Khi văn chương vinh danh khoa học (*)

Cao Huy Thuần

 

Edouard Manet, Chân dung Emile Zola, 1868, Bảo tàng Orsay

Khoa học và văn chương là hai lĩnh vực riêng biệt, ai cũng biết thế. Nhưng đâu phải chúng hoàn toàn xa lạ nhau. Người làm khoa học cũng biết mộng mơ, người làm văn chương cũng biết quan sát. Thế giới trăng sao đâu phải của riêng phe nào. Thám hiểm đáy biển cũng là nghề của Jules Verne. Nhà văn, nhà thơ, nhà triết học có khi dẫn đường cho nhà khoa học. Nhà khoa học choáng ngợp trước bí ẩn có khi phải mượn đến bút của nhà văn.

Nếu khoa học chuộng cái chân và văn chương chuộng cái mỹ, thì ai dám bảo trong cái đẹp chẳng có cái thật và trong cái thật chẳng có cái đẹp? Lý tưởng chẳng phải là chân thiện mỹ? Cứ nhìn con chim làm tổ. Cứ nhìn con ong làm mật. Nó vừa là nhà văn, nó vừa là nhà khoa học. Và khi chàng ong đực chết trong giao hoan với bà chúa của nó, làm sao phân biệt được mỹ với chân?

Vậy thì, hai lĩnh vực tuy riêng nhưng nếu biết khám phá thì thấy cái chung. Dưới đây là hai ví dụ, hai trường hợp tiêu biểu về phía nhà văn để nói lên ảnh hưởng của khoa học trên văn chương, sức quyến rũ của anh chàng thường được xem là khô khan trên cô nàng thường được xem là ướt át. Trường hợp thứ nhất là nhà văn lấy khoa học làm mẫu mực để xây dựng một lý thuyết văn chương. Trường hợp thứ hai là nhà văn dùng văn chương để thuyết minh một lý thuyết khoa học. Cả hai đều có tham vọng hoặc đem một phương pháp, hoặc đem một định luật khoa học áp dụng vào lĩnh vực tiểu thuyết, đưa văn chương lên địa vị tiếp nối – tiếp nối khoa học trên con đường dài khám phá sự thật cùng đi.

I

Cùng đi trên một con đường dài, ấy là trường hợp của nhà văn Emile Zola và nhà khoa học Claude Bernard: nhà khoa học tiên phong, nhà văn tiếp nối để lập thuyết. Claude Bernard (1813 – 1878) là nhà khoa học đã làm nên một cuộc cách mạng trong y khoa khi ông đưa phương pháp thực nghiệm từ thế giới vô tri của vật lý, hóa học vào thế giới sống của con người, mở đầu cho y khoa thực nghiệm. Thì cũng vậy, Emile Zola, dưới ngọn đuốc của Claude Bernard, đưa phương pháp thực nghiệm vào văn chương, mở đường cho tiểu thuyết thực nghiệm. Và cũng giống như khoa học đã giải phóng con người ra khỏi thời đại thần bí và siêu hình, tiểu thuyết thực nghiệm sẽ giải phóng văn chương ra khỏi tiểu thuyết trừu tượng và lãng mạn. Vinh danh người đi trước, Zola hạ tuyên ngôn:

Claude Bernard (1813-1878)

“Suốt đời ông, Claude Bernard đã tìm tòi và tranh đấu để đưa y khoa vào con đường khoa học. Nhờ ông, một khoa học đã bập bẹ thoát ra khỏi chủ thuyết duy nghiệm để vào ở hẳn trong chân lý, nhờ phương pháp thực nghiệm. Claude Bernard chứng minh rằng phương pháp ấy, áp dụng vào việc nghiên cứu những chất thô, vào hóa học và vật lý, cũng phải áp dụng vào việc nghiên cứu những chất sống, vào sinh lý học và vào y khoa. Đến phiên tôi, tôi sẽ cố gắng chứng minh rằng, nếu phương pháp thực nghiệm đưa đến hiểu biết về đời sống vật lý, nó cũng phải đưa đến hiểu biết về đời sống đam mê và trí thức. Đó chỉ là một vấn đề trình độ trên cùng một con đường, từ hóa học đến sinh lý học, rồi từ sinh lý học đến nhân chủng học và xã hội học. Tiểu thuyết thực nghiệm là điểm tận cùng”.

Nhưng thực nghiệm là gì? Và tại sao phải thực nghiệm? Zola giải thích: tại vì thực nghiệm chính là điểm mới. Giống như khoa học quan sát, tiểu thuyết đã biết quan sát. Bây giờ, khi khoa học đã đi vào thực nghiệm, tiểu thuyết cũng phải đi vào thực nghiệm. Giữa khoa học quan sát và khoa học thực nghiệm có cái gì khác nhau? Có một đường ranh giới rất rõ. Chính Claude Bernard đã cắt nghĩa: “Người quan sát là người dùng những cách thức truy vấn, hoặc đơn giản hoặc phức tạp, để nghiên cứu những hiện tượng mà người ấy không làm thay đổi được, thiên nhiên tạo ra thế nào thì phải nhận thế ấy. Người thí nghiệm là người dùng những cách thức truy vấn, hoặc đơn giản hoặc phức tạp, để làm thay đổi, vì một mục đích nào đó, những hiện tượng thiên nhiên và làm chúng hiện ra trong những hoàn cảnh hoặc những điều kiện mà thiên nhiên không tạo chúng ra như thế”. Ví dụ: thiên văn là khoa học quan sát, bởi vì chẳng ai đủ ngông cuồng để tưởng tượng ra rằng, một nhà thiên văn nào đó có thể rờ mó chị Hằng để làm biến đổi chị, còn hóa học là khoa học thực nghiệm vì nhà hóa học hành động trên thiên nhiên và làm biến đổi thiên nhiên.

Nhưng, ngoài cái ranh giới vừa nói, thực nghiệm thật ra chỉ là quan sát được kích thích. Tại sao? Tại vì đâu phải thực nghiệm một lần là lòi ra kết quả! Nhà khoa học quan sát, quan sát đưa đến giả thuyết, giả thuyết đưa đến thí nghiệm để xem giả thuyết ấy đúng sai, thí nghiệm có thể đưa ra một giả thuyết khác, lại phải quan sát, lại phải thí nghiệm, như thế không dứt cho đến khi có kết quả cuối cùng. Thực nghiệm là giai đoạn tiếp theo một giả thuyết và bắt đầu một giả thuyết.

Câu hỏi đặt ra là: trong văn chương mà đến nay chỉ có quan sát là được thực hiện, có thể nào làm thí nghiệm? Zola trả lời: được. Nhưng trước hết, quan sát thì phải biết quan sát, người quan sát chỉ làm mỗi một công việc thôi là ghi nhận những hiện tượng trước mắt, người ấy phải là người chụp ảnh các hiện tượng, thiên nhiên hiện ra thế nào thì chụp ảnh thế ấy. Người biết quan sát thì biết thế nào là “tiểu thuyết thiên nhiên”. Nhưng một khi sự kiện đã ghi nhận và hiện tượng đã quan sát kỹ, ý nghĩ chợt đến, suy luận bật ra, và người thí nghiệm xuất hiện. Xuất hiện để diễn dịch các hiện tượng, so sánh các kết quả, phán đoán các giả thuyết.

Zola lấy cuốn tiểu thuyết “Cousine Bette” của Balzac làm ví dụ để lập luận rằng, người viết tiểu thuyết là người đi tìm sự thật. Balzac quan sát gì? Sự tàn phá của đam mê ái tình nơi nhân vật, nơi gia đình của nhân vật, nơi cả xã hội chung quanh. Đầu tiên, Balzac chọn đề tài. Rồi, đi từ những hiện tượng được quan sát, ông thực hiện thí nghiệm bằng cách đặt nhân vật Hulot vào trong một chuỗi thử thách, cho nhân vật sống trong nhiều môi trường, nhiều hoàn cảnh, nhiều điều kiện khác nhau để trình bày tất cả những động thái của đam mê, xem đam mê tạo ra những kết quả gì. Như vậy, Balzac đâu phải chỉ quan sát? Chỉ làm ông thợ chụp ảnh? Ông cho nhân vật biến chuyển nhưng ông không rời khỏi luật thiên nhiên, ông viết “tiểu thuyết thiên nhiên”. Bởi vì một tiểu thuyết thực nghiệm như “Cousine Bette” là một phiên bản – một phiên bản của thí nghiệm. Nhà văn thay đổi môi trường, thay đổi hoàn cảnh, điều kiện để làm thí nghiệm nhưng vẫn theo sát thiên nhiên, không trái với những luật của thiên nhiên. Như vậy, ta mới hiểu được con người, hiểu một cách chính xác, khoa học, trong hành động của người ấy về mặt cá nhân cũng như về mặt xã hội.

Tất nhiên, không thể bắt tiểu thuyết thực nghiệm có một mức độ chính xác, khoa học như hóa học hay sinh lý học. Tiểu thuyết thực nghiệm đang còn trong trứng sữa. Nhưng y khoa của Claude Bernard cũng chỉ mới bập bẹ trên con đường khoa học thôi. Y khoa tiến đến khoa học thực sự thì tiểu thuyết thực nghiệm cũng phải thế. Thực sự, đó là thí nghiệm mà nhà tiểu thuyết làm trên con người, qua quan sát. Con đường đi của khoa học thẳng tắp, với điểm khởi hành và điểm kết thúc. Điểm khởi hành là hóa học, vật lý. Rồi sinh lý học và y khoa. Một ngày nào đó, khi y khoa chứng minh được rằng cơ thể của con người là một bộ máy có thể gỡ ra rồi lắp lại nhờ thí nghiệm, lúc đó ta phải bước qua giai đoạn tháo gỡ những hoạt động đam mê và trí thức của con người. Lúc đó khoa học mới bước vào được lĩnh vực cho đến bây giờ vẫn còn thuộc vào triết lý, văn chương. Đó là con đường tất định, đi từ việc khám phá những định luật của vật thể thô đến việc khám phá những định luật của tư tưởng, tình cảm. Bộ não của con người được cai trị bởi một luật tất yếu giống như luật tất yếu cai trị viên gạch lót đường.

Trong những luật tất yếu đó, Zola quan sát và làm thí nghiệm trên hai hiện tượng mà ông cho là rất quan trọng trong những biểu hiện của đam mê và trí thức: di truyền là một, môi trường là hai. Claude Bernard, bằng phương pháp thực nghiệm, đã khám phá ra sự vận hành của “môi trường bên trong” – bên trong cơ thể của con người. Đến phiên tiểu thuyết thực nghiệm khám phá “môi trường bên ngoài”, một gia đình, một thế hệ, một cộng đồng xã hội. Đi từ con người thực, sống trong một môi trường thực, tiểu thuyết thực nghiệm nghiên cứu con người như thế ảnh hưởng trên xã hội như thế nào và xã hội như thế làm thay đổi con người ra sao. Tiểu thuyết thực nghiệm từ bỏ con người trừu tượng, con người siêu hình để nghiên cứu con người thiên nhiên đặt dưới định luật vật lý, hóa học, và được quyết định tất yếu bởi những ảnh hưởng của môi trường. Đó là văn chương của thời đại khoa học y như văn chương cổ điển và lãng mạn là sản phẩm của thời đại trung cổ và thần học.

Với chủ trương đó về tiểu thuyết thiên nhiên, với phương pháp đó của y khoa thực nghiệm, với Claude Bernard như ngọn đuốc soi đường, Zola viết bộ trường thiên tiểu thuyết “Les Rougon-Macquart” với tiểu đề: “Lịch sử thiên nhiên và xã hội của một gia đình dưới Đệ Nhị Đế Chế”. Tham vọng của ông làm choáng ngợp văn học một thời: mô tả những biến đổi xã hội qua một triều đại lịch sử và những thăng trầm của một gia đình qua năm thế hệ với hai mươi cuốn tiểu thuyết để chỉ rõ một cách khoa học ảnh hưởng tất yếu của di truyền và của môi trường bên ngoài. Mỗi thành viên của gia đình ấy ở mỗi thế hệ lần lượt là nhân vật chính trong mỗi cuốn tiểu thuyết, sống trong những môi trường xã hội khác nhau: “dân hạ cấp”, “dân buôn bán”, “dân tư sản”, và một thứ “dân không xếp hạng  được “: gái điếm, giết người, thầy dòng, nghệ sĩ… Tên của bộ trường thiên tiểu thuyết là tên của hai nhánh kết hợp thành một gia đình. Rougon, nhánh chính thức, gồm giới tiểu thương, tiểu tư sản; Macquart, nhánh lai, gồm nông dân, các tay săn lậu, buôn lậu cùng có một vấn đề chung là nghiện rượu. Một số thành viên của gia đình ấy leo lên được những nấc thang cao nhất của xã hội, một số khác rơi tõm xuống bần cùng, nạn nhân của thất bại và của di truyền. Cuốn truyện muốn vén lên màn bí mật của cơ thể xã hội và cơ thể con người trong tận cùng thâm sâu tăm tối nhất bằng cách vẽ ra như thế nào một căn bệnh di truyền đã lan đến và làm biến đổi một gia đình. Di truyền là dụng cụ khoa học, là sợi chỉ hồng xuyên suốt tập truyện trường thiên.

Tập truyện dần dần gây chấn động và đến cuốn thứ bảy, “L’Assommoir”, thì danh vọng của Zola vọt lên đến mức của Balzac. Nhưng từ tả qua hữu, ông phải đối mặt tứ phương với chống đối, đả kích, mạ lỵ, vì bức tranh xã hội và con người mà ông vẽ ra chạm đến những cấm kỵ, rào cản. Phe tả đả đảo ông đã bôi nhọ “dân hạ cấp”. Phe hữu tố cáo một tiểu thuyết khiêu dâm, vô luân. Nhưng cuốn truyện hấp dẫn độc giả, bán rất chạy, và lần đầu tiên Zola rủng rỉnh xu hào. Ông tuyên bố trong lời tựa để trả lời phe tả: “L’Assommoir là cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết về dân hạ cấp mà không nói láo và có thật mùi của dân hạ cấp”. Hình ảnh lãng mạn của dân nghèo cao quý kiểu Victor Hugo bị đuổi ra khỏi văn chương. Zola quan sát, điều tra, tập trung tư liệu cực kỳ công phu trước khi viết mỗi cuốn truyện. Trước khi viết L’Assommoir, ông phác thảo ý chính như sau để theo đó mà viết: “Cuốn truyện phải như thế này: trình bày môi trường sống của dân hạ cấp, tại Paris, và qua môi trường đó, giải thích tập quán của họ như thế nào, say rượu, thất bại, cả một gia đình như thế, những trù dập, thói quen chấp nhận mọi nhục nhã và mọi khổ cực, tất cả là đến từ chính những điều kiện của đời sống thợ thuyền, từ những công việc nhọc nhằn, từ những buông thả… Chọn Gervaise ở tuổi 22, vào năm 1850, đưa cô ấy cho đến năm 1869, ở tuổi 41. Cho cô ấy trải qua mọi khủng hoảng, mọi tủi nhục không tưởng tượng nổi… Vẽ cô ấy ở tuổi 41 kiệt quệ vì lao động và khốn cùng”. Bi kịch của Gervaise diễn ra trong môi trường thợ thuyền, với những bộ mặt nhem nhuốc, sa đoạ, cả về thể xác lẫn tâm hồn, của những người thợ bị xã hội đẩy vào những điều kiện sống tồi tệ. “Nhân vật của chúng tôi, Zola viết, không phải là hoàn toàn nặn ra từ đầu óc, không phải là con người trừu tượng của thế kỷ 18. Đó là con người sinh lý của khoa học hiện nay, một sinh vật gồm những cơ quan và nhúng mình vào một môi trường, thấm ướt môi trường đó từng giờ từng phút”.

Từ phác thảo và tuyên ngôn đó, Gervaise Macquart hiện ra trong cuốn truyện, năm 22 tuổi, đem hai con theo anh tình nhân Lantier, thợ làm mũ, lên Paris. Vừa lười, vừa lăng nhăng, anh này bỏ cô theo gái. Bơ vơ đất lạ, may sao cô kiếm được việc làm trong một tiệm giặt ủi. Khá xinh và đầy can đảm, cô làm việc để vươn lên, giấc mộng của cô là tạo được một đời sống hạnh phúc, an lành. Trong khi vươn lên như vậy thì cô gặp Coupeau, anh thợ kẽm, hai người lấy nhau, cùng ra sức làm ăn. Họ thuê được một tiệm giặt ủi, kiếm được tiền, đẻ được một đứa con, giấc mơ hạnh phúc toại nguyện. Nhưng hạnh phúc không bền: một hôm, trong khi làm việc trên mái nhà, anh thợ kẽm muốn nhìn con gái chơi, sẩy chân rơi xuống đất, hai chân gãy một. Để anh chàng khỏi nằm nhà thương, Gervaise săn sóc chồng tại nhà, tiêu sạch tiền dành dụm. Lành bệnh nhưng tàn tật, Coupeau chán nản, bắt đầu lai vãng quán Assommoir. Một lần nữa, Gervaise lại cố vươn lên nhờ mượn được tiền của người hàng xóm, anh thợ rèn Goujot, đang yêu trộm thương thầm cô. Cô mua lại tiệm giặt ủi, lại kiếm ra tiền, trong khi anh chồng càng ngày càng say sưa trong quán rượu, xài hết tiền, rượu càng vào càng cộc cằn, thô lỗ. Giữa lúc ấy thì anh tình nhân Lantier cũ trở về, duyên xưa lại nối, nối với vợ và nối cả với chồng, vì anh chồng và anh tình cũ trở thành bạn nhậu, nhà cùng ở, quán cùng say, tiền cùng xài, túi cùng cạn, bộ ba cùng túng. Dưới ảnh hưởng của Lantier, cô Gervaise cũng dần dần gia nhập đoàn thể bợm nhậu Assommoir, đầu say ít sau say nhiều, biếng nhác, bỏ việc. Sa đọa tinh thần kéo theo sa đọa thể xác, cô ham ăn, người phì ra, xấu xí, nhớp nhúa. Nợ nần lút đầu, hàng xóm xa lánh, cả anh thợ rèn thầm yêu cũng bỏ cô. Gervaise rơi xuống vực thẳm. Cô bán tiệm, dọn nhà vào ổ chuột, sống chung đụng với người cùng khổ. Anh chồng mất trí, bị tống vào nhà thương điên, chết trong một cơn điên loạn thảm khốc. Tận cùng dưới đáy vực, Gervaise phải đi ăn xin, làm điếm, rồi chết không ai hay, vì đói và lạnh. Trong bộ ba, chỉ còn anh Lantier. Anh này phây phây, bắt bồ với một cô giặt ủi, trước làm công cho Gervaise, bây giờ trả thù bà chủ cũ bằng cách mua lại tiệm giặt ủi và thuê bà chủ làm công, quét nhà như đầy tớ.

L’Assommoir là cuốn truyện đặt đời sống thợ thuyền vào trọng tâm, nhưng khác với Balzac, đây không phải chỉ là bức tranh xã hội, đây còn là một tác phẩm “khoa học”, thực nghiệm, mà mỗi chi tiết được chụp lại trung thực. Đây không phải chỉ là tiểu thuyết tả thực, tả chân. Đây là Balzac cộng với khoa học của thế kỷ 19. Chắc độc giả Việt Nam không biết L’Assommoir nhiều bằng Germinal, cuốn thứ mười ba, viết sau đó tám năm. Cũng với từng chi tiết chính xác như thế, cũng với tác giả lăn lưng vào sống chung với thợ thuyền, xuống với họ tận hầm mỏ, Germinal mô tả bi hùng của một cuộc đình công và bộ mặt đen tối của xã hội phu mỏ: gái hoang, đĩ điếm, cờ bạc, và rượu. Rượu, như một định mệnh tất yếu của họ, định mệnh mà Claude Bernard diễn giải rất rõ trong cách vận hành của cơ thể con người. Thiên tài của nhà văn là có một ý tưởng. Còn kết quả là nhờ ở phương pháp, Zola quả quyết như vậy. Y như Claude Bernard đã viết về công việc của nhà khoa học: “Ý tưởng là hạt giống; phương pháp là đất cung cấp cho hạt giống những điều kiện để phát triển, để nảy nở, để sinh ra những trái ngon nhất tùy theo thiên nhiên”.

 Kẻ đi sau còn muốn đi xa hơn người đi trước: Zola không bằng lòng về quan điểm của Bernard khi nhà khoa học này động đến văn học, triết lý. “Về nghệ thuật và văn chương, Claude Bernard viết, nhân cách của tác giả ngự trị trên tất cả. Đây là sáng tạo tự khởi của đầu óc, và điều này chẳng có gì liên quan đến sự ghi nhận những hiện tượng thiên nhiên”. Với Zola, nhà tiểu thuyết thực nghiệm chẳng khác gì nhà khoa học: đó là một “nhà bác học đặc biệt”. Một tác phẩm văn chương, theo ông, không phải hoàn toàn là công trình của một tình cảm cá nhân, bởi vì tình cảm cá nhân chỉ là rung động đầu tiên thúc đẩy nhà văn phải viết. Sau đó là thiên nhiên – thiên nhiên mà nhà khoa học đã khám phá bí mật – áp đặt định luật và nhà văn không còn quyền nói dối nữa. Có thể đồng ý rằng, nhà văn và triết gia vạch đường cho nhà khoa học, bởi vì giả thuyết và kinh nghiệm đi trước phương pháp và khám phá khoa học. Nhưng một khi khoa học đã đạt được chân lý, nhà văn phải chấm dứt ngay giả thuyết và chấp nhận chân lý, xem đó như là đất đứng vững chắc để từ đó, bằng trực giác và linh cảm, lần mò đi đến những giả thuyết khác về những vấn đề chưa khám phá. Việc làm của họ khác gì việc làm của nhà khoa học đâu?

Ngày nay, đọc lại tuyên ngôn của Zola, người đọc không khỏi cười thầm về thái độ khoa học hơn cả khoa học, khoa học gia hơn cả Claude Bernard. Nhưng phải hiểu ông và đặt ông vào bối cảnh của thế kỷ 19, khi khoa học thu hút mọi tư tưởng như một thần lực. Ông đem một tư tưởng mới vào văn chương, chứng minh tư tưởng đó với tài ba xuất chúng của ông bằng những tác phẩm rạng danh văn học thế giới. Tài ba của ông đã làm cả những người chống đối ông khâm phục. Nhưng họ chống đối không phải không có lý do. Cùng phía tả của ông, Anatole France đã chỉ trích ông với những lời lẽ mạt sát thậm tệ, cho rằng ông đã quan sát với cặp mắt mù, bởi vì ông chỉ thấy cái xấu, không thấy cái đẹp, nhất là cái đẹp cao sang ẩn khuất trong chính cái xấu. “Có vẽ đẹp nơi người nông dân. Ông Zola không thấy. Nét thâm trầm u uất, dáng cứng cỏi long trọng in trên thân thể họ vì nhọc nhằn thường xuyên, hòa âm giữa người và đất, cao quý của khổ cực, thánh thiện của lao động, lao động đích thực, lao động của cái bừa, tất cả những vẽ đẹp ấy chẳng làm ông Zola động lòng chút nào. Cái duyên dáng quyến rũ nơi mọi sự vật lẩn tránh mắt ông; cái đẹp, cái vương giả, cái đơn sơ trốn ông biệt tăm. Khi ông đặt tên cho một thôn xóm, một con sông, một người, ông chọn tên gì xấu nhất… Ông Zola không biết cái đẹp của chữ cũng như ông không biết cái đẹp của sự vật”.

Anatole France bồi thêm: Cũng giống như thợ thuyền, nông dân dưới ngòi bút của Zola chỉ toàn là dân thô kệch, bê tha, vô luân, say rượu, nhớp nhúa, nói năng thô lỗ, thú vật. Triệt để, một cách có hệ thống, ông chọn toàn cái xấu, cái xấu của cảnh vật cũng như cái hạ tiện của nhân vật. Tưởng tượng của ông ác đến nỗi ông cho một phụ nữ nông dân đẻ cùng lúc với con bò cái, để nhét vào miệng một người đứng xem một lời reo ác khẩu: “Toét ra rồi!”, tất nhiên không phải là nói về con bò. Ông Zola không thấy cái thiêng liêng trong việc sinh con. Ông báng bổ thiên nhiên, dù thiên nhiên có mặt nơi người phụ nữ hay nơi con bò. Ông không thấy cái thơ ngây của con bò cái khi phơi bày ra tất cả khổ đau của việc sinh nở. “Con bò mẹ đau đớn dữ dội trong câm nín. Khi con nghé lọt lòng, bò mẹ đảo mắt về phía con với hai mắt thấm ướt, rồi rướn cổ ra, liếm thật lâu cái sinh vật bé nhỏ đã làm nó đau đớn đến thế. Thấy mà cảm động. Mà thấm cái đẹp. Báng bổ những bí mật cao cả đó, thật là nhục nhã”. Đó là mấy câu viết về cuốn tiểu thuyết La Terre, cuốn thứ mười lăm trong bộ trường thiên Rougon-Macquart.

Sau này, khi Zola chết, chính Anatole France đọc điếu văn tôn vinh tài ba của Zola. Nhưng trước đó, bao nhiêu đả kích thậm tệ. “Chưa bao giờ có ai cố gắng đến mức đó để hạ nhục nhân loại, mạ lỵ tất cả những khuôn mặt của cái đẹp và của tình thương, từ khước tất cả những gì là tốt, là thiện. Chưa bao giờ có ai lệch lạc đến mức đó về lý tưởng của con người. Trong tất cả chúng ta, dù người nhỏ hay người lớn, người tầm thường hay người danh giá, đều có một bản năng của cái đẹp, một ham muốn về một cái gì để tô điểm, để trang sức, và bản năng ấy, ham muốn ấy, đâu cũng có, đem lại duyên dáng cho cuộc đời. Ông Zola không biết. Trong con người, có một nhu cầu yêu thương vô biên làm con người trở thành thần thánh. Ông Zola không biết. Ham muốn và thẹn thùng đôi khi trộn lẫn với nhau thành những màu sắc lưng chừng kỳ diệu. Ông Zola không biết. Trên mặt đất, có những hình thái tuyệt vời và những tư tưởng cao quý; có những tâm hồn trong trắng và những trái tim anh hùng. Ông Zola không biết. Ngay cả những yếu đuối, ngay cả những sai lạc và lỗi lầm, nhiều khi cũng có những vẽ đẹp đầy cảm động. Ông Zola không biết. Đau khổ là thiêng liêng. Thánh thiện của giọt lệ nằm sâu trong tất cả các tôn giáo. Bất hạnh đủ để làm con người cao cả với con người. Ông Zola không biết… Ông Zola xứng đáng được thương hại sâu xa”.

Hai ông nhà văn lớn, ông này nói ông kia không biết, không thấy. Tất nhiên, ông kia cũng sẽ nói lại ông này không thấy, không biết. Là vì mỗi ông nhìn sự vật ở mỗi mặt! Mặt tối và mặt sáng. Mặt không thấy với mắt thường và mặt lồ lộ cơ quan sinh lý không khác con vật. Hơn nữa, là vì mỗi ông chọn một quan điểm. Và quan điểm của Anatole France là: nghệ thuật thuộc lĩnh vực của cảm xúc, không phải là khoa học. Vậy thì: vinh danh khoa học có cần phải khoa học gia hơn cả Claude Bernard? Văn chương có thể vinh danh khoa học một cách ít cực đoan hơn?

