh, xây mấy chòi ngồi nghỉ, mấy cái đu bập bênh dành cho bọn trẻ nhỏ. Những buổi chiều tôi không đi dạo phố xá lùng hàng, Phục thường rủ tôi ra đấy ngồi. Ở nơi này chúng tôi đã kết bạn với một ông già, cũng cựu binh Nga. Ông già Nga thường ra đây chơi với đứa cháu nội bảy tuổi. Cậu bé ưa trò sưu tầm tem. Một lần, nhận thư vợ từ Hà Nội gửi sang, tôi bóc khéo con tem vẽ anh bộ dội Việt Nam, tay cầm khẩu A.K đứng dưới lá cờ Tổ quốc mang tặng cậu bé. Dĩ nhiên cậu bé Nga rất thích con tem này. Ngắm nghía con tem một lúc, cậu ta thản nhiên nói với ông nội và hai chúng tôi: “Người là của các ông. Vũ khí là của chúng tôi!”. Tôi và Phục thật bất ngờ. Ông cựu sĩ quan Hồng quân lúng túng, ngượng ngùng hồi lâu, mãi một lúc sau mới nói được: “Tôi xin lỗi hai anh. Ông bà nội ngoại nó, bố mẹ nó không bao giờ dạy nó như vậy cả. Nhưng còn ở nhà trường và xã hội…”. Trên đường trở về ký túc, Phục ngúc ngắc đầu rên rẩm: “Thật không thể nào hiểu nổi! Thật không thể nào…”.

Câu chuyện kể về Phục hình như đã quá dài. Trước khi kể nốt hai mẩu chuyện cuối, nên chăng lặp lại điều đã nói. Phục hiểu sâu sắc và đánh giá rất cao nền văn hoá Nga của Puskin, Lev Tolstoi, Repin, Levitan, Turgenev, Chekhov… Anh nhiều lần nói với tôi: Văn học hiện sinh Tây Âu được khởi nguồn bởi chính ông già điên họ Đốt. Với chế độ Xô viết cũng thế. Phục nói, nuớc Nga hồi cuối thế kỷ 19 thường bị phương Tây coi thường như xứ sở của những gã nghiện rượu, suốt mùa đông ngủ li bì trên lò sưởi đắp đất. Công lao ông Lênin là ở chỗ, ông ta đã quất roi vào đít những gã mugic lúc nào cũng say bí tỉ ấy, ép họ tới làm việc ở các công trường cộng sản. Do vậy nước Nga vượt qua được đói nghèo của những năm Tân kinh tế, thực hiện điện khí hoá toàn quốc để rồi lập nên hai kỳ tích khiến Mỹ, Anh, Pháp phải cúi đầu bái phục: đánh thắng bọn phát xít Đức và phóng ông Gagarin lên vũ trụ. Vốn tính nhạy cảm kết hợp với một bộ óc thông minh, cặp mắt quan sát nhanh nhậy hiếm có, Phục dị ứng rất nhanh với cái đơn điệu, tẻ nhạt, với thứ trì trệ, ngưng đọng, với bệnh công thức, giáo điều của xã hội Nga – những gì mà sau này trong thời kỳ Đổi mới chính người Nga đã chỉ ra.

Phục từng áp tải xàlan chở gạo, đường, mì chính từ cảng Hải Phòng ra vào tiếp tế cho các tỉnh phía Nam khu IV cũ trong những năm máy bay phản lực, hạm tàu Mỹ phong toả gắt gao vùng biển miền Bắc. Anh từng theo du kích Giarai, Êđê ra phục kích xe giặc trên đỉnh đèo Măng Giang, từng đạt kỷ lục vác bao gạo nặng nhất từ các làng ven biển miền Trung, len lỏi qua các đồn bốt, các chốt phục kích của bọn Mỹ lên chiến khu để cứu đói cho đồng chí đồng đội. Phục không từ nan hiểm nguy, gắn bó từng vui buồn, âu lo với cuộc sống của bà con dân thường, bộ đội, du kích ở những vùng chiến sự ác liệt nhất. Không hút sách, không trai gái chơi bời, không thu vén bất cứ thứ tài sản gì cho bản thân khi sống ở các đô thị miền Nam sau ngày thống nhất. Giống như tất cả anh chị em cùng thế hệ mình, trong kiệt cùng những chịu đựng, những cố gắng và sự tự hoàn thiện mình như thế chỉ để mong được kết bện máu thịt với xứ sở của mình, dân tộc mình, để hiểu ra rằng nhân dân là khái niệm có thật chứ không phải là những bích chương, những tem mác lòe loẹt ai đó cố tình trương ra nhằm che đậy những mục đích vụ lợi bẩn thỉu.

Sang Nga, Phục quá sửng sốt khi nhận ra người mình sao chép vội vã, không chọn lọc, chưa kịp tiêu hoá những mô hình của Nga; dù quê hương còn lạc hậu, đói nghèo. Anh phản ứng quyết liệt thái độ kể công hoặc ban ơn của siêu cường; anh không co rúm người, khiếp hãi trước những gì của thế giới văn minh, hiện đại; sau hết anh đau đáu xót xa, phập phồng dõi theo thân phận dật dờ, truân chuyên của đồng bào mình chưa kịp hồi phục sau cuộc chiến này đã phải bước vào một cuộc chiến khác…

Hai mẩu chuyện cuối về Phục

Cô giáo dạy tiếng Nga của bọn tôi tên là Galina Vaxilievna. Tóc màu hạt dẻ, mắt mơ màng, nụ cười dịu dàng, hệt như những nhân vật nữ trong “Chiến tranh và Hoà bình”, “Suối mùa xuân”, “Ba chị em”, “Vườn anh đào”… mà chúng tôi thường tưởng tượng ra khi còn ở Việt Nam. Cô giáo Galina có lẽ còn ít tuổi hơn Phục. Phục tới lớp thất thường, chúng tôi vẫn nhận ra mối thiện cảm vượt mức bình thường cô giáo Galina dành cho Phục; dù ngồi trong lớp thỉnh thoảng Phục thường nhăn nhó như khỉ ăn gừng vì bị cơn đau bao tử hành hạ..

Vào một sáng Chủ nhật, cô Galina đưa lớp tôi tới Quảng trường Đỏ, viếng thăm ông Lênin. Mục đích để sáng hôm sau chúng tôi viết và đọc ngay tại lớp những gì đã nhìn, đã cảm nhận được.

Sáng thứ hai, một, hai, ba sinh viên đọc trước. Lẽ dĩ nhiên quan sát và ý nghĩ giống nhau. Cô giáo Galina hệt như đã chờ đợi từ lâu bài luận văn tiếng Nga của Phục. Cũng là trời xanh mây trắng. Cũng là những viên gạch Hồng trường đã in dấu chân bao người. Cũng là trong dòng người xếp hàng vào viếng Lênin có đủ các màu da, xôn xao đủ giọng nói của các châu lục. Nhà văn Việt Nam đã có tiếng tăm này không thể hú gió gọi mưa hơn thế được vì vốn tiếng Nga cũng chỉ chừng ấy! Nhưng cứ sau từng dòng của Phục, cô giáo Galina lại xuýt xoa: “Tuyệt! Tuyệt! Tiếp tục!”. Phục tả đến đoạn dòng người tiến đến gần nơi ông Lênin nằm, Phục thấy ông như cựa quậy. Cô giáo Galina càng nức nở khen: “Anh từ đất nước Việt Nam xa xôi, đến thăm lãnh tụ Lênin mà thấy Người sinh sắc, sống động như vậy, hay lắm”. Phục: “Và ông Lênin bỗng ngồi nhổm dạy, trỏ tay vào mặt chúng tôi thét lên: “Vô sản thế giới hãy buông nhau ra!”. Cô giáo Nga lặng ngắt, đôi mắt mở to hoảng hốt, chừng một phút sau như kịp trấn tĩnh, mới cất tiếng hỏi Phục: “Anh không chọn nhầm động từ đấy chứ! Lãnh tụ Lênin nói rằng vô sản thế giới liên hiệp lại cơ mà?”. Phục thủng thẳng: “Thưa cô giáo, tôi không hề chọn nhầm nếu cô biết rằng, vào giờ phút này ở biên giới phía Bắc nước tôi vô sản đói rách Việt Nam và vô sản đói rách Tàu vì không tìm ra việc gì để làm, đang lao vào cấu xé, đâm chém nhau. Thiết tưởng nếu ông Lênin sống lại, vén mây nhìn xuống hạ giới, ông sẽ thét lên như thế!”.

Khoảng một tuần sau tới ngày kỷ niệm Hiến pháp Liên Xô – một ngày lễ trọng chỉ đứng sau lễ Cách mạng tháng Mười Nga. Mở đầu sáng hôm ấy, cô giáo Galina giảng giải về Hiến pháp Xô viết chừng hơn tiếng đồng hồ trên lớp. Sau đấy cô giáo Nga đưa chúng tôi ra hành lang, nơi đã kịp treo những tấm panô, vẽ các sơ đồ, dán những tấm ảnh màu cũng nói về uy tín của Liên Xô, thành tích của đất nước Xô viết sau những năm thông qua hiến pháp. Cô giáo Galina đang thao thao giảng giải cho sinh viên nghe, bất ngờ cô nhận ra sinh viên Nguyễn Khắc Phục đứng quay lưng lại. Vẫn cái vẻ thảng thốt, bị bất ngờ hôm trước, cô Galina hỏi Phục: “Hôm nay là một ngày lễ trọng của Liên bang Xô viết. Sao anh đứng quay lưng lại không nghe tôi nói?”. Phục rành rẽ: “Thưa cô giáo, sáng nay ở trong lớp cô giới thiệu Hiến pháp Xô viết hơn một tiếng đồng hồ, đối với tôi thế là quá đủ. Tôi thiết tưởng, bản Hiến pháp ấy không liên quan, ảnh hưởng gì tới cuộc sống áo cơm của đồng bào tôi ở Việt Nam hiện nay!”.

Những chuyện tôi vừa kể để các bạn nghe xảy ra vào những ngày cuối đông Moskva năm 1979. Xin nhắc lại: cuối mùa đông năm 1979. Còn mất 7 năm nữa ông Gorbachov mới khởi xướng công cuộc Perestroika ở xứ sở bạch dương này. Và muộn hơn nữa, Việt Nam mới bước vào thời kỳ Đổi mới.

Bốn năm sau, tình cờ tôi gặp lại cô giáo Galina Vasilievna. Cô tỏ vẻ rất vui sướng vì cuộc hội ngộ. Không kìm nén được tình cảm, cô hỏi tôi có thư từ thường xuyên với Phục không, sức khỏe của Phục ra sao, hiện Phục đang làm gì?

Sau những lời thăm hỏi ấy, cô Galina tủm tỉm cười, hạ thấp giọng như hé lộ chuyện gì rất riêng tư: “Thú thật, cách xử sự của ông Phục khiến tôi rất kính trọng. Nhưng hồi đó ông ấy cũng làm tôi hồn xiêu phách lạc. Thử tưởng tượng xem, nếu có ai mách lên đảng ủy nhà trường tôi có một học trò như ông Phục, thì sao? Chả là hồi ấy tôi đang là đảng viên dự bị Đảng Cộng sản Liên Xô mà!”.

Biết sao được, thưa cô giáo Nga khi “tử vi” của cô buộc cô có một lần trong đời nhà giáo, phải “dạy” một gã điên…

 

TP Hồ Chí Minh, đầu tháng 5 năm 2010

Tác giả gửi Văn Việt.

Người lao động và Công đoàn

Văn Việt: Không hề là tình cờ khi ta thấy trên mạng cùng một ngày xuất hiện hai bài về tình trạng của người lao động Việt Nam hiện nay. Bài 1 trên tờ báo chính thức của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tổ chức chính thống do Đảng Cộng sản Việt Nam lập ra để bảo vệ người lao động (theo lý thuyết là lực lượng lãnh đạo xã hội). Chỉ riêng cái tựa đề bài báo đã khiến ai có lý trí cũng phải đặt câu hỏi: “Người lao động thờ ơ với quyền lợi của chính mình”, sao lạ thế nhỉ? Họ “lú” đến thế sao? Nhưng: “nó lú chú nó khôn”, “chú nó” ở đây chính là cái Tổng Liên đoàn to đùng ấy chứ còn ai? Thế “chú nó” đã làm gì để “người lao động không thờ ơ với quyền lợi của chính mình? Không thấy bài báo nhắc đến. Tại sao? Và tại sao? Đọc đến bài 2 trên các mạng “lề trái”, ta như tìm thấy một lời giải đáp mà tính thuyết phục là khó phủ nhận.

Bài 1: Người lao động thờ ơ với quyền lợi của chính mình

Lê An Nhiên

NLĐ đấu tranh nửa vời nên Cty không ngán mà còn làm tới.

Biết quyền lợi của mình bị xâm phạm nhưng không khiếu nại, các giấy tờ liên quan để bảo vệ quyền lợi của mình như HĐLĐ, bảng lương thì không thèm giữ… người lao động (NLĐ) đã vô tình gây thiệt hại cho chính bản thân mình.

“Tôi không biết đường tới các cơ quan chức năng, đường đến toà soạn báo, người sử dụng được email duy nhất của nhóm thì đã đi đâu nơi khác làm, người đứng đơn cũng không còn mặn mà nữa nên tôi cũng không tha thiết gì nữa”, anh Cự – nhân viên Cty bốc xếp, quận Bình Thạnh, TPHCM tỏ vẻ thờ ơ khi nói về việc anh và đồng nghiệp bị Cty cho nghỉ việc trái luật.

Đấu tranh nửa vời!

Anh Cự vào làm việc tại Cty nhiều năm nhưng không được Cty ký HĐLĐ, không được tham gia BHXH, BHYT, BHTN, đau ốm tự chịu. Người mới vào cũng như người thâm niên chục năm, làm ngày nào tính lương ngày đó với mức lương công nhật là 140.000 đồng/ngày. Tuy nhiên, Cty lại đặt ra rất nhiều quy định, mức phạt đối với công nhân (CN) của mình như nghỉ không phép thì trừ tiền, CN mới vào bị giữ lại một tháng lương đầu tiên, làm đủ 1 năm mới được nhận lại tháng lương này…

Không chịu được sự chèn ép của Cty, các CN đã ngừng việc phản đối. Sau khi cơ quan chức năng can thiệp, phân rõ đúng, sai, Cty gọi tất cả CN vào ký HĐLĐ xác định thời hạn 1 năm. Điều đáng nói, các khoản đóng BHXH, BHYT, BHTN… Cty bắt CN phải tự trích lương đóng hết 100%, Cty không chi ra 1 xu khiến thu nhập của NLĐ giảm thê thảm. Nhận thấy việc Cty ký HĐLĐ 1 năm là không đúng pháp luật và việc bắt CN đóng 100% các khoản BHYT, BHXH, BHTN là sai nên nhiều CN không ký. Những CN không chịu ký HĐLĐ bị Cty cho nghỉ việc.

Đáng nói, CN phải đình công nhiều ngày liền thì các sai phạm của Cty mới bị cơ quan chức năng phát hiện và yêu cầu Cty giải quyết. Khi Cty giải quyết nửa vời, tiếp tục chèn ép NLĐ, quyền lợi của mình bị xâm nặng nề hơn thì lúc này CN lại tỏ ra khá thờ ơ. Thế nên, sau khi hẹn PV và luật sư nhiều lần để hỗ trợ pháp lý, các CN này đều không đến. “Có kiện thì cũng chỉ là “châu chấu đá xe”. Anh em chúng tôi đều là dân lao động tay chân, kiến thức pháp luật hạn hẹp, lại không biết đường đi nước bước nên có lẽ là từ bỏ. Đình công mấy ngày thì Cty mới chịu ký HĐLĐ nhưng tính ra mình còn thiệt thòi hơn lúc chưa ký, giờ đấu tranh nữa thì không biết quyền lợi anh em sẽ còn được gì”, anh Cự thở dài và khẳng định “sẽ nghỉ việc theo ý của Cty và coi như mình vừa bị cướp là xong!”.

Thua thiệt vì tính tùy tiện

Trong đơn khiếu nại gửi đến Báo Lao động và Đời sống, chị Ngọc Oanh – nhân viên Cty bảo vệ Phúc Thành, TPHCM cho biết, kể từ khi chị nghỉ việc, Cty không chịu thanh toán tiền lương những ngày chị làm việc. Khi PV liên hệ với Cty thì được Cty cho biết, chị Oanh đã tự ý nghỉ việc, bỏ mục tiêu, sau đó không liên hệ với Cty nên Cty chưa giải quyết tiền lương các ngày chị Oanh làm việc được.

“Lúc đó, đội trưởng đội bảo vệ bắt tôi trực đêm mấy ngày liên tiếp, tôi bức xúc nên nghỉ mà không báo về Cty. Khi Cty nhận tôi vào làm việc, Cty có đưa ra các điều khoản là khi nghỉ việc phải làm các thủ tục như trả lại đồng phục, phải báo về Cty để Cty sắp xếp người xuống thay thế bảo vệ mục tiêu nhưng những việc đó tôi đã không làm. Giờ lên Cty lấy tiền những ngày làm việc không biết có được giải quyết không?”, chị Ngọc Oanh lo lắng.

Chị Tuyền – nhân viên Cty CCB, có trụ sở ở Hà Nội, được luân chuyển vào TPHCM công tác đã 3 năm. Từ năm 2013, Cty thay đổi lãnh đạo. Giám đốc mới muốn chị nghỉ việc để đưa người khác thay thế nên hơn 1 năm qua, Cty đã tìm đủ mọi cách chèn ép như bắt chị Tuyền phải trích lương đóng 100% các khoản BHXH, BHYT, BHTN, tìm mọi cách từ chối việc chi trả các khoản công tác phí hoặc cản trở chị hoàn thành công việc được giao…

“Tôi phải kiện Cty để đòi lại quyền lợi”, chị Tuyền khẳng định. Điều oái ăm là khi được hỏi chị có bằng chứng gì về các sai phạm của Cty không thì chị lại ú ớ. “HĐLĐ tôi đã để mất trong mấy lần chuyển nhà, tiền lương thì ở ngoài Hà Nội có người ký nhận giúp rồi chuyển khoản vào nên tôi cũng không có kê lương chi tiết, việc Cty luôn làm khó dễ thì chỉ trao đổi qua điện thoại, không có email nào cả…”, chị Tuyền phân trần.

 “Trường hợp chị Tuyền không có bất kỳ giấy tờ nào, nếu kiện ra tòa thì tòa sẽ yêu cầu phía Cty cung cấp. Và Cty thì hoàn toàn có thể trưng ra các giấy tờ có lợi cho họ, bất lợi cho mình. Mình cũng phải chấp nhận thôi”, luật sư Nguyễn Nam (TPHCM) cho biết.

Nguồn: http://laodong.com.vn/cong-doan/nguoi-lao-dong-tho-o-voi-quyen-loi-cua-chinh-minh-213750.bld

Bài 2: Tuyên bố ngày 8/6 của các hội đoàn dân sự về Công đoàn độc lập Việt Nam

Công đoàn độc lập phải là tổ chức xã hội do chính công nhân thành lập, thật sự hướng đến công nhân, lấy công nhân làm trung tâm và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mỗi công nhân trong từng nhà máy, xí nghiệp.

Công đoàn độc lập không thể là một tổ chức hữu danh vô thực như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) và các cấp công đoàn cơ sở của hệ thống nhà nước, khi các tổ chức này đã chỉ được biết đến như một khâu trung gian hưởng thụ 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp mà chưa hề đồng thuận với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.

Về mặt pháp lý, bất kỳ cuộc đình công nào cũng phải có sự chấp thuận của TLĐLĐVN. Nhưng thực tế đã minh chứng một sự thật quá chua chát là TLĐLĐVN chưa bao giờ lãnh đạo, tổ chức hoặc hỗ trợ bất kỳ vụ đình công nào. Tất cả các cuộc đình công ở Việt Nam đều mang tính tự phát nhưng đều bị xem là bất hợp pháp. Thậm chí các cuộc đình công phản đối hành động xâm lăng của Trung Quốc đã vượt tầm kiểm soát như đã xảy ra trong tháng qua. Trong các vụ biểu tình của công nhân ở Bình Dương, Đồng Nai và Hà Tĩnh các tổ chức của TLĐLĐVN, được mang danh là đại diện của công nhân, đã hoàn toàn vô dụng và để cho những kẻ xấu lợi dụng gây bạo loạn làm hoen ố hình ảnh công nhân Việt Nam nói riêng và Việt Nam nói chung. Nếu có công đoàn độc lập do chính công nhân lập ra, thì chắc chắn sự việc đáng tiếc như vậy đã không xảy ra.

Quyền lên tiếng

Quyền được lên tiếng để tự bảo vệ những lợi ích của mình trước giới chủ và trước những chính sách bất hợp lý của Nhà nước về thuê và sử dụng lao động là quá cấp thiết đối với hầu hết 5 triệu công nhân Việt Nam!

Quyền được tự thành lập một tổ chức công đoàn độc lập của công nhân càng trở nên bức bách trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã bị các nhóm lợi ích tham tàn ở đất nước này đẩy vào tình thế suy thoái và khủng hoảng trong suốt gần 7 năm qua. Không những không được cải thiện, mức thu nhập bình quân của công nhân còn bị giảm tương đối 25-30% trong khi mặt bằng giá cả tăng vọt từ 2-3 lần từ ít nhất năm 2011 đến nay. Tại nhiều nhà máy và xí nghiệp, công nhân phải làm việc ít nhất 10 giờ mỗi ngày và sáu ngày một tuần, nhưng mức thu nhập hoàn toàn không đủ sống. Tình trạng thảm thương đó vẫn tiếp tục tăng tiến bất chấp Việt Nam đã có cơ hội tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ năm 2007, nhưng đã chỉ trở thành cơ hội để hố phân hóa giữa 5% số người có thu nhập cao nhất với 5% người nghèo nhất ước tính lên đến ít nhất 60-70 lần.

Một khi đã không thể biểu diễn được lòng thành và khả năng nâng cao mức sống và quyền lợi cho công nhân sau WTO, không có gì bảo đảm là các chính sách của Nhà nước và doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam sẽ làm cho đời sống người công nhân đỡ khốn khổ hơn nếu nhà nước này được chấp nhận tham gia vào cơ chế thương mại Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong thời gian tới.

Phải thành lập Công đoàn độc lập

Truyền thống quan tâm đến chính sách an sinh xã hội và quyền lợi người lao động của những quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất trong TPP là Hoa Kỳ và Nhật Bản đã khiến Nhà nước Việt Nam phải đối diện với một điều kiện bất khả kháng: muốn vào TPP, Việt Nam phải chấp nhận mô hình Công đoàn độc lập.

Những tổ chức nghiệp đoàn lao động có ảnh hưởng nhất ở Hoa Kỳ như  American Federation of Labor and Congress of Industrial Organizations, Communications Workers of America, International Brotherhood of Teamsters và International Brotherhood of Electrical Workers đều đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc Việt Nam gia nhập hiệp định TPP, nếu nhà nước này không thỏa mãn điều kiện hình thành Công đoàn độc lập, không thực hiện những cải cách quan trọng về luật lao động và tự do dân sự, không trả tự do vô điều kiện do cho hàng loạt nhà hoạt động công đoàn độc lập như Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương… đã bị bắt giam và bị xử tù.

Chúng tôi, các tổ chức xã hội dân sự độc lập tại Việt Nam, đồng thanh tuyên bố ủng hộ hoàn toàn:

1.     Công đoàn độc lập do chính công dân Việt Nam thành lập và điều hành.

2.     Giới thiệu người tham gia và kêu gọi công nhân gia nhập hội viên.

3.     Vận động các quốc gia và các tổ chức quốc tế ủng hộ và bảo vệ.

Đại diện các tổ chức XHDS Việt Nam ký tên:

1.          Bach Dang Giang Foundation: Ths. Phạm Bá Hải

2.          Cao Đài: Ông Hứa Phi, Bà Bạch Phụng

3.          Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn Đan Quế

4.          Con Đường Việt Nam: Ông Hoàng Văn Dũng

5.          Công Giáo: Lm. Đinh Hữu Thoại

6.          Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự: Ts. Nguyễn Quang A

7.          Hiệp Hội Dân Oan: Ông Nguyễn Xuân Ngữ

8.     Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo: Kỹ sư Trương Minh Nguyệt, Ls. Nguyễn Bắc Truyển

9.      Hội Anh Em Dân Chủ: Ls. Nguyễn Văn Đài, Ký giả Trương Minh Đức

10.      Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng

11.   Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi

12.      Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Bà Dương Thị Tân, Cô Huỳnh Thục Vy

13.      Khối 8406: Lm Phan Văn Lợi

14.      Phật Giáo Hòa Hảo: Cụ Lê Quang Liêm, Tu sĩ Lê Minh Triết

15.      Phong Trào Liên Đới Dân Oan: Bà Trần Ngọc Anh

16.      Tăng Đoàn PGVNTN: HT. Thích Không Tánh

17.      Tin Lành: MS Nguyễn Hoàng Hoa, MS Nguyễn Mạnh Hùng

Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/27052

 

Lật giở hồ sơ vụ “Bác sĩ Zhivago”

Alexey Bogomolov, http://www.kp.ru/daily/26144.3/3033281/

Tô Hoàng dịch

 

56 năm trước, vào mùa thu năm 1958 đã bùng nổ một sự kiện gây chấn động quanh việc xuất bản cuốn tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago” và việc người ta trao tặng Giải thưởng Nobel văn học cho tác giả của nó – nhà thơ, nhà văn Boris Pasternak.