 

II

           

“Johann Wolfgang von Goethe ở tuổi 80” do Joseph Karl Stieler vẽ năm 1828

Từ Zola, xin bắt qua Goethe với cuốn tiểu thuyết có cái tên khó nghe: “Những đồng điệu lựa chọn” (1809). Có lẽ, muốn văn hoa hơn, nên dịch “Đồng điệu tương tầm” hoặc “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Nhưng đang nói chuyện khoa học chính xác, lẽ nào lạc qua bóng bẩy văn hoa? Có gì dính dáng giữa hai ông? Khoa học! Hơn Zola, Goethe không phải chỉ là nhà văn, nhà thơ, ông còn là nhà khoa học: một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết vừa nói, ông viết một nghiên cứu “Khảo luận về màu sắc” (1810), khoa học đàng hoàng có thua ai. Với máu khoa học trong người, ông cũng áp dụng phương pháp quan sát và thí nghiệm vào tiểu thuyết, sử dụng nhân vật như nhà khoa học sử dụng axít và kiềm, cũng để xác minh giả thuyết, kiểm chứng định luật của thiên nhiên. Nhưng trước khi nói chuyện về khoa học khô khan, tưởng nên tóm tắt nội dung cuốn truyện để… thư giãn, vì đây là chuyện tình ướt át, diễn ra trong giới thượng lưu thơm tho, thanh lịch, giữa khung cảnh thơ mộng của một lâu đài mênh mông, trù phú.

Mở đầu truyện là hai nhân vật, bá tước Edouard và vợ, Charlotte, sống với nhau hạnh phúc trong lâu đài. Cả hai đều đứng tuổi, chậm lấy nhau vì trước đó hai bên đều phải lấy người không vừa ý. Hạnh phúc đến với họ khi cả hai đều được trả lại tự do, kẻ chết chồng người chết vợ. Họ có tất cả để hạnh phúc: tình yêu, lâu đài, của cải. Họ yêu nhau, hai người yêu nhau.

Thế nhưng, sắp có một người thứ ba đến ở với gia đình. Ông không có tên, cuốn truyện gọi ông là “ông đại úy”, bạn thân của Edouard, học rộng, biết nhiều, nhưng cô đơn, nghèo túng. Thương bạn, chủ nhà mời ông đến ở chung, nhân tiện cùng nhau mở mang, khai khẩn, tô điểm cho lâu đài. Vốn là người sáng suốt, lúc đầu Charlotte không đồng ý. Bà nói: Chúng ta đang hạnh phúc, sao bỗng dưng lại để cho người thứ ba xen vào đời sống riêng tư, biết chuyện gì sẽ xảy ra? Sau, vì chồng nài nỉ, bà đành bằng lòng, với điều kiện là Edouard cũng nhận cho một cô cháu gái mồ côi đến ở chung. Từ một cặp, bây giờ dân số trong lâu đài tăng lên thành bốn. Chuyện gì xảy ra? Chàng Edouard mê tít cô gái xinh đẹp 17 tuổi ngay khi vừa chạm mắt. Dù kín đáo, cô Odile (Ottilie trong tiếng Đức) cũng cảm thấy bị ông chủ nhà thu hút mãnh liệt. Hay thật, dường như hai người sinh ra là để thu hút nhau. Về phần Charlotte, tuy lý trí nhiều hơn nhưng sóng tình vẫn xiêu, vẫn thích được gần ông đại úy. Con người mới đến này sao mà có những tính nết, suy nghĩ giống mình! Bốn người chung sống êm ả, ban ngày đi dạo, mở mang vườn tược, ban đêm chuyện trò, thảo luận, đọc sách, vẽ, đàn. Thanh bình ở bên ngoài, rạo rực ở bên trong, trái tim mở ra, nhận những tình cảm mới càng ngày càng thắm thiết.

Ở đầu truyện, Charlotte là một thiếu phụ nghiêm trang, thận trọng, tự chủ, có ý thức về bổn phận và ý muốn làm tròn bổn phận. Dần dần, việc gì phải đến thì đến thôi, không hôm ấy thì hôm khác. Vậy thì hôm ấy, hai người chèo thuyền dạo trên hồ. Charlotte đang buồn vì ông đại úy sắp rời lâu đài ra mặt trận, Âu châu lúc ấy không thiếu chiến tranh. Buổi chiều cô quạnh, hiu hắt, càng làm bà buồn hơn. “Chiếc thuyền xoay, mái chèo khua nhẹ trong nước, gió thổi làm rung mặt hồ, lau sậy rì rào bên bờ vắng, sao trên trời bắt đầu nhấp nhánh, tất cả đượm một vẽ bí ẩn trong lặng yên của vũ trụ. Charlotte có cảm tưởng bạn mình đang đưa mình đi xa, thật xa, để đặt nàng xuống đất và bỏ mặc nàng một mình. Nàng cảm thấy cảm động lạ kỳ, nhưng không khóc được”. Không ngăn được cảm xúc, bà bảo ông đại úy ngừng chèo và đưa bà lên bờ. Ông đại úy quá thạo nghề chèo nhưng lại không thạo nghề nước, thiếu kinh nghiệm về mức nước nông sâu, nên đâm thuyền vào chỗ cạn và thuyền mắc cạn. Đành xuống thuyền lội nước, và như vậy là đành phải ôm người đẹp trong tay bì bõm lên bờ. Charlotte thì cũng quá biết người đàn ông kia mạnh mẽ và thừa khéo léo để không làm mình rơi, nhưng cũng quàng tay vào cổ người kia bằng một cử chỉ chắc là vô tình bản năng. Dù lý trí có chỉ đạo ông đại úy đến mấy đi nữa, lúc ấy cũng khó chống lại cái quàng tay yếu đuối. Cho nên, trước khi đặt người thiếu phụ xuống cỏ, ông đại úy ôm chặt người đẹp, đặt một cái hôn trên môi nàng, rồi… quỳ xuống chân nàng xin lỗi. “Cái hôn mà bạn của nàng dám tặng cho nàng, và gần như được nàng trao trả, làm Charlotte trở lại với mình. Nàng siết chặt bàn tay của bạn, nhưng không đỡ bạn dậy. Cúi xuống gần chàng và đặt tay lên vai chàng, nàng thốt lên: “chúng ta không thể ngăn cấm giây phút này ghi khắc lịch sử trong đời chúng ta…”

Ấy là chút chi tiết về cặp Charlotte. Cũng xin kể chút chi tiết về cặp Odile. Cặp này thì chẳng cần phải lôi thôi dàn trận để chống lại lý trí. Edouard là anh chàng đam mê, và cô Odile thì quá đẹp, quá trẻ, quá dễ thương. Chàng thổi sáo thì nàng đệm dương cầm, chàng thổi sai thì nàng khéo léo đàn theo cho đúng. Nàng học cả chữ viết của chàng, học thầm kín, cho đến khi viết hệt chữ chàng, khiến chàng khám phá ra nỗi lòng thầm kín nơi cô con gái. “Vậy là em yêu tôi, chàng reo lên, em yêu tôi!” Hai người rơi vào tay nhau, không biết ai rơi trước.

Mở đầu truyện, chàng Edouard và nàng Charlotte yêu nhau nồng nàn. Chàng sốt ruột đợi nàng chấm dứt góa bụa để cùng chắp cánh bay vào hạnh phúc. Vậy mà bây giờ chàng mừng rỡ thấy nàng bâng khuâng tim mới, lại còn tìm cách đẩy nàng vào tay ông đại úy, mong được ly dị với vợ để chắp cánh mới với cô cháu trẻ son.

Vậy là ông đại úy phải đi. Charlotte đề nghị cô cháu cũng phải về lại trường cũ, ở nội trú. Nhưng Edouard đời nào chịu! Thay vì nàng đi thì chàng đề nghị chàng sẽ đi, cũng làm chiến tranh, hết chiến tranh sẽ về. Một ngày đó, cô gái không thấy bóng ông chủ nhà trong lâu đài nữa; buổi tối, ba cái khăn ăn đặt trên bàn chỉ còn hai. Cô thương nhớ, đau khổ, mất hy vọng, héo hon. Nhưng trong lâu đài bỗng có sự lạ: Charlotte có thai! Mà lại có thai với chồng! Cái thai làm tiêu tan giấc mộng của Odile. “Chúng ta là hai, nhưng chúng ta không thể chia hai”, cô gửi cô đơn như thế vào nhật ký. Lâu đài xuất hiện một cái nôi. Rồi lâu đài xuất hiện một đứa bé. Đứa bé mà Odile bồng bế, nuôi dưỡng. Hòn máu của Charlotte và Edouard! Làm sao Odile tách rời được một hôn nhân mà hòn máu bỗng làm dính chặt?

Từ mặt trận, Edouard trở về. Đứa con chẳng làm chàng gần vợ hơn. Đam mê vẫn cháy bỏng. Đến độ anh chàng van nài ông đại úy thuyết phục giục giã vợ ly dị. “Tôi biết anh yêu Charlotte. Hãy nhận nàng từ tay tôi. Mang Odile lại cho tôi. Chúng ta sẽ là những người hạnh phúc nhất trên trái đất này”. Chàng lẻn vào lâu đài bằng một con đường kín. Odile đang ngồi dưới bóng cây, đứa bé đang ngủ. Đôi uyên ương quấn quýt nhau, quên cả thời gian. Ngày tắt dần, mặt trời khuất sau non, trải dài bóng cây trên cỏ. Chết rồi chàng ơi, Odile sực tỉnh. Trời tối rồi mà Charlotte không thấy con về, thiếp phải chia tay chàng thôi, thiếp nhảy xuống chiếc thuyền này nhé, chèo về nhanh hơn. Thuyền tròng trành, tay thiếp run, tim thiếp đập, thiếp vô ý sẩy mái chèo, thuyền nghiêng, đứa bé rơi xuống nước.

Phần sau của cuốn truyện tả tâm trạng của Odile, từ hối hận đến dày vò, từ héo mòn đến tàn tạ, ốm đau, nhịn đói, chết. Tất cả hoa trong lâu đài đều được hái hết để phủ lên quan tài, như thử mùa đông vừa đến, làm rụng hết hoa. Từ sáng sớm, quan tài được đưa ra khỏi lâu đài, nắp hòm mở ra, mặt trời vừa mọc chiếu ánh hồng trên gương mặt thiên thần.

Odile chết thì Edouard làm sao sống nốt được. Charlotte chôn hai người trong một mồ chung. “Và như vậy, hai người tình nằm cạnh nhau. Thanh bình vờn bay trên nơi ở cuối cùng của họ. Từ nóc nhà thờ, hình ảnh an lành của thiên thần nhìn xuống họ. Và êm ả biết bao khi họ cùng nhau thức dậy, một ngày nào đó”.

Kể lể dông dài chuyện tình giữa bốn nhân vật này như vậy để làm gì? Đâu là khoa học trong chuyện? Ấy, khoa học quá đi chứ, khoa học từ cái tên khó nghe của cuốn tiểu thuyết. Goethe mượn tên đó từ một cuốn sách của một nhà hóa học Thụy Điển, Tornberg Bergman, xuất bản bằng tiếng la tinh năm 1775 và dịch ra tiếng Đức năm 1782 dưới nhan đề “Die Wahlverwandtschaften”, tạm dịch theo bản tiếng Pháp là “Những đồng điệu chọn lựa”. Tại sao lại có hóa học ở đây? Tại vì trong lịch sử hóa học có thuyết mang tên ấy (les affinités électives) thịnh hành hồi thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, và hãy còn chiếm một vị thế quan trọng trong những công trình nghiên cứu của Berthollet và Laplace. Sách của Bergman có một câu về thuyết ấy như sau: “Cho A là một chất mà những chất khác a, b, c… lôi kéo: giả sử A trộn lẫn với c đến mức hòa tan (Ac) và giả sử ta thêm b vào mà c tách ra thì ta nói rằng A lôi kéo b mạnh hơn c hoặc nói rằng b có một sức thu hút lựa chọn mạnh hơn c. Cuối cùng, giả sử ta thêm a vào mà Ab rời nhau ra và b bị tống đi còn a thì chiếm vị trí của b thì ta nói sức thu hút của a mạnh hơn sức thu hút của b, và như vậy, chuỗi a, b, c... là sắp đúng theo thứ tự thu hút của những lực chọn lựa trong ba chất ấy”.

Ông đại úy trong truyện trình bày thuyết ấy cho Edouard và Charlotte nghe say mê trong suốt chương 4. Khi ấy, Odile chưa tới ở trong lâu đài. Ông giản lược hơn, giản lược đến mức độc giả tối dạ nhất cũng hiểu và đoán trước được câu chuyện: “Các bạn hãy thử tưởng tượng giữa A và B có một kết hợp bền chặt đến nỗi dù bao nhiêu thử thách, trù dập, cũng không làm chúng rời nhau được; rồi các bạn hãy thử tưởng tượng C và D cũng khăng khít với nhau tương tự như vậy; bây giờ các bạn đặt hai cặp ấy bên nhau: A sẽ đi đến với D, C sẽ đi đến với B mà ta chẳng có thể nói được cái nào đã từ bỏ cái kia trước, cái nào đã kết hợp với nhau trước cái kia”.

Vốn là người học rộng biết nhiều, ông đại úy bắt qua ngôn ngữ hóa học: “Cái mà ta gọi là đá vôi (CaCO­2 – carbonate de calcium) là một thứ đất calcaire ít nhiều tinh khiết có thấm một thứ acide tinh tế mà ta biết dưới dạng khí (H2CO3 – acide carbonique). Nếu ta nhúng một miếng đá ấy vào trong acide sulfurique pha loãng (H2SO4) thì acide đó sẽ chiếm lấy vôi và tạo thành với vôi một chất gọi là sulfate de calcium (CaSO4). Trái lại, chất acide tinh tế dưới dạng khí nói trên được phóng thích. Như vậy, ta thấy có một sự tách ra và một sự tạo thành của một hỗn hợp mới, khiến ta có thể dùng từ “đồng điệu chọn lựa”, bởi vì sự việc đã xảy ra như tuồng một trong những thành phần thích một thành phần khác, lựa chọn một thành phần khác để kết tụ”.

Kẻ ngoại đạo khoa học viết bài này rất sợ mình dịch không chuẩn, lại pha trộn chữ Tây với chữ ta, khó nghe. Nhưng cái lý thuyết hóa học này là nòng cốt của cuốn truyện, làm sao bỏ qua được. Cho nên đành phải tiếp tục gắng sức nói thêm. Nhà khoa học Etienne-François Geoffroy long trọng trình bày thuyết đó tại Paris năm 1718 trước Hàn Lâm Viện. Ông nói : “Trong hóa học, người ta quan sát được một số tương quan giữa những chất khác nhau khiến chúng kết tụ dễ dàng với nhau. Những tương quan đó có mức độ của chúng và định luật của chúng. Người ta quan sát các mức độ khác nhau đó và thấy rằng, trong nhiều chất lẫn lộn với nhau và có tính kết hợp cùng nhau, một trong những thành phần luôn luôn kết hợp một cách lựa chọn với một thành phần nào đó so với tất cả các thành phần khác”.

Rõ hơn, “mỗi khi hai chất nào có khuynh hướng đến với nhau và đã cùng nhau kết hợp rồi, mà nếu có một chất thứ ba có tương quan nhiều hơn với một trong hai chất kia thì nó kết hợp ngay với chất ấy và bỏ rơi chất kia”.

Ôi, hóa học sao mà lãng mạn thế! Các vật vô tri kia, chúng mày có tâm hồn cả hay sao? Chúng mày cũng thế, tình yêu nào cũng là tình đầu? Chúng mày cũng biết cưới nhau rồi ly dị? Này, anh sắt, thả anh vào một dung dịch acide vitriolique có chất bạc hoặc chất đồng: chẳng phải vì chị axít có đồng điệu nhiều hơn với anh nên phải lòng anh ngay lập tức và lập tức quát anh đồng hoặc anh bạc kia phải cuốn gói ra đi?

Hình như thuyết đồng điệu ấy không được thịnh hành nữa trong hóa học từ lúc Lavoisier đưa ra những khám phá mới. Nhưng có hề chi. Chuyện đáng nói là Goethe đã làm thuyết ấy sống động trong văn chương. Các nhân vật trong tiểu thuyết hành động, thương yêu, ăn nói, hút nhau vào, đẩy nhau ra y như các hóa chất, và Goethe điều khiển các nhân vật, tạo ra các hoàn cảnh, y như một nhà hóa học quan sát, thí nghiệm, chứng minh giả thuyết. Lâu đài trong truyện là phòng thí nghiệm, ông đại úy là xướng ngôn viên của một định luật áp dụng cho cả người, áp dụng cho cả ông.

Luật ấy, không ai cưỡng lại được. Edouard lao vào Odile, bất kể đúng sai. Đúng sai, Charlotte biết, nhưng rốt cuộc chấp nhận ly dị. Ở châu Âu thời ấy, nhà thờ mạnh thế kia, cấm ly dị nhường ấy, hôn nhân thiêng liêng nhường kia, lại là xã hội quý tộc, bá tước hẳn hoi chứ có phải phu mỏ đâu, mà cũng đành giơ tay đầu hàng trước luật thiên nhiên của hóa chất. Vì luật là tất yếu, luật là luật. Viết trái với thiên nhiên là nói láo, nhà văn không được dối trá, Emile Zola đã tuyên ngôn như vậy rồi. Cho nên Charlotte cũng phải cúi đầu, áp dụng luật. Bà nói với ông đại úy: “Đáng lẽ em phải chấp nhận như vậy sớm hơn… Có những sự việc mà số mệnh nhất quyết bảo phải tuân theo. Lý trí và đức hạnh, bổn phận và những gì thiêng liêng muốn chặn đường số mệnh cũng vô ích thôi: một việc phải làm, số mệnh cho là đúng, ta cho là không đúng, chính số mệnh quyết định cuối cùng và ta chỉ bàn cãi cho vui… Chẳng phải chính em đã xem Odile và Edouard như là cặp tình nhân hợp nhau nhất đấy sao? Chẳng phải chính em đã tìm cách làm họ gần nhau?”

Edouard là anh chàng sống đúng với luật của hóa chất nhất. Không những thế, anh chàng còn linh cảm trước cả những chuyện sẽ xảy ra. Khi ông đại úy diễn giảng thuyết đồng điệu lựa chọn, khi ấy Odile chưa đến, anh chàng đã nói đùa với vợ: “Em, Charlotte, em là A, và anh là B của em, bởi vì anh chỉ lệ thuộc em và anh theo em như B theo A. C thì rõ ràng là ông đại úy, người đang cuỗm mất em khỏi anh. Vậy thì, để em khỏi lẩn trốn vào phân vân, người ta phải công bình đem đến một D, và đó là cô nàng Odile đáng mến mà em không thể cứ ngăn cản mãi không cho đến”.

Trước đó, anh chàng còn nói: “Luật đồng điệu chỉ lý thú khi nó gây ra ly dị”. Rồi đùa: “Danh dự của các ông hóa học gia là được tặng cho cái tên nghệ sĩ của chia rẽ”. Khi đó, Charlotte còn đính chính: “Kết hợp là một nghệ thuật lớn hơn, xứng đáng hơn. Cả thế giới chào đón, trong mỗi lĩnh vực, một nghệ sĩ của kết hợp”. Công việc bình thường của nhà hóa học là phân tích và tổng hợp, là tách và nối. Cuốn truyện không làm khác. Nhân vật hút nhau và rời nhau. Hôn nhân và ly dị. Người hay vật đều thế. Ông đại úy bình luận: “Các hóa chất tưởng là bất động, vậy mà bên trong luôn luôn sẵn sàng tư thế để hành động. Phải quan sát với thiện cảm chúng nó tìm nhau như thế nào, lôi kéo nhau như thế nào, ôm nhau, hủy hoại nhau, thẩm thấu nhau, ăn thịt nhau như thế nào, để rồi tái hiện, gắn kết nhau đến tận cùng sâu thẳm, dưới một hình thức mới, khác hẳn, bất ngờ. Lúc đó, và chỉ lúc đó, người ta mới gán cho chúng một cuộc đời vĩnh cửu, người ta nói chúng có đầu óc và lý lẽ”.

Thế đấy, vật hay người đều thế cả, trong thiên nhiên. “Khi ta quan sát trong thiên nhiên để xem cái gì tự đến với ta, trước hết ta để ý rằng tất cả đều được thu hút bởi chính ta”. Đó là lời ông đại úy. Đó là lý thuyết về lực hút của cái giống nhau bởi cái giống nhau. Edouard cho ví dụ: “như nước, như dầu, như thủy ngân, mỗi thứ kết hợp với mỗi thứ thành một đồng thể của nó, một sự khăng khít chặt chẽ giữa các thành phần trong đó. Các thành phần ấy chỉ từ khước đồng thể khi bị bắt buộc hay bị hướng dẫn một cách khác. Một khi ảnh hưởng bên ngoài bị triệt tiêu, chúng tức khắc tái hợp thành một”. Hai giọt nước gặp nhau thành một, hay đó là Edouard với Odile?

Có hai chi tiết trong cuốn truyện làm nổi bật thêm lý thuyết đồng điệu lựa chọn. Chi tiết thứ nhất là đứa con của Charlotte và Edouard. Hai người này hết thu hút nhau nhưng tình cờ của một đêm mưa gió đưa đến một giọt máu. Thế nhưng, lạ lùng thay, đứa con vừa có nét của ông đại úy, vừa có nét của cô Odile! Người này trong tay người kia, A trong tay B, nhưng dù thế đi nữa, A vẫn nghĩ mình đang ân ái với C và B cùng tâm trạng ấy với D. Vắng mặt vẫn hút nhau trong tâm tưởng! Chi tiết thứ hai là cho đến chết B vẫn nằm bên cạnh D và cùng nhau chờ một ngày nào đó sẽ thức dậy BD với mặt trời.

Goethe viết tiểu thuyết để vinh danh một lý thuyết hóa học. Ông thổi linh hồn vào các hóa chất để biến chúng thành người. Zola cũng vậy: ông viết tiểu thuyết để thổi linh hồn của khoa học vào văn chương. Nhưng nếu khoa học đã gợi hứng cho văn chương như vậy, phải chăng vì trong khoa học đã có sẳn một cuốn tiểu thuyết đầy chàng và nàng? Đầy rượu và định mệnh? Đầy con người như thần thánh và đầy con người như những cơ quan sinh lý?

 

Chú thích:

Hai tài liệu chính (ngoài các tài liệu khác) được dùng để viết bài này là:

– Emile Zola: Le roman expérimental, 1880.

– Bernard Joly: “Les affinités électives” de Goethe: entre science et littérature, Methodos, Savoirs et Textes, n° 6, 2006.

Xin chép lại nguyên văn câu viết của Zola về “nhân vật của chúng tôi…”: “Notre héros, écrit Zola, n’est plus le pur esprit, l’homme abstrait du 18è siècle. Il est le sujet physiologique de notre science actuelle, un être qui est composé d’organes et qui trempe dans un milieu dont il est pénétré à chaque heure” (Journal Petite Lune, avril 1879).

Những câu trích Anatole France là lấy từ Anatole France, La Terre, La vie littéraire, Le Temps, http://fr.wikisource.org/wiki/La_Terre_%28Anatole_France%29

 

http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&News=7538&CategoryID=41


[*] Được phép trích từ kỷ yếu Hạt Higgs và Mô Hình Chuẩn, Nhóm chủ biên: Cao Chi, Chu Hảo, Pierre Darriulat, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm Xuân Yêm. Nxb Tri Thức, Hà Nội, tháng 3, 2014.

Hậu quả của một nền giáo dục duy ý thức hệ

Kính Hòa, phóng viên RFA

000_Hkg8782036-600.jpg

Các bản đồ cổ được trưng bày tại một cuộc triển lãm về Trường Sa và Hoàng Sa tại Bảo tàng Quân đội Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 2013.

Ngày 9/6/2014 Trung Quốc tung một đòn mới trên phương diện pháp lý và ngoại giao nhằm củng cố vị thế của họ trong các tranh chấp chủ quyền ở biển Đông. Đó là việc họ đề nghị lưu hành tại Liên Hiệp Quốc các tài liệu bản đồ và sách giáo khoa được nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phát hành, tức là miền Bắc Việt Nam lúc đất nước chưa thống nhất. Nội dung các tài liệu này được Trung Quốc diễn dịch rằng Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà tên theo Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa.

Nguyên văn đoạn văn trong cuốn sách giáo khoa địa lý lớp chín mà TQ đưa ra như sau:

“Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây sa đến các đảo Đài Loan, Hải Nam, quần đảo Hoàng bồ Châu sơn,… làm thành một bức Trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc.”

Trong cuộc họp báo chiều ngày 16/6/2014, các viên chức ngoại giao Việt Nam tiếp tục đưa các tài liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo tranh chấp, tuy nhiên vẫn chưa có lời giải thích chính thức nào được đưa ra để giải thích nội dung cuốn sách giáo khoa địa lý lớp chín mà TQ đang viện dẫn.

Một cựu quan chức bộ ngoại giao Việt Nam là Trần Công Trục trong một bài trả lời báo Giáo dục nói rằng đó chỉ là những tài liệu dùng để dạy học. Giáo sư Trần Hữu Dũng từ Hoa Kỳ có nhận định về lý lẽ của ông Trục rằng:

“Trong một Quốc gia mà chính nhà nước sọan, in và phân phát những tài liệu này thì khó lòng mà nói rằng đó không phải là chủ trương của nhà nước.”

Trong phần cuối của bài đăng trên báo Giáo dục, Tiến sĩ Trần Công Trục còn nói:

“Trong đó không thể không nói đến tư duy ý thức hệ được hình thành và liên kết trong thời kỳ chiến tranh lạnh…”

Câu phát biểu này của ông Trục được minh họa bằng đoạn sau đây trong cuốn sách giáo khoa mà Trung Quốc dùng làm chứng cớ chuyện Việt Nam công nhận chủ quyền của họ:

“Hiện nay Đài Loan và các đảo xung quanh còn bị đế Quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung Quốc, của Viễn Đông và miền Tây Thái Bình Dương.”

image-250.jpg
Bản đồ hiển thị vị trí giàn khoan HD 981 của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông được trưng bày tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam hôm 05/6/2014. AFP photo

Tuy nhiên khó có thể lấy lý do cho việc tranh chấp chủ quyền bằng …Ý thức hệ.

Ông Phùng Hoài Ngọc, một người học tập và lớn lên ở miền Bắc trước năm 1975, nguyên trưởng khoa ngữ văn đại học An Giang nói với chúng tôi về việc chi phối của ý thức hệ trong nền giáo dục Việt Nam, nhất là ở miền Bắc trước kia:

Các môn khoa học xã hội nhân văn ở miền Bắc rõ ràng mang tính chính trị quá nặng, rõ ràng là nó bị chính trị áp đặt quá nặng rồi. Cái điều này là quá rõ.”

Và theo ông Ngọc thì môn Địa lý vẫn thường được xem là một môn nằm trong khối khoa học xã hội nhân văn trong khi nó đích thực là một môn khoa học tự nhiên..

Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFA, kỹ sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một người rất quan tâm đến ngành giáo dục Việt Nam cho rằng tính chính trị hóa là một trong nững điểm yếu kém của giáo dục Việt Nam hiện tại. Một nhà giáo khác là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nói về mục tiêu giáo dục của ngành giáo dục Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam như sau:

Đảng mở ra cái giáo dục chẳng qua là để đào tạo những công cụ, những người phục vụ cho cái công cuộc mà Đảng chủ trương.”