Có cảm tưởng như ở bất cứ nước nào, ai được trao bất cứ Giải Nobel nào cũng đều là niềm tự hào của xứ sở đó. Điều này chỉ có một ngoại biệt – nếu việc đó xảy ra ở Liên Bang Xô Viết! Và người được trao tặng không ai khác mà chính là Pasternak! Những người tạo nên hiện tượng quái dị đó trong lịch sử là các Ủy viên trong Chủ tịch đoàn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đứng đầu bởi Khrushchev; các nhà văn Xô Viết; Chủ tịch Cơ quan phản gián Xô Viết Shelepin, Bí thư thứ nhất Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên Xô Sevenfold; Tổng chưởng lý Rudenko; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô Shepilov; các cán bộ đảng và chính quyền Xô viết ở các địa phương; thậm chỉ cả “những người Xô viết bình thường”.

Sự việc bắt đầu như sau… Vào đầu mùa xuân năm 1956, được cổ xúy bởi những nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô lên án tệ sùng bái cá nhân Stalin và những giải pháp đầu tiên do Khrushchev vạch ra nhằm làm giảm bớt sự cứng ngắc trong công việc kiểm duyệt văn học, Pasternak đã gửi bản thảo tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago” cho hai tạp chí văn học khá có uy tín lúc bấy giờ là “Thế giới mới” và “Ngọn cờ”, mong được công bố. Ngay ở thời điểm đó một số nhà văn bạn bè của Pasternak đã can gián ông không nên cho ra mắt tiểu thuyết, bởi nó phản ánh quá táo bạo và “không hợp thời” về cuộc Cách mạng Tháng Mười và một số phương diện khác của nước Nga thời Xô Viết. Nhưng rồi cả tạp chí “Thế giới mới” lẫn tạp chí “Ngọn cờ” cùng Nhà xuất bản Quốc gia (nơi cũng đã hứa sẽ in tiểu thuyết này) đều xếp “Bác sĩ Zhivago” vào tủ.

Cuối tháng 5 cũng năm đó, Pasternak nhờ Sege D’Angelo – phóng viên Đài phát thanh Italia – cũng là một đảng viên cộng sản, chuyển bản thảo “Bác sĩ Zhivago” cho Giangiacomo Feltrinelli, một ông chủ xuất bản cũng là một đảng viên cộng sản. Sau hai tuần, ông chủ xuất bản này báo cho Pasternak biết tiểu thuyết sẽ được ra mắt bạn đọc.

Cơ quan điệp vụ KGB Liên Xô cũng không thiếp ngủ: ngày 24 tháng 8, KGB báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tin cuốn tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago” đã lọt qua biên giới. Sau một tuần, vào ngày 31 tháng 8 Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô Shepilov đệ trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô bức thư với nội dung như sau: “Tôi mới được biết, nhà văn Pasternak phạm quy định đã gửi cuốn “Bác sĩ Zhivago” của mình cho Nhà xuất bản của ông Feltrinelli. Nhà văn tự ý cho phép nhà xuất bản nêu trên in cuốn tiểu thuyết của mình; đồng thời đồng ý để cuốn sách này được tái xuất bản ở Pháp và Anh. Tôi đề nghị Ban Đối ngoại trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thông qua các bạn bè, đồng chí ở các đảng cộng sản anh em nên có biện pháp ngăn cản cuốn sách chống đối Xô Viết này được in ấn ở nước ngoài”.

“Bác sĩ Zhivago” cuốn sách nhục mạ thâm độc Liên Xô

Kể từ thời điểm đó, Pasternak chịu một áp lực rất lớn, buộc ông phải đòi nhà xuất bản Italia trả lại bản thảo về Liên Xô. Vào khoảng tháng 10 năm 1956, Brezhnev và Shepilov nhận được báo cáo của Ban Đối ngoại Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cho biết những người đứng đầu Đảng Cộng sản Italy loan tin: “Vấn đề liên quan đến bản thảo của Pasternak đã được giải quyết, và thời gian gần đây bản thảo đó sẽ được trở về Liên Xô”. Nhưng ông chủ xuất bản Italy hiểu rõ rằng nếu tiểu thuyết này trả về Liên Xô “con gà đẻ trứng vàng” này sẽ bị giết chết; vì thế ông ta chùng chình không chịu trả bản thảo. Vào tháng 8 năm 1957, tại Liên Xô người ta hứa sẽ xuất bản “Bác sĩ Zhivago” chỉ sau một tháng nữa, với điều kiện Pasternak phải gửi cho ông chủ xuất bản bức điện đòi trả lại bản thảo. Bức điện như thế do chính Pasternak viết đã được gửi sang Italy. Nhưng ông chủ xuất bản Italy không rút ra một kết luận gì, chỉ trả lời “các bạn Xô viết” rằng “đang chờ tác giả chỉnh sửa” đồng thời cũng không tin vào lời hứa tiểu thuyết sẽ được xuất bản tại Liên Xô vào tháng 9 năm 1957.

Như chúng ta đã rõ, quả là cuối cùng thì tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago” cũng được công bố tại Liên Xô, nhưng phải mất gần 30 năm sau kể từ ngày những chuyện ầm ĩ quanh cuốn sách xảy ra. Ông chủ xuất bản Giangiacomo Feltrinelli với lương tâm trong sáng của mình đã cho cuốn sách ra mắt bạn đọc vào ngày 23 tháng 11 năm 1957. Và thế là “Bác sĩ Zhivago” bắt đầu cuộc viễn du của mình khắp thế giới; được dịch đi dịch lại bằng những ngôn ngữ phổ biến nhất và được công bố ở hàng chục nước. Không hề có sự can thiệp nào của những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Italia, cũng không hề có áp lực nào đối với tác giả.

Cơn nộ khí chỉ bùng lên vào mùa thu năm 1958 khi Pasternak có tên trong danh sách xét duyệt để trao giải Nobel Văn chương với “Bác sĩ Zhivago”. Thông qua các kênh ngoại giao, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô dồn tất cả sức lực cản trở việc trao giải Nobel cho tác giả “Bác sĩ Zhivago” và đề bạt lên một tên tuổi khác là Mikhail Solokhov, nhưng không thành công. Hội đồng xét giải Nobel kiên quyết khước từ các yêu cầu của giới lãnh đạo Xô Viết. Nhưng dẫu sao, tại Liên Xô, sự lãnh đạo ấy vẫn đầy quyền năng nhất: người ta quyết định phải “trừng phạt” một nhà văn bướng bỉnh; hạ thấp cả về phương tiện tinh thần lẫn vật chất Pasternak. Và bằng cách ấy giới lãnh đạo Xô Viết muốn dằn mặt các nhà văn – công dân khác rằng, nếu họ có ý đồ xuất bản tác phẩm của họ ở nước ngoài mà không được phép của cơ quan kiểm duyệt Xô Viết – đó là một điều cực kỳ nguy hiểm.

“Tôi không cần đọc Pasternak, nhưng tôi vẫn lên án ông ta!

Việc phê phán Pasternak diễn ra đủ hình đủ vẻ, nhưng nguyên cớ chủ yếu của nó chính là việc nhà văn, nhà thơ này được trao giải Nobel văn chương. Hai hôm trước sự kiện này (diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1958) cơ quan văn hóa, thông tin, tuyên truyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã khởi thảo một văn bản mang tựa đề “Về những biện pháp cần thực thi nếu việc trao giải Nobel cho B. Pasternak trở thành hiện thực”. Trong tài liệu này, lần đầu tiên đã vạch ra những quyết sách cụ thể để tác động tới dư luận xã hội và bản thân nhà văn như: cho công bố thư của tập thể ban biên tập tạp chí “Thế giới mới” phê phán tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago”, công bố thư của nhiều nhóm nhà văn Xô Viết vạch ra “những sai lầm” trong tiểu thuyết này. Thậm chí người ta còn bàn tới cả biện pháp “gợi ý” Pasternak tự nguyện xin từ chối không nhận giải thưởng.

Борис Леонидович решил, что в своей книге он может выразить особый взгляд на историю родной страны. Не тут-то было...

Dĩ nhiên việc trao giải thưởng vẫn diễn ra. Mikhail Suslov, khi đó là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, liền nghĩ ra một thủ đoạn khác: Ông ta đề nghị Chủ tịch đoàn Ban Chấp hành Trung ương kết luận “cuốn sách là hành động thù địch đối với nhân dân và đất nước Xô Viết”. Đồng thời Suslov nhờ nhà văn Konstantin Fedin giải thích cho Pasternak “những điều kiện xã hội khiến việc nhận giải thưởng này là bất lợi” và khuyên nhà văn nên “cự tuyệt giải thưởng này”. Ngoài việc cho đăng trên báo “Văn học” và tạp chí “Thế giới mới ” bức thư của Ban Biên tập tạp chí này phê phán cuốn sách, người ta còn cho in như một thứ phóng sự nhiều kỳ trên báo “Sự thật” cơ quan phát ngôn chính thức của Đảng Cộng sản Liên Xô những ý kiến cáo buộc tác giả và “Bác sĩ Zhivago”. Và cũng ngay trong thời gian đó ý kiến của Suslov đã được biến thành Nghị quyết của Chủ tịch đoàn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô “Về tiểu thuyết có tính chất vu khống của Pasternak”. Trên các trang báo và tạp chí ngay lập tức ngập tràn những bài báo phê phán nhà văn, lên án cuốn sách. Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Liên Xô Vladimir Sevenfold, trong một cuộc Hội nghị của Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên tại Cung Thể thao Luzinsky đã gọi thẳng Pasternak là đồ con lợn, là kẻ lưu vong hiện còn ở trong nước và đề nghị đuổi nhà văn ra nước ngoài.

Nhiều năm sau này, nhiều nhà nghiên cứu văn học rất tốn công sức và thời gian để tìm hiểu xem ai là người đầu tiên phát ra câu nói nay đã trở thành nụ cười mỉm của thiên hạ: “Tôi không cần đọc Pasternak, nhưng tôi vẫn lên án ông ta!”. Một câu nói đúng từng chữ như thế quả là không có. Một số nhà nghiên cứu cho rằng chứng cứ đầu tiên người ta đã tìm thấy trong biên bản cuộc họp các nhà văn Moskva vào ngày 31 tháng 10 năm 1958, có ghi lại lời của Anatoly Safronov, nguyên là Bí thư Hội Nhà văn Liên Xô, như sau: “Hồi đó tôi chưa đọc cuốn sách đó và bây giờ tôi cũng chưa đọc”. Một số nhà nghiên cứu khác coi bác thợ lái máy xúc Fedor Vasiltsov là người “mở đột phá khẩu” khi bác thợ này gửi đăng trên báo “Văn học” số ra ngày 1 tháng 11 năm 1958 bài viết của mình có tựa đề “Con ếch trong đầm lầy”, trong bài viết ấy có câu: “Báo chí đang đề cập tới một tay Pasternak nào đó. Cứ cho là có một nhà văn tên như thế đi. Cho đến nay tôi chưa hề biết gì về tên tuổi này, cũng chưa bao giờ đọc sách của hắn… Nhưng gã ấy không phải là nhà văn mà là một thằng Bạch vệ… Tôi không đọc Pasternak!”. 

Có một tài liệu khác trong đó mấy chữ “Tôi không đọc Pasternak” được nhắc đến qua lời phát biểu anh thợ tiện Sutsatov ở một nhà máy đồng hồ trong tài liệu “Thông tin về việc khai trừ Pasternak ra khỏi Hội Nhà văn Liên Xô” gửi tới Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Bộ trưởng Bộ Văn hóa Liên Xô Ekaterina Furtsevoy đề ngày 30 tháng 10 năm 1958. Anh thợ Sutsatov nói như sau: “Chúng ta chưa từng đọc sách của Pasternak. Nhưng các Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn đã đọc cuốn tiểu thuyết này và đã xử lý xứng đáng khi khai trừ Pasternak ra khỏi Hội Nhà văn – khai trừ một tên phản bội quyền lợi của nhân dân. Pasternak không có chỗ đứng trong hàng ngũ của chúng ta!”.