Dĩ nhiên sách giáo khoa làm ra là để phục vụ cho mục tiêu giáo dục. Trong trường hợp của nước Việt Nam cộng sản là phục vụ cho các chủ trương của đảng. Điều này đảng cộng sản Việt Nam cũng không hề giấu giếm trong các tuyên bố của các quan chức của họ. Một trong những mục tiêu của đảng trong những năm chiến tranh lạnh chính là quan hệ đồng minh ý thức hệ với Trung Quốc.

Trớ trêu thay người đồng minh ý thức hệ đó vào năm 1979 đã phát động một cuộc chiến tranh biên giới ngắn nhưng đẫm máu với người anh em cùng lý tưởng của mình. Năm 2014 về nguyên tắc cả hai Quốc gia vẫn là đồng minh ý thức hệ của nhau, và đối lập với họ, vẫn là đế Quốc Hoa kỳ và tay sai như trong sách giáo khoa địa lý của năm 1974. Nhưng cũng chính người đồng minh ý thức hệ từ Bắc Kinh nay lại giương cao trang sách địa lý thấm đẫm nghĩa tình ý thức hệ mà đòi biển đảo.

Thực tế đã diễn ra không như ý thức hệ, nước Việt Nam 40 năm sau ngày in cuốn sách giáo khoa ấy đã khác, sách giáo khoa địa lý lớp chín hiện nay cũng không còn những dòng chữ đó. Nhưng sự bao trùm của ý thức hệ trong giáo dục Việt Nam đã để lại hệ lụy khó lường cho Việt Nam hiện nay, vì theo như lời Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn từ Úc nói rằng cái cách biện giải giấy tờ, tài liệu có liên quan đến chủ quyền theo kiểu ý thức hệ là không thuyết phục.

Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/dangerou-impact-ideological-educat-kh-06172014101450.html

Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin – câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bợm và một cơn mê sảng tập thể”

(Bakhtine démasqué – Histoire d’un menteur, d’une escroquerie et d’un délire collectif) của Jean – Paul Bronckart và Cristian Bota, Droz, Thụy Sĩ, 2011, 630 trang)

 Ngô Tự Lập

Cuốn sách của Jean – Paul Bronckart và Cristian Bota có thể coi là một quả bom đối với giới nghiên cứu, bởi lẽ nó liên quan đến một tên tuổi lừng lẫy bậc nhất trong số những tên tuổi lừng lẫy của thế kỷ XX – Mikhail Bakhtin. Tuy nhiên, câu chuyện không hoàn toàn bất ngờ. Sợi dây cháy chậm của quả bom đã âm ỉ từ lâu. Và điều đó cũng thể hiện đầy đủ trong cuốn sách mà chúng tôi xin tóm lược nội dung dưới đây.

Năm 1961, sau khi đọc cuốn sách của Bakhtin về Dostoevski (1929) và luận án của ông về Rabelais (nộp năm 1940, bảo vệ năm 1946 và 1949), Bocharov, Gachev và Kozhinov – ba nhà nghiên cứu trẻ của Viện văn học thế giới (Moskva) – đáp xe lửa đi Saransk để gặp tác giả. Năm 1963, ba người học trò cuồng nhiệt này tổ chức tái bản có sửa chữa cuốn sách về Dostoevski và năm 1965 xuất bản cuốn sách về Rabelais. Hai cuốn sách này nhanh chóng làm cho Bakhtin nổi tiếng khắp thế giới.

Sự việc bắt đầu khi V. Ivanov tuyên bố, tại một cuộc hội thảo năm 1970, sau đó trong một bài báo xuất bản năm 1973, rằng Bakhtin là tác giả đích thực của hai cuốn sách “Chủ nghĩa Freud: Một phác thảo phê phán (1927), Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ (1929) và ba bài báo khác của Voloshinov, cùng với cuốn “Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học” (1928) của Medvedev. Cũng trong bài báo này, Ivanov mô tả Voloshinov và Medvedev như là những “học trò” của Bakhtin, đồng thời ca ngợi Bakhtin như là người khởi đầu hoặc dự cảm hầu như tất cả các xu hướng của khoa học xã hội và nhân văn thế kỷ XX. Trước đó ít lâu, A. A. Leontiev, trong Ngôn ngữ học tâm lý (1967) và Ngôn ngữ, lời nói và hoạt động nói (1969) lần đầu tiên nhắc đến “Nhóm Bakhtin”, hay “Trường phái Bakhtin”. Tại Pháp, Julia Kristeva, trong Một nền thi pháp học sụp đổ (1970), dựa trên ý tưởng của các công trình này đưa ra khái niệm “Liên văn bản”. Năm 1981, Tzvetan Todorov, trong Mikhail Bakhtine, le principe dialogique (Mikhail Bakhtin, nguyên lý đối thoại), cố gắng lắp ghép các công trình của Voloshinov và Medvedev vào sự nghiệp của Bakhtine, biến chúng thành một tổng thể thống nhất. Năm 1984, Clark và Holquist xuất bản cuốn tiểu sử Mikhail Bakhtin, khẳng định Bakhtin là tác giả của các tác phẩm “tranh cãi”. Đáng chú ý là trong cuốn sách này, Voloshinov và Medvedev được mô tả như những tác giả xoàng xĩnh, xu thời, thậm chí vô liêm sỉ. Rất nhiều thông tin trong cuốn sách về cuộc đời và sự nghiệp của Bakhtin, cũng như về “Nhóm Bakhtin”, về sau bị phát hiện là không đúng sự thật.

Trong thập niên 1980, hàng loạt công trình “tái phát hiện” của Bakhtin được công bố. Tại Nga, những người hâm mộ Bakhtin cho in bộ sách “Bakhtin đeo mặt nạ” (М. М. Бахтина под маской), tập hợp không chỉ các công trình nói trên mà cả 2 bài báo khác của Medvedev và một bài ký tên Kanaev. Đến thời điểm đó, Bakhtin được tôn vinh như là nhà tư tưởng lớn nhất trong số các nhà khoa học nhân văn thế kỷ XX. Trích dẫn và nghiên cứu Bakhtin trở thành thời thượng, và Bakhtin trở thành người hùng của cái mà Morson (1986) gọi là Bakhtin Industry (Công nghệ Bakhtin), bao trùm hầu như mọi ngành nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, đến mức Terry Eagleton phải viết trong bài “I Contain Multitudes”: “… hầu như không có chủ đề hậu hiện đại thời thượng nào mà chưa được Bakhtin dự cảm trước. Diễn ngôn, tính lai, tính khác, tình dục, nổi loạn, biến thái, đa hợp, văn hóa đại chúng, thân xác, cái tôi phi trung tâm, tính vật chất của ký hiệu, chủ nghĩa lịch sử, đời thường: nhà tư tưởng hậu cấu trúc sớm này, như cách gọi của Graham Pechey, đã hình dung trước quá nhiều điều về thời đại của chúng ta, đến mức sẽ đáng ngạc nhiên nếu như trong tác phẩm của ông chúng ta không thấy đề cập đến Posh và Becks”[1].

Cần phải nói rằng Bakhtin không thể có được tầm vóc và danh tiếng như vậy nếu thiếu các tác phẩm của Voloshinov và Medvedev. Bronckart và Bota chỉ ra bằng thống kê: trong bài báo năm 1973 của Ivanov, khi bàn đến các “luận điểm của Bakhtin”, chỉ có 25 lần tác giả trích dẫn Những vấn đề thi pháp Dostoievski, 23 lần trích dẫn François Rabelais và văn hóa dân gian thời Trung đại và Phục Hưng và 28 lần trích dẫn 6 tác phẩm khác của Bakhtin. Trong khi đó, Ivanov 47 lần trích dẫn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, 14 lần trích dẫn Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học và 13 lần trích dẫn các công trình khác ký tên Voloshinov[2] [9]. Tương tự như vậy, I. R. Titunik nhận thấy trong hai cuốn sách của A. A. Leontiev (Ngôn ngữ học tâm lýNgôn ngữ, lời nói và hoạt động nói, đã nhắc ở trên), tất cả các luận điểm được coi là của Bakhtin lại được dẫn ra từ cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ của Voloshinov[3].

Mặc dù không hề có bất cứ bằng chứng thực sự nào và cũng chưa có ai, kể cả Bakhtin, giải thích được thỏa đáng tại sao ông phải đội tên bạn bè để in sách (cuốn sách về Dostoievski của Bakhtin được in trong cùng một năm với cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ của Voloshinov), giới học giả đã nhanh chóng tin tưởng và lan truyền huyền thoại này[4]. Ở Việt Nam, dịch giả Phạm Vĩnh Cư viết trong cuốn tuyển dịch M. Bakhtin – Lý luận và thi pháp tiểu thuyết: “Bakhtin viết về những vấn đề ngôn ngữ học từ những năm 20. Năm 1929, ông mượn tên một người bạn và học trò của mình cho xuất bản cuốn sách Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ, ở đó ông xây dựng những luận cứ lý thuyết cho một bộ môn khoa học học mới – siêu ngôn ngữ học.”[5]Trong “Lời giới thiệu” bản tiếng Việt cuốn Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki của M. Bakhtin, dịch giả Trần Đình Sử – có lẽ là người đầu tiên giới thiệu Bakhtin ở Việt Nam – cũng viết: “Từ năm 1924 đến 1929 ông đội tên bạn bè công bố ba tác phẩm: Chủ nghĩa Phrơt, Chủ nghĩa Mac và triết học ngôn ngữ, Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học. Lí do đội tên có người giải thích là do Bakhtin có tính thích hóa trang theo kiểu cacnavan. Trước khi mất M. Bakhtin đã lập di chúc xác nhận tác quyền của ông đối với ba tác phẩm này”.[6]

Tôi không rõ Trần Đình Sử lấy thông tin ở đâu, nhưng căn cứ vào tất cả các nguồn mà tôi được biết thì Bakhtin chưa bao giờ xác nhận bằng văn bản rằng ông là tác giả của những tác phẩm “tranh cãi”. Điều này cũng được Bronckart và Bota khẳng định. Họ dẫn lời Kozhinov, một trong ba học trò thân cận đóng vai trò chủ chốt trong sự tôn vinh Bakhtin, trong một văn bản công bố năm 1994: “Ông (tức Kozhinov- NTL) nói thêm rằng Bakhtin luôn luôn từ chối ký giấy xác nhận rằng ông là tác giả đích thực của các tác phẩm này, mà trên giường lúc hấp hối ông lại tuyên bố: “Điều này, sau tất cả, là tội lỗi của tôi, và tôi phải thú nhận”[7][246].

Nhưng không phải tất cả các học giả đều tin vào huyền thoại. Một số giữ thái độ cẩn trọng, nhưng tin rằng Bakhtin là “đồng tác giả” hay ít nhất là có “ảnh hưởng” đáng kể đối với các tác phẩm “tranh cãi”. Averintsev (1988) đề nghị để ngỏ vấn đề, coi đó là một câu hỏi không thể có lời giải. Một số khác, như Matejka, Titunik, Morson và Emerson, hoàn toàn phủ nhận giả thuyết “tất cả thuộc về Bakhtin”. Xin nhớ rằng Matejka và Titunik là những nhà Slav học nổi tiếng, người dịch các tác phẩm của Voloshinov và Medvedev; còn Morson và Emerson ban đầu cũng tin vào giả thuyết “tất cả thuộc về Bakhtin”, nhưng sau một thời gian nghiên cứu, đã thay đổi quan điểm.

Có rất nhiều lý do để nghi ngờ. Trước hết là sự khác biệt rất lớn về phong cách giữa những tác phẩm ký tên Bakhtin, Medvedev và Voloshinov. Các tác phẩm ký tên Bakhtin thường rối rắm, tối nghĩa, lỏng lẻo, thậm chí là tự mâu thuẫn. Trong khi đó cuốn Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn họccủa Medvedev và các tác phẩm ký tên Voloshinov lại rất chặt chẽ, mạch lạc và nhất quán về tư tưởng. Thêm nữa, Voloshinov và Medvedev, cũng như tác phẩm của họ, thấm đẫm tinh thần Marxist (đến mức họ trở thành nạn nhân của Stalin và Chủ nghĩa Marx máy móc); còn Bakhtin là người sùng đạo và chống Marx cho đến tận cuối đời. Những người hâm mộ Bakhtin tuyên bố rằng những thuật ngữ và giọng điệu Marxist trong các tác phẩm ký tên Voloshinov và Medvedev chỉ là cái vỏ để che mắt cơ quan kiểm duyệt. Nhưng bất kỳ ai từng đọc Voloshinov và Medvedev một cách nghiêm túc đều nhận thấy rằng điều đó không đúng: quan điểm Marxist thực sự là cốt lõi các tác phẩm của họ.

Chính vì những nghi ngờ đó, và vì tầm quan trọng của các tác phẩm ký tên Voloshinov và Medvedev đối với cái gọi là “Học thuyết Bakhtin”, trong mấy thập niên vừa qua đã có nhiều nghiên cứu hồ sơ, văn bản và phong cách học được tiến hành nhằm cung cấp các bằng chứng để khẳng định dứt khoát ai là tác giả đích thực của chúng. Cuốn sách của Bronckart và Bota không phải là công trình đầu tiên, nhưng là công trình đầy đủ và hệ thống nhất từ trước đến nay. Các tác giả không đưa ra những phát hiện mới về văn bản, thư từ, chứng cứ, mà chủ yếu phân tích và tổng hợp những kết quả nghiên cứu của các học giả từ khắp nơi trên thế giới.

Trong phần thứ nhất, nhan đề “Những yếu tố của lịch sử học thuyết Bakhtin” (Éléments d’histoire du Bakhtinisme), bao gồm 6 chương, các tác giả trình bày khá chi tiết lịch sử hình thành và tiến triển “thần kỳ” (“prodigieux”) của Bakhtin Industry, thông qua việc khảo sát sự tiếp nhận “trước tác của Bakhtin” (bao gồm những tác phẩm chắc chắn của Bakhtin, những tác phẩm về sau và “tái phát hiện” của ông, cùng với những tác phẩm ký tên Voloshinov và Medvedev). Trong phần này, họ dành nhiều trang để khảo sát những tuyên bố và thái độ của Bakhtin đối với các tác phẩm “tranh cãi” cũng như đối với bản in năm 1929 của cuốn Những vấn đề sáng tác của Dostoievski. Trong phần hai, nhan đề “Phân tích so sánh trước tác của Bakhtin, Voloshinov và Medvedev” (Analyse comparative des œuvres de Bakhtine, Voloshinov và Medvedev), cũng bao gồm 6 chương, Bronckart và Bota tập trung phân tích, đối chiếu, so sánh các tác phẩm thời trẻ của Bakhtin, các tác phẩm “tranh cãi” ký tên Voloshinov và Medvedev, hai phiên bản của cuốn sách về Dostoievski của Bakhtin và các tác phẩm ký tên Bakhtin sau này. Như chúng ta thấy ngay trong đầu đề, bằng các nghiên cứu của mình, Bronckart và Bota khẳng định rằng Bakhtin là kẻ lừa dối, rằng huyền thoại về “Nhóm Bakhtin” và tư cách tác giả của Bakhtin đối với các tác phẩm “tranh cãi” chỉ là “trò bịp bợm” dựa trên thái độ vô trách nhiệm và sự u mê của giới học giả,cái mà họ gọi là một “cơn mê sảng tập thể”.

Bakhtin lừa dối những gì?

Trước hết là về tiểu sử. Trong cuộc trò chuyện với Duvakin (1973), Bakhtin tuyên bố rằng ông xuất thân từ một gia đình thượng lưu, có ông là chủ tịch hội đồng quản trị một ngân hàng lớn ở Oriol; rằng ông học Trung học ở Oriol, sau đó tốt nghiệp ở Vilnius; rằng ông học đại học ở Odessa rồi ở Saint-Petersburg. Trong một chú thích viết tay, Bakhtin khẳng định rằng ông ở Đức trong thời gian 1910-1912, học bốn học kỳ ở đại học Marburg và một học kỳ tại Berlin [280]. Các thông tin này được các nhà viết tiểu sử Bakhtin, đặc biệt là Clark và Holquist, sử dụng và phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, những nghiên cứu hồ sơ lưu trữ tại Vitebsk, Nevel và Leningrad do Pankov, Konkin và Lisov thực hiện lần lượt vào các năm 1993, 1994, 1996 cho thấy những thông tin hoàn toàn khác: Ông của Bakhtin là một nhà buôn, chưa bao giờ là chủ tịch hội đồng quản trị của bất cứ ngân hàng nào. Mặc dù có một dòng họ Bakhtin khá thành đạt, nhưng đó là một dòng họ khác tình cờ trùng tên, không hề có liên quan gì đến Bakhtin của chúng ta. Các hồ sơ còn cho thấy rằng Bakhtin chưa bao giờ tốt nghiệp phổ thông trung học, và chưa bao giờ học đại học. Bakhtin cũng chưa bao giờ du học ở Đức. Hóa ra, những thông tin về thời gian học tập ở Đức, Bakhtin lấy từ tiểu sử của Kagan, một người bạn; còn thông tin về thời gian học tập ở Nga, Bakhtin lấy từ tiểu sử của anh trai, Nicolai Bakhtin, một người từng được coi là thần đồng, về sau gia nhập Bạch Vệ, cuối cùng di cư sang Anh, trở thành giảng viên đại học [20 ; 281].

Thứ hai, quan trọng hơn, Bakhtin đã nói dối để chiếm đoạt tác phẩm của Voloshinov và Medvedev. Nghiên cứu các bài trả lời phỏng vấn, những cuộc trò chuyện và thư từ của Bakhtin, người ta thấy ông rất mâu thuẫn. Cho đến đầu thập niên 1960, Bakhtin vẫn khẳng định rằng ông không phải là tác giả của các tác phẩm « tranh cãi », mặc dù ngay từ khi cuốn sách về Dostoievski được xuất bản lần đầu tiên (1929), nhiều người, trong đó có Vinogradov, đã nhận thấy rằng nhiều luận điểm trong đó giống hệt những luận điểm của Medvedev trong Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học và của Voloshinov trong Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ. (Cần phải nói rằng cuốn sách của Voloshinov được Roman Jakobson hết lời ca ngợi, và chính nhờ Jakobson, những ý tưởng của Voloshinov có ảnh hưởng to lớn đối với trường phái ngôn ngữ học Praha). Có lẽ, để giải thích sự giống nhau này, Bakhtin đã viết trong lá thư (10/01/1961) gửi Kozhinov: “Tôi biết rất rõ hai cuốn Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn họcChủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ. V. N. Voloshinov và P. N. Medvedev là bạn tôi; vào thời gian khi hai cuốn sách ấy được viết, chúng tôi làm việc trong một mối quan hệ sáng tạo cực kỳ thân thiết. Quả thực, hai cuốn đó và cuốn nghiên cứu về Dostoievski của tôi cùng dựa trên một quan niệm chung về ngôn ngữ và tác phẩm ngôn từ. Từ quan điểm này, Vinogradov hoàn toàn có lý. Tôi phải nói thêm rằng quan niệm chung ấy, cũng như quan hệ chặt chẽ của chúng tôi trong khi làm việc, không hề làm giảm tính độc lập cũng như tính độc đáo của mỗi cuốn trong ba cuốn sách đó. Còn về các công trình khác của Medvedev và Voloshinov, chúng nằm trên một bình diện khác và không phản ánh quan niệm chung: tôi hoàn toàn không tham gia vào quá trình viết nên chúng” [240-241].

Thế nhưng trong cuộc trò chuyện với Bocharov (06/1970), Bakhtin lại tự nhận là tác giả của ba cuốn sách ký tên Voloshinov và Medvedev, mà ông coi là “quà tặng cho các bạn”. Cũng trong cuộc nói chuyện này, vợ Bakhtin nói rằng Bakhtin đã “đọc cho Voloshinov chép” cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ [243]. Thế nhưng, trong một cuộc nói chuyện với Kozhinov, vợ Bakhtin lại cho biết rằng Bakhtin đã đọc để chính tay bà viết những tác phẩm của Voloshinov và Medvedev [246]. Trong cuộc trò chuyện (11/1974) với Bocharov, Bakhtin nói rằng ông là người đã “viết từ đầu đến cuối” ba cuốn sách trên và bài báo Ngôn từ trong đời sống và ngôn từ ngôn trong thơ của Voloshinov (1926);rằng ông tặng tác quyền cho các bạn [244]. Trong một cuộc nói chuyện khác cũng với chính Bocharov (4/1974), Bakhtin tuyên bố rằng ông mượn tên các bạn để in sách vì các bạn ông “cần phải xuất bản” [244]. Thế nhưng trong cuộc nói chuyện với Kozhinov, Bakhtin lại nói rằng các tác phẩm ký tên Voloshinov và Medvedev viết không được kỹ, vì ông đọc cho người khác chép, và ông thú nhận rằng ông viết những tác phẩm đó đơn thuần “vì tiền” [246]. Nói chung, đến đầu thập niên 1970, Bakhtin đã nhận hầu hết các tác phẩm quan trọng của những người bạn đã chết từ lâu của ông. (Voloshinov bị lao phổi nặng từ đầu những năm 1930 và từ trần năm 1936. Medvedev thì bị Stalin xử tử năm 1939).

Trái với những gì Bakhtin nói, những nghiên cứu tài liệu lưu trữ, đặc biệt là sau khi Liên Xô sụp đổ, cho phép chúng ta khẳng định bản quyền trọn vẹn của Voloshinov và Medvedev đối với những kiệt tác của họ. Voloshinov và Medvedev hoàn toàn không phải là những tác giả tầm thường, những “học trò” của Bakhtin. Vào thập niên 1920, họ đã là những học giả với sự nghiệp học thuật sáng chói, làm việc trong những trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu của Leningrad. Các tác phẩm mà Bakhtin tuyên bố tác quyền không đơn thuần là kết quả cụ thể của chương trình nghiên cứu do Voloshinov và Medvedev thực hiện tại Viện Lịch sử So sánh Văn học và Ngôn ngữ Đông Tây (ИЛЯЗВ), mà còn là những vấn đề họ theo đuổi trong nhiều năm, từ khi còn là sinh viên, nghiên cứu sinh, cho đến khi trở thành những nhà giáo và nhà nghiên cứu có uy tín. Voloshinov bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 1929 (Nội dung luận án chính là phần III cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ). Sau đó, Voloshinov trở thành Phó giáo sư (доцент) tại  Viện Lịch sử So sánh Văn học và Ngôn ngữ Đông Tây, Giáo sư tại Đại học sư phạm Leningrad mang tên Gertsen (Ленинградском педагогическом институте имени А. И. Герцена), Viện Văn hóa Ngôn ngữ (Институте Речевой Культуры) và Trường đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ các ngành nghệ thuật Leningrad (Ленинградский Институт повышения квалификации кадров работников искусств, ЛИПКРИ). Sự nghiệp học thuật của Medvedev thậm chí còn sớm hơn. Ngay từ năm 1917, ở Vitebsk, ông đã là hiệu trưởng trường Đại học Vô sản, Tổng biên tập tạp chí Isskustvo (Nghệ thuật) và được coi là thủ lĩnh văn hóa của địa phương. Ngay từ khi đó, ông đã công bố nhiều công trình về lý luận văn học, về phương pháp luận lịch sử văn học và về văn học Nga, trong đó có nghiên cứu về Dostoievski. Chuyển đến Petrograd (sau đổi là Leningrad) từ năm 1922, Medvedev viết, diễn thuyết và xuất bản rất nhiều. Từ năm 1927, ông đã là giáo sư tại Đại học sư phạm Leningrad mang tên Gertsen.

Theo Bronckart và Bota, chính Voloshinov và Medvedev là những người giúp Bakhtin tiếp cận với đời sống học thuật. Bởi lẽ, khi đó Bakhtin ốm đau, không bằng cấp, không có công việc ổn định, phải chấp nhận những công việc lặt vặt. Voloshinov thuê vợ Bakhtin đánh máy bản thảo để giúp vợ chồng Bakhtin có thêm thu nhập [294]. Có lẽ, qua những bản thảo đó, và qua các buổi thảo luận, Bakhtin đã làm quen với chương trình nghiên cứu của Voloshinov và Medvedev. Ngoài việc giúp đỡ Bakhtin về vật chất và tinh thần, khi Bakhtin bị đi đày năm 1929, Voloshinov và Medvedev cùng bè bạn tổ chức một cuộc vận động ủng hộ Bakhtin. Năm 1936, khi được phép rời nơi lưu đày, Bakhtin về Leningrad gặp Medvedev và chính Medvedev là người xin cho Bakhtin được dạy học tại trường Đại học sư phạm Mordovia ở Saransk [33].

Tại sao Bakhtin lại tuyên bố bản quyền tác giả đối với ngày càng nhiều tác phẩm của bạn ông như vậy? Việc khảo sát các tác phẩm của Bakhtin, Voloshinov và Medvedev có thể cho ta thấy nhiều điều. Như trên đã nói, trong thư gửi Kozhinov, Bakhtin khẳng định rằng ông có chung với Voloshinov và Medvedev những quan niệm về ngôn ngữ và tác phẩm ngôn từ mà ta thấy trong Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ của Voloshinov và “Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học” của Medvedev, đều in trước cuốn sách của Bakhtin, còn các công trình khác của Medvedev và Voloshinov thì “nằm trên một bình diện khác và không phản ánh quan niệm chung”, và ông “hoàn toàn không tham gia vào quá trình viết nên chúng”. Tuy nhiên, về sau người ta lại thấy rằng những quan niệm này đã được trình bày trong những tác phẩm trước đó của Voloshinov và Medvedev. Phần ba cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, với những phát hiện mang tính cách mạng về vấn đề truyền đạt lời kẻ khác – những phát hiện làm nên nền tảng lý thuyết cho cuốn sách của Bakhtin về Dostoievski – chính là nội dung luận án tiến sĩ của Voloshinov (bảo vệ năm 1929) mà trước đó đã được Voloshinov công bố dưới dạng bài báo, nhan đề “Vấn đề truyền đạt lời kẻ khác”, trong tuyển tập “Chống chủ nghĩa duy tâm trong ngôn ngữ học” (1928). Những ý tưởng về ngôn ngữ, cũng mang tính cách mạng không kém, của cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, cũng đã được Voloshinov trình bày trước đó, trong bài báo “Ngôn từ trong đời sống và ngôn từ trong thơ” (1926). Thêm nữa, trong cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, Voloshinov thường xuyên nhắc đến những luận điểm ông đã đưa ra trong cuốn “Chủ nghĩa Freud: Một phác thảo phê phán (1927). Xin lưu ý rằng, cho đến năm 1929, Bakhtin chưa hề biết đến học thuyết Freud, đúng như Julia Kristeva nhận xét trong Một nền thi pháp học sụp đổ. Đến lượt mình, cuốn Chủ nghĩa Freud: Một phác thảo phê phán lại là sự phát triển của bài báo “Bên kia cái xã hội: Về chủ nghĩa Freud” mà Voloshinov công bố năm 1925. Tương tự như vậy, nhiều luận điểm chủ yếu về ngôn ngữ và văn chương của cuốn “Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học” đã được Medvedev trình bày trong “Một xã hội luận thiếu xã hội học” (1926), còn sự phê phán chủ nghĩa hình thức thì đã được ông trình bày trong “Thói Salieri học thuật” (1925).

Còn Bakhtin viết gì? Nghiên cứu các tác phẩm của Bakhtin trong cùng thời kỳ đó, như “Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong tác phẩm văn chương” (đã được chấp nhận đăng trên năm 1924 nhưng tạp chí bị đình bản), hay “Tiến tới một triết học về hành vi”“Tác giả và nhân vật” (hai công trình này chưa hoàn thiện), chúng ta thấy quan điểm của Bakhtin hoàn toàn khác: sùng đạo, Slavophile (đề cao văn hóa Slav) và có quan niệm độc thoại về ngôn ngữ và văn chương, khác hẳn quan điểm duy vật biện chứng và đối thoại về văn hóa xuyên suốt các tác phẩm “tranh cãi’ ký tên Voloshinov và Medvedev [410]. Quan niệm đối thoại chỉ đột ngột xuất hiện ở Bakhtin trong cuốn sách về Dostoievski (1929). Điều này cho thấy, Bakhtin chịu ảnh hưởng của Voloshinov và Medvedev chứ không phải là ngược lại. Dù vậy, một khi Bakhtin tự nhận là tác giả của hai cuốn sách Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ và “Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học” thì ông không thể không tự nhận là tác giả của những tác phẩm kia. Bronckart và Bota nhận xét: “Nói dối, nói dối tiếp, nói dối nữa, vẫn còn điều gì đó”[8] [273].

Thứ ba, Bakhtin ngụy tạo thời điểm ra đời của các văn bản được coi là “tái phát hiện”. Chẳng hạn, Tiến tới một triết lý về hành vi được coi là viết trong khoảng 1920-1924, và Tác giả và nhân vật trong hoạt động thẩm mỹ được Bakhtin tuyên bố viết năm 1924. Poole viết về những tác phẩm này như sau: “Ảnh hưởng của Max Scheler và các học trò của ông về thứ hiện tượng luận này cung cấp chìa khóa để luận giải. Căn cứ vào những bằng chứng nội tại và các tài liệu lưu trữ, tôi tin rằng những “văn bản nguyên khởi” này được viết năm 1927. Giả thuyết này chứa những ẩn ý liên quan đến vụ tác quyền của Bakhtin đối với những văn bản của Voloshinov và Medvedev” [286].

Tại sao Bakhtin lại “nhầm lẫn” về thời gian như vậy? Tại sao ông phải tuyên bố rằng chúng được viết trước, trong khi thật ra chúng được viết sau hoặc cùng thời với, các công trình chủ yếu của Voloshinov và Medvedev? Vấn đề là: trong Tác giả và nhân vật, Bakhtin ca ngợi tính khép kín và ổn định về giá trị của mọi tác phẩm và phê phán những tác giả, noi theo Dostoievski, tự biến mất sau tính đa thanh và mâu thuẫn về giọng điệu của các nhân vật. [287]. Còn Tiến tới một triết lý về hành vi thì thấm đẫm tinh thần sùng đạo và trào lưu Slavophile mà Bakhtin tham gia. Tác phẩm khá tầm thường về triết học này ca ngợi trách nhiệm của thứ chủ thể chỉ có Chúa trời là kẻ đối thoại duy nhất. Nghĩa là chúng hoàn toàn trái ngược với quan điểm của các tác phẩm “tranh cãi”. Thật khó tin là các tác phẩm cùng thời của cùng một tác giả lại có quan điểm trái ngược nhau như vậy.Vì thế, Bronckart và Bota viết, “cần phải bằng mọi giá che giấu sự thật là hai bản thảo của Bakhtin được viết đồng thời với các văn bản ký tên Voloshinov và Medvedev” [287].

Tương tự như vậy, bản thảo Vấn đề nội dung, được coi là viết trước năm 1924, có chung chủ đề và nhiều luận điểm với cuốn sách Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học của Medvedev. Wehrlenhận xét rằng nó có thể được coi là lời nói đầu cho cuốn sách của Medvedev, hoặc ngược lại, cuốn sách của Medvedev có thể được coi là lời nói đầu của nó [288]. Tuy nhiên, Matejka (1996), chỉ ra sự mâu thuẫn giữa xu hướng duy vật biện chứng trong tác phẩm của Medvedev với xu hướng Kant-mới trong văn bản của Bakhtin. Thêm nữa, không có gì để khẳng định văn bản của Bakhtin được viết năm 1924, cũng như không thể biết bản được công bố năm 1974 khác với bản gốc như thế nào [289]. Poole (2001) cũng có nghi vấn tương tự. Ông nhận thấy rằng không có bất cứ bằng chứng nào cho thấy Bakhtin quan tâm đến đề tài này trước khi ông chuyến đến Leningrad (vào năm 1924). Ông đặt câu hỏi: Nếu Vấn đề nội dung được hoàn thành trong năm 1924, tại sao nó lại không được công bố trong cùng một tạp chí mà Voloshinov và Medvedev đã đăng bài [289-290]? Bransidst (2002) nhận thấy rằng, trên văn bản, Bakhtin chỉ thay đổi quan điểm vào năm 1929, trong cuốn sách về Dostoievski [291]. De Michiel, một người rất tin tưởng vào giả thuyết “tất cả thuộc về Bakhtin”, cũng nhận xét: trong những tác phẩm của Bakhtin của thập niên 1920, không có bất kỳ một dấu hiệu nào có thể báo trước sự phát triển của khái niệm tiểu thuyết phức điệu, trừ vài nhận xét nhỏ, trong khi ý tưởng này thể hiện rất rõ ở cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ của Voloshinov [291-292]. Poole (2001) còn chứng minh rằng Voloshinov đã tiếp thu ý tưởng về tính đối thoại của ngôn ngữ từ Jakubinski và phát triển nó trong luận án tiến sĩ của mình. Ông viết: “Voloshinov cũng là người đầu tiên nêu lên khả năng áp dụng ngôn ngữ học đối thoại để nghiên cứu Dostoievski. Có thể tin rằng sự lựa chọn nguồn tài liệu của Bakhtin phần lớn dựa vào nghiên cứu của Voloshinov. Một cuốn sổ trong kho lưu trữ Bakhtin, do vợ Bakhtin sao lại, chứa những đoạn trích tác phẩm của Askoldov, Komarovich, Vinogradov, Skaftimov, Gizetti, Vossler và Spett, những đoạn trích, không nghi ngờ gì nữa, đã xuất hiện trong nghiên cứu về triết học ngôn ngữ của Voloshinov. Tên người chủ cuốn sổ tay trên bìa đã được xóa kỹ lưỡng” [293].

Thứ tư, Bakhtin thường xuyên đạo văn(của Scheler, Broder Christiansen, Lukas, Spitzer, Cassier…) Điều này, nhiều học giả cũng đã nêu lên. Poole (2001) chỉ ra rằng trong Tiến tới một triết lý về hành viTác giả và nhân vật, Bakhtin đã vay mượn mà không nhắc đến tác phẩm Wesen und Formen der Sympathie của Scheler cũng như các tác phẩm của Hartmann [297]. Matejka (1996) chứng minh rằng Bakhtin đã xào xáo tràn lan (“reformuler massivement”) lý thuyết của Broder Christiansen trong Philosophie der Kunst (1909): “Điều đáng kinh ngạc nhất, không nghi ngờ gì nữa, là trong bài báo của mình Bakhtin không một lần nhắc đến tác phẩm Kant-mới Philosophie der Kunst của Broder Christiansen, trong khi ông khai thác cuốn sách này theo cách mà nếu chiếu theo chuẩn mực của Tây Âu, phải coi là đạo văn” [2008]. Cuốn sách của Bakhtin về Rabelais cũng chứa đựng rất nhiều chỗ vay mượn không công khai như vậy. Matejka (1996) chỉ ra sự giống nhau trong cách tiếp cận vũ hội hóa trang và tiếng cười trung đại của Bakhtin với cách tiếp cận của Spitzer về cùng chủ đề đó (1910) trong cuốn Die Wortbidung als stilistishes Mittel exemplifiziert an Rabelais [299]. Poole (1998) khảo sát một đoạn văn Bakhtin vay mượn Cassirer mà không chú thích trong Sáng tác của François Rabelais và văn hóa dân gian thời Trung cổ và Phục hưngvà nhận xét: “Đoạn văn trích trên đây là bản dịch từng từ gần nửa trang tác phẩm “Cá nhân và vũ trụ trong triết lý Phục Hưng” của Cassirer. Bản dịch của Bakhtin chính xác đến mức đôi chỗ có thể dùng để chữa lỗi dịch Nga – Anh dựa trên tác phẩm của Cassier” [299].

Tuy vậy, những người bị Bakhtin vay mượn nhiều nhất chính là Medvedev và Voloshinov, đặc biệt là Voloshinov. Bakhtin không một lần nhắc đến hai tác giả này, mặc dù ông nhắc đến tên những người khác – như Vossler, Saussure, Vinogradov, Stalin, Lenin… Trước đây, khi còn tin rằng Bakhtin là tác giả của những tác phẩm “tranh cãi”, người ta có thể nghĩ rằng đó là sự tự lặp lại. Nhưng một khi các nghiên cứu đã xác định dứt khoát bản quyền trọn vẹn của Voloshinov và Medvedev đối với những công trình họ ký tên, việc Bakhtin vay mượn không trích dẫn những ý niệm nền tảng về những chủ đề chủ yếu từ tác phẩm ấy phải được gọi đích danh là “bằng chứng không thể chối cãi của sự đạo văn từ tác phẩm của Voloshinov và Medvedev” (indistutables manifestations de plagiat des oeuvres de Voloshinov et de Medvedev – in nghiêng của Bronckart và Bota) [581].

Nhưng Bronckart và Bota không dừng ở đó. Dựa trên sự phân tích tài liệu, Bronckart và Bota cũng khẳng định rằng không hề có cái gọi là “nhóm Bakhtin” với Bakhtin là thủ lĩnh như nhiều người vẫn tin, mà chỉ có một nhóm bạn ở Leningrad mà Bakhtin tham gia. Tên của nhóm này, nếu có, phải là “Nhóm Medvedev”, theo chính cách gọi của Bakhtin khi trả lời Duvakin [264]. Toàn bộ câu chuyện “tất cả thuộc về Bakhtin”, như vậy, chỉ là một “chuyện bịp bợm”, một chuyện bịp bợm được truyền bá và chấp nhận rộng rãi nhờ “cơn mê sảng tập thể” của giới học thuật khắp thế giới. Chưa hết, hai tác giả còn phát triển giả thuyết (cũng đã được một số người nêu lên từ trước), cho rằng Voloshinov và có thể cả Medvedev) chính là đồng tác giả của cuốn sách Những vấn đề sáng tác của Dostoievskiký tên Bakhtin. Theo giả thuyết này, khi Bakhtin bị bắt, để giúp đỡ bạn, Voloshinov (và có thể cả Medvedev) đã lấy bản thảo viết dở của Bakhtin, viết thêm một số phần và đem in. Lời khen của Lunacharski đối với cuốn sách quả thực đã góp phần giảm nhẹ hình phạt đối với Bakhtin và về sau là căn cứ để Medvedev xin cho Bakhtin được giảng dạy tại Đại học sư phạm Mordovia. Theo Bronckart và Bota, đó là lý do tại sao một số phần của cuốn Những vấn đề sáng tác của Dostoievskiđột nhiên có xu hướng tiếp cận xã hội học giống cách tiếp cận ở Voloshinov và Medevedev, khác hẳn cách tiếp cận của Bakhtin trong các bài viết trước đó. Nếu giả thuyết này là đúng, nó cho phép giải thích những mâu thuẫn trong cuốn sách và thái độ tiêu cực của Bakhtin đối với bản in năm 1929 của nó.

Dĩ nhiên, dù rất công phu, cuốn sách của Bronckart và Bota vẫn không phải là tiếng nói duy nhất hoặc cuối cùng. Giả thuyết về các đồng tác giả của cuốn Những vấn đề sáng tác của Dostoievski có lẽ cần nhiều nghiên cứu hơn nữa. Nhưng khẳng định của họ về tác quyền trọn vẹn của Voloshinov và Medvedev đối với những tác phẩm ký tên họ là rất thuyết phục. Mặc dù vậy, cá nhân tôi cho rằng, cho đến lúc này, có lẽ chúng ta vẫn có thể nói đến một nhóm các nhà nghiên cứu độc đáo, bao gồm Medvedev, Voloshinov và Bakhtin. Trong nhóm này, người độc đáo và có nhiều cách tân nhất có lẽ là Voloshinov. Phần lớn các ý tưởng mới mẻ làm nên danh tiếng của nhóm là xuất phát từ Voloshinov. Có thể nói rằng Voloshinov (cùng với Medvedev) là người tạo nên nền tảng triết học để Medvedev áp dụng phê bình một trường phái lý luận văn học (Chủ nghĩa hình thức) và Bakhtin áp dụng để nghiên cứu một tác giả (Dostoievski).

 

[1] http://www.lrb.co.uk/v29/n12/terry-eagleton/i-contain-multitudes

[2] Trong bài này, số trang trong cuốn sách của Bronckart và Bota được đặt trong dấu ngoặc vuông (NTL).

[3] I.R. Titunik, “The Formal Method and the Sociological Method (M. M. Bakhtin, P. N. Medvedev, V. N. Voloshinov) in Rusian Theory and Study of Literature”, trong V. V. Voloshinov, Marxism and the Philosophy of Language, Trans. Ladislav Matejka and I. R. Titunik, Harvard U.P., Cambridge, 1986, tr. 176.

[4]Cá nhân tôi, người viết những dòng này, cũng đã từng tin như vậy, mặc dù có không ít băn khoăn (NTL).

[5] M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch, in lần thứ hai, Hội nhà văn, Hà Nội, 2003, tr. 338.

[6] M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhà dịch, tái bản lần thứ nhất, Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 7.

[7] “Il ajoute encorre que Bakhtine a toujours refusé de signer le document confirmant qu’il était le véritable auteur de ces textes, mais qu’il aurait quand même declare, sur son lit de mort: “ceci, après tout, est mon péché, et je dois l’avouer”.

[8]“Mentez, mentez, mentez, il en restera toujours quelque chose”

Tài liệu tham khảo:

1.Бахти́н, M., “М. М. Бахтина под маской (под маской)”,москва, лабиринт, 2000.
2.Bakhtin, M., “Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki”, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, tái bản lần thứ nhất, Giáo dục, Hà Nội, 1998.
3.Bakhtin, M. “Lý luận và thi pháp tiểu thuyết”, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu, in lần thứ hai, Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2003.
4.Bronckart J-P & Bota C., “Bakhtine démasqué – Histoire d’un menteur, d’une escroquerie et d’un délire collectif”, Droz, Genève, 2011.
5.Titunik, I.R. “The Formal Method and the Sociological Method (M. M. Bakhtin, P. N. Medvedev, V. N. Voloshinov) in Rusian Theory and Study of Literature”, trong V. V. Voloshinov, “Marxism and the Philosophy of Language”, Trans. Ladislav Matejka and I. R. Titunik, Harvard U.P., Cambridge, 1986.
6.Зенкин, С. “Некомпетентные разоблачители”, <http://magazines.russ.ru/nlo/2013/119/z38.html>

 

Nguồn: Bài đã đăng trên “Tạp chí Khoa học ĐHQGHN”, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 62-71). Bản đăng trên Phê bình văn học do tác giả gửi.Copyright © 2012-2014 – Phê bình văn học

Theo: http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=12635

Chuyện kể năm 2000 (kỳ 6) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

*

*        *

Hình như có tiếng động gì đó. Nó từ xa nhòe nhoẹt mơ hồ. Rồi đậm đặc lại và rõ dần. Ngay bên tai. Tiếng gõ sắc gọn. Hắn tỉnh hẳn. Tiếng gõ cửa. Hắn trở dậy đầu óc nặng nề nhức nhối như mọi sáng trong tù. Hắn ngơ ngác nhìn. Chiếc giường ba xà, cái màn rộng làm hắn hiểu. Hắn không bị tù nữa. Hắn tự do. Hắn đang ở Hà Nội. Có tiếng gọi hắn ngoàì cửa. Và tiếng cười nói: “Vẫn ngủ”. Hắn kéo móc. Đã năm năm rồi hắn mới được kéo móc từ bên trong, tự mình mở cửa cho mình bước ra. Bước ra đón khách.

Vũ Mạc, Lê Bàn và Hường đứng trước mặt hắn. (Bố Phương đã dậy từ sớm, đạp xe đi tìm những người theo ông là thân thiết với hắn và ông đã không lầm). Bốn người đứng lặng nhìn nhau. Nhìn từ đầu đến chân. Nhìn từng khuôn mặt. Cười. Sung sướng. Thân thiết. Rồi từng người một ôm lấy hắn.

Đây Vũ Mạc người bạn ngang tàng, hơn tuổi hắn, con một nhà văn nổi tiếng và không bao giờ nói về bố mình. Đại đội trưởng thời Điện Biên Phủ nhưng giờ đây không còn gì cả, kể cả danh hiệu đảng viên và công việc.

Đây Lê Bàn, người bạn học thời kháng chiến, lúc nào cũng như vậy, không thể biến đổi được, chân thành tốt bụng, trung thực, thủy chung.

Hường nữa. Hắn cảm động vì Hường đến. Hường vừa là bạn của vợ hắn, vừa là vợ của Khắc, một người bạn chung của tất cả.

Mãi sau này hắn mới biết Mạc đã bỏ vợ, yêu Hường. Hường cũng đã bỏ Khắc, về ở với Mạc. Mãi sau này khi Khắc đã lấy vợ, hắn cùng Bàn và Khắc gặp nhau tại một ngã ba đầu phố, Khắc giới thiệu đầy vẻ trịnh trọng: “Đây, ông Tuấn, cựu chính trị phạm. Đây ông Lê Bàn, bạn của ông Vũ Mạc, người đã cướp vợ tôi”.

Bàn cười ré lên:

– Chức danh gì dài thế! “Ông Lê Bàn, bạn của ông Vũ Mạc, người đã cướp vợ tôi”.

Hắn cười to:

– Chưa bằng mình. Có ghi trong lý lịch đàng hoàng. Mục chức vụ cao nhất đã qua: “Đại biểu dự thính hội nghị công nhân viên chức phân xưởng vòng hai.”

Thời gian đã hàn gắn nỗi đau của Khắc, hồi phục năng khiếu hài hước của hắn. Nhưng đó phải là một thời gian tính bằng thập kỷ.

Hắn nói chuyện tù. Bố mẹ Phương và ba người bạn nhìn hắn như nhìn một người được cấu tạo bằng một chất liệu khác, như nhìn một người từ vùng đất bí mật nào đến, như hắn là của mặt trăng rơi xuống. Hắn đã phải nói dối nhiều chuyện. Hay đúng hơn, hắn không kể những điều khủng khiếp nhất trong tù. “Họ không đánh chúng con đâu”. “Ăn thì đói lắm. Nhưng giam cứu thì không đói mấy đâu”. Nói thế là nói sự thật, nhưng nói sự thật kiểu ấy lại chính là nói dối.

Thì ra hôm bắt Phương, Bàn đến. Bàn lang thang và ghé vào nhà Phương. Từ lối đi vào nhỏ hẹp gần máy nước, Bàn đã oang oang:

– Ông Phương có nhà không? Cậu cả có nhà không?

Bàn hơi lạ vì nhà đông người nhưng không ai đáp. Một người lạ mặt còn trẻ, áo bông xanh đã bạc, quần ka-ki pích-kê hai đầu gối – Bàn nhớ rất rõ, những miếng vá to hơn bàn tay – chặn Bàn ở đầu sân:

– Anh hỏi anh Phương có việc gì?

Bàn đáp vô tư nhất đời:

– Tôi là bạn anh Phương. Anh Phương có nhà không anh?

Người kia lạnh tanh giữ chặt lấy ghi-đông xe đạp của Bàn và nhìn Bàn từ đầu đến chân:

– Anh Phương hôm nay bận. Chúng tôi là người bên an ninh.

Lúc bấy giờ Bàn mới để ý đến cái xe com-măng-ca đít vuông đỗ sát hè phố, ngay cửa số nhà đông hộ này. Bàn quay xe đạp, còn ngoái lại một lần nữa. Bàn thấy trong nhà, sách vở ngổn ngang. Phương đứng ở một góc nhà môi mím chặt, nhìn những đống sách quẳng bừa bãi. Bố mẹ Phương đứng ở một góc khác im lặng.

– Hôm bắt mày thì thế nào?

Bàn hỏi để kết thúc bài phóng sự miệng.

Hôm bắt hắn chỉ có mình hắn. Phương còn hạnh phúc hơn hắn. Còn được từ biệt bố mẹ. Hắn chẳng có ai để chia sẻ nỗi kinh hoàng. Vợ hắn đang trên trường đại học, con hắn ở quê. Chỉ có một mình hắn trong căn buồng và trong cả cái số nhà gần mười hộ, trước đây chật ních người, lúc nào cũng vang lên tiếng trẻ con nô đùa, tiếng người lớn quát mắng, giờ vắng tanh. Mọi người đi sơ tán. Với cái thẻ đặc biệt, hắn được ở lại thành phố. Hắn trịnh trọng nói với bạn bè: Hắn là phóng viên chiến tranh. Hắn đã lên Sở Dầu lúc bị bắn phá. Hắn viết về trung đội tự vệ nữ nhà máy đóng tàu bắn rơi máy bay Mỹ… Hắn cũng thấy sợ bom đạn, rốc-két, nhưng cái cảm giác lãng mạn lớn hơn. Hắn cười, bảo bè bạn:

– Còn lâu mình mới chết. Viên đạn giết mình còn chưa đúc xong. Nó vẫn còn ở dạng quặng nằm trong lòng mỏ một bang California nào đấy.

Những đêm báo động, đèn thành phố tắt hết. Hắn nhìn thành phố quen thuộc của hắn lạ hẳn đi. Những căn nhà như nhẹ đi, in trên trời xám. Đường phố cũng vậy. Mờ mờ. Hắn thấy thích và nghĩ rằng chỉ trong chiến tranh, cả một thành phố mới mất điện. Sau này chiến thắng, có lẽ phải tổ chức những đêm mất điện để mọi người thấy được một vẻ đẹp khác của thành phố.

Buổi sáng hôm mồng 8 tháng 11 ấy, tối hôm trước hắn còn được vé xem phim chiêu đãi nhân dịp Cách mạng Tháng 10 Nga, bộ phim tài liệu Đôi cánh tháng 10 nói về sức mạnh của không quân Xô-viết. Hắn trở dậy, xuống bể nước đánh răng rửa mặt. Hắn thấy người công an hộ tịch đi thẳng vào phía trong. Hắn biết anh này. Anh ta đã mấy lần về quê hắn, tán tỉnh cô cháu họ hắn, ở sát tường nhà bố mẹ hắn. Hắn không để ý đến anh ta. Hắn nghĩ chắc anh ta vào tìm ai đó ở phía trong. Thế rồi anh ta quay ra cổng. Một lát sau năm người bước vào. Nhanh. Rầm rập. Hai người mặc quần áo công an và anh hộ tịch. Một người mặc thường phục và ông Thụ thợ cắt tóc ngay bên cạnh (về sau hắn mới biết thủ tục bắt người phải có người dân ở tiểu khu (1) ký vào biên bản).

Hắn nhìn đoàn người lạ lùng ấy tiến về phía hắn. Người mặc thường phục đến thẳng chỗ hắn ngồi ở cầu rửa nói dõng dạc:

– Anh Nguyễn Văn Tuấn. Hôm nay chúng tôi đến bắt anh đây.

Câu nói ấy còn cứ vang mãi bên tai hắn. Cho dù đến năm thứ một trăm năm thứ một nghìn, cứ nghĩ đến – câu nói ấy lại vang lên rõ từng âm sắc. Đó là câu mở đầu những ngày tù đày của hắn và sau này hắn mới hiểu nó không chỉ là những ngày tù đày của hắn, nó còn mở đầu những ngày đau khổ nhục nhã của bố mẹ hắn. Nó tiêu diệt cả vợ hắn, kéo sang tận đời con hắn.

Câu nói ấy mở đầu tất cả. Nó bám vào cuộc đời vợ chồng, con cái hắn. Như keo e-pô-xit dán sắt tàu thủy. Làm sao không nhớ!

Hắn và mọi người lên gác. Một căn gác gần như rỗng. Một cái giường ba xà. Một cái bàn viết. Một thùng xe Java 05 bạn hắn cho hắn. Nắp thùng đã có người xin mất. Chỉ còn năm mặt: ba tấm dài hai tấm ngắn. Cái áo quan không có ván thiên ấy, hắn lật nghiêng đi, áp mặt trống vào tường cho kín. Hắn trải chiếu lên trên làm đi-văng, làm chỗ ăn cơm. Bên trong thùng hắn đựng sách. Chỉ có vậy. Còn lại là sàn gỗ lim lúc nào cũng được lau bóng. Hắn vốn ưa sạch sẽ. Hắn không chịu được một hạt cảt trên sàn dính vào chân khi bỏ dép ngoài cửa bước vào. Hắn giật mình thấy tất cả những người khách không mời mà đến đi cả dép bẩn xồng xộc vào nhà, những chiếc dép lốp in vết đất rõ như đóng dấu ngang dọc trên sàn gỗ bóng thẫm. Hình như đến lúc ấy hắn mới thực sự hiểu rằng hắn không còn là hắn nữa. Họ nghiêm giọng bảo hắn:

– Anh đứng nghe chúng tôi đọc lệnh.

 

(1) Tương đương phường hiện nay.

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà

Độc lập -Tự do -Hạnh phúc

LỆNH TẠM GIAM

Hắn chỉ nhớ lệnh nói hắn bị bắt bốn tháng vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”.

Rất thông thạo, mấy người kéo mạnh cái hòm gỗ thông, cúi xuống vứt ra từng cuốn sách. Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Gót sắt, Hugo. Chiến tranh và hòa bình. Những quyền sách hắn nâng niu như sau này những thủy thủ tàu buôn nâng niu tấm hộ chiếu xuống tàu đi Nhật. Đó là gia tài của hắn. Là hành trang để hắn đi đến tương lai. Hắn chắt chiu dành dụm. Bóp mồm bóp miệng để mua. Hắn thó ở tủ sách cơ quan hắn, tủ sách các cơ quan khác. Hắn nửa đùa nửa thật: “Ăn cắp sách mà cũng gọi là ăn cắp à? Ăn cắp sách thì cũng phải biết đọc chứ? ”.

Biết làm sao. Ma lực của những quyển sách mình yêu, thế nào cũng phải có, mà không thể trích ra một khoản tiền để mua. Tháng nào cũng căng. Tháng nào cũng hụt. Chuông nguyện hồn ai. Phía Tây không có gì lạ. Sông Đông êm đềm. Chuyện núi đồi và thảo nguyên. Pauxtôpxki. Quăng ra với một thái độ khinh bỉ và ghê tởm vì đó là nguyên nhân tội ác. Hơn thế. Còn dính líu tới tội ác, khuyến khích, bao che – hiểu theo cả nghĩa đen – cho tội ác.

Bừa bãi. Bụi bặm. Tung tóe. Đổ vỡ. Tan nát. Đó là những gì lúc đó hắn nhìn thấy, nhưng phải đến mãi sau này hắn mới hiểu rằng mới chỉ là bước khởi đầu.