Ban Chấp hành Trung ương, KGB và những khoản tiền của nhà văn

Một trong những điều thiệt thòi không nhỏ của Pasternak là việc không cho phép ông nhận những khoản nhuận bút trả cho nhiều công trình dịch thuật của ông sang tiếng Nga. Ngày 11 tháng Giêng năm 1959, Pasternak đã gửi thư tới Hội bảo vệ bản quyền Liên Xô kêu rằng người ta đã không trả cho ông 21 ngàn rúp nhuận bút của công trình dịch thơ các nhà thơ Gruzia và của công trình dịch tuyển tập kịch của nhà viết kịch Ba Lan Juliusz Slovak sang tiếng Nga.

Riêng với tiểu thuyết “Bác sĩ Zivago”, Pasternak đã ủy quyền cho các bạn văn của mình ở nước ngoài như Hemingway, Remarque, Laxness, Mauriac và những nhà văn, nghệ sĩ tiếng tăm khác nhận phần nhuận bút của ông ở nước ngoài; còn ông sẽ nhận khoản nhuận bút khi “Bác sĩ Zhivago” được xuất bản tại Liên Xô (?!). Quyết định của ông như chọc gai vào mắt các giới đảng và chính quyền Xô Viết. Bằng quyết định ấy, nhà thơ nhà văn bị thất sủng dường như dành được quyền độc lập về tài chính, nhưng đồng thời cũng là người viết kiếm được đồng nhuận bút khó khăn, nhọc nhằn xưa nay chưa từng có.

Vậy khoản nhuận bút xuất bản cuốn “Bác sĩ Zhivago” ở nước ngoài áng chừng bao nhiêu? Đại sứ quán Liên Xô tại Thụy Điển thông qua báo “Dagens Nyheter” được biết: tính đến ngày 31 tháng 11 năm 1958, một tài khoản được mở dành gom tiền nhuận bút việc xuất bản tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago” đã thu tới 900 ngàn USD (ở Mỹ là 364 ngàn USD, ở Anh là 70 ngàn USD, gần 440 ngàn USD là ở các nước khác…). Cần nhắc bạn đọc nhớ cho rằng giá trị 1 USD thuở đó lớn gấp 10 lần hiện nay.

Đại sứ quán Liên Xô tại Thụy Điển gợi ý để B. Pasternak chuyển số tiền nhuận bút đó cho Hội đồng Hòa bình Toàn thế giới. Bộ phận văn hóa của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tỏ vẻ cứng rắn hơn, khi bác bỏ ý kiến của Sứ quán Liên Xô tại Thụy Điển. Còn mọi chuyện tiếp theo được giao cho Cơ quan mật vụ Liên Xô KGB.

Bắt đầu một loạt những biện pháp trừng phạt nhà thơ và những người thân thuộc của ông. Ngày 16 tháng 2 năm 1959, một tài liệu của KGB Liên Xô, phía dưới ký tên Chủ tịch Cơ quan mật vụ này là Aleksandr Shelepin về việc “Vạch trần những mối quan hệ giữa B. Pasternak với các công dân Liên Xô và nước ngoài”. Hai ngày sau, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô có ngay một tài liệu khác: “Tài liệu của Ủy ban an ninh quốc gia trực thuộc Nhà nước Xô Viết lưu giữ những hồ sơ liên quan tới Pasternak”. Cả hai tài liệu này được giấu kín một thời gian dài trong ngăn đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô với dòng chữ “Hoàn toàn mật”. Người ta chỉ khám phá ra chúng vào những năm 1990. Trong tập tài liệu thứ hai tìm thấy bức thư của Pasternak gửi cho người bạn, người quen nào đó mang tên Mak Gregor”, vào tháng Giêng năm 1959, ông bộc bạch: “Sợi dây thừng vô hình ngày càng thít chặt quanh cổ tôi, nhằm buộc tôi phải quỳ gối. Nhưng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Tôi bước qua ngưỡng cửa Năm Mới với nỗi tức giận và tinh thần sẵn sàng quyên sinh”.

Điều lo ngại nhất của Cơ quan mật vụ KGB là tin loan truyền Pasternak có thể rời khỏi Liên xô và khi đó sẽ trở thành con người ngoài vòng pháp luật Xô Viết. Thêm vào đó, theo ý kiến cũng của Cơ quan mật vụ KGB, sự “nổi điên” của nhà văn có thể khiến ông sử dụng tất cả những phương tiện có trong tay mình để thành lập một cái quỹ đánh phá Xô Viết. Xin nhắc lại, một triệu USD vào những năm tháng đó là một khoản tiền rất lớn. Chưa kể rằng nhuận bút của “Bác sĩ Zhivago” vẫn liên tục được nạp vào tài khoản của nhà văn. Điều đáng nói là, đến thời điểm này những gì KGB gom tích được chưa đủ điều kiện để bắt giam nhà văn hoặc đưa ông ra trước vành móng ngựa. Cho tới lúc này, Pasternak vẫn hoàn toàn tỉnh táo và thận trọng trong những lời phát biểu của mình..

Dịch giả gửi Văn Việt.

 

Ngoài khơi miền đất hứa, một huyền thoại thời hậu chiến

Phan Huy Đường

 

Không gian: 1,5 mét vuông, cao 1,2 mét. Thời gian: 212 ngày đêm luẩn quẩn trong cũi. Trần gian: một bầy rận đói. Nhân gian: một thân hình muốn thẳng lưng phải cúi đầu, một thể xác khao khát người yêu, một bộ óc quay cuồng trong vài dòng chữ khắc bằng móng tay trên bức tường đen cộm mồ hôi của tù nhân: Hận bu, thù bố….Phải trả thù… Ðứa nào vuốt tóc em ở nhà ?… Con nhớ lắm mẹ ơi… Muốn lắm… Ð. m. mày muốn cái gì ?

Một kiếp người Việt Nam hôm nay phải bắt đầu như vậy. Ðây không phải sự thực như chuồng cọp, chuồng bò ở Côn Ðảo xưa. Ðây là chuyện bịa đặt, là tiểu thuyết, là huyền thoại, hình hài mơ hồ nhất của con người, chỉ có thật trong trí tưởng tượng, là ngôn ngữ, là nghệ thuật, là nghệ thuật bằng ngôn ngữ. Chỉ đọc một chương Ngoài khơi miền đất hứa, tiểu thuyết của Nguyễn Quang Thân, cảm nhận được ngay và nhập cuộc. Nhập cuộc dẫy chết của một thời đại qua cuộc dẫy sống của một thế hệ. Nhập cuộc với tất cả lý trí ngớ ngẩn của người đã biết: con người là loài sinh vật có vú, có đầu, có mình, có tứ chi, có bộ óc vận động theo lôgíc hình thức hay quy luật duy vật biện chứng, thông minh tuyệt vời, có thể hiểu tất cả, giải thích tất cả, giải quyết tất cả. Nhập cuộc để lạc vào một giấc mơ kỳ lạ, vừa xa lạ vừa thiết thân.

Nhà văn khác kẻ viết lách kiếm ăn ở điểm đó: làm nở được một giấc mơ, tạo dựng được một huyền thoại, âm ỉ tồn tại trong hồn độc giả. Giấc mơ ấy là gì ? Huyền thoại ấy là gì ? Làm thế nào nhét nó vào đầu người đọc ?

Cứ theo bước chân loạng choạng của Tuấn, sau cú nốc ao hiểm hóc và xảo quyệt của một thằng lưu manh giỏi võ Tàu, trở lại đời, là gặp.

Cuộc đời trước mắt chẳng có gì huyền ảo. Cái thế giới xoay quanh tiền mặt – tình yêu tiền mặt – lãi suất – chiếm lĩnh vốn – vay trả vòng vèo trong đó mọi người lao vào nhau, hôn nhau, làm tình, cắn xé, cười cợt và tước đoạt lẫn nhau, sẵn sàng đổi một mạng người để lấy chiếc xe đạp, cái thời đại mà đến Chúa cũng biết mua, biết bán, cái kiếp người như một cây mía đã cho vào che. Nó cứ bị cuốn tuột đi, đời chỉ còn là bã, cái xã hội không cần nhà phát minh, không cần nghệ sĩ. Vàng có khắp nơi… Bóp họng người khác là ra vàng. Hèn mạt, phản trắc, lừa lọc, ngậm miệng lại như hến cũng ra vàng, cái thân phận chỉ lo sao chường ra một bản mặt khiêm tốn, chín chắn và biết kính trên nhường dưới… chẳng thà không làm việc gì hết còn hơn hùng hục làm mà thất lễ với cấp trên ta nghe đã nhàm tai.

Thế giới ấy là thế giới thực. Chẳng cần tìm đâu xa. Ngay trong đời mình cũng kiếm được. Con người trong thế giới ấy rất thực. Nó cần ăn, ngủ, đụ, ỉa. Nó biết làm tất cả những gì cần thiết để đảm bảo sự tồn tại ấy, kể cả đạo đức. Tóm lại, một cuộc đời giả dối trong một xã hội giả dối, có gì lạ lùng ? Chẳng có gì lạ lùng khi ta đứng ngoài cuộc đời, đứng ngoài xã hội, khi ta chẳng còn là người, mà là Trí Tuệ, là Thượng Ðế. Nhưng nếu đứng trong cuộc đời, trong xã hội thì huyền bí thực. Anh là anh, tôi là tôi, xã hội là chúng ta, anh lừa tôi, tôi lừa anh, ai hơn thì thắng, đơn giản, trong suốt, làm gì có giả dối trong đời. Anh chỉ là cuộc đời của anh, tôi chỉ là cuộc đời của tôi, xã hội chỉ là sự tranh chấp, lừa lọc giữa chúng ta, rõ ràng, minh bạch, chắc nịch, dầy đặc, không có một khe nào cho sự giả dối chen vào.

Ðể vẽ cho xã hội một bộ mặt giả dối, để tạo cho con người một vẻ mặt giả dối, phải có một cái gì khác khiến anh không chỉ là cuộc sống của anh, tôi không chỉ là cuộc sống của tôi, xã hội không chỉ là cuộc chém giết, lừa gạt nhau để tồn tại, đàn ông không chỉ là đực, đàn bà không chỉ là cái. Khắp chân trời góc biển, không có gì làm được việc đó. Phải có một huyền thoại, một giấc mơ, một nhịp cầu giữa giấc mơ và thực tại. Từ muôn thuở huyền thoại ấy có một vẻ mặt: Người. Ngày nay giấc mơ ấy có một cái tên: tự do, có một âm hưởng: hạnh phúc. Muôn đời, giữa người với người, giữa giấc mơ và hiện thực chỉ có một nhịp cầu: đồng loại là đồng lõa.

Khẳng định, chấp nhận sự đồng lõa đó là hoà nhập con người vào cuộc sống, là nện vào mặt đất một giấc mơ, lồng vào vũ trụ một huyền thoại: con người tự do, hạnh phúc. Chuyện đó, ta thực hiện hàng ngày khi kiếm cơm mà thấy phấn khởi hay nhục nhằn, khi tính toán mà vẫn say mê, khi do dự làm một đứa con. Chuyện đó, tác giả cũng khẳng định ngay mấy trang đầu truyện:

– Nếu coi con người không ra gì thì tất cả sự nghiệp này vứt đi hết.

Làm sao tin được một giấc mơ, một huyền thoại ?

Tiểu thuyết là chuyện bịa đặt. Không bịa đặt ở sự vật, sự kiện. Những thứ ấy góp nhặt trong đời, có thừa. Cái bịa đặt rõ ràng nhất là cốt truyện. Cốt truyện khiến mọi sự vật, sự kiện dường như gắn liền với nhau, phát triển có đầu có đuôi, có ngọn có ngành, theo một lôgic nào đó. Không gian, thời gian và nhân gian rất trật tự đó do nhà văn bịa ra. Nó đáp ứng một nhu cầu của con người, kẻ suốt đời sắp xếp vũ trụ theo mục đích của mình. Về mặt này tác giả có kỹ thuật dựng truyện khéo. Chỉ liên tưởng sự bồi hồi của Tuấn, trong mấy trang đầu, khi tưởng tượng tới nhan sắc của Bích nổi lều bều trên sông với cảnh Thảo đi nhận xác Bích từ biển rạt vào, ở cuối truyện, cũng thấy tay nghề và công phu dựng truyên. Nhưng nếu chỉ có cốt truyện tinh vi, hập dẫn, chỉ đủ giải trí vài giờ như truyện trinh thám.