Họ không chú ý tới sách in mà bới móc, tìm kiếm, nhặt nhạnh tất cả những giấy tờ có chữ viết của hắn.

Những tập bản thảo của hắn. Bản đã đánh máy, bản viết tay. Toàn giấy pơ-luya. Hắn có thói quen viết bằng giấy pơ-luya. Chữ hắn nhỏ lí ti. Bao nhiêu chữ mới được một trang pơ-luya mỏng dính. Nhưng nhiều trang pơ-luya xếp lại sẽ thành một chiều dày. Chiều dày ấy động viên lại hắn.

Hắn viết đang giai đoạn sung sức. Đó là kết quả những ngày đi xuống xí nghiệp lăn lộn với anh em thợ như một người bạn. Là những đêm miệt mài, không biết trời sáng từ bao giờ. Là những hình ảnh cố nắm bắt. Là những gì mong manh ẩn hiện mà hắn cố glữ lại, đóng đinh lên trang giấy. Là tình yêu của hắn đối với Đảng, với chủ nghĩa cộng sản mà hắn tin vì đó là khoa học. Là sự trân trọng quý mến những con người hắn gần gũi, cảm phục. Là trách nhiệm đối với bè bạn, vợ con. Là ý chí kiên cường của bản thân. Là thông minh bùng nổ giữa mụ mị nghĩ suy. Máu của hắn. Óc của hắn. Mười năm mài miệt trong một cơn mộng du dài của hắn. Nửa đêm thức giấc vùng dậy chỉ ghi vội một chữ, một chữ chính xác. Không được lười để sáng mai. Quên ngay. Hắn đã có kinh nghiệm. Bữa cơm, vợ hỏi vài câu, nghe nhưng không hiểu vì còn nghĩ, còn mộng du tài năng, mộng du chữ nghĩa.

Tất cả vứt ngổn ngang ở một bên lò sưởi, cách xa đống sách đã in. Hắn nhìn người ta quăng quật xếp giấy của hắn. Chao! Hắn đã nghiền ngẫm, chọn lựa từng từ, vuốt ve từng tờ, xếp cho ngay ngắn, ngắm nhìn độ dày của nó để tự động viên mình. Hắn nhìn những mảnh cắt dán, những trang thêm vào phải đánh những số phụ: a, b, c…

Và đây. Sổ tay. Họ lật xem. Sổ tay của 15 năm làm báo. Của những giao thừa với công nhân xi-măng. Của những mã hàng năm mới trên cảng. Của cô kỹ thuật thủy văn trên đảo đi ngược chiều gió thổi. Của vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương…

Và thư từ. Thư bè bạn động viên nhau viết. Thư nhà xuất bản trả lời. Những bức thư đề nghị vay tiền của hắn, những tùy bút kinh tế thật hay và lâm ly gứi nhà xuất bản của hắn.

Nhật ký. Thoáng tấm ảnh vợ hắn thời con gái trên trang đầu. Những tờ lịch dán vào nhật ký. Đó là những ngày hắn không ghi gì hết. Tờ lịch đó nói tất cả. Hắn và vợ hắn đã đi đến tận cùng của tình yêu. Một món tóc của vợ hắn buộc vào một trang giấy. Trong xà lim hắn nhẩm được một đoạn thơ về món tóc ấy:

Đầu gối lên cùm sắt gỉ han

Nghĩ tóc em xanh mười chín tuổi

Mái sương đêm những vì sao Hà Nội

Trang nhật ký anh

Tóc em xanh trang nhật ký

Trong hồ sơ mật an ninh

Cả đến tình yêu chúng ta cũng bị nhục hình

Cắn răng lại, em ơi đừng khóc…

Hắn có cảm giác bị lột truồng ra trước mắt mọi người. Ông Lan, người đọc lệnh bắt giam hắn dường như là một người tế nhị. Ông ta gấp quyển nhật ký lại, làm như lơ đễnh, quẳng vào đống giấy mà ông ta sẽ thu. Rồi nhanh nhẹn, ông mở miếng gỗ đậy lò sưởi nơi hắn dùng làm bếp, thu hết những giấy tờ hắn dùng để nhóm bếp. Người ta bó tất cả những gì có chữ viết của hắn như sắp đi cân chè chai. Ba bó nặng. Mỗi bó chí ít cũng phải gần chục ki-lô. Sau khi rút ngăn kéo bàn làm việc của hắn, ngó lại một lần nữa, người ta bảo hắn, câu nói đầu tiên sau mấy tiếng đồng hồ im lặng khám xét và làm biên bản.

– Anh chuẩn bị nội vụ về trại giam.

Hắn không hiểu. Người ta giải thích:

– Nghĩa là chăn màn, quần áo.

Nội vụ, một từ mới trong vốn liếng từ vựng của hắn.

Một người chỉ vào tập Anna ở đầu giường:

– Anh đang đọc à?

– Vâng.

– Anh mang vào mà đọc.

Hắn mang theo ba quyển Anna Karênina (1) có chữ ký của người dịch tặng hắn. Cho đến bây giờ nghĩ lại hắn vẫn cảm ơn người công an ấy. Ba tập sách ấy hắn đọc gần như thuộc trong xà lim. Hắn không ngờ lại phải ở tù lâu thế.

Lúc đó hắn choáng váng vì cái lệnh bốn tháng. Hắn bị bắt bốn tháng. Bốn tháng nữa hắn mới được quay về. Bao giờ mới hết, mới qua được. Hắn không nhìn từ biệt con đường ra cổng. Cái hầm tránh máy bay. Cây nhãn.

Hắn không nhìn chồng sổ tay giấy tờ, bản thảo trên xe com-măng-ca lúc ấy đã không thuộc về hắn nữa. Hắn chỉ nghĩ đến cái thời hạn khủng khiếp. Bốn tháng. Bao giờ cho hết bốn tháng để về nhà. Hắn dông thẳng tới 76 mà không hề biết rằng mình đang ở khu biệt giam 76. Hắn hỏi lại đám bạn câu hắn đã hỏi bố mẹ Phương tối hôm trước: “Thằng Phương bị bắt vì tội gì?” Và lẩm bẩm: “Tuyên truyền phản cách mạng là gay lắm: Y như mình. Rất chung chung nên rất gay.” Hắn hỏi tiếp:

– Bốn tháng. Lệnh tạm giam bốn tháng là dành cho những người tội nặng, điều tra phức tạp. Nhẹ chỉ hai tháng thôi. Nó bị giam ở đâu?

Bàn bảo:

– Chắc Hỏa Lò thôi.

Bố Phương nói:

– Hai bác chưa được vào thăm.

(1) Tác phẩm của Lev Tol-xtoi (Nga)

Hắn giải thích:

– Tù chính trị bao giờ cũng bị i-dô-lê (1) . I-dô-lê hoàn toàn.

Hắn tránh chữ xà lim, nhưng lại nói ngay tới chữ ấy:

– Suốt mười tám tháng xà lim cháu không được gặp mặt vợ cháu. Cho mãi tới khi lên Q.N. Kinh nhất là các con mình vẫn cứ lớn lên, khác đi trong khi mình không được ở bên cạnh chúng.

Bố Phương le lói một hy vọng:

– Liệu nó có được giam ở Sở Công an không? Họ nhận tiếp tế ở đấy.

– Vâng. Cũng có thể.

Hắn đã nói dối. Một lần nữa hắn lại nói dối. Nhận tắc ở Sở Công an. Nhưng giam ở Hỏa Lò. Cũng như anh em tù ở trại Cổng Giời, nhưng để lại gia đình địa chỉ: Công trường 75B Hà Nội. Nghe như ở vùng Mễ Trì, Đan Phượng.

Mạc, Hường thì thầm với nhau điều gì đó, rồi đứng dậy dắt xe đi. Bàn đưa cả chìa khóa buồng cho Hường. Còn lại hắn, Lê Bàn, bố mẹ Phương. Cũng như mọi người, hắn chưa bao giờ nghĩ rằng Phương có tội. Hắn tin Phương như tin hắn. Phương có thể mắc những chuyện này chuyện nọ nhưng chống lại cách mạng thì không. Tuyên truyền phản cách mạng lại càng không. Hắn nhớ đến dạo hắn còn công tác ở Hà Nội. Những chủ nhật, hai người ngồi với nhau tới khuya. Và những tối lang thang, ngồi bệt xuống thảm cỏ Hồ Tây. Dự định. Mộng ước. Động viên nhau làm việc. Cắm trước mặt mình những cái mốc từ gần đến xa: Pôlêvôi, Kadakêvich, Phađêep, Sôlôkhôp (2) .

Hắn biết rõ Phương như hắn biết rõ hắn. Phương muốn gì? Cũng như hắn, Phương coi thường vật chất. Chỉ mong muốn viết được, khái quát được một giai đoạn cách mạng. Phương cũng như hắn đều là người ngoài Đảng, đều trung thực. Cũng như hắn, Phương thích mấy câu thơ Maia:

Thực ra ngoài chiếc áo sơ-mi tươi tắn tôi chẳng cần gì.

Trước Bộ kiểm tra Trung ương Đảng

Những năm trong sáng tương lai

Vượt qua lũ nhà thơ bạc lận cờ gian

Tôi sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng

Là toàn tập thơ bônsêvích tôi làm (3)

(1) Cách ly

(2) Các nhà văn Liên xô cũ

(3) Trần Dần dịch (Tất cả trích dẫn thơ Maiakôpski trong sách đều do Trần Dần dịch)

“Tuyên truyền phản cách mạng” tội danh của Phương cũng là tội danh của hắn. Điều đó có nghĩa là gì? Điều đó chỉ có thể là Phương đã nhìn thấy và báo động về những cái xấu xa đang mọc lên trên lưng chế độ như nạn móc ngoặc đang hình thành và bắt rễ trong các ngành mậu dịch. Nạn cửa quyền trong các cơ quan tiếp xúc với dân. Bệnh thành tích, hình thức, điêu dối trong báo cáo và cuộc sống. Chủ nghĩa lý lịch, chủ nghĩa thành phần đã làm thiệt hại bao nhiêu đến sự nghiệp chung v. v… Phương đã nhìn thấy những gì trái với bản chất xã hội chủ nghĩa, muốn lên tiếng bảo vệ những lý tưởng của cách mạng. Vì cách mạng là xương máu của bao thế hệ. Vì mình là người tâm huyết, một lòng theo cách mạng. Là sự nhìn nhận cuộc sống đúng với hiện thực, không phải chỉ một màu hồng. Là lòng mình yêu thiết tha nhân dân này, đất nước này. Là chống lại sự bất công mới đã có và đang có như một thứ nấm mốc lây lan. Để cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự nghiệp tốt đẹp hơn đúng với mục tiêu của nó. Và như vậy là nhìn đời đen tối. Là bất mãn. Là chống đối. Là vào rừng chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng.

Chẳng lẽ mình không có quyền suy nghĩ, không có quyền nói lên, không có quyền tỏ thái độ? Chẳng lẽ mình không còn có quyền yêu nước. Chẳng lẽ lòng yêu nước cũng bị độc quyền? Không! Có thể độc quyền xuất khẩu, độc quyền nhập khẩu, độc quyền sản xuất muối, nhưng không thể độc quyền yêu nước!

Hắn nhìn nét mặt đau khổ, tối sầm của bố Phương, một cán bộ lâu năm vừa nghỉ hưu sau khi Phương bị bắt. Hắn nghĩ đến cái lệnh tập trung cải tạo mà bao người chịu. Cái án cao-su. Án Tô Vũ chăn dê. Án dê đực đẻ. Hắn nói:

– Cái chính là làm sao họ đem xử thằng Phương.

Mẹ Phương ngắm nghía hắn, rồi thở dài:

– Thằng Phương yếu, không được như anh, ở trong ấy lâu nó không chịu nổi đâu.

Bàn nhíu mày:

– Nó đang làm một kịch bản phim về chiến tranh. Có vẻ thú lắm. Trước khi bị bắt mấy hôm, gặp nhau, nó còn khoe với tao.

Hắn lại nghĩ đến những người bắt hắn. Họ muốn lập công. Họ muốn tỏ ra là những người trung thành, có năng lực. Họ đã vận dụng một chỉ thị nào đấy, như thời gian hắn bị bắt là chủ trương pha-lê hóa thành phố… Thế là hắn trở thành một thứ hòn chèn, chèn cái chân ghế vốn khập khiễng của họ, hoặc một bậc thang trong cầu thang danh vọng của ai đó.

Tới gần trưa hắn từ biệt bố mẹ Phương. Bàn đèo hắn đến nhà Bàn. Bàn không ở Đền Ngọc Sơn như hồi hắn chưa đi tù, mà đã chuyển về một căn buồng hẹp phố Phùng Hưng. Vũ Mạc, Hường đã ở đó.

Mùi thịt nướng thơm lừng. Hường má đỏ ửng, mắt long lanh ươn ướt vì khói.

Bún chả. Rượu. Rau muống chẻ giòn tươi. Đủ các loại rau thơm. Những cọng rau thơm khát vọng. Bốn người ăn. Chuyện. Hắn kể về những ngày đầu tiên bị ném vào xà lim, cái việc Phương đang chịu. Cũng như mọi người bị vào đấy, hắn đo chiều ngang chiều dọc chuồng nhốt hắn, xem mỗi chiều mấy bước chân. Xà lim 76 hẹp. Ngang ba bước bình thường. Nghĩa là một mét tám. Dài bốn bước ngắn. Nghĩa là hai mét. Xà lim 76 có một cái bục xi-măng làm giường nằm. Lạnh lắm. Cũng như két-sô (1) bên 75. Hắn đã một lần vào két-sô đổ bô. Tường quây kín mít dãy xà lim két-sô. Cách ly của cách ly. Liếc rất nhanh vào một cái cửa ghi-sê để xem bên trong. Cũng sàn xi-măng. Thoángtrong bóng tối một gióng chân gầy, một cái lưng cong đang cúi, hai tay nâng bàn chân lên miệng… Nhấm móng chân! Cũng như mình thôi. Nhưng nếu mình ngồi, đấy lại là một chuyện. Nếu mình ngồi nhấm móng chân là đang quên đi tất cả thân phận xà lim, là mình đang được giải trí… Là giờ phút thư dãn dễ chịu hằng mong đợi. Vì cũng phải trải qua trăm nghìn cơn chết móng chân mới mọc đủ dài để gặm. Nhưng đứng ngoài nhìn vào thấy bố ấy đang còng lưng nhét ngón chân vào mồm thì thật không thể nào duyệt được.
Sang 75, mỗi chiều xà lim rộng hơn tới gần một bước chân. Bốn bước chiều ngang. Bốn bước rưỡi chiều dài. Những ngày đầu vào 76 cứ thế mà đi mà đếm. Một hai ba. Một hai ba bốn. Chiều ngang ba bước là vừa phải. Chiều dài chỉ ba bước rưỡi thôi. Vậy bước ngắn một chút. Bước ngắn quả là khó. Chóng mệt. Mà không bước được chứ. Thì cứ bước bình thường, chỗ nửa bước còn lại ấy bỏ. Nào, một hai ba. Một hai ba. Đi từ sáng đến trưa. Nghỉ. Rồi lại đi đến chiều. Đi cho đến mệt lử. Đi để tự trấn tĩnh mình. Đi cho mình dịu lại. Đi để khẳng định niềm tin vào bản thân. Đi để nghĩ đến khi nào được ra sẽ kể cho bạn bè nghe mình đã đi trong xà lim như thế nào. Đi mà thương, mà hiểu nỗi lòng những con thú bị nhốt trong chuồng. Rồi nhớ đến bài Nhớ rừng của Thế Lữ. Nghĩ đến những người cộng sản bị tù đày. Những năm tháng tù đày ấy là

(1) Cachot (ngục tối)

những ánh hào quang lấp lánh ánh sáng huyền thoại rọi chiếu vào lịch sử dân tộc. Đó là đồ trang sức đẹp nhất cho những người làm chính trị mà không phải thế hệ nào cũng có được, dù cho thèm khát đến mấy. Lại nghĩ đến những người thành đạt, muốn nhảy vào gặt hái trong mọi địa hạt kể cả địa hạt thơ ca, những người muốn vĩ đại ở mọi lĩnh vực. Tự nhốt mình trong buồng. Rồi đi đi lại lại tìm tứ thơ như mình đang đi thế này. Cũng một hai ba, quay. Một hai ba, ba rưỡi, quay. Tìm tứ thơ vất vả lắm chứ. Đi nữa. Một hai ba. Một hai ba, ba rưỡi. Ba rưỡi, ba, hai, một. Nào các vị đã làm được một bài thơ mới nào chưa. Thế là cười. Cười một mình… Nhưng có cái này đúng là rất lạ. Khi bị giam lâu trong xà lim được ra ngoài, lạ nhất là trông thấy những người đi xe đạp. Ai đi xe đạp cũng như con gấu. Gù gù. Chân ngắn. Nhoáy nhoáy. Thật đấy. Ai cũng thấy thế. Chẳng riêng mình đâu. Một năm rưỡi mới trông thấy người đi xe đạp, khi ngồi trên ô-tô từ Trần Phú chuyển đi Q.N, khóa chung tay với già Đô. Nhìn mọi người đi xe đạp thành gấu hết.

Ba người bạn gần như ngừng ăn. Nghe. Nghe hắn kể về tiếng chim kêu. Các loại. Như tiếng chim báo hiệu bình minh trong tù. Chưa sáng hẳn, rừng còn dày đặc một màu, con chim ấy đã bay dọc theo lán giam của hắn. Lán hắn nằm ở bờ dốc, ngay phía ngoài, sát hào và tường rào cao. Con chim rừng bay dọc thung lũng. Tiếng chim to lên rất nhanh. Như tiếng lợn bị chọc tiết. Và cũng tắt đi ngay vì con chim bay rất nhanh. Hắn cứ thót cả tim. Trở mình nằm sấp, hắn nhìn ra cửa sổ. Nhìn ra hàng rào cao dày. Con thằn lằn không chui qua được. Hắn nhìn ra rừng hoắm sâu những thung lũng, những khe núi, chờ trời sáng, chờ quản giáo tới mở cửa để ra ngoài.

Tinh mơ nào cũng một con chim ấy, bay dọc hàng rào của trại, từ phía dốc vào thung lũng. Nghĩa là ngang qua đầu hắn. Vừa bay vừa phóng ra những tiếng kêu thất thanh ấy. Như một mũi dao khoan xoáy vào không trung. Chẳng hiểu có việc gì mà nó bay sớm thế, nhanh thế và kêu thét lên như thế. Hắn chưa bao giờ trông thấy nó mà chỉ nghe thấy tiếng eng éc như tiếng lợn vút qua. Đó là tiềng chim báo bình minh của hắn.

Rồi tiếng chim khó khăn khắc phục. Bọn hắn đều biết phải chịu đựng, phải khắc phục, vượt qua những ngày dài đằng đẵng, những nỗi khổ cực không ai hiểu nổi này. Phải nói ai nghĩ ra chuyện bỏ tù thật là vĩ đại. Nhân loại phải tìm được tên người ấy để mà lưu danh, để mà tạc tượng. Người đã có sáng kiến vĩ đại khiến tất cả mọi quốc gia trên trái đất này đều áp dụng. Vĩ nhân ấy phải rất hiểu bản chất tự do của con người. Có gì đâu. Chỉ tước đoạt tự do của anh thôi. Bắt anh, nhốt anh ở một nơi. Anh phải tuân theo lệnh của tôi. Phải đứng, đi, ngồi, ăn, làm, nghỉ theo lệnh của tôi. Anh không còn một mối dây liên hệ nào với những người thân thiết của anh. Thế mà hóa ra địa ngục. Thế mà hóa ra tận cùng khủng khiếp.

Tiếng chim ở bên này rừng: Khó khăn.

Tiếng rừng bên kia đáp lại: Khắc phục.

Đó là những lời nhắn nhủ, những lời đồng cảm.

Nhưng nếu cứ nhắc đi nhắc lại, chỉ nhắc đi nhắc lại những lời đồng cảm thì đến phát điên mất. Đừng. Đừng làm như vậy. Đó chính là sự lãnh đạm đối với đau khổ của con người, vô tình, hơn nữa giả dối đến mức tệ hại nhất. Đó chính là vô đạo đức. Khó khăn… Thôi. Đủ rồi. Cái điệp khúc này tao nghe mãi rồi. Thuộc lòng rồi. Bao giờ chả thế. Hãy ngậm ngay mồm lại Rừng ong ong. Thung lũng ong ong. Không khí hầm hập. Nóng từ rừng núi toát ra và cũng từ rừng núi vọng ra lời nói vu vơ mà cứ xoáy vào lòng:

Khó khăn.

Khắc phục.

Rồi con chim Còn khổ. Đó mới thật là tiếng của kinh hoàng. Còn khổ. Còn khổ. Không. Không thoát được cảnh này đâu. Còn khổ. Còn khổ. Đừng mong đợi một ngày qua làm gì. Ngày mai cũng sẽ hệt như ngày hôm nay. Có án đâu mà tính đã qua được một ngày, rằng mình đã có thêm cái vốn, rằng cõi đời khốn nạn của mình đã bớt được một ngày, để tăng thêm nghị lực sống. Còn khổ. Còn khổ. Rừng núi báo cho các anh biết đấy. Luật pháp báo cho các anh biết đấy. Chúng tôi không giấu giếm.

Còn khổ. Những người tù nhẫn nhục cúi đầu chịu đựng. Còn khổ. Voòng Kỷ Mình mặt dăn dúm, quắt queo, nhăn nheo như quả táo tầu khô, hao hao mặt khỉ, nhìn trước nhìn sau, xoay lưng lại, vặt vội nắm rau muống còn ướt đẫm phân tươi, ấn vào gô để tí nữa mang xuống suối rửa. Còn khổ. Hắn quẩy thùng nước phân thứ một trăm trong ngày, leo dốc, thở ra cả mang tai, mặt trời đốt vai rát bỏng. Dòi ở hố phân bám vào chân hắn trắng xóa, con rơi xuống đất theo từng bước chân huỳnh huỵch, con vẫn tiếp tục bò ngược lên tận bẹn. Còn khổ. Sao bây giờ vẫn chưa nghỉ giải lao. Còn khổ. Cái lưng cánh phản gù gù của Lỷ Xìn Cắm nâu thẫm như đồng lóa lên dưới nắng. Còn khổ. Già Gọi quệt tay áo ngang mặt. Nước mắt hay mồ hôi? Còn khổ. A Thềnh, người tù già dân tộc Nùng đi sang luống rau khác, bàn chân không quen đi ở đường bằng cứ vất ra phía trước. Còn khổ. Còn khổ. Già Đô quắc mắt nhìn vào rừng sâu, rít lên: “Còn khổ cái con cặc tao đây này”. Còn khổ. Hắn đã tưới xong gánh phân và đi xuống múc gánh khác. Hố phân rộng như một cái ao còn khổ, bậc cấp kè đá gan gà vững chãi. Nước từ suối chảy xuống theo một lạch nhỏ róc rách còn khổ mặt hố phân đóng bánh như bê-tông xám đen. Anh em gánh vệ sinh vừa từ trong trại ra đổ ụp xuống mấy thùng phân tươi, rồi lặng lẽ bước về phía suối cọ thùng. Còn khổ. Ừ, thì còn khổ. Xong rồi. Chấp nhận. Được chưa? Còn khổ. Quên đi. Khuấy phân ở chỗ cầu bến này đã. Cho phân tan ra còn khổ cho nhặng bay lên xoáy vòng tròn đen đặc vù vù như ong vỡ tổ còn khổ, nhặng đâm cả vào mặt vào cổ vào tay, nhặng đậu cả lên tóc còn khổ cho dòi cuồn cuộn. Còn khổ. Vớt những giấy những giẻ những mảnh quần áo còn khổ những mảnh chăn quất quít những đóm nứa cây que mà anh em người dân tộc dùng như một thứ giấy vệ sinh, vất lên bờ hố. Còn khổ. Lội xuống cúi cúi ghé thùng múc. Còn khổ. Hơi nóng mằn mặn bốc lên chàm vào mắt vào mồm. Còn khổ. Loạng choạng lên dốc với một ý chí, một quyết tâm mới không biết từ đâu đến. Còn khổ. Còn khổ. Đừng dọa tao. Tao sẽ sống. Dù còn khổ. Khổ đến bao giở chăng nữa tao vẫn cứ sống.

Còn khổ còn khổ còn khổ còn khổ còn khổ còn khổ. Một loạt tiếng chim liên tiếp trong trẻo véo von trêu chọc. Những tiếng chim non nhí nhảnh. Nhịp điệu cũng nhanh. Nhanh và trong. Như lũ trẻ vô tư tốt bụng trêu chòng những người bất hạnh mà không biết rằng mình đang làm khổ họ. Còn khổ. Tiếng một con chim bố chững chạc nghiêm trang một giọng phán truyền đầy hăm dọa như định mệnh cất thành lời. Còn. Khổ. Còn. Khổ. Tiếng con chim già trải đời ôn tồn báo trước như an ủi, xót thương mà sao vẫn muốn khùng lên vặc lại. Còn khổ. Những người tù tuyệt vọng nhìn nhau. Còn khổ. Hẳn rồi. Nhưng còn khổ đến bao giờ? Có lần hắn nghe thấy một giọng trầm từ rừng sâu vọng ra. Một buổi chiều rừng nhợt nhạt hoang vu. Cooòn khôôổ… Tiếng nghe uể oải và mệt mỏi. Đúng là tiếng của đất, của rừng than thở một mình, đồng điệu với tiếng rên không thành lời âm thầm trong lòng hắn. Và tiếp theo là tiếng thở dài của rừng sâu. Thỉnh thoảng rừng vẫn thở dài như vậy. Hắn gai người…

Còn một loài chim nữa. Hắn cũng chỉ nghe thấy có một lần. Hôm ấy hắn định về trại (hắn đã được giữ chân coi vườn), thì từ phía sau rừng đi ra một ông công an vũ trang. Ông bảo hắn:

– Các ông ấy đánh cá phía trên đấy.

Hắn như mở cờ trong bụng, cầm ca chạy lên. Hắn cứ theo dòng suối vào sâu mãi. Trời thâm u đầy mây như sắp đổ mưa rào sớm. Giữa rừng lại càng sầm lại. Một mình hắn với cái ca. Bỗng tiếng chim kêu rất to ngay bên cạnh như tiếng người: “Ối con ơi!” Tiếng ơi không nhỏ dần đi mà lại to lên. Đúng lúc to nhất thì đột ngột tắt. Rừng sâu lịm đi. Hắn bỗng thấy rừng hoang vắng quá. Hắn chờ một tiếng gọi tiếp theo. Hoặc một người bước ra. Nhưng rừng cứ tối dần lại. Hắn hoang mang không biết đó là tiếng người hay ảo giác. Về sau, lên VQ, gặp anh em đã ở Hà Giang, họ bảo có con chim ấy. Chưa ai trông thấy nó, nhưng nhiều người đã nghe thấy nó gọi con. Họ đặt tên là chim “Ới Con Ơi”.

Bàn cười:

– Riêng chuyện chim kêu đã viết được một chương rồi.

Hường nhìn hắn trìu mến:

– Ngọc chưa biết anh về đâu nhỉ?

Nhìn kiểu cười tủm tỉm của Hường, hắn biết Hường đang rất vui. Cái kiểu Vũ Mạc đối với Hường làm hắn biết Hường là người đem lại hạnh phúc cho Vũ Mạc. Họ không nói với hắn trong lúc này. Nhưng hắn hiểu. Chỉ có điều hắn không biết Hường đã bỏ việc để yêu Mạc, tránh mọi thứ kiểm điểm lôi thôi ở cơ quan.