Tiểu thuyết bắt đầu hay khi ta hết thao thức: sự việc rồi sẽ ra sao ? mà bồn chồn: con người ấy sẽ thế nào ? Con người núp sau hàng chữ lem nhem là giấc mơ, là huyền thoại của tiểu thuyết. Giấc mơ, huyền thoại ấy, ta chỉ có được, tin được khi chính ta là tác giả của nó, khi tác giả đã đồng lõa ta với sáng tác của mình. Nghệ thuật viết tiểu thuyết là nghệ thuật đồng lõa độc giả. Ðiều kiện thực hiện nó: tác giả với ta là đồng loại. Phương tiện thực hiện nó: ngôn ngữ. Qua ngôn ngữ ta là đồng loại, và do đó, có thể đồng lõa với tác giả.

Ngôn ngữ trong Ngoài khơi miền đất hứa là ngôn ngữ thường ngày, thực dụng, thô bạo, lột trần mặt nhau, lột trần mặt đời, lột trần mặt mình. Nó giống con người ngày nay, cặn bã của một thế kỷ bất nhân, của một giấc mơ phi nhân, của một bộ máy diệt nhân. Nó nói: chúng ta là những con chó. Con người tưởng mình là người có khi chẳng hơn con chó không biết mình là chó. Con chó biết mình là chó là con chó đang lột xác chó để làm người, là con người đang hình thành từ phận chó.

Khoảng cách lờ mờ giữa những lời ăn nói thô bạo kia và những con người phát ra nó là nhân cách, là sự tự hào, quyết tâm làm người trong một hoàn cảnh chó má. Nó không có hình dạng, không có âm thanh, không có trong văn bản. Ta không thể thấy, không thể nghe. Ta chỉ có thể tái tạo nó trong hồn ta, và tự nhiên ta “thấy”: đúng thế, không thể thế, phải… Có nghĩa là ta bắt đầu ôm một đống chữ để nặn một vóc người, bắt đầu đồng lõa với tác giả. Cuộc chất vấn xã hội, chất vấn con người đã trở thành cuộc xuyên tạc lời nói, cuộc hồi sinh ngôn ngữ, khiến nó không chỉ là một công cụ thông tin có định nghĩa, mà còn là một tiếng kêu, một giọng cười, một lưỡi dao thọc vào nhân cách của người đọc: nó đã thành nghệ thuật.

Nghệ thuật tiểu thuyết cần lòng nhân ái, thái độ nhân bản, sự hiểu biết sâu rộng, tay nghề, và… một chút men. Chút men đó là con người sáng tạo hồn người, sáng tạo sự thật của con người. Nó khiến tình cảm, lý trí đọng lại trong nét mực. Phải có nó mới có Ðẹp. Trong Ngoài khơi miền đất hứa có đoạn còn thiếu chất men đó. Có lẽ vì tác giả còn bị ảnh hưởng của một quan điểm đã thắt họng thơ văn Việt Nam từ hàng chục năm nay, biến thành thói quen của ngòi bút: sứ mệnh… rọi chiếu Sự Thật, giải thích suy nghĩ, tình cảm…

Cơn sốt điên đầu của Thảo, nhà văn nửa đời nửa đoạn, có đủ yếu tố để thành một bản tình ca cuộc sống, thế mà chỉ thành một đoạn nghị luận về sự cần thiết và giới hạn của pháp luật, sự chân thành hay giả dối của nhà văn.

Änh hưởng này đặc biệt tai hại khi nó thường xuyên chen vào dòng văn, làm dòng văn đứt đoạn. Thí dụ, sau khi tả Tuấn ngày đêm luẩn quẩn với mấy dòng chữ trên tường cũi tù, tác giả phê: Sách của anh đó, những cuốn sách viết bằng nước mắt những số phận bất hạnh. Lời bày tỏ tình cảm của tác giả khác gì một con dao thọc tiết nhân vật ! Những câu giải thích tình cảm của nhân vật, bày tỏ sự cảm nhận của người này đối với người kia có tác dụng làm cụt hứng người đọc. Nhưng đó là nhược điểm nhỏ của một quyển sách hay, trong đó một con chó cũng thành nhân vật, một cái hôn cũng lột trần một thân phận.

Ngoài khơi miền đất hứa là một tiểu thuyết đẹp về tình yêu, tình bạn, tình người của một thế hệ không mặc cảm, sẵn sàng gánh lên vai gia tài của một lịch sử tàn bạo, của một giấc mơ tàn nhẫn, đấu tranh với một bộ máy man rợ để cướp lại tương lai, tự tạo nhân cách. Có những đoạn văn tuyệt đẹp, như đoạn văn tả Mai vừa dẫn bạn đi bán trinh cứu mẹ, vừa cổ vũ:

– Mày cứ đòi bằng được nửa chỉ đeo vào tay rồi hãy cho nó. Ðừng khóc !

Mai nói thế nhưng nó cũng dơm dớm nước mắt.

– Chúng mình sinh ra phải số chó mực. Cứ thở dài đi cho nhẹ mình, nhưng phải hy vọng. Không còn cách nào khác đâu Hương. Ai rồi cũng có lúc qua cầu. Thằng đàn ông nào mà chẳng khốn nạn. Nhất là bọn giàu sang. Nó càng cao sang thì nó càng dí mình xuống đất. Cho thằng nào thì cũng thế thôi. Chỉ đau một tí tẹo, như cái kiến nó đốt, chảy một tí máu là xong.

Hương cởi quần áo, ngắm mình trong gương lòng vẫn dửng dưng thấy Có hai Hương, Hương này và Hương kia, trong gương, chỉ nhìn thấy mà không sờ tới được. Tý nữa Hương này sẽ bị bán. Cái Hương kia còn như cũ được không ? Hương vừa dội nước múc trong cái vại lớn vừa nghĩ ngợi, vui vui, không sợ, không buồn.

Khốn nạn quá. Ðáng yêu quá. Ðẹp quá. Lột xác chó để làm người, hôm nay, phải như vậy.

1990

Tác giả gửi Văn Việt.

Buông (Mùi máu II)

Truyện ngắn của Bùi Mai Hạnh

Bui Mai Hanh
Bùi Mai Hạnh

 

Vài tuần sau khi Mùi máu ra mắt bạn đọc, một người đàn ông lạ đến tìm tôi. Thật bất ngờ. Cả trong mơ, tôi cũng không nghĩ đến ngày có một người đàn ông Việt bấm chuông nhà mình, xa xôi tận cùng Nam Úc, nơi duy nhất tôi người Việt.

Ở tuổi đã định hình tinh tướng, vị khách cố giãn bớt nét gian hùng trên gương mặt đa nhân cách, chào tôi bằng cái nhếch mép cầu thân. Tôi thầm cám ơn thiện ý đó. Có vẻ như ông ta thuộc loại người ngửi được mùi bất lương của những thanh âm phát ra từ bàn tay xa lạ gõ vào cánh cửa, nhưng dễ dàng gục ngã trước những mong manh thì thầm ngọt ngào.

“Tôi đã đọc truyện của bà. Cái kết sai rồi”. Vị khách nói: “Cô ấy không đi làm gái, không vào trại tâm thần, cũng không tự sát. Cô ấy vẫn sống, đi xuất khẩu lao động, và trở thành vợ tôi”.

“Tốt quá”, tôi nói mà như chả nói gì.

“Cô ấy không chết”. Vị khách của tôi nhắc lại.

***

Tôi vốn là thằng nhà quê mơ mộng, lãng mạn, nhiều hoài bão. Mơ mộng yêu được một cô gái xinh đẹp trinh trắng con nhà lành. Lãng mạn cưới được một người đàn bà đức hạnh xứng đáng để hàng ngày bưng nước ấm cho nàng rửa chân. Hoài bão xây dựng được một tổ ấm đông đúc, no đủ, thơm thảo, dù có phải dấn thân giang hồ bất chấp hiểm nguy hay lao động khổ sai trâu ngựa.

Khi ôm được vào lòng cô tiểu thư thành phố sau cả năm trời kiên trì si tình, tôi ngỡ cánh cửa đời mình mở ra rực rỡ mùa màng hoa trái. Nào ngờ!

Ồ, không, không chỉ vì tôi là thằng đến sau. Tôi đâu đến nỗi ngu xuẩn tầm thường thế. Tôi có cả tá đàn bà trước nàng sao lại đòi nàng còn trong trắng cho tôi? Dẫu vậy, nom nàng lá ngọc cành vàng, mỏng manh trẻ thơ đến thế, tôi không thể không chạnh lòng ghen… Tôi giấu nhẹm niềm tiếc nuối vào hơi thở dài theo khói thuốc vòng vèo lởn vởn trong căn phòng khách sạn sang trọng bậc nhất thành phố.

Nàng đã mất trinh tiết! Cứ nói thẳng ra thế cho dễ. Nàng thút thít. Tôi an ủi rằng mất trinh là hết sức tự nhiên. Nàng nghẹn ngào. Tôi nửa đùa nửa thật, dù em có ngủ với cả trăm thằng trước tôi cũng không sao. Nàng nức nở. Tôi vỗ về, chẳng phải chúng mình vừa là lần đầu của nhau? Nàng tức tưởi. Có điều gì oan ức em không thể nói ra?

Tôi thích nhìn đàn bà khóc. Xúc cảm không thể kìm nén làm gương mặt họ chân thực đẹp bất ngờ. Đàn bà đẹp khóc càng đẹp. Nàng đẹp, với má hồng nhòe nước, với môi mọng đỏ mím chặt ghì tiếng nức nở, với mắt long lanh non bấy hoang dại. Tóc mai bết vào trán duyên dáng ôm gương mặt bầu bĩnh trẻ thơ. Tóc phía sau được cột lên, lộ chiếc cần cổ kiêu sa mong manh trắng sứ trên bờ vai rung rung nhè nhẹ. Nàng nhìn tôi, chờ đợi.

“Em không cần kể anh nghe chuyện quá khứ. Nhưng nếu em muốn kể vì điều đó làm em dễ chịu hơn, thì kể đi. Anh sẵn sàng lắng nghe đây”.

Mới tí tuổi làm sao đã có quá khứ, tôi cười thầm, công chúa phải gai mồng tơi. Cứ cười đi, rồi tôi sẽ phải khóc vì thói khinh bạc cao ngạo!

Quá khứ của nàng thuộc hàng tuyệt mật. Kẻ nắm giữ nó, nói ra là đào huyệt tự chôn mình. Không phải ai cũng muốn biết thứ sự thật trót nghe thì không thể xóa khỏi trí nhớ. Thứ sự thật đau đớn. Giống như bị một dấu nung đỏ vào giữa trán. Thịt cháy xèo xèo khét lẹt. Cộng với nỗi đau thể xác, tâm hồn bung nở đón nhận âm thanh mùi vị của nỗi đau. Dù đã thành sẹo, sẹo mờ dần theo thời gian, mùi vị và âm thanh nỗi đau vẫn đấy. Nàng đang gánh nỗi đau như thế. Và nàng, một cách hồn nhiên nhất, thành thật nhất, lương thiện nhất, đổ tuột nỗi đau ấy sang tôi.

Tiểu thư lá ngọc cành vàng của tôi, mỏng mảnh trong chiếc váy ngủ màu hồng nồng mùi yêu, ngồi bẻ quì ở tư thế xưng tội trên chiếc giường xô lệch gối chăn, chăm chú nhìn tôi không chớp. Tôi tạo nét mặt nghiêm trọng, ngồi xếp bằng, vươn thẳng người, sẵn sàng lắng nghe.

Nàng dứt khoát nhích khỏi tầm tay với của tôi, dựng khoảng cách cần thiết cho điều sắp thổ lộ.

“Kìa, nói đi em”. Mắt tôi nheo cười khích lệ.

“Anh sẵn sàng nghe em nói chứ”. Lông mày nàng rướn lên dò hỏi. Và thách thức: “Anh sẽ không ân hận chứ?”.

“Không”.

Nàng hít một hơi thật dài, lấy thêm can đảm. Bờ môi cong cong nhục cảm thốt ra từng lời, như đong như đếm:

“Người – ấy – là – bố- em”.

……..

………

…….

 

Ô hô…Hu hu…Ha ha…

Tôi đã khóc? Đã cười? Đã cấm khẩu?

Nàng đã nói ra sự thật ô nhục của nàng, của gia đình nàng với tôi, chứng tỏ sự tin tưởng tuyệt đối của nàng vào thằng đàn ông là tôi. Nàng, và cả tôi, trong men say của tình yêu và nỗi đau, trong cơn bốc đồng của tuổi trẻ cao thượng, đã bộc lộ, đã cởi bỏ chẳng đề phòng, chẳng che giấu, chẳng ngờ nổi chính câu chuyện hôm nay sẽ là khởi nguồn cơn bão ngày mai, cơn bão lốc sẽ cuốn tôi đi theo những ngả bất ngờ và nhấn chìm tôi vào những cung đường tình cảm mù mịt không lối thoát.

Tôi, thằng người sinh ra trên rơm rạ, say đắm với cổ tích ca dao, thoát chết khỏi chiến tranh huynh đệ, trôi theo sóng thời cuộc quăng quật tị nạn, bị nhào nặn dở ông dở thằng dở ta dở tây, mới đau khổ bảo nàng, rằng tôi tôn thờ nàng. Rằng mất mát đời tôi tất tật ruột thịt gia tài chìm sâu đáy biển có là gì so với mất mát đời nàng. Rằng chúng tôi không chung quá khứ nhưng chung kiếp nhục di truyền từ tổ tiên. Rằng chúng tôi chỉ là hai cánh bèo tơ tướp lạc trên đại dương mênh mông may mắn va vào nhau. Rằng tôi sẽ làm tất cả để xoa dịu bớt nỗi đau nàng gánh chịu. Rằng tôi sẽ hi sinh, cả danh dự nếu cần, để mang lại hạnh phúc cho nàng. Tôi bỗng thấy mình, muốn thấy mình, quân tử yêng hùng như một Từ Hải ra tay cứu nàng Kiều khỏi ổ quỷ.

Ổ quỷ đời nàng là những ám ảnh bị nguyền rủa bị xa lánh bị xua đuổi. Tôi, cái thằng tôi mơ mộng lãng mạn, thực lòng muốn thế, thực lòng sẽ hành động để làm điều đó, nguyện suốt đời làm điều đó. Rồi chúng tôi sẽ có con, nàng sẽ bận bịu với nuôi dạy con cái, với tiệc tùng và những chuyến du lịch. Nàng sẽ chẳng thừa ra một phút nào để mà buồn rầu.

Sẽ không bao giờ nhắc lại chuyện này. Sẽ vĩnh viễn khóa chặt cánh cửa quá khứ. Sẽ vứt chìa khóa xuống đại dương lãng quên. Tôi thề!

Sẽ có nhau, sẽ có cuộc đời mới. Ít tốt hơn nhiều, cho tốt hơn nhận, buông tốt hơn buộc, cứ theo thế mà sống, mình nhé! Nàng thủ thỉ trong nước mắt.

Tôi nguyện thề mà chẳng mảy may ngờ được, khoảnh khắc nghe nàng thốt ra lời thú, tôi không còn là cái thằng tôi của một phút trước đó nữa.

Tôi biến thành thằng người khác mà tôi vẫn cứ ngỡ đó là tôi.

Tôi là thằng người lỡ uống phải một ngụm độc dược và, cả quãng đời tiếp theo của tôi chỉ là, sống để tẩy rửa chất độc ấy. Thứ độc dược nhanh chóng ngấm vào tim gan phổi phèo, biến thành máu, thành não thành tủy, và nhân lên thành da thành thịt, hóa thành linh hồn tôi. Những lời thú của nàng ngay lập tức quẳng tôi xuống địa ngục chín tầng đẩy ải, mà cả đời tôi tiếp theo chỉ là, sống để chịu đựng và tìm cách thoát ra…

Mãi sau này, mãi đời tôi, cho đến lúc chết, tôi cũng không tha thứ được cho mình sai lầm hôm đó: nghe nàng nói sự thật. Không có gì đáng sợ hơn sự thật. Bởi không có gì có thể hạ nhục nhân phẩm con người hơn bằng sự thật, về con người.

***

Lần đầu tiên làm tình với nàng là lần duy nhất tôi hưởng trọn vẹn hạnh phúc. Những lần sau chỉ là tuyệt vọng tìm lại cảm giác đã mất. Vô ích! Làm sao có được, làm sao thấy lại, cảm giác thăng hoa ấy, khi mỗi lần làm tình với nàng, tôi luôn luôn chạm trán, lúc lén lút lúc sừng sững, một người thứ ba.

“Người – ấy – là – bố – em”.

Lời nàng găm vào tim tôi, một bàn chông tua tủa nhọn hoắt và dính chặt ở đó. Tôi loay hoay tìm cách thoát khỏi bàn chông nhọn. Con thú bị sập bẫy càng cố thoát ra càng tự làm nó đau đớn. Không muốn tin lời nàng, tôi dứt khoát rút từng cây chông nhọn khỏi tim mình, rút lại lời nàng nói. Tôi thấy dễ thở hơn khi tự kỷ ám thị, rằng chính nàng đã nói dối, rằng trên đời này không thể có một thằng bố đốn mạt như thế.

Tôi thà đổ cho nàng cái tội nói dối còn hơn tin bố nàng là thằng đã cướp đời trinh trắng của nàng!

Nàng đã nói dối, đơn giản để giấu kín một bí mật khác còn khủng khiếp hơn thế nhiều??? Nàng đã nói dối, chỉ vì, tôi không muốn tin điều nàng nói là sự thật.

Chỉ cách ấy mới giúp tôi, một thằng lưu vong giang hồ bao phen thoát chết, lấy lại được thăng bằng, chu toàn đạo vợ chồng, nuôi nguồn vui sống.

Và đứa con đầu lòng chào đời. Con gái! Một cô công chúa bé bỏng.

Hàng ngày, tôi mê say ngắm nhìn con gái. Tôi nâng niu sinh linh nhỏ bé mỏng mảnh trên tay mà ngỡ ngủ mơ. Tôi nín thở lồng vào bàn tay xinh xinh của con gái chiếc bao tay mềm mại như da non. Tôi lẩn thẩn mân mê những ngón chân tí xíu của con, thấy tim mình tan ra vì hạnh phúc. Tôi cảm thấy trong mình cuộn chảy nguồn sức mạnh to lớn bất ngờ, giúp tôi đánh bại bất kỳ đối thủ nào, để bảo vệ sinh linh bé bỏng này. Lòng tôi tràn ngập niềm biết ơn nàng đã cho tôi một đứa con gái hoàn hảo.

Tôi bế con bằng đôi tay to lớn. Tôi nâng con lên cao như muốn khoe với cả thế giới, rằng tôi đã tạo ra một sinh linh từ máu thịt tinh huyết của mình. Tôi đưa con ra ánh sáng trời, cho những tia nắng mới nhảy múa với làn tóc nhung tơ, lóng lánh phát sáng trong đôi mắt thiên thần. Trong niềm hưng phấn tột cùng ấy, tôi rúc mặt mình vào bụng con gái, hít hà hơi sữa thơm đến quặn thắt, như nghe được tiếng cười dòn tan đâu đây…

Đúng lúc ấy, một tiếng hét hoang dại vút lên chói lói xé rách màng nhĩ. Vợ tôi tồng ngồng chạy ra từ nhà tắm, giằng lại con bé, miệng lắp bắp điên cuồng.

“Đồ khốn nạn! Giả con gái tôi đây. Anh mà động đến nó tôi giết chết anh ngay lập tức!”.

Nàng, chỉ định ngó cổ ra khỏi phòng tắm nhờ tôi đưa cho chiếc cặp để vấn lại tóc cho khỏi ướt, đã bắt gặp đúng lúc tôi đang rúc đầu vào bụng con gái bé bỏng hôn hít.

Tôi chết đứng!

Đổ vật xuống giường.

Câm!

Làm sao có đủ từ ngữ để nói thành lời nỗi đau chỉ nghĩ thôi đã hóa điên!

Tôi nằm bẹp dí tơi tả sau cơn bão lòng điên cuồng đánh đập. Vẫn lắng nghe tiếng bước chân nàng khẽ khàng di chuyển, lau chùi bếp núc. Vẫn biết nàng đang tưới cây, làm vườn, trò chuyện với lũ chim chóc. Nàng còn khe khẽ hát ru con, một bài dân ca tôi thích. Giọng nàng buồn bã trong trẻo…

Gần sáng, nàng bất ngờ chui vào chăn, thì thầm: “Em xin lỗi hôm qua đã nặng lời với mình. Cũng tại mình giơ con lên cao quá, làm em lo phát điên. Lỡ mình đánh rơi con thì sao”.

Trái tim nhoi nhói vọng lên trời. Đêm không còn là đêm. Và ngày cũng chưa hẳn đã ngày.

Tôi quay đi, trong bóng nhờ nhợ tối, lặng lẽ lau nước mắt. Tôi biết mình sẽ không bao giờ được phép hôn con gái trước mặt nàng. Tôi biết mình sẽ không bao giờ có thể âu yếm con gái ngay cả khi không có nàng. Tôi vĩnh viễn bị cướp mất niềm hạnh phúc người cha được ôm ấp cưng nựng thiên thần bé bỏng của tôi trong vòng tay yêu thương che chở…

Tôi quay lại, ôm lấy tấm thân run rẩy thân thương của vợ. Tôi làm tình với nàng, trong cố gắng tuyệt vọng, hòng dập tắt câu chuyện loạn luân đội mồ sống dậy trào phun như núi lửa.

Thiện ý đổ cho nàng tội nói dối không thành.

***

Đó là những năm cuối cuộc nội chiến khủng khiếp và dai dẳng…

Bố nàng, một quân nhân góa vợ, trong một lần về phép, đã rút khẩu súng ra để trên đầu giường con gái, gằn giọng “Mày mà hé miệng ra là tao giết”, trước khi tụt quần áo đứa con gái duy nhất.

Trong vai một ông bố luôn phải xa nhà vì liên miên trận mạc, đấng sinh thành ra nàng “đau đớn” âm thầm tung tin con gái phát dục sớm, dám cả gan dắt bạn trai về nhà, cũng tại mồ côi mẹ, bố vắng nhà, không ai canh chừng dạy bảo. “Mày đi tố giác cũng không ai tin mày”. Khẩu súng rút ra khỏi bao. Quần đứa con gái lập tức tự động rơi khỏi tấm thân phổng phao dậy thì! Đứa con gái “hư hỏng, đồi trụy”, khi không còn là đối tượng “an toàn” nữa, bèn được gửi vào đội quân xuất khẩu lao động mãi tận vùng cực Bắc địa cầu bốn mùa băng giá.

Nàng, con hủi của dòng họ, giá mà tự nhiên biến khỏi đời sống hậu chiến hân hoan hòa bình thắng lợi, hân hoan sản xuất tăng gia, hân hoan vui bất tuyệt… thì là đại phúc!

Sao nàng không bị hãm hiếp rồi bị giết vùi thân trong tuyết lạnh chết mất xác ở một cánh rừng nào đó nơi hoang vu ấy như một số đồng nghiệp xấu số?

Sao nàng không trúng phải tên rơi đạn lạc trong những ngày luồn rừng chạy trốn bạo loạn khi Đông Âu sụp đổ như người bạn gái đi cùng?

Sao nàng không chết đâm chết chém đâu đó trong cơn lốc thanh trừng đẫm máu giữa các soái buôn lậu, cờ bạc, ma túy, điên đảo tình tiền?

Sao nàng không chết mất xác ngoài biển như một triệu linh hồn Việt, đàn chim Việt di cư tìm ấm no, tự do, hạnh phúc???

Nàng tìm được tôi. Thi thoảng nàng lại thì thầm thủ thỉ, ít tốt hơn nhiều, cho tốt hơn nhận, buông tốt hơn buộc, mình nhé. Cứ thế mà sống.

Buông để sống.

Sống đã. Rồi có làm gì, có là gì, còn tùy vào mệnh trời, mệnh đất, mệnh nước.

Buông gia đình họ mạc dòng tộc.Buông đất nước xứ sở. Buông ký ức quá khứ. Buông tất tật. Cấm có ngoảnh lại.

Nhận ngôn ngữ mới. Nhận xứ sở mới. Nhận luật lệ đạo đức mới. Nhận linh hồn mới. Và cả hình hài mới…

Nhận tôi và những đứa con.

Với công việc làm ăn nho nhỏ hợp thức hóa số tiền tích được trong những năm tháng lăn lóc trường đời, tôi tự nhủ “biết đủ là giàu”. Giấc mơ thời trẻ của tôi đang trở thành hiện thực. Nàng sinh thêm cho tôi một gái một trai. Cuộc sống của chúng tôi hiền hòa trôi khúc khích tiếng cười trẻ thơ trên xứ sở của những nhà thờ, nơi nhà không bao giờ cần khóa cửa.