Cũng như hắn không hiểu được để có bữa bún chả, Mạc đã đi bán máu. Lúc đó Mạc đã là lính me. May là hôm ấy bệnh viện không mua máu ngoài. Hôm ấy bệnh viện chỉ giải quyết nội bộ. Nghĩa là chỉ mua máu của những người làm trong bệnh viện. Mạc là khách quen. Vẫn được nhận. Lại không phải xếp hàng.

Phải đến năm sáu năm sau, Lê Bàn mới nói cho hắn biết chi tiết ấy. Bàn cười rinh rích:

– Chúng tao không dám nói. Sợ mày kinh, ăn không ngon. Sợ mày nghĩ là mày đang ăn thịt nó. Nó bán máu và bán luôn cả cái phiếu đậu bồi dưỡng.

Chao ơi! Bè bạn.

*

*        *

Hắn không ngờ phải dừng chân ở Hà Nội mất hai ngày. Hắn tự nhủ: Ngọc đã phải chờ đợi hơn một ngàn ngày rồi, hai ngày nữa đáng là bao. Với lại cũng là ngoài ý muốn của hắn.

Ăn cơm ở nhà Lê Bàn xong, hắn đi gặp anh chị Diệu.

Đang giờ làm việc, hắn đến thẳng tòa báo. Ở một góc sân, một người cởi trần, đầu trăng xóa như bông, toàn bọt xà-phòng đang cuốc đất, chung quanh mấy con ngan đang đâm lông ống nhoai vào đớp giun. Hắn thông cảm với cái đầu trắng xóa ấy. Chả là trong tù xà-phòng hiếm lắm. Hắn gội đầu và cũng cứ xoa gãi trắng ngầu lên, rồi đi kỳ cọ chân tay, xong đâu đấy mới giội nước lên đầu. Nó ăn hết gầu, chỉ mất ít xà-phòng nhưng sạch.

Người ấy trông quen quen. Hình như là Con-Đĩ-Ngựa. Một người hắn không bao giờ nghĩ đến trong những năm tháng tù tội. Đã quên hẳn đi rồi, như quên món bánh tráng nhìn thấy trong khi ăn bữa cơm tự do đầu tiên ở vệ đường chờ ô-tô đến.

Hắn nhìn lại một lúc và nhận ra đúng là Con-Đĩ-Ngựa. Chỉ vì cái đầu ông ta ngầu bọt xà-phòng nên trông hơi lạ đi. Hắn bật cười. Cười một mình khi nghĩ đến những chuyện về ông ta. (Được cười, thật sung sướng biết bao). Thực ra hắn chưa một lần tiếp xúc với ông, nhưng chị Diệu đã kể cho hắn nghe mọi chuyện về ông. Một cán bộ lâu năm. Vào tù ra tội. Trong tù, bọn Pháp hỏi: Ai ủng hộ Liên Xô đứng sang một bên. Ông là người đầu tiên hiên ngang đứng sang bên đó. Chúng tra tấn ông. Gí cả bàn là nung đỏ vào lưng. Vết sẹo ấy vẫn còn. Nếu hắn đứng ở phía trong bếp nhìn ra thế nào cũng thấy. Ông ở tập thể, nhưng không ăn tập thể. Nấu riêng. Tiểu táo. Ba lạng thịt phiếu ông mua mậu dịch, thật trớ trêu, như một trò đùa của định mệnh, lần nào cũng toàn bạc nhạc. Từ cửa hàng mậu dịch về, ông đi các phòng, chìa miếng thịt cho mọi người xem, phẫn uất:

– Con đĩ ngựa đây. Con đĩ ngựa nó bán cho miếng thịt thế này đây.

Đấy là ông nói về cô mậu dịch viên đã bán thịt cho ông. Chẳng biết mặt mũi tính tình cô ta ra sao mà ông phác họa chân dung cô như vậy. Từ ấy ông được anh em trong tòa báo gọi là Con-Đĩ-Ngựa. Ông rất vui vẻ nhận cái tên ấy, cái tên ông rủa sả cô mậu dịch. Còn tên Chính, đồng chí Đỗ Trọng Chính chỉ được dùng đến trong các cuộc họp cơ quan và chi bộ.

Hắn rụt rè bước lại định hỏi Con Đĩ Ngựa về anh chị Diệu, thì chợt nhìn thấy chị Diệu đang nói chuyện với một phụ nữ còn trẻ, tóc phi-dê trong một phòng có máy chữ.

Chị Diệu cũng trông thấy hắn. Chị chạy ra kêu lên:

– Ơ! Chú Tuấn. Chú Tuấn đã về rồi đây này.

Chị nắm lấy tay hắn. Chị vẫn như vậy. Hơi đẫy ra. Hai chị em nhìn nhau một lúc lâu.

– Em về hôm qua.

Chị Diệu nắm tay hắn kéo vào cửa phòng:

– Cô Hà ơi! Eng Tuấng eng đã về rồi đây này.

Hắn đã nhận ra cô gái phi-dê. Cô Hà, cô thư ký đánh máy nhìn hắn. Cô cười rất tươi, đến nỗi hắn ngờ ngợ không hiểu cô có biết hắn vừa ở chốn nào về không? Hắn thích thú vì chị vẫn giữ nguyên tính hài hước. Như không có những ngày tù của hắn. Như hắn vẫn ở P lên gặp các nhà xuất bản buôn văn bán chữ, chứ không phải hắn đi tù về. Và hẳn là chị vẫn nói với cô Hà về cái tài bắt chước các tiếng địa phương của hắn.

Cũng như rõ ràng chị vẫn thích được nói chuyện với hắn. Hai chị em vẫn có thể nói với nhau bất cứ chuyện gì. Chị nói thật có duyên. Cái ngày hắn chưa đi tù, chị kể về đám người chạy rầm rập ngoài phố như có báo động. Chị gọi hỏi, không ai trả lời. Có một bà tổt bụng nhất không quay đầu lại, vừa chạy vừa thét lên để chị biết:

– Cá mè ô 5!

Chị cười giàn giụa nước mắt:

– Tức là mậu dịch bán cá mè cắt ô 5. Còn ô thì đi mua.

Chị kể chuyện Tết nào Sở Thương nghiệp Hà Nội cũng triệu tập các cơ quan lên họp và Tết nào chị cũng được nghe ông phó giám đốc mở đầu bài nói bằng câu:

– Tết năm nay chúng tôi cố gắng bảo đảm bằng năm ngoái.

Có thể ông ta quên rằng năm nào ông cũng nói câu mở đầu kinh điển ấy. Vì một năm ông chỉ nói một lần. Còn chị thì chị nhớ. Vì năm nào chị cũng phải nghe. Mười mấy năm chị làm quản lý, đồng chí phụ trách báo cứ đến Tết đưa tờ giấy triệu tập họp cho chị, lại bảo:

– Này, ông cố gắng bằng năm ngoái mời họp đây. Bà đi họp xem Tết nhất ra làm sao.

Chị Diệu để hắn đứng ngoài sân, chạy lên gác tìm anh Diệu. Cả ba đi bộ về nhà. Chả là nhà anh chị Diệu ở liền cạnh cơ quan. Anh Diệu lấy ngay một bộ quần áo: cái áo sơ-mi pô-pơ-lin trắng ngắn tay, quần ka-ki và cả xanh-tuya của anh đưa cho hắn.

Hắn lại thay màu. Không màu nâu nữa. Trông hắn đã giống với đời thường. Dù vẫn còn lúng túng, ngượng nghịu với bộ cánh xi-vin chưa thể nào quen ngay được.

Anh chị Diệu ngắm nghía hắn như nhà điêu khắc ngắm nghía tác phẩm của mình vẻ hài lòng. Chị Diệu xuống nhà và trở lên với một tút thuốc lá Tam Đảo. Thật tuyệt vời. Chị bao giờ cũng vậy. Chị chỉ là chị dâu và anh Diệu là con ông bác, nhưng anh chị coi hắn như em ruột. Vì bản tính anh chị. Vì hắn đã công tác ở Hà Nội mãi, có chủ nhật nào không lên nhà anh chị chơi, hoặc ăn cơm, ăn chè ở nhà anh chị. Anh Diệu cũng suýt lao đao, khi cho đăng báo bài phóng sự dài kỳ về nạn gái điếm còn lại ở thủ đô sau tiếp quản. Người ta phê phán anh là đã đi vào những đề tài nhằm khêu gợi thú tính, bôi đen chế độ. Trong khi bao đề tài khác, bao mặt trận xây dựng khác đang cần sự có mặt của người cầm bút. Anh cũng là người vào rừng chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng.

Hắn đỡ tút thuốc lá trong tay chị Diệu, bóc ra lấy một điếu hút, bụng nghĩ: Ở trong ấy, đây là cả một gia tài. Giải quyết được bao nhiêu thứ. Mỗi biêu một lệnh (1). Chỗ này được một cân chè đây. Uống với già Đô được hơn tháng, tối nào cũng sột sệt không phải lo nghĩ. Chị Diệu nhìn hắn hút mà cảm thấy sung sướng.

Chị Diệu: Chú đã điện cho cô Ngọc chưa?

Hắn: Em không biết trước. Có phải tù án đâu mà biết, mà điện.

Chị Diệu: Cô ấy mừng lắm. Lần nào cô ấy lên đây cũng khóc.

Anh Diệu: À! Hình như Vũ Phương cũng bị bắt rồi phải không?

Hắn: Vâng. Hôm qua em ngủ nhà nó. Về đến đây em mới biết.

Chị Diệu: Khổ thân cậu ấy. Lúc chú mới bị bắt, cứ đến đây hỏi thăm tin tức thằng Tuấn.

Hắn hỏi tin tức gia đình. Đợt B52 vừa qua làm hắn rất lo. Hắn cứ tưởng người nhà, họ hàng thân thích hắn bị sứt sát vì đều có mặt ở những nơi trọng điểm. Nhưng không. Tất cả nguyên vẹn. Cả nhà hắn chỉ có hai người đi xa: Hắn và thằng Hải con anh Thân, anh ruột hắn. Hắn đã về, chỉ còn mỗi thằng Hải đi bộ đội đã tham gia đánh chiếm Huế và hiện nay vẫn còn trong B.

Hắn không nhớ được bữa cơm ăn ở nhà anh chị Diệu. Hắn chỉ nhớ tối hôm đó hắn ở nhà một mình: Anh chị đã lấy vé xem phim. Hắn giục anh chị đi

(1) Mỗi bao (thuốc) một lạng (chè).

xem, đừng bỏ vé vì hắn.

Căn buồng của anh chị Diệu vẫn như năm năm trước. Vẫn cửa sổ trông ra cây phi lao ấy, cái sàn lim lau thẫm bóng ấy, cái giường ấy. Nơi để xô nước ấy, cái bàn quay mặt vào lò sưởi ấy. Đây là thiên đường hò hẹn của hắn với Ngọc khi hai người yêu nhau. Hình như cái hôn đầu tiên trong đời hắn là ở đây. Ở đây hay ở Vĩnh Tuy, hắn không nhớ nữa.

Dạo ấy hắn là phóng viên báo T. Ăn, ngủ, làm việc cùng một nơi, một căn nhà phía cuối đường Bà Triệu. Ngọc ở ngay bên kia đường đối diện với cơ quan hắn. Chỉ cần nhìn thấy Ngọc ở cửa là có thể ra một tín hiệu: Hơi hất đầu về phía ngã tư Tô Hiến Thành và nhận tín hiệu của Ngọc: Một cái gật đầu khe khẽ. Thế là hắn đạp cái xe Parker biển xanh (1) ra ngã tư chờ Ngọc tới. Hai người lên cơ quan anh Diệu, mượn chìa khóa nhà anh chị. Chị Diệu vừa đưa chìa khóa vừa nói:

– Lại đón cô Ngọc lên chơi hở. Tý nữa, nếu chúng tôi đi vắng cả thì cứ đưa chìa khóa cho cô Hà nhé.

Ngọc cầm đĩa đi mua xôi ruốc, xôi lạp xường. Hai người ngồi ăn. Ngọc gọt mắc coọc, Ngọc pha nước chanh. Ngọc làm nghiêm:

– Em. Không được trêu chị. Để yên chị làm. Cứ quấy chị thôi. Hư lắm.

Trong căn buồng này hai người đã quên tất cả thế giới đang tồn tại. Nàng lúc đó mới 19 tuổi. Áo ngắn tay bồng vai. Tóc xõa ngang lưng. Dáng đi hơi ngả về phía trước. Tiếng guốc của nàng như tiếng hài pha-lê của Lọ Lem, như tiếng guốc lên thang trong thơ Quang Dũng (2). Hai người đi, cũng chẳng biết là đi đâu nữa. Đời vui. Người vui. Mình vui. Đi cho hết những phố phường, những vỉa hè Hà Nội. Đi cho hết những đêm đầu hè như đêm nay mà hắn vốn rất yêu và nàng cũng rất yêu. Đi vì nàng đi bên hắn. Nàng cũng háo hức như hắn. Hắn nhìn nghiêng và thấy cánh tay nàng tròn được cái tay áo lụa may bồng lên ôm rất khít. Một ánh đèn màu từ rạp Majestic hắt ra. Gò má nàng, mái tóc nàng, cả người nàng, cả cây cối chung quanh nàng đều nhuộm xanh như không có thực.

 

(1) Xe đạp công, biển đăng ký màu xanh.

(2) Tiếng guốc lên thang gác lanh canh

      Lại hát, lại cười, lại người yêu say đắm

(Quang Dũng).

 

 

*

*        *

Hà Nội là thành phố những năm tuổi trẻ tươi đẹp nhất của hắn.

Không phải chỉ là thành phố một thời yêu Ngọc.

Đó còn là thành phố một thời tin tưởng. Một thời tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống. Học xong phổ thông, vào thanh niên xung phong, tiếp quản Hà Nội. Ngày 9-10- 1954 từ bốt Hàng Trống trở về nhà thương Đồn Thủy, thao thức không ngủ. Xem đồng hồ, nghe đồng chí Vũ nói: “Giờ này, Tây đang rút khỏi cầu Long Biên”. Đi dọc hành lang sang nửa nhà thương Đồn Thủy bên kia, bọn Tây đóng bên đó đã đi hết cả. Bọn Tây (chắc là nhân viên thầy thuốc) già, to béo vẫn nhìn bọn mình tập thể dục đầu này hành lang, toàn lứa tuổi hai mươi, trẻ măng, nhưng tự tin khi tiếp xúc với họ vì “sau lưng ta là Điện Biên Phủ”. Sớm 10-10 ra khỏi nhà thương Đồn Thủy, sang bên kia đường, nơi vẫn gặp các sĩ quan Pháp để cùng lên ô-tô đi tiếp quản công thự. Muốn òa lên khóc: Nơi ấy đã treo tấm ảnh Bác Hồ gầy gò với chòm râu thưa. Một khẩu hiệu vắt ngang đường: “Hoan nghênh đại quân ta vào giải phóng Thủ đô”.

Rồi những đêm nhảy múa với công nhân nhà máy điện, nhà máy đèn, nhà máy nước. Cô gái Cửa Bắc xinh đẹp sáng bừng lên khi mời được mình vào nhà chơi. Cả nhà cô, cả mấy nhà gần đấy sáng bừng lên một niềm sung sướng và kiêu hãnh vì bộ quần áo màu cỏ của mình ở trong nhà họ.

Và từ chối đi học nước ngoài. Lúc đó đã được chọn về làm phóng viên báo T. Thỏa mãn khát khao từ khi còn đi học: Trở thành người cầm bút. Sống ở Vácxôvi, Praha, Mạc Tư Khoa thật tuyệt vời nhưng sao bằng sống giữa Thủ đô Hà Nội. Tùy viên văn hóa, kỹ sư, bác sĩ chỉ có thể là những viên chức mẫn cán, sánh sao được với lao động nhà văn. Nguyện vọng cả đời đã thành sự thật. Cánh cửa đời rộng mở. Tự tay mình dựng xây sự nghiệp. Tương lai mình do mình định đoạt. Lăn lộn với cuộc sống. Ghi. Đọc. Viết. Trao đổi với bè bạn. Cả một lớp bạn cùng lứa trẻ trung, vui tươi, thông minh, tài năng, hóm hỉnh, tin tưởng ở nhau, lúc nào cũng là nguồn động viên nhau làm việc.

Những đêm trong buồng tập thể, tuân theo nội quy tắt đèn để khỏi ảnh hưởng đến giấc ngủ của người khác, ra bật ngọn điện cầu thang ngồi đọc sách tới khuya. Những lúc giành ra-két đánh pinh-pông, quần nhau suốt ngày không mệt. Giọng Nguyễn Vũ Phương liến láu đọc bài tổng kết về các văn nghệ sĩ tên có chữ Xuân:

– Xuân Diệu, Xuân Thiêm là Xuân tượng trưng. Xuân Hồng, Xuân Thâm là Xuân màu sắc. Về khí tượng có Xuân Vũ, Xuân Phong. Xuân âm nhạc là Xuân Cang, Xuân Khánh. Còn nếu bạn muốn nghiên cứu Xuân giáo dục chúng tôi có Xuân Sách, Xuân Trường…

Mình mượn xà-phòng của Vũ Mạc để giặt. Tất cả đứng ở bể nước nhìn mình mài xà-phòng của Vũ Mạc vào bộ quần áo bẩn. Vũ Mạc nhại thơ Nêruđa:

Hãy đến xem

Tuấn xát

xà-phòng

Hãy đến xem

Tuấn xát xà-phòng

Hãy đến xem Tuấn xát xà-phòng (1)

Đêm ba mươi Tết, xuôi tàu từ Mục Nam Quan về Hà Nội với anh lái xe hỏa. Tới cơ quan là giao thừa, đốt pháo ở cơ quan khói mù mịt. Đập lúa trên sân nhà đồng chí bí thư chi đoàn vùng chiêm trũng Hà Nam. Về Bắc Giang chống hạn, nghiêng sông đổ nước vào đồng. Chuyến đi Thanh Hóa khi mới yêu Ngọc, cả thế gian là sầu nhớ, vừa đến tỉnh đoàn đã vội hỏi đường ra bưu điện, đánh điện về cho Ngọc. Quốc khánh mùng 2-9, dậy từ lúc cả thành phố còn đang ngủ. Náo nức. Đứng ở cửa chờ Ngọc. Nhìn sang cánh cửa bên kia đường vẫn khép. Rồi nàng mở cửa nhẹ nhàng bước ra. Áo dài trắng, quần trắng, đồng phục của trường đi đón ngày Quốc khánh. Hai đứa nắm tay nhau đi trên đường phố vang tanh. Không một bóng người. Như thành phố dành riêng cho ta. Vẫn chưa thể quen được với ý nghĩ mình có cả một người con gái để mà yêu quý. Có tên của người ấy để mình lên tiếng gọi. Cảm ơn em về tình em yêu anh. Cảm ơn mẹ cha, mẹ cha sinh em ngày ấy để cho anh 19 năm sau đó. Để bây giờ em là của anh. Để em đi bên anh và để anh yêu. Đi đâu bây giờ em? Còn sớm quá. Em dịu dàng và tinh khiết như bầu trời đêm trước lúc rạng đông này. Phố Tô Hiến Thành trong mơ. Ra tới phố Huế vẫn là trong mơ.

(1) Hãy đến xem

                        Máu chảy

                                                Trên đường

     Hãy đến xem

                        Máu chảy trên đường

     Hãy đến xem máu chảy trên đường

Tay trong tay đi mãì trong phố vắng. Kia rồi một cửa hàng vừa mở. Mình và Ngọc là những người đầu tiên bước vào hiệu. Uống cà-phê sữa. Nhìn nhau. Rồi chia tay khi trời rạng sáng. Nàng đi tới trường. Mình đến Ba Đình trong khối các cơ quan trung ương.

Buổi trưa, nàng lại sang. Nàng đã tắm gội, tươi tắn lạ thường. Đến chiều hai đứa ra bờ Hồ Hoàn Kiếm, tìm một chỗ ngồi từ lúc mặt trời vừa lặn để xí một chỗ cho đến tối. Để được ngồi giữa đám đông cũng yêu đời như mình. Để đảm bảo được nhìn thấy pháo hoa trên hồ. Những chùm pháo hoa trên bầu trời mịn như nhung có lẽ là những gì đẹp nhất, kỳ ảo nhất mà con người sáng tạo ra. Mình vừa ngước nhìn pháo hoa vừa quay lại nhìn nàng. Nàng mở to mắt nhìn trời. Cặp mắt nàng, gương mặt nàng với bao màu sắc của pháo hoa ngày hội lướt qua. Nàng còn kỳ diệu hơn, xinh đẹp hơn mọi chùm pháo hoa đẹp nhất.

Có một đường thơ

mang tên Hoàng Vũ Thuật

PGS TS Nguyễn Thái Hòa

Lòng còng…

lòng còng…

gõ vào đêm vội vã

tiếng cuộc đời trôi dạt trên sông

qua những tháng năm cơ cực

tiếng mõ gọi bao xóm làng thao thức

mẹ ơi!

(Tiếng gõ chài)

Từng có lúc tiếng gõ chài trong thơ Hoàng làm tôi trăn trở; không vì tiếng gõ khi gần khi xa vang lên trong tịch mịch đêm trường, mà vì tiếng kêu thảng thốt “Mẹ ơi!” day dứt trong thơ anh. Hình ảnh người mẹ gắn với làng quê, gắn với những kỉ niệm tuổi thơ nhọc nhằn cơ cực, như một hoài niệm xa xôi hơn là một kí ức gần gũi.

Đọc thơ Hoàng tôi càng thấy lạ! Lạ thật! Tuổi thơ của Hoàng sống ở Bình Trị Thiên khói lửa, trong chiến tranh hủy diệt của thực dân Pháp (phá sạch, đốt sạch và giết sạch). Đến khi trưởng thành lại gặp một cuộc chiến tranh hủy diệt thứ hai đến cả đất đá cũng thành tro bụi. Nhưng ấn tượng để lại trong tập thơ chọn lọc Cỏ mùa thu (NXB Văn học 1994) không phải là những hình tượng lửa khói, tiếng kêu thét căm thù vang tận trời xanh mà lại là những hình ảnh thật nhỏ bé, thật thân quen: Một con chim ri rí kiếm ăn trên bãi biển mênh mông vời vợi; một cụm hoa lông chông chạy nhảy trên trảng cát; một bông xương rồng bé tí trên “bãi sa trường” (chữ của Nguyễn Tuân); một viên gạch vỡ nát hòa vào vũng nước đỏ như máu bên cạnh bức tường bị bom xé toạc làm đôi. Và giọng thơ Hoàng thì trầm mặc u buồn, vẻ ưu tư của những người sống sót sau trận giết chóc, nỗi buồn của một người chịu nhiều khổ đau.

Ngoài ra, ở những bài thơ khác còn có cái mới về hình ảnh, về từ ngữ. Nhưng hồi đó (hơn hai chục năm trước) tôi nghĩ Hoàng cũng làm thơ thời thượng theo mốt mới, như những thơ thời thượng nhan nhản trên báo chí. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết, đại ý: Làm thơ cho lạ, cho mới thì có khó gì, nhưng lạ thế nào, mới thế nào mà đến được với người đọc thì đâu có dễ. Gần đây (2010) Hoàng cho ra đời hai tập thơ in liền trong một năm: Ngôi nhà cỏ (NXB Hội nhà văn) và Màu (NXB Lao động). Một nhà thơ tuổi ngoại lục tuần đã đạt mấy giải thưởng thơ, bền bỉ với thơ như một cái nghiệp (chứ không phải một nghề) làm tôi phải đọc lại những tập thơ của anh từ Những bông hoa trên cát (1979), Thơ viết từ mùa hạ (1984), Gửi những ngọn sóng (1986). Thế giới bàn tay trái (1989), Đám mây lơ lửng (2000), Tháp nghiêng (2003), Ngôi nhà Cỏ Màu (2010) để hiểu thêm cái nghiệp của anh.

Rõ ràng có một đường thơ Hoàng Vũ Thuật và tôi đã lần theo con đường ấy.  Ban đầu đường khá rộng và dài với những hình tượng lan trải, với những nhịp điệu mềm mại bằng phẳng, nhưng càng về sau nhất là từ Đám mây lơ lửng trở đi thì thơ bung nở nhiều hình ảnh, nhiều ấn tượng. Con đường đó càng ngày càng thắt lại, hẹp dần. Ngay tiêu đề của những bài thơ cũng đủ thấy: từ “ Những bông hoa trên cát”, chỉ còn lại là “hoa vỡ”; từ “Cỏ mùa thu” lớn rộng là thế chỉ còn lại “ngôi nhà cỏ”, và “cỏ”; từ nhiều màu sắc trong mắt anh nơi anh đi qua trong nước và nước ngoài, chỉ còn lại một tín hiệu duy nhất “Màu” , một thứ màu không tên, thậm chí chỉ còn màu đen “tôi quay sang trái/ đen và đen và đen/ tôi quay sang phải/ đen và đen và đen// tấm ra trải giường điệp điệp/ không màu// Còn tôi / màu gì…///(Màu)

Đừng vội quy chụp cho Hoàng cái nhìn bi quan, thậm chí “phản động”. Hoàng đã nói đúng như nhà bác học Issac Newton từ thế kỷ 17: vật thể vốn không mầu, chỉ có màu nhờ ánh sáng. Và sau ông ấy, các nhà du hành vũ trụ thấy vũ trụ đen ngòm như mực và tĩnh lặng ghê người! Và cũng chẳng cần lý thuyết gì, ai chẳng thấy đêm đen ngòm chiếm nửa thời gian một ngày 24 tiếng. Và đêm tối lại là cái phút giao hoan của giới đực và giới cái tìm đến nhau để phát triển nòi giống của nhiều loài trên trái đất. Có lẽ là Hoàng không được Newton và các nhà sinh học gợi ý mà chính là thơ anh dẫn đường đến cái bản thể nguyên lai của thế giới! Vì vậy, anh có một đường thơ riêng, không giống ai.

Cho nên , phải tìm cách đọc thơ Hoàng. Phải tìm ra kiểu tư duy lạ và mới trong thơ Hoàng. Và cũng cần cảnh giác: không phải cái gì lạ cũng đều là mới và không phải cái gì mới cũng đều là lạ!

*

Tôi đã học nhiều cách để đọc thơ Hoàng:

a. Đọc theo con đường trực cảm, tiếp nhận ấn tượng nguyên bài, nguyên khối thì chỉ đọc được một số bài thơ của những tập thơ đầu. Càng về sau càng bí bét vì không hiểu.

b. Đọc theo lối tình cảm thì cũng thấy Hoàng giàu tính nhân văn, san sẻ cho cả những động vật, những thực vật li ti, tội nghiệp.

c. Đọc theo lối so sánh (so sánh thơ Nguyễn Quyến, Lê Đạt, Vi Thùy Linh) cũng thấy được một số điều thú vị, nhưng lại không rõ nét đường thơ của Hoàng.

d. Đọc theo lối thi pháp cấu trúc mà Roman Jakobson danh tiếng đề xuất thì cũng chỉ gặt hái được trên bề mặt mà không thấy bề sâu, bề xa của nhà thơ.