Bất ngờ, nàng nhận được thư nhà.

Thư của bố.

Không biết qua những nẻo đường nào, gia đình nàng tìm được địa chỉ của chúng tôi. Đó không phải là điều quá khó khăn với một quân nhân thâm niên?

Tôi lén đọc trộm thư. Tất nhiên, tôi cho mình có quyền làm cái việc vô liêm sỉ ấy.

Trong thư, bố nàng bày tỏ sự ân hận vì đã cho nàng đi xa khi còn quá trẻ, giải thích lý do biệt tích tin nàng, nhấn mạnh tình thương yêu nỗi nhớ nhung con gái và ý muốn được gặp gia đình con gái một lần giối già. Đầu thư là M. yêu của bố chấm than. Cuối thư là bố yêu M. nhiều, ba chấm. Tuyệt không một lần xưng bố gọi con.

Thế là sao??? Một con cáo nấp sẵn trong tôi bất ngờ nhảy xổ ra, nhe nanh vuốt.

Nếu thay từ bố bằng từ anh, nó có phong vị màu sắc y như một lá thư tình giữa hai tình nhân bị đày đọa xa nhau.

Lẽ nào hai bố con nàng yêu nhau như tình yêu trai gái? Và đó là tình yêu bị cấm cản, bị vi phạm đạo đức, nên phải giấu kín trong tim, phải tìm cách giết chết bằng mọi giá? Và cái giá cuối cùng là án khổ sai biệt xứ của nàng???

Tôi vốn là thằng mơ mộng hay nghĩ ngợi. Cái đầu bừng bừng bốc hỏa cãi với trái tim nhạy cảm của tôi rằng, khi mà chuyện vô đạo nhất, chuyện bố đẻ hãm hiếp con gái đã xảy ra, thì không chuyện gì là bất khả, kể cả chuyện bố con yêu nhau. Trong một đất nước triền miên chiến tranh, con người bị ném vào những hoàn cảnh dị thường, thì việc hành xử không ra con người lại là bình thường??? Có thể bố nàng, đời vào sinh ra tử khiến ông ta quẫn trí, chỉ còn mỗi một tham vọng gieo giống bản năng? Ông ta có lý do bí mật cho hành vi đồi bại của mình trước khi đi vào chỗ chết??? Có một khả năng nào khả dĩ bào chữa được tội ác của ông ta? Ông ta là ai?

Ông ta là ai? Câu hỏi khởi lên một mong muốn không thể cưỡng nổi. Tôi muốn gặp ông ta. Muốn đối mặt với ông. Một con người thật chứ không phải là một bóng đen ma trơi không giây phút nào hết chập chờn đeo ám…

Tôi thấy mình sắp chết vì ngạt thở.

Tôi phải làm một cái gì đó mà tôi chưa biết là gì!

Chờ dịp thuận tiện nhất, làm như chợt nhớ ra, tôi nói với nàng ý muốn cho các cháu gặp mặt ông ngoại. Tôi hồi hộp, tuyệt không thể đoán định được phản ứng của nàng.

Bất ngờ, nàng reo lên, như hưởng ứng một cuộc picnic dạo chơi rừng ngày chủ nhật: “Cám ơn mình. Ý kiến của mình hay đấy mà sao em chẳng nghĩ ra nhỉ? Mời ông vào Giáng sinh. Ông sẽ là một món quà lớn nhất mà các con không bao giờ ngờ tới”.

Đêm ấy, sau bữa tối với thịt cừu nướng và rượu chát, nàng cáo mệt muốn nằm riêng. Tôi hoàn toàn bất ngờ, không thể giải mã được nỗi vui mừng thái quá của nàng. Tôi ngỡ nàng không bao giờ muốn gặp lại người cha đồi bại. Tôi ngỡ nàng sẽ khéo léo từ chối. Tôi ngỡ tôi sẽ phải ân hận vì làm nàng tổn thương..

Cả đêm tôi không ngủ vì cố gắng phân tích thái độ của nàng, vì một nỗi đau không tên hành hạ. Chỉ con cáo và bộ nanh vuốt sắc nhọn của nó là an ủi được tôi.

Hôm sau, nàng chờ tôi bên bàn ăn sáng. Món pancake hoa quả tỏa mùi thơm dịu dàng. Phin cà phê đen do chính tay nàng sao tẩm cho đã miệng tôi cũng vừa nhỏ đến giọt cuối cùng. Vừa xoa bóp vai tôi, vừa ghé vào tai tôi, nàng âu yếm.

“Em ngủ mê mệt. Chắc vì hôm qua vui quá uống hết cả chai rượu đỏ. Chẳng cần mùi chồng vẫn ngủ ngon lành”.

Có thật nàng ngủ ngon lành?

Có thật nàng đã buông?

***

Con người thật là ảo tưởng về lòng vị tha, về tính thiện, về tình yêu của chính nó và đồng loại. Phải chăng vì ảo tưởng là nguồn khí ô – xy thiết yếu của loài người? Không có nó, người ta sẽ chết vì tuyệt vọng? Sẽ hóa điên vì sự trần truồng thảm hại của đời sống?

Mời bố nàng sang chơi để chứng tỏ với chính mình rằng tôi đã hoàn toàn quên đi quá khứ, hóa ra cũng chỉ là một ảo tưởng.

Từ thẳm sâu tối đen trong tim, từ vô thức, tôi đang muốn làm một điều gì đó, chính tôi không gọi tên được. Tôi biết nó vẫn ở đấy, nằm ở đó, yên đó, giả vờ, cố gắng phủ nhận chính sự tồn tại của nó, một cách tuyệt vọng nhức nhối.

Sự hiện diện của bố nàng, sẽ không chỉ là một phép thử, mà là một liệu pháp tâm lý lấy độc trị độc. Tôi cần sự va chạm này. Giống như chạm vào một quả bom, có thể câm, có thể bùng nổ hủy diệt.

Rất tự nhiên, mọi hành động cử chỉ của ông đều được não bộ tôi lập tức xếp vào ngăn nhớ, phân tích tỉ mỉ, nhằm phát hiện ra một ẩn ngữ khả dĩ mách bảo cho tôi sự thật. Tuyệt nhiên không. Không một mảy may dấu chỉ cho thấy giữa nàng và bố đã từng có chuyện chung đụng xác thịt. Từng có súng lục rút ra và áo quần rơi xuống. Từng có nước mắt và bạo lực, dục vọng và thù hận.

Ông thích ngồi bên lò sưởi, nhâm nhi rượu nho, kể chuyện chiến tranh, đặc biệt ông chỉ kể về những lần thua trận. Chìa bàn tay về phía bọn trẻ, những ngón dài như tay họa sĩ, ông tủm tỉm cười, cái cười thần chết quá mệt mỏi với công việc đếm xác, giọng bí hiểm ma mị: “Các cháu biết đấy, đến giờ ông vẫn còn ngửi thấy mùi thối xác chết từ hai bàn tay này. Ông đã sờ vào không biết bao nhiêu thây người. Ông đã cố gắng rửa mà không thể hết mùi. Không tin, đứa nào muốn ngửi ông cho ngửi này”. Lũ trẻ con rú lên vì thích thú và sợ hãi.

Không khí gia đình ấm cúng lan tỏa trong men say và mùi thơm ngây ngây của rượu đỏ, trong ánh lửa hồng hoang nguyên thủy, trong tiếng thì thầm của lũ trẻ bắt đầu lớn…

Cho đến buổi sáng ngày ông trở về nước, thế giới của tôi một lần nữa bị đảo ngược!

Ngay lúc này đây, kể lại chuyện này, tôi vẫn không tin, không bao giờ muốn tin, cảnh tượng tôi nhìn thấy là thật, hay chỉ là ảo giác? Vợ tôi nằm sấp trên xa lông, áo hai dây vén cao, có lẽ thế, và trắng lóa lưng trần. Bố nàng ngồi bên, hai tay vuốt dọc lưng con gái.Bóng họ lung linh mờ ảo trong luồng ánh nắng rực rỡ xiên chéo từ rừng vào cửa sổ. Trông họ không khác gì một cặp tình nhân đang âu yếm nhau… đã âu yếm nhau… sắp âu yếm nhau…

Choáng váng.

Tôi về nhà lấy cái điện thoại tôi cố tình để quên.

Và lặng lẽ ra khỏi nhà như kẻ chạy trốn…

Biển vắng. Chỉ sóng nghe được tiếng tôi gào thét uất hận cuồng điên. Chỉ cát thấm được những giọt nước mắt tôi tích tụ ghen tuông. Chỉ mặt trời sưởi ấm được con tim tôi lạnh giá đau khổ. Tôi thỏa sức khóc, thỏa sức gầm lên với Thiên nhiên, với Thượng đế, sao cứ đùa dai, cứ thử thách tôi mãi???

“Thấy em kêu mỏi lưng, bố bảo đưa bố xoa bóp cho”. Đó là tất cả những gì tôi nghe được từ nàng.

Ruột tôi quặn lên, thổ ra mật đắng. Tôi phun ra lời lẽ của con thú bất ngờ biết cách gầm lên tiếng người.

“Làm sao em có thể để cho bố em chạm vào người, nếu em thực sự ghê tởm khinh bỉ thù hận con người đó? Có lẽ nào, chính em đã quyến rũ bố mình làm chuyện đồi bại? Có lẽ nào, không phải em bị hãm hiếp mà em đã thông dâm? Có thể em đã thông dâm? Có thể em đã rất thích thú làm chuyện ấy với bố mình. Có thể chỉ bố em mới đem lại cho em đỉnh điểm của sự thỏa mãn nhục dục?”…

Mỗi câu hỏi ném thẳng vào nàng, như một cái boomerang quay lại xiên vào tim tôi, mổ nát linh hồn tôi. Đáp lại lời tôi cuồng nộ đến mất trí, nàng sững lại, như cố nhớ lại điều gì, lại như không thể nhớ ra. Rồi rất khẽ khàng, nhuốm chút mệt mỏi, thương cảm, nàng cất lời dịu dàng:

“Quả thực em không hiểu những lời mình nói. Bố thương yêu chăm sóc em, như mình thương yêu chăm sóc con gái chúng ta, như tất cả các ông bố trên đời. Mình đang nói những lời mê sảng. Em không muốn nghe đâu. Có lẽ mình bị bệnh rồi, để mai em đưa mình đi bác sĩ”.

***

Không, tôi không bệnh. Tôi vẫn đủ lý trí tỉnh táo để nhận thức được rằng, người đàn bà đầu gối tay ấp, người sẵn sàng trao cho tôi cả những bí mật chết người, người tôi ngỡ đã thuần phục và nắm bắt được từng hơi thở buồn vui, nay sừng sững trong đời tôi hoàn toàn xa lạ. Xa lạ đến độ tôi không hề biết gì về nàng, trừ một điều.

Nàng là một nhan sắc.

Một nhan sắc có nội dung, khí chất. Một nhan sắc được bảo hành.

Một nhan sắc đứng ngoài thời gian, đứng ngoài mọi khuôn khổ, mọi ước lệ, mọi bình giá. Không gì có thể phá hoại, không gì có thể làm nhan sắc đó lụi tàn. Vẻ đẹp tươi tắn kỳ lạ như mầm cây vươn lên từ thẳm sâu, từ nỗi đau, từ cái chết, từ lửa luyện địa ngục, được nuôi dưỡng bởi một triết lý bí mật tương liên với sự sống, chỉ nàng nắm giữ. Một nhan sắc được bí truyền từ tinh hoa ngàn đời của Mẹ. Ở những người đàn bà như thế, sự quyến rũ, một thứ hương thơm đặc biệt, được chưng cất bởi sự kiêu hãnh của dòng máu bất tử và sự e lệ của bản năng tính nữ. Ở những người đàn bà như thế, địa ngục hay thiên đường chỉ khác nhau bởi tên gọi.

Và tôi yêu nàng.

Yêu nỗi đau khổ câm lặng. Yêu niềm vui sống hoang sơ. Yêu nét tinh tế nền nếp. Yêu đức thứ tha buông bỏ. Ngay cả sự dối trá của nàng cũng không làm tôi bớt yêu nàng. Thậm chí còn làm tôi yêu nàng hơn. Yêu mỗi sáng thức giấc, yêu mỗi đêm thiếp ngủ, yêu cùng nàng bày cuộc chơi mới. Yêu cách nàng buông bắt từng khoảnh khắc đời trần, và mang tôi theo. Nàng cố gắng vác tôi lên đôi vai mảnh mai nhỏ bé? Nàng nấu cho tôi những món ăn được pha chế bởi công thức của trái tim. Nàng thì thầm với tôi những lời yêu thương chưa từng có trong sách tình ái. Nồng say tận hiến. Mỗi cuộc yêu miên man, nàng cuốn tôi vào thiên đường tình ái chưa có ai đặt tên.