đ. Cũng không thể đọc theo lối chăm chăm dõi theo tư tưởng (tư tưởng chính trị, tư tưởng xã hội, tư tưởng triết lí). Tìm mãi tư tưởng chính trị trong thơ cũng không thấy vì Hoàng chỉ làm nghệ thuật. Không rõ nét tư tưởng chính trị, nhưng thơ Hoàng có tư tưởng triết lí mà càng về sau hiện hình càng rõ: “... đàn kiến theo nhau vội vã/ sống và chết// nhẹ nhàng/ hạt bụi// hãy tin/ đàn kiến kia/ với bài ca diệu kì/ bài ca cuộc hành trình vòng quanh trái đất// vang lên không mệt mỏi/ những trái tim mang nỗi niềm/ loài kiến// (kiến)

 Kiến hay là thế giới loài người, hay là chính tác giả nhập thân? Cả ba đấy chứ! Cách nhìn thế giới trong thơ Hoàng là vậy. Vật này cũng là vật khác, loài này cũng đồng thời là loài khác, chủ thể đồng thời cũng là khách thể, khách thể cũng là chủ thể. Thơ Hoàng đã vượt quá xa quan niệm của các nhà biểu tượng chủ nghĩa (= tượng trưng chủ nghĩa) vượt xa biểu tượng siêu – cảm giác (supra-sentimentaliste) mà Charles Baudelaire (1821 – 1867) đề xướng.

Vậy là từ những mối cảm thương cho những thân phận hèn yếu bé nhỏ trên trái đất này, sao mà mỏng manh (gần đây, trong thảm họa động đất, sóng thần và phóng xạ nguyên tử, nhiều người cũng than thân phận con người sao mà mỏng manh!) để cuối cùng có thể đến với triết lí. Chẳng phải Ăngghen từng nói: Tất cả đều vận động, chuyển hóa không ngừng, chỉ có một cái không thay đổi vận động, chính là quy luật vận động. Triết lí đấy thôi. Chẳng phải Hegel cũng đã nói: cái gì hợp lí thì tồn tại, cái gì tồn tại đều hợp lí. Triết lí cả thôi!

Hoàng không làm triết lí, không hề tư duy khoa học, trừu tượng như các nhà triết học, mà chỉ là tư duy biểu tượng theo con đường riêng của thơ mình. F. Chevalier viết: “Có lẽ tư duy biểu tượng vốn đối nghịch với tư duy khoa học, không vận hành theo lối rút gọn từ cái bội đến cái đơn, mà bằng lối bùng nổ từ cái đơn thành cái bội nhằm gây ra cảm nhận rõ rệt hơn trong một nhịp thứ hai, quả nhiên, sự thống nhất của cái bội ấy” (Lời tựa – Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới – NXB Đà Nẵng, 2002, tr.XVII).

Đúng vậy, từ một ấn tượng, một điểm nhìn về những sinh thể bé nhỏ, mở rộng đến thế giới con người, Hoàng đã cho nở bung ra bao nhiêu là đề tài, bao nhiêu là hình ảnh, trên lối đi càng ngày càng thu hẹp của mình. Từ ngữ thơ dung dị, quen thuộc nhưng chen chúc nhau, lấn át nhau, kết hợp bất quy tắc, trở thành những tín hiệu đa nghĩa (polysémique) và đa trị (polyvalent). Hoàng tư duy theo lối biểu tượng, rút gọn tối đa để mở rộng tối đa “những kí ức ngủ quên” ở tầng tiềm thức.

Hãy nghe anh nói về đêm, cái đêm mà anh gọi là “đêm Ngọc Thùy”: “Cây đội trần nhà dựng vòm trời ẩn/ dưới vòm trời/ thập loại chúng sinh tìm lối sống…//”và: “nếu sống lại sau khi đã chết/ trời cao thêm và đất rộng hơn/ những đôi chân mọc chéo trên cỏ ướt/ dan díu nở ngàn sao Ngọc Thùy// tạ từ bờ khuya/ tạ từ mắt nến/ anh chạm mặt vào đêm (15/9/2005)”.

“Đêm Ngọc Thùy” ấy đủ cả không gian 3 chiều, như một số bài thơ khác trong tập Màu Ngôi nhà cỏ: chiều cao, chiều dài và chiều rộng, đủ cả quá khứ, hiện tại và tương lai: “đá bao nhiêu đại đắp thành Hồ/ sông bao nhiêu kỷ thành sông Mã/ em bao nhiêu tuổi vỡ giọng/ thành cậu bé ngốc nghếch anh qua mấy kiếp người//”. Quá khứ thực ra chỉ dồn lại ở một tâm điểm duy nhất “anh qua mấy kiếp người”. Cái điểm đó có thể gọi là giao điểm của không gian và thời gian (spacio-temps). Thơ của Hoàng đã đạt đến mức đó, nhưng tiếc rằng anh đã vội quay về với hiện tại “chạm mặt vào đêm”, khiến loãng đi chiều sâu vô thức nên không gợi được tầng vô thức của tập thể lơ lửng như “đám mây lơ lửng” không hình bóng, phiêu diêu bất định. Có điều thơ Hoàng đã gợi những kí ức ngủ quên giữa ý thức và vô thức, ở đó con người lẫn lộn trong trạng thái lơ lửng của thời gian, như mộng mị chiêm bao mà ta thường gặp. Một kiểu tư duy biểu tượng trong thơ. Và cũng là một thứ triết lý của thơ.

Nói về tư duy biểu tượng thì không chỉ một mình Hoàng Vũ Thuật mà có ở hết thảy mọi nhà thơ có phong cách. Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, v.v. có điều mức độ sử dụng đậm nhạt khác nhau, cách thức sử dụng cũng khác nhau. Bởi vì, biểu tượng thơ ca là một vấn đề phức tạp và con đường hình thành biểu tượng cũng rất khác nhau: Có những biểu tượng hình thành từ hình tượng cảm giác (ví dụ: Con hổ của Thế Lữ, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, v.v.) có biểu tượng từ siêu cảm giác (Nguyệt cầm của Xuân Diệu; Trăng của Hàn Mặc Tử) có biểu tượng từ những hình tượng gốc trong truyện cổ và ca dao (Trầu cau của Nguyễn Bính) có những biểu tượng đi thẳng từ những biểu tượng văn hóa (Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm), v.v. Mức độ  nông sâu của biểu tượng cũng khác nhau: Có những biểu tượng chỉ ở mức độ tiềm thức, và có những biểu tượng chạm đến đáy của vô thức, bản năng gốc của giống loài: sự sinh thành, sự sống và cái chết, nỗi sợ hãi và hành động tự bảo vệ của một sinh thể, v.v.

Thơ Hoàng đang ở đường biên của tiềm thức và vô thức, tức là ở lớp màng trung gian giữa ý thức và vô thức, những ký ức ngủ quên, lẫn lộn thực và hư, thực và ảo gần đến mức như Trang Tử ngày xưa, ngủ dậy không biết mình là bướm hay bướm là mình! Nhiều lần Hoàng cũng vậy, chẳng biết mình là ai, màu đó là màu gì, đèn đó là đèn gì, và rất nhiều “một ngày” (có cả ngày giờ tháng năm) cụ thể mà chẳng có một thời gian nào là cụ thể. Nếu thơ của Hoàng đi đến chỗ siêu thực thì cũng do thơ của Hoàng dẫn đi chứ không do lý thuyết nào gợi ý, hay do ngẫu hứng bất chợt như một số người làm thơ theo mốt hậu hiện đại.

Bởi khi ở trong trạng thái lơ lửng của đường biên tiềm thức và vô thức, lại rất giàu tình cảm nên phần kết bài thơ Hoàng thường trở về hiện thực (trong hầu hết những bài thơ chọn lọc ở tập Cỏ mùa thu) hoặc quay về thế giới tình cảm của anh.

Cái mạch ngầm tình cảm ấy còn lác đác theo cả Hoàng về sau này:

tại vì biển nhật lệ mỗi ngày một hẹp

cát trắng bảo ninh mỗi ngày một đen

người mỗi ngày một lạ

nên mỗi ngày ta lại thấy buồn thêm

                                                                                (Tại vì)

Và dù “nghiệm” rất nhiều: “Khoảng cách ngày và đêm/ đủ nhận biết vũ trụ// khoảng cách tối và sáng/ đủ nhận biết nhân gian// rồi kết thúc: khoảng cách yêu và giận đủ nhận biết mình (Nghiệm). Chỉ yêu và giận thôi ư? Thơ Hoàng giàu tình cảm đến mức dùng tình cảm làm thước đo con người. Chỗ mạnh của anh là ở đó và giới hạn của anh cũng chính là nơi đó.

Triết lí trong thơ Hoàng, đặc biệt sâu đậm ở hai tập thơ Ngôi nhà cỏMàu thấm đến từng câu từng chữ, đến cả nơi không chữ không câu nhưng luôn luôn quay về thực tại, một thực tại giấu mình trong những biểu tượng giàu tình cảm. Vì vậy, xuyên trong thơ Hoàng sau mặt phẳng về một hoài niệm và viễn ảnh xa xôi giữa hư và thực, giữa tiềm thức và vô thức, thì những “cú sốc” kiểu như: Đám mây lơ lửng, Tháp nghiêng, Người điên, Ngọc bích, Lăng tẩm, Phác thảo, Chân dung…cho thấy dấu hiệu của sự bùng nổ/nỗi loạn kinh người như ở một số nhà thơ khác mà ta đã biết.

Dẫu sao, Hoàng đã vạch một đường thơ riêng cho mình từ sự cảm thương thân phận mỏng mạnh của những sinh thể trước những biến cố cho đến mọi hiện tượng thoáng hiện, thoáng biến, như một hư ảnh, sắc sắc không không, và cuối cùng cái còn lại là tình cảm lớn của con người. Hoàng đã đi từ cái hình tượng cụ thể tới biểu tượng, và ở hai tập thơ sau này hầu như chỉ còn tư duy biểu tượng. Đường thơ hẹp dần để cho không gian ảo ảnh bung ra, lan ra mãi. Cái logic nghệ thuật của Hoàng quả đúng như vậy và cách đọc thơ Hoàng cũng nên như vậy!

*

Đọc những bài thơ Hoàng trước tập Đám mây lơ lửng, ta cứ việc song hành cùng tác giả, theo những nhịp sóng hình tượng và sóng cảm xúc để đến tận cuối bài. Nhưng ở những tập thơ sau này, nhất là Ngôi nhà cỏMàu thì người đọc phải tìm lối đi ngang về tắt cho mình mà những tín hiệu nhập nhòe không còn chỉ lối rõ rệt. theo kí ức của mình và những chiêm nghiệm riêng để rồi lần ra lối đi trong thơ Hoàng.

Vì vậy, đọc thơ Hoàng phải đọc chậm, rất chậm để ý hội sau đó là tâm truyền, bởi anh đã dấn sâu vào con đường biểu tượng. Anh đã phá vỡ cái khuôn của từ phápchương pháp (quan hệ giữa từ với từ, giữa câu với câu) nên chỉ còn cách đọc khoảng trống ở giữa từ với từ, giữa câu với câu. Trong những khoảng trống ấy có một tứ thơ mạch lạc nào đấy, do anh vẫn giữ chắc khuôn khổ thiên pháp giữa đoạn thơ này với đoạn thơ khác, giữa phần khai (mở), triển (phát triển) và kết (kết thúc). Không như một vài nhà thơ hiện nay phá sạch sành sanh thiên pháp, khiến cho thơ không còn là một văn bản thống nhất mà có nhiều văn bản trong một văn bản, thậm chí nhiều tứ thơ có trong một tứ thơ như một số bài thơ của Trần Nghi Hoàng, Đỗ Kh., Khải Minh… Với những nhà thơ mới và lạ này có khi ta phải đọc theo lối xuyên văn bản mới hiểu được một vài ý, một vài câu. Hoàng không theo họ, không cần tạo bát quái trận đồ để làm mệt độc giả.

Hoàng cô đơn và cô đơn một cách thành thực, chân tình. Đường thơ này hầu như chỉ một mình anh. Khi mà người khác vui hoặc cố vui thì anh hát điệu buồn, khi người khác thích hình tượng hoành tráng thì Hoàng lại chọn những hình ảnh bé tí, khi mọi người thích màu sắc lòe loẹt, chói chang thì Hoàng lại chỉ có trắng hoặc đen hoặc không màu…

Cách nhìn sự vật trong cách nghĩ của anh chẳng thể giống ai, chẳng giãi bày được với ai, trừ ra với thơ. Thế mà đường thơ anh lại càng ngày càng thu hẹp, rút ngắn như người cố trèo lên đỉnh núi mang hành trang biểu tượng của riêng mình. Người ta khi lên đến đỉnh cao nhất chỗ đứng càng hẹp, thì chân trời lại càng lùi xa mênh mông. Đó chính là cảm giác cô đơn chân thật của Hoàng, con người “độc hành kì đạo”: chỉ mình tôi lúc này/ nỗi buồn sâu hơn biển/ nghìn con sóng khỏa đầy/ không thể nào lấp kín (Một mình).

Tôi không muốn nói rằng anh đã lên đến đỉnh cao của thơ ca, bởi anh đang lơ lửng giữa hai cõi tiềm thức và vô thức, nhưng thực sự là người đã mở một đường thơ mới im đậm dấu chân người lữ hành. Chỉ ở tầng tiềm thức thôi mà cũng ít người chịu hiểu anh. Đàn Bá Nha đã vang lên gần chặng cuối nhưng bóng dáng Chung Tử Kì còn khá hiếm hoi. Chưa có nhiều Chung Tử Kỳ thì Bá Nha vẫn ôm mãi một nỗi cô đơn. Điều gì đến nó sẽ đến, Hoàng đang dự kiến cho ra đời: Mùi – tập thơ mới, để minh chứng cho thế giới nghệ thuật của mình chăng? Ta hãy tin và chờ đợi.

Rõ ràng đường thơ của Hoàng là một nghiệp thơ chỉ trông cậy vào mình, và nó đi thẳng vào thế kỉ 21, một khi con người vừa tin ở sức mạnh của mình vừa nhận ra sự yếu ớt mỏng manh của mình. Đường thơ ấy báo hiệu một kiểu tư duy thơ riêng, không màu sắc mà vẫn lộng lẫy, không đứng yên mà vận động không ngừng, phù hợp với tư duy của con người trong thế kỉ mới.

                                                                                                                                                                                                                                                                         Hà Nội, 3/2012

                                                                                               

___________

Xin đọc thêm:

– Lời giới thiệu của Vũ Quần Phương trong Cỏ mùa thu, nxb Văn Học-1994;

– Lời giới thiệu của Hoàng Thụy Anh trong Màu, nxb Lao động-2010;

Thơ đến từ đâu, phỏng vấn của Nguyễn Đức Tùng, nxb Lao Động-2009.

 

Nguồn: từ tập Mùi, NXB Hội Nhà văn, 2014

Hoàn hảo – truyện ngắn Hà Thủy Nguyên

anh HTN
Hà Thủy Nguyên

Vào đầu thế kỷ 21, nhà khoa học Karl Pibram đã đưa ra kết luận rằng: “Trí nhớ không được lưu trữ tại một nơi nào cả trong não bộ mà bằng một cách nào đó lan truyền và phân bố trong toàn não bộ”. (1) Từ đó nhân loại đã đổi thay: Thế giới trở nên trật tự hơn và yên bình hơn…

Tôi sinh ra vào cuối thế kỷ 21, thế kỷ của hòa bình và đại đồng, thế kỷ mà mọi nhà lý tưởng chính trị ở những thiên niên kỷ trước chỉ có thể coi đó là một giấc mơ viển vông và xa vời. Đời sống sung túc, an vui, không cần quân sự và cũng không cần chính phủ. Bước ra đường ai ai cũng vui vẻ, trong công việc ai ai cũng hết mình, trách nhiệm xã hội ai ai cũng nhiệt tình làm một cách tử tế. Thế giới này quả thực hoàn hảo, nơi mà tôi tin rằng bắt cứ ai xấu xa đến đâu lạc vào đây rồi cũng sẽ trở thành người tốt. Bởi vì chẳng ai có đủ dũng cảm để làm người xấu trong một cộng đồng của các bậc thánh.

Chuyên ngành tôi đang theo đuổi là Lịch sử Thơ ca. Thật nực cười khi thấy con người thời xưa quằn quại đau đớn và giận dữ. Qủa đúng như những gì lịch sử đã kết luận: “giống người mông muội” và thế giới tôi đang sống đây là một tiến bộ vượt bậc của nhân loại. Nhưng điều tôi thắc mắc là, kể từ ngày thiên đường này được thiết lập, không còn thơ ca nữa, và con người ít chia sẻ với nhau bằng ngôn ngữ hơn. Đó chính là một câu hỏi “Tại Sao?” to đùng vẫn ám ảnh tôi. Chỉ có những nụ cười cởi mở lướt qua nhau rồi ai lại về với không gian tĩnh lặng của chính mình.

Hôm nay nắng rất đẹp, tôi không muốn đọc sách trong thư viện như mọi ngày mà ra ghế đá công viên để tận hưởng sự trong lành. Công viên nhở nhơ mỗi người một việc. Tôi ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, những đám mây trắng cứ thế trôi qua, tôi bỗng thấy mình giống đám mây trắng kia, lặng lẽ đến, lặng lẽ trôi qua. Còn có thể có sự đột phá gì ở thiên đường nữa, thế giới không còn cần các vĩ nhân cứu giúp.

Bỗng nhiên, “bịch” một tiếng. Người đàn ông ngồi đọc sách dưới gốc cây liễu rủ lòa xòa đứng bật dậy, xòe lửa và thả xuống quyển sách. Tôi thảng thốt to tiếng, chủ yếu là do giật mình:

– Sao anh lại đốt sách, anh có biết như thế là phạm luật không?

Anh chàng cười khẩy. Hai quả bi sắt trên không trung bắt đầu lao đến, xoay một vòng xung quanh anh cùng với tiếng nói mặc định:

– Anh đã vi phạm điều khoản về gìn giữ của cải công cộng, anh phải bị trừng phạt!

Tôi quên không kể lý do tại sao nền chính trị hiện nay giữ mãi được tình trạng vô chính phủ trong yên bình. Đọc trong lịch sử, người ta đã từng bài xích vô chính phủ một cách thậm tệ bởi cho rằng đó là nguy cơ của bạo động. Nguyên là từ khi người ta phát hiện ra rằng mọi thông tin con người tiếp nhận không được lưu trữ trong bộ não mà nó nằm ở trong vũ trụ. Và các nhà khoa học cùng với các chính trị gia đã bắt tay với nhau, thiết lập ra một cơ chế theo dõi thông tin trong tâm trí con người. Hệ thống vệ tinh giống những hòn bi sắt nhỏ bay lượn trong không trung để theo dõi và phân loại các tần số sóng ý nghĩ tích cực và tiêu cực. Với các sóng tiêu cực, vệ tinh sẽ xác định và phân tích rồi phóng chiếu hình ảnh hay chuỗi độc thoại về máy trung tâm. Máy trung tâm sẽ xử lý, phán xét theo các khung hình phạt đã được cài mặc định theo các tầng bậc của tội lỗi. Nhưng điều thú vị là, ngay khi hệ thống máy được hoàn thiện, thì chính những chính trị gia là những người bị tiêu diệt đầu tiên, dễ hiểu thôi, trong đầu họ tràn ngập các ý nghĩ độc ác. Các nhà khoa học cũng bị bắt và tống vào ngục tối bởi hết lần này đến lần khác họ mong muốn tắt hệ thống máy đi, và như thế là vi phạm điều luật Phá hủy cơ chế hòa bình.

Anh chàng kia đã phạm tội phá hoại của công, anh ta chỉ bị nhận lời cảnh báo và chắc là tài khoản của anh ta sẽ bị trừ một số tiền không nhỏ. Đợi hai quả bi sắt bay đi, tôi mới tới gần.

– Tại sao anh lại đốt sách như thế?

Anh chàng ngồi phịch xuống ghế, cũng nhìn lên bầu trời giống như tôi vừa nhìn trước đó, nói bâng quơ:

– Đó là một cuốn sách đau khổ, nó không nên tồn tại,nó làm chúng ta không còn tin vào thế giới tốt đẹp ta đang sống này nữa. Cô biết đấy, chúng ta không nên có những suy nghĩ tiêu cực. Tôi không muốn ai đó sau tôi đọc cuốn sách này nữa…

Tôi im lặng đứng nhìn anh. Bây giờ mới được nhìn kĩ, nhưng mọi đường nét trên khuôn mặt anh đều thoảng qua chả đọng lại gì trong tôi, trừ đôi mắt. Đôi mắt có gì đó bỡn cợt, có gì đó linh động,nhưng hơn cả thế, ánh lân tinh trong mắt anh giống ngọn lửa bập bùng đang thiêu đốt quyển sách kia. Anh ta đưa mắt nhìn quyển sách trên tay tôi.

– Cô thích đọc thơ à…

– Đó là chuyên ngành của tôi… và cũng có thể là tôi thích nó thật…

Anh chàng bật cười:

– Tại sao lại là “có thể” mà không phải là chắc chắn?

Tôi ngồi xuống cạnh anh, vuốt nhẹ lên những dòng chữ in:

– Đôi khi tôi không biết tôi có thích thơ ca không nữa, tôi cảm thấy không hiểu nó, dường như nó thuộc về những kẻ mông muội không biết đến sự bình an, không biết đến thiên đường. Nhưng nó vẫn có một sự mê hoặc kỳ lạ mà tôi không biết nó đến từ đâu.

– Phải, cô nói đúng, à không lịch sử nói đúng, đau khổ là một sự mông muội… – Anh chàng đột nhiên bật cười rồi cười nắc nẻ, cười điên dại, tôi cứ trố hết cả mắt ra nhìn anh. – Không có gì, cười là tốt mà, cười là hạnh phúc, cô cười đi chứ sao để tôi cười một mình…

Ngơ ngác một hồi, tôi cũng cười, tôi không muốn làm anh chàng đó nghĩ rằng tôi là một bà cô già khó tính. Nhưng có vẻ như giữa cười và hạnh phúc không liên quan mấy đến nhau. Tôi càng cười to hơn, điên cuồng hơn thì tôi càng cảm thấy một cái gì đó đang trỗi dậy trong lòng, một cái gì đó không thể hiểu được mà lại rất khó chịu.

Anh chàng đột ngột dừng cười, thở hắt một cái rồi nói:

– Thôi đừng cười nữa, tôi muốn cô đọc cho tôi bài thơ mà cô đang đọc dở.

Ánh mắt anh nhìn tôi như khẩn khoản nhưng lời nói lại lạnh nhạt. Tôi đưa mắt nhìn lên trời tìm những quả bi sắt, Có vẻ như anh quả thực không có ý nghĩ gì tội lỗi. Gấp sách lại, tôi nhắm mắt vào và bắt đầu đọc:

 “Chúng ta gặp nhau bên dòng suối ngọt

Làm đôi người cô độc thuở sơ khai

Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài

Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc…”(2)

Bài thơ rất đẹp, một bài thơ ca ngợi sự man dã của loài người. Và tôi cũng không hiểu tại sao mình lại thấy sự man dã ấy đẹp nữa.

– Đủ rồi! – Anh chàng thốt lên – Nếu cô đọc nữa có thể chúng ta sẽ phạm luật đấy..

Cái thứ trỗi dậy không xác định đang ngo ngoe bên trong tôi một cách khó chịu kia, đang vươn lên cao dần và không có dấu hiệu sẽ dừng ở đó.

– Tôi đã có vợ rồi!

Anh chàng đứng bật dậy, bỏ lại tôi ngồi đó trong chơ vơ mà vẫn không hiểu chuyện gì xảy ra.

Đợi bóng anh đi khuất, tôi mới bình tâm lại được, cái thứ ngo ngoe kia cũng tạm dừng quấy rối tôi.

Tôi đứng dậy đi vào rừng với hi vọng rằng sự thâm u của khu rừng sẽ giúp tôi trấn áp được nỗi khó chịu đang chờ trực để thức dậy. Tôi thả bước đi trong rừng như một kẻ không có não, vô định giữa màn sương vàng nhạt nắng giăng trên cành cây. Màn sương dẫn tôi đến một con suối. Lạ thật, trước giờ trong khu rừng này làm gì có suối, có thể là tôi đã đi lạc chăng. Thôi kệ, lạc thì cũng lạc rồi, ngồi xuống mép suối và ngâm chân dưới nước có thể là một liệu pháp tốt.

Cởi giày và thả chân trần xuống suối, để mặc cho nước xô đẩy bàn chân tôi va đập vào vách đá lành lạnh mùi rêu.

– Cô chỉ dám dấn sâu đến vậy thôi sao!

Tôi giật mình, giọng của anh ta, anh ta đi đến ngồi xuống vách đá cạnh tôi. Cơn khó chịu bùng nổ, nó chiếm lĩnh tôi hoàn toàn như lửa đốt. Tôi cởi bỏ nhanh chóng toàn bộ thứ quần áo loằng ngoằng trên người. Thực ra, nói chính xác, chúng đã bị ngọn lửa ham muốn bên trong tôi thiêu đốt. Tôi cũng chẳng muốn nghe anh ta nói thêm bất cứ lời nào nữa, ngọn lửa ấy thiêu đốt nốt áo quần của anh ta rồi.

Anh đặt tay lên má tôi, tôi cảm nhận thấy rõ lửa bên trong tôi cũng đang lấn sang anh và có lẽ hai ngọn lửa chuẩn bị hòa làm một. Chúng tôi quấn lấy nhau trên tảng đá, rêu bám vào lưng chúng tôi, nước chảy qua ống chân của chúng tôi, và nhìn lên bầu trời, mọi thứ đều cháy rực rỡ.

Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao tôi lại yêu thích cảm giác man dại trong bài thơ tôi vừa đọc đến thế. Cảm giác man dại của hai kẻ hoàn toàn cô độc trên thế giới này và tình cờ tìm được nhau. Một khi hai ngọn lửa đã hòa làm một thì cả vũ trụ cũng được kết cấu bởi lửa, sinh ra từ lửa và chết đi trong lửa.

“Tít, tít, tít”… tiếng báo động kéo dài. Tôi vùng tỉnh dậy khỏi giấc ngủ. Đám bi sắt bao vây lấy tôi phải đến cả chục. Giọng nói mặc định rè rè khó chịu:

– Cô vi phạm điều luật về ngoại tình trong giấc mơ. Trong mơ, cô đã dụ dỗ một người đàn ông có gia đình!

Thật chẳng hơi đâu cãi nhau với những cái máy! Chúng đã được cài đặt để giữ vững cơ chế phán xử. Bây giờ thì tôi đã hiểu, mọi chuyện trong khu rừng chỉ là một giấc mơ. Nhưng hơn cả thế, tôi hiểu ra rằng cả thiên đường nơi tôi đang sống đây cũng là một giấc mơ lớn và giấc mơ này đã giết chết mọi thực tại đẹp đẽ của con người. Thiên đường này được xây dựng bởi những điều tốt đẹp đến từ những con người tốt đẹp, bởi thế nó sẽ thải loại mọi tư duy, cảm xúc tiêu cực, mọi giấc mơ cá nhân không phục vụ cho việc gìn giữ thiên đường của nhân loại. Nếu ngày xưa tôi từng tự hào vì thế giới hoàn hảo này bao nhiêu thì giờ đây, hơn ai hết, tôi muốn hủy diệt nó, tôi muốn những ngọn lửa trong giấc mơ của tôi thiêu trụi nó thành tro bụi.

– Cô lại tiếp tục phạm tội lớn hơn khi có ý định hủy diệt thiên đường, cô đã mắc tội phản bội. Cô và người tình của cô cần bị xét xử công khai.

Chúng đưa tôi đến giữa quảng trường, nơi đó tôi thấy anh cũng đang đứng đó. Xung quanh là rất nhiều gương mặt bình thản như không có gì xảy ra. Trong đó có vợ anh ta. Tại sao tôi biết, vì vợ anh ta đang đứng ngay cạnh như một luật sư.

– Tôi là vợ anh ấy, tôi cam đoan rằng trong đời sống hàng ngày anh ấy rất tốt, chăm lo cho tôi hết sức và luôn đối xử tử tế với mọi người. Lần này anh ta không chủ động mơ, anh ấy bị dụ dỗ.

Qủa nhiên bằng chứng cho thấy điều ấy thật, tôi là kẻ cởi áo đầu tiên, tôi là chủ mưu còn anh là nạn nhân. Tôi nhìn khắp lượt các khuôn mặt lần nữa, họ đích thực là những tử thi trên thiên đường. Hình ảnh giấc mơ của anh ta và tôi được chiếu trên màn hình, say đắm, cuồng dại… thế mà họ vẫn không một chút động tâm! Chỉ có thể là bậc thánh! Ồ, tôi quên mất đây là thiên đường mà, tôi bật cười khúc khích khiến anh cũng cười theo.

– Kìa anh, sao anh lại cười trước phiên xét xử… – Vợ anh ta lo lắng nhắc nhở.

– Em này, anh không phải nạn nhân, anh hoàn toàn chủ động. Giấc mơ cô ấy vừa gặp cũng chính là giấc mơ anh vừa gặp…

Người vợ khựng người lại, rồi mau chóng lấy lại tư thế bình thản, cô ta lùi dần vào đám đông xa lạ và vô cảm.

Cái máy lại tiếp tục lải nhải:

– Tội phạm vi phạm các điều luật sau: ngoại tình trong giấc mơ và âm mưu hủy diệt cơ chế hành pháp bằng hệ thống kiểm soát tâm trí. Với mức độ vi phạm trên, tội phạm sẽ bị giam giữ trong ngục mãi mãi. Nạn nhân của hành vi phạm tội này sẽ được tha bổng!

 “Xoẹt”! Anh xé toang chiếc áo đang mặc, vừa đi vừa tụt quần, miệng lầm bầm:

– Kệ mẹ lũ máy móc chúng mày, kệ mẹ pháp luật, kệ mẹ đạo đức, tôi yêu em và tôi không muốn cuộc đời mình để lũ máy móc này quyết định!

Anh lột phăng nốt quần áo của tôi, vồ lấy tôi và làm tình ngay trước mặt đám người tốt. Thật nực cười, họ còn chẳng dám có một suy nghĩ tức giận hay kì thị, họ sợ những chiếc máy sẽ phán xét họ vào tội bài xích cá nhân. Mà đã một lần phạm tội thì sẽ liên tiếp nhiều lần phạm tội khác lớn hơn. Những chiếc máy lượn vo ve yêu cầu chúng tôi buông nhau ra, nhưng tôi thấy anh không hề có ý định muốn buông, cứ như thể anh muốn được làm tình đến chết với tôi. Anh dồn hết cả tinh lực và sinh khí vào tôi, không phải lửa thiêu nữa mà là cơn giông bão gào thét! Bấy lâu nay anh như bầu trời những ngày nhiều mây, hôm nay, ngay lúc này đây, anh muốn trút toàn bộ nước mưa vào trong tôi.

Anh kẹp chặt lấy chân tôi, những giọt nước mắt ứa ra nhỏ xuống ngực tôi:

– Anh không muốn sống cuộc đời này thêm nữa… Ngay từ lúc nhìn thấy em ở công viên, anh đã biết em là định mệnh của anh và từ giờ anh đã có thể chết…

– Không! Anh không cần phải làm thế … – Tôi thảng thốt rồi nghẹn lời

Anh mỉm cười buồn bã, khác hẳn với vẻ mặt thường xuyên giễu cợt trước đó của anh.

– Chỉ còn lần xuất tinh này nữa thôi… là anh kiệt sức… và anh sẽ chết… với anh… như thế đã đủ rồi!

Bầu trời tối sầm lại, mây đen sầm sì kéo đến, nhưng trời không mưa, chỉ bức bối. Anh ngã vật xuống, máu lênh láng phun ra khắp bụng tôi. Cuộc làm tình triền miên, mãnh liệt, vận hết toàn bộ tinh lực của anh đã khiến anh bật máu. Hơi thở của anh chỉ còn thoi thóp, nhưng anh vẫn mỉm cười. Lần này thì tôi nhận thấy niềm hạnh phúc trong nụ cười của anh thật sự.

– Hãy nói hộ anh… rằng… muốn tự do… đừng dùng ý nghĩ… Hãy như cách… anh vừa… yêu em…

Nói rồi, anh nấc lên một tiếng và trút hơi thở cuối cùng. Trên trời, mây vẫn cứ thế mà không thể mưa. Tôi đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên trán anh. Vậy là anh đã được giải thoát khỏi thiên đường. Nghĩ đến đó lại thấy mỉa mai. Ngẩng mặt lên, nhìn khắp lượt những gương mặt vô cảm. Có lẽ là anh đã thương hại họ bằng thừa rồi. Liệu những kẻ vô cảm trong đức tính tốt đẹp kia có hiểu điều anh muốn nói. Tôi nhìn lên bầu trời, tự nhủ: “Nếu mưa bão thì tức là trong số những người kia có kẻ hiểu điều anh muốn nói, còn nếu không, đám mây đen này sẽ bay đi chỗ khác”.

Vùng đứng dậy tôi hét to:

– Muốn tự do, đừng dùng ý nghĩ… Muốn tự do, đừng dùng ý nghĩ…

Tôi giữ lại điều cuối cùng anh nói về tình yêu của chúng tôi. Hãy coi như đó là bí mật nho nhỏ mà tôi muốn giữ cho minh, bởi nói tình yêu ở lúc này có thể đã là một trò xa xỉ rồi.

Mưa rào rào đổ xuống, vệt máu trên người tôi và từ anh loang dần ra. Trong cơn bão, vệ tinh không bắt được sóng não của con người. Tôi nhìn anh rồi khẽ nói, tôi chắc dù cơ thể anh không nghe được nhưng toàn bộ nội tâm của bên trong anh ở đâu đó trong vũ trụ vẫn biết được tôi đang như thế nào:

– Trời mưa rồi, khoảnh khắc ngắn thôi, nhưng họ lại được một lần trải qua tự do, mà anh biết rồi đấy, đã một lần được tự do thì cả đời sẽ hướng về tự do.

Tôi bị giam ở dưới một căn ngục hình trụ, ngẩng mặt lên thấy cao chót vót. So với thiên đường, ở đây tôi lại thấy dễ chịu hơn. Trật tự hoàn hảo đến mấy cũng không thể dễ chịu bằng ngồi trong bóng tối và trò chuyện với hư vô. Tôi không còn động lực để tồn tại thêm bất cứ ngày nào ở thiên đường nữa.

Ở trong căn ngục này có rất nhiều bộ xương người, chắc là những kẻ bị phạm tội danh âm mưu lật đổ giống tôi. Ở đây thì tôi tha hồ âm mưu, tha hồ suy nghĩ, tha hồ tưởng tượng. Thơ ca trong tôi bắt đầu nảy sinh. Tôi lấy một mẩu xương người làm bút viết; vách tường vòng tròn không có điểm bắt đầu, không có điểm kết thúc làm giấy viết. Và mỗi khi cầm bút lên tôi lại nhớ đến anh, mà không, không cần nhớ, anh lúc nào chẳng ở cạnh tôi. Thế giới ngoài kia sung túc, no ấm và hạnh phúc, để dành cho những người tốt; còn tôi, tôi chấp nhận ở dưới địa ngục này, viết những vần thơ lên tường, để thế hệ sau nhận ra rằng tôi yêu anh hơn cả bản thân mình và tôi sẽ ở mãi mãi trong ngục này để hàng ngày tôi có thể tự biến mình thành một phần của vũ trụ, để mà kết nối vào kho dữ liệu vô biên của nó. Và trong những lần kết nối ấy, tôi sẽ tìm được anh trong vô cùng vô tận.

(22/5/2014)

 

Chú thích:

1. Nghiên cứu não bộ là một toàn ảnh của Karl Pibram đã chỉ ra rằng thông tin không hề được lưu trong bộ não.

2. Trích bài thơ “Người con gái thiên nhiên” – Đinh Hùng

Tác giả gửi Văn Việt.

Hội thảo văn học mạng: Con đường từ mạng đến sách giấy

Thụy Phương

 Thuy Phuong              

Sự bùng nổ của internet đã mở ra một cơ hội không tiền khoáng hậu cho những người viết trẻ ở Việt Nam. Họ có thể thoải mái viết, tự đăng tác phẩm của mình, cũng như tự mình tìm kiếm độc giả. Không cần một nhà xuất bản, không cần hệ thống phát hành, hay truyền thông truyền thống mà chính tác giả sẽ đảm nhận tất cả những vai trò này. Với một sự tự do như thế, văn học mạng sản sinh ra một lớp người viết trẻ, và những độc giả trẻ. Thoạt đầu họ có thể chỉ là người đọc, họ đọc và chia sẻ, rồi họ tự viết điều họ nghĩ, và trở thành người viết. Những tác giả mạng có cộng đồng độc giả riêng.

Xuất phát từ những nhu cầu thực tế, tuần qua, tại nhà sách Đông Tây, Công ty truyền thông Quảng Văn, một công ty truyền thông tư nhân, hoạt động trong lĩnh vực in ấn và kinh doanh sách, đã đứng ra tổ chức một hội thảo có tựa đề “Văn học mạng với sự xuất hiện của làn sóng sáng tác trẻ”. Cùng với Hội thảo, họ đã công bố và quảng bá cho một cuộc thi sáng tác văn học mang tên: “Giải thưởng Văn học Đoàn Thị Điểm”.

Nếu như, trong nhiều năm qua, sự xuất hiện của những công ty sách điện tử non trẻ, và những nỗ lực điện tử hóa những tác phẩm sách giấy của các nhà văn đã thành danh, thì những tác giả hình thành từ các trang mạng, lại có xu hướng tìm đường đến với các nhà xuất bản truyền thống để hòa vào dòng sách giấy và các độc giả sách giấy.

Nhưng ai là người đón nhận, ủng hộ cho họ?

Đi tiên phong của trào lưu này chính là các nhà sách tư nhân mà các biên tập viên của họ đa phần đều rất trẻ. Nhiều người trong số họ cũng là những người đã đi ra từ dòng văn học mạng. Họ cực kỳ nhạy cảm về lợi thế của sự lan tỏa thông tin trong cộng đồng đối với dòng tác phẩm mạng.

Phạm Ngọc Mẫn, một tác giả dòng văn học này cho biết, chỉ đến năm 2007, cô mới biết đến internet, và chính thức tham gia cuộc chơi bằng những truyện ngắn, những tiểu phẩm đầy hương vị học trò trên các trang mạng, đến nay, Ngọc Mẫn đã có một gia tài ba cuốn tiểu thuyết, và một cộng đồng fan đông đảo của riêng mình.

Tuy nhiên, Phạm Ngọc Mẫn, cũng như Hân Như, một tác giả khác, họ cùng có mặt trong hội thảo với tư cách là khách mời, thú nhận rằng, bên cạnh những lợi thế lan tỏa nhanh của mạng, thì chất lượng tác phẩm của dòng văn học chưa không được coi trọng. Một mặt, họ là những người viết bản năng, tuổi nghề non trẻ, độc giả của họ hầu hết đều ở độ tuổi teen, thích những câu chuyện tình lãng mạn, đẹp đẽ, ướt át. Khi các công ty sách tìm đến họ, cũng là lúc họ phải đối mặt với sự biên tập khắt khe hơn rất nhiều. Nhưng lợi thế mà họ được thừa hưởng từ sự lan tỏa, được biết đến trên mạng, giúp những cuốn sách của họ có số lượng in từ 5, 6 thậm chí 8 ngàn bản. Một con số đáng mơ ước trong tình hình in ấn sách hiện nay.

Nhà văn trẻ Phạm Phương, một biên tập viên mảng Văn học Việt của Quảng Văn cho biết, chị phải chữa từng câu văn, phải cắt bỏ hàng trăm trang viết trước khi một tác phẩm được in thành sách. Chị cũng cho rằng, số lượng một cuốn sách của dòng văn học này in ra có thể lớn hơn rất nhiều so với một cuốn sách nghiêm túc khác, nhưng nếu các tác giả của chúng thỏa mãn với những thành công của mình, thì chắc chắn họ rất khó đi xa nếu muốn trở thành một nhà văn có tác phẩm có giá trị để đời. Mức độ mong muốn của chị, cũng như Quảng Văn, là xây dựng được một dòng văn học giải trí có chất lượng cao từ nguồn chất liệu này. Giải thưởng Văn học Đoàn Thị Điểm được hy vọng như là cánh cửa rộng mở với tất cả các tác giả trẻ.

Sự sàng lọc ngay chính trên các trang mạng cũng là điều đáng chú ý. Theo một khảo sát, hiện có hàng trăm các trang mạng trong đó có đăng tải phần sáng tác. Người viết có độ tuổi từ 10 đến 17, có tác giả viết được một hai bài, có tác giả theo đuổi lâu hơn, khi họ rời sân chơi, lại có người khác tiếp tục. Trang mạng này chết, lại xuất hiện trang mạng khác. Trang nào ít, có dăm bảy người viết; trang đông, số người tham gia lên tới hàng trăm. Người nào trong số họ, vì niềm đam mê lớn, không bỏ cuộc giữa chừng, mới có cơ trở thành một tác giả.

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, MC trong hội thảo này, cho rằng làn sóng sáng tác trẻ hiện nay là những tín hiệu rất đáng mừng cho nền văn học nước nhà. Đó là một dòng văn học, mà nhờ tự viết, tự công bố, không qua kiểm duyệt, nên rất tươi mới, rất phóng khoáng. Nhưng ông cũng cho rằng, nó cũng giống như một “phòng chờ”, ở đó sẽ có những người đi tiếp cuộc chơi, và những người khác sẽ rời bỏ nếu không đủ tài năng và đam mê để đi tiếp.

Công ty truyền thông Quảng Văn, một công ty non trẻ nhưng đã nghĩ tới việc làm bà đỡ cho văn học Việt thông qua Giải thưởng Văn học Đoàn Thị Điểm là một cách làm rất đáng khuyến khích, một cầu nối cần thiết giữa dòng văn học mạng và văn học giấy. Cũng có thể hình dung như nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, họ chính là con tàu chở những người viết trẻ từ phòng chờ văn học, để đi tiếp vào con đường sáng tạo văn chương

Tác giả gửi Văn Việt.

THẢO LUẬN VỀ DỊCH THUẬT (3): Dịch ở khắp nơi

Đinh Bá Anh

Các nhà văn, dịch giả kính mến,

Văn Việt vào cuối tháng 4, có in một bài viết của Nguyễn Lê Trung, bàn về công việc dịch thuật, đặc biệt là dịch thơ, nhân Trịnh Lữ công bố bản dịch một chùm thơ của Emily Dickinson. Tuy nhiên, với bài viết của Nguyễn Lê Trung, Văn Việt nhận thấy vấn đề không những chưa khép lại mà dường như mới được mở ra. Đó là:

    1. Dịch văn học nói chung, và dịch thơ nói riêng, điều cốt tử là gì?
    2. Dịch hoàn toàn đúng nghĩa, nhưng không thơ, bạn có chấp nhận điều này không?
    3. Dịch kiểu phóng tác, đi xa ý, nhưng có chất thơ, thì sao?
    4. Nhiều người cho rằng dịch là diệt; khi nào dịch không là diệt?
    5. Câu chuyện dịch để quảng bá văn học Việt ra thế giới hiện đang đến đâu? Điều gì tạo ra thành công, nếu có, và điều gì đem lại thất bại?
    6. Bạn nghĩ sao về quan niệm dịch giả là đồng tác giả?
    7. Bạn suy nghĩ gì vai trò của văn học dịch và thực trạng dịch văn học hiện nay?
    8. Vì sao có rất nhiều dịch giả có tiếng hiện đã và đang gây những scandal trong dịch thuật? Có nguyên nhân cụ thể nào không?
    9. Bạn có thể miêu tả công việc dịch một tác phẩm nào đó của bạn đã đem đến cho bạn nhiều kinh nghiệm nhất? 

Văn Việt

 

Khi tôi còn bé, tôi sống ở một ngôi làng chỉ có vài trăm nhân khẩu. Xung quanh là những ngôi làng khác, cũng nhỏ bé như thế. Đối với đám trẻ nhỏ chúng tôi thì ngôi làng chính là quốc gia, lãnh thổ. Chúng tôi biết rõ những lối đi, những con mương, những thửa ruộng làng mình kết thúc ở đâu. Đâu là biên giới, chỉ cần đi quá một bước sẽ sang phía bên kia, lãnh thổ của làng khác.

Những biên giới đó không được đánh dấu bằng cột mốc, không có lính canh, nhưng chúng tôi biết chúng rất rõ. Chúng tôi cảm nhận được sự khác biệt giữa cách bài trí trong những ngôi nhà của làng này với làng kia, giữa cách người ta làm hàng rào, bón phân cho lúa hay chăn thả trâu bò. Những khác biệt đó chỉ rất nhỏ thôi, thậm chí là vô cùng nhỏ, nhưng chỉ cần đặt gót chân qua biên giới là chúng tôi nhận ra ngay. Mà đôi khi cũng chẳng cần nhìn xuống chân, chỉ cần giơ tay ra không khí, hay ngửi mùi gió là chúng tôi biết mình đang ở địa phận làng mình hay đã sang làng khác.

Chúng tôi đều nhạy cảm với ngôn ngữ. Chỉ cần nghe tiếng nói là chúng tôi biết ai đến từ đâu, không sai bao giờ. Người làng Âu nói như chim, thường kéo dài mỗi cuối câu. Người làng Hạ nói đỏ thành đoải. Còn người làng Sỏi nói ăn, anh hay em nghe đều thành eng cả. Mỗi làng lại có những thành ngữ riêng. Có những câu nói không bao giờ ra khỏi phạm vi làng đó, chỉ dân làng đó mới hiểu, đi ra ngoài là mất nghĩa. Ví dụ người làng Sỏi có câu nói thế này: Eng như cả lảy xuồng cát. Những người làng Sỏi thường nói câu đó và cười với nhau, còn chúng tôi không hiểu gì cả. Được giải thích, cả lảy xuồng cát là sóng đánh vào mạn thuyền chở cát, chúng tôi hiểu là ăn tham, nhưng lại không thấy có gì đáng cười. Hóa ra cái đáng cười ở đây nằm trong từ eng. Nó vừa có nghĩa là em (anh), vừa có nghĩa là ăn. Khi một chàng trai hoặc một cô gái nói câu đó với người đối thoại khác phái bằng một giọng trào lộng thì nó có nghĩa phê phán cô kia (hoặc anh kia) là người vô ý vô tứ (tham ăn tục uống).

Mặc dù sự khác biệt về ngôn ngữ giữa các làng chỉ là vô cùng nhỏ, nhưng chúng tôi vẫn thường xuyên phải dịch. Thực ra, nói “phải” thì cũng không đúng. Dịch diễn ra rất tự nhiên: nó là một phần của giao tiếp giữa người làng này với người làng khác và là chủ đề ưa thích trong những cuộc gặp gỡ, chuyện trò. Khi bạn giải thích từ “eng” của làng Sỏi nghĩa là “ăn” thì bạn đã làm một thao tác dịch, không khác gì khi bạn dịch từ “you” trong tiếng Anh ra từ “bạn” trong tiếng Việt. Nhưng, ngay ở đây bạn đã sớm nhận ra vấn đề: từ “eng” không chỉ có nghĩa là “ăn”, nó còn có nghĩa là “em” hay “anh”. Còn từ “you” trong tiếng Anh thì sao? Nó hoàn toàn có thể là “ông”, “bà”, “cô”, “bác”, “anh”, “chị”, “em”, “mày”. Bạn sẽ sớm nhận ra rằng, với mỗi lựa chọn, bạn đều đánh mất một cái gì đó của nguyên bản, và bạn sẽ có nhu cầu diễn giải. Nhưng dù diễn giải thế nào thì vẫn không đủ. Người làng Sỏi đã và sẽ còn phải dịch và diễn giải câu nói Eng như cả lảy xuồng cát của họ cho những người dân làng khác hàng trăm lần, hàng nghìn lần nữa. Đó là một quá trình dài bất tận, bởi sẽ không bao giờ có một người ngoài nào cảm nhận được hoàn toàn câu nói đó, trừ những người đã từng lớn lên ở làng Sỏi.

Dịch là mất, đó là điều bạn nhận ra. Nhưng mặt khác, dịch là giao tiếp, và do đó, là cần thiết. Giao tiếp hiện diện khắp nơi, nên dịch cũng hiện diện khắp nơi. Nhìn ở cấp độ vi tế hơn, mỗi gia đình, thậm chí mỗi cá nhân, đều có trường ngôn ngữ riêng. Mỗi khi giao tiếp với người khác, mỗi cá nhân ít nhiều đều có ý thức điều chỉnh ngôn ngữ của mình cho phù hợp với đối tượng giao tiếp. Đó cũng là dịch.

Cũng giống như tất cả các lĩnh vực hoạt động khác của con người, đến nay vẫn chưa có một lý thuyết thống nhất về dịch thuật (mà có lẽ sẽ không bao giờ có một lý thuyết như thế). Các quan điểm khác nhau về dịch thuật là một hiện thực khách quan; chúng cũng đa dạng, thú vị và mâu thuẫn, như chính cuộc sống vậy. Các quan điểm Tín – Đạt – Nhã; Chỉ Cần Một Chữ Tín, Mệnh Đề Tương Đương; Dịch Là Bắc Cầu; Dịch Giả Là Dấu Phẩy Của Tác Giả; Dịch Là Sáng Tạo; Dịch Giả Là Đồng Tác Giả; Dịch Sai Còn Hơn Dịch Dở; Dịch Là Truyền Bá Văn Hóa; Dịch Để Khai Minh Cho Dân Tộc; Dịch Để Tiêu Khiển v.v. đều có những điểm độc đáo, khả thủ và đều có các đại diện lớn trong giới dịch thuật.

Tôi thích quan sát các nhà dịch thuật. Một dịch giả thường không bao giờ chỉ là một anh chuyển ngữ đơn thuần. Anh ta luôn nhiều hơn thế. Hoặc anh ta là một học giả, một người có kiến thức sâu rộng trong lĩnh vực của mình; hoặc anh ta làm việc trong các lĩnh vực thường xuyên phải cọ xát với ngôn ngữ: dạy học, văn chương, báo chí, xuất bản… Họ là những người thường xuyên di chuyển qua lại giữa các biên giới quốc gia, lãnh thổ. Họ hiểu được những điểm tương đồng và những điểm khác biệt không thể dung hòa giữa các nền văn hóa. Họ là những chuyên gia đàm phán, những sứ giả ngoại giao văn hóa hòa bình, song họ cũng rất dễ bị sảy chân. Đôi khi họ thành công, họ sẽ được công chúng hai bên tán thưởng. Nhưng cũng không ít lần họ thất bại và phải gánh chịu sự giận giữ từ hai phía.

Tác giả gửi Văn Việt.

Thơ Nguyễn Đức Tùng

ndtVăn Việt: Sinh ở Quảng Trị, sống ở Canada. Tốt nghiệp Mc Master, nội trú Toronto, thường trú University of British Columbia. Làm việc trong ngành cấp cứu tại một bệnh viện ở British Columbia, Canada. Làm thơ, dịch, phê bình. Tác phẩm: Những câu chuyện về sức khoẻ, Hai mươi sáu nhà thơ Việt Nam đương đại (in chung), Với Du Tử Lê đời sống trở nên thơ mộng hơn, Thơ đến từ đâu, Đối thoại văn chương, Blue Reflections.

 

 

 

 

 

 

 

Thăm Trung Hoa

 

Khi mọi chuyện xảy ra

Thì anh không ở đó

Khi anh tới đó

Mọi người đã đi rồi

 

Có kẻ về nhà

Có người biến mất

Mây mang theo nước mắt

Bầu trời xanh trở lại

 

Ngồi trên xe lăn

Một lão già lẩy bẩy

Hạ bút ký tờ giấy

Nã súng vào đám đông

 

Bảo vệ thành quả cách mạng

Từ chiều chập choạng đến rạng đông

Trên các bức tường vôi trắng

Máu đã lau xong

 

Chim hoàng oanh lại hót

Khi anh tới thăm

Líu lo trong bờ liễu

Trên quảng trường mênh mông

Những cặp tình nhân đi đi lại lại

 

Vì sao tôi nhắc mãi

Về những ngày đã qua

Vì những ngày đã qua

Ngày mai sẽ lặp lại

Và khi chúng lặp lại

Anh sẽ không ở đó

Và khi anh tới đó

 

Máu đã được lau xong

Bầu trời xanh trở lại

Mây trắng lại bay qua

Chỉ còn người bán hàng rong

Rao bán trảm mã trà.

 

 

Im lặng

 

Cây đứng im

Chờ gió thổi

Đèn đứng im

Chờ xe qua

Đêm đứng im

Chờ mặt trời mọc

Ngày đứng im

Chờ tình yêu tới

 

Nhưng không phải

Chúng tôi đứng im

Chỉ vì sợ hãi

 

 

Chiến tranh

 

Chiến tranh làm việc suốt ngày

Khi ta ngủ say nó thức bên đèn

Khi ta quên nó còn nhớ lại

 

Nó thay sữa trong ly chúng ta

Thay nước trong bình, thay dầu nhớt

Trong nòng súng rỉ sét

 

Nó đặt tay lên trán chúng ta

Như mẹ xa nửa đêm về nhà

Thăm những đứa con đang ngủ

 

Đặt chúng vào nôi, từng đứa một, từng đôi

Thả trôi từng chiếc trên dòng nước

Nhìn chúng trôi vun vút ra khơi

 

Chiến tranh ngàn đời yêu mến chúng ta

Chúng ta cũng yêu mến nó: nhưng không hề biết

Cho đến khi gặp người anh em khác

Lịch sử khác, niềm tin khác, thơ ấu khác, tình yêu khác, mà chúng ta căm ghét

 

 

Nhịp đập

 

Mỗi khi đi ngủ

 

Cô đặt cái đồng hồ dưới gối

Nó kêu tic tac tic tac tic tac

Suốt đêm

 

Nhưng không phải cái đồng hồ

Đó là núm vú

 

Bị cắn đứt

Trên biển

 

 

Thi sĩ

 

Dưới thời Stalin

Những người dân Nga

Khi gặp Akhmatova ngoài đường

Đều nghiêng đầu chào

Vì những bài thơ khổ đau của bà

 

Khi Stalin chết rồi

Trên dường phố, những người

Gặp bà đều đứng lại

Vì những bài thơ

Akhmatova không viết bao giờ

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Chế Lan Viên qua những lần gặp

Lê Phú Khải

Văn Việt: 19/6/2014 là kỷ niệm