Nàng là chị, là vợ, là mẹ, là sự sống khát khao nuôi dưỡng sự sống…

Và tôi yêu nàng.

Nhiều như nỗi đau khổ nàng gieo vào đời tôi…

***

Vị khách lạ dừng lời, hai tay đỡ lấy cái đầu như muốn gục xuống. Giờ tôi mới nhìn kỹ, xẻ ngang cái đầu chớm hói là một vệt sẹo lồi dài và to như một con lươn nhỏ. Chờ cho ông ta ngẩng lên, tôi nhìn thẳng vào mắt ông, nói:

“Cô gái trong chuyện của tôi đã chết. Không ai có thể làm cho nàng sống trở lại. Ngay cả ông, ông bạn ạ”.

Tôi định nói thêm, “Bởi ông chưa bao giờ yêu nàng. Ông đã biết sống đâu mà đòi biết yêu”, nhưng cố kìm, đứng lên, mở rộng cánh cửa, tỏ ý muốn tiễn khách. “Cám ơn ông đã chia sẻ câu chuyện”.

Vị khách đã bước một chân ra khỏi cửa, bỗng dừng lại. Lông mày ông ta giật giật, mắt tối sầm, khóe miệng mím lại, cố làm như thản thiên:

“Tôi quên chưa kể bà nghe chi tiết này. Trên đường đưa bố nàng ra sân bay, ông bất ngờ đòi tôi dừng xe ngắm cảnh mặt trời lặn. Mặt trời to và đỏ như một cái mâm máu. Ông mê mải ngắm nhìn cảnh tượng hùng vĩ chuẩn bị chìm vào đêm tối, say sưa đến nỗi trượt chân rơi thẳng xuống vực…”.

Vị khách rút nốt chân kia, trước khi bước vào bóng tối, còn cố nói thêm:

“Bà biết đấy. Ông ta nhất quyết không nhận tội. Tôi đã tóm được ông ta trong tay. Nhưng tôi đã buông. Trả ông ta về với địa phủ của ông ấy!”.

Tôi rùng mình, khép cửa.

Mùa đông đã về, sao mùa thu cứ dùng dằng mãi chưa chịu đi…

 

Warrnambool, lễ phục sinh 2014

 

Tác giả gửi Văn Việt.

“Sợ nhất giàn khoan 981 lẳng lặng rút đi… rồi mọi chuyện chìm“

Văn Việt: Trang mạng kienthuc.net phỏng vấn nhà văn Nguyên Ngọc về sự kiện giàn khoan 981. Nhưng khi công bố ngày 9/6/2014, một số câu đã được “biên tập” lại (xin xem ở đây). Sau đây là bản gốc của cuộc phỏng vấn đó do nhà văn Nguyên Ngọc cung cấp.

Tâm tư của người VN đã ít nhiều xáo trộn kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Xin ông chia sẻ những tâm tư của mình với tư cách một tri thức, một công dân của Việt Nam?

Nói rằng tâm tư người Việt “ít nhiều xáo trộn” vì vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc là nói quá nhẹ. Người Việt Nam nói “đất nước” để chỉ cái mà các dân tộc khác gọi là quốc gia. Một tấc dất, một tấc biển bị xâm phạm có thể khiến cả dân tộc này bừng bừng đứng dậy. Trải nghiệm bi tráng hàng nghìn đời cũng đã để lại trong óc và trong máu người Việt ý thức và tình cảm sâu sắc rằng nguy cơ lớn nhất, dai dẳng nhất, thậm chí mãi mãi không bao giờ dứt đối với chủ quyền của đất nước là đến từ phương Bắc, từ bành trướng tham lam không đáy và không bao giờ dừng lại của tất cả các triều đại Trung Hoa, từ Trung Hoa phong kiến cho đến Trung Hoa cộng sản, không chút khác biệt, tuyệt đối không thể mơ hồ.

 

 Nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyên Ngọc (Ảnh: ST)

Chuyện Trung Quốc âm mưu xâm chiếm nước ta là chuyện không mới, tuy nhiên lần này có hai điểm nổi bật:

Một: Trong âm mưu bành trướng lâu dài đó, đây là một bước chuyển có tính đột phá: giặc đã vào tận trong nhà. Đây là lúc, đúng như thời Trần cách nay tám thế kỷ đối mặt với quân Nguyên từng giày đạp cả nửa thế giới văn minh, đã đến lúc cất lên lời khẩn báo “sơn hà nguy biến!”.

Hai: Nguy biến, hầu như bao giờ cũng vậy, như một quy luật kỳ lạ và tuyệt diệu của cuộc sống, lại mở ra thời cơ. Và theo tôi có thể lần này là thời cơ lớn mà bao người Việt Nam từng trằn trọc chờ đợi nhiều năm nay.

Hiểm nguy sống còn đồng thời lại là cơ hội lớn từng trằn trọc chờ đợi, ông có thể nói rõ hơn?

Hiểm nguy chết người thì rõ rồi. Còn thời cơ ư?

Số phận đã đặt đất nước ta đứng sát cạnh một đế quốc khổng lồ, và là một đế quốc cực kỳ tham lam. Suốt lịch sử lâu dài từng là vậy, ngày nay càng là vậy: ráo riết hơn, hung hăng tàn bạo hơn, hấp tấp nôn nóng hơn, vô liêm sỉ hơn. Cách đây hơn thế kỷ trên thế giới người ta đã từng nói đến cái gọi là “họa da vàng” (péril jaune). Không phải chuyện phân biệt chủng tộc đâu. “Da vàng” đây cụ thể là đế quốc Trung Hoa. Nhân loại văn minh đã từng lo lắng về hiểm họa ấy. Hãy tưởng tượng đến một ngày cái đế quốc đó – mà là người Việt, dân tộc dày dạn kinh nghiệm nhất với đối tượng quái đản này, chúng ta càng hiểu thấm thía hơn ai hết – đến một ngày cái đế quốc ấy sẽ làm chủ toàn thế giới! Vậy mà đó chính là ý đồ ngày càng không cần quá che giấu nữa của nó, và không phải hoàn toàn không là khả năng hiện thực! Còn sống ngày nào, nhất thiết không được quên điều đó, viễn cảnh kinh hoàng đó.

Người Việt Nam càng không, bởi vì ta, Việt Nam, ta là nút chặn đầu tiên phải vượt qua trên con đường bành trướng vô độ của nó, từ mấy nghìn năm trước, ngày nay càng trắng trợn hơn, quyết liệt hơn. Cho nên nếu Việt Nam còn tồn tại được cho đến ngày nay, thì chính là vì lịch sử suốt mấy nghìn năm của Việt Nam thực chất, căn bản là lịch sử THOÁT TRUNG. Một nghìn năm Bắc thuộc đằng đẵng mà không bị đồng hóa là gì, nếu không là một cuộc thoát Trung kỳ diệu, một cuộc đấu tranh văn hóa kỳ diệu đến kinh ngạc, hầu như không có trường hợp tương tự trong lịch sử thế giới. Rồi một nghìn năm nữa chống xâm lược vũ trang của Trung Quốc, từ Ngô Quyền cho đến Quang Trung…,  đương nhiên cũng là đấu tranh vũ trang trên nền tảng văn hóa. Thoát Trung hay là chết, là bị hủy diệt, là không còn Việt Nam. Hàng nghìn năm trước cha ông ta đã giữ trọn non sông đất nước cho ta bằng tư tưởng và hành động sống kiên định, thông minh và anh hùng ấy.

Tuy nhiên, đến thời hiện đại thực tế đã không còn được như vậy. Tôi nghĩ đã đến lúc cần bình tĩnh và sáng suốt nhìn lại: con đường chúng ta đã bắt buộc (?) phải chọn trong chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, éo le một cách tất yếu, đã khiến ta xao lãng, đến ảo tưởng, về kẻ thù bành trướng truyền kiếp, nguy cơ lâu dài không bao giờ hết đối với tồn vong của dân tộc. Cho đến nỗi sự kiện Hoàng Sa năm 1974, chiến tranh biên giới 1979, vụ Trường Sa 1984… vẫn còn chưa đủ để đánh thức chúng ta. Rồi còn phải ngẫm nghĩ thật kỹ hơn về sự bi tráng lịch sử và sự mê muội tội lỗi kéo dài này.

Nay thì, theo tôi, chính đối thủ đã “giúp” ta, và là một cú giúp rất căn bản. Sự nôn nóng do tham vọng ngông cuồng vốn nằm trong bản chất của kẻ bành trướng đã khiến tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh đi một nước cờ sai. Với vụ giàn khoan hỗn xược, nó đã dại dột đánh thức lòng tự tôn dân tộc thiêng liêng bị dồn nén của người Việt, sức mạnh đã từng quét sạch mọi cuộc xâm lăng của đế quốc Trung Hoa trong suốt lịch sử. Nó phơi trần mọi sự lừa bịp được công phu bày vẽ lâu nay của kẻ gian manh đi lừa và ở kẻ dại dột bị lừa. Ông Thủ tướng Việt Nam lần đầu tiên đã phải nói đến việc vứt đi cái thứ “hữu nghị viển vông” mấy mươi năm nay được dùng để lừa nhau và lừa dân…

Tất cả những điều đó, diễn ra từ khi có chuyện giàn khoan, do chuyện giàn khoan, theo tôi là khá ngoạn mục. Tất nhiên có thể thấy vẫn còn mấy kẻ cố sức vá víu, vớ vẩn lo “làm đổ bát nước đầy”… Ai cũng thấy chỉ là trò hề diễn muộn.

Tuy nhiên, đằng sau  những biểu hiện đó, còn có một điều gì đó to lớn hơn nhiều, quan trọng sống còn hơn nhiều vẫn kìm hãm dân tộc này, xã hội này, con người Việt Nam này, khiến không khí ở đây oi bức, cùng quẩn hầu đến nghẹt thở: một cái nút bít bùng đã bung ra, có thể bung ra, và một con đường mới đã có thể mở ra, đang mở ra cho tiền đồ dân tộc: THOÁT TRUNG. Thoát Trung để sống còn và phát triển!

Tôi nói thời cơ lớn vì rõ ràng con đường đã rộng mở. Vấn đề bây giờ là có đủ can đảm dấn bước lên con đường mới đã mở ra kia hay không?

Ông có dự kiến cụ thể gì về chuyện giàn khoan sắp tới?

Nói thì có thể lạ: tôi sợ nhất là nó… lẳng lặng rút đi, và ở ta mọi sự lại rơi trở lại trạng thái cũ. Điều quan trọng nhất lúc này là nhận thức rõ đã diễn ra một bước ngoặt, sự thật đã được bày ra, và quyết không quay lại tình trạng bí bức trước nay.

 

Theo NV Nguyên Ngọc, giàn khoan Hải Dương 981 đã dại dột đánh thức lòng tự tôn của người Việt.

Làm sao để không quay lại?

Cho tôi nói điều này: Thủ tướng đã nói một câu rất quan trọng: “Không đánh đổi chủ quyền vì một thứ hữu nghị viển vông và lệ thuộc”. Cho tôi được phép nói thêm: muốn không viển vông và lệ thuộc nữa (cả hai từ này đều quan trọng) thì nhất thiết phải từ bỏ ý thức hệ hão huyền. Chính cái món ý thức hệ hão huyền đó đã khiến người ta tin vào một thứ hữu nghị viển vông, lừa bịp, còn bành trướng Bắc Kinh thì thực chất đã vứt bỏ nó từ lâu rồi trong khi lại dùng làm mồi nhử kẻ ngây ngô lệ thuộc. Hữu nghị viển vông và ý thức hệ hão huyền là hai thứ không thể tách nhau.

Tôi đã có lần đề nghị: (lẽ ra) sau năm 1975, cần một cuộc phục hung dân tộc căn bản, để đưa đất nước thực sự chuyển sang một thời đại mới, phát triển cùng nhân loại văn minh. Xin nói rõ hơn: Muốn vậy, nhất thiết phải THOÁT TRUNG. Vứt bỏ hữu nghị viển vông. Và cởi bỏ ý thức hệ hão huyền.

 

Kim Sen (thực hiện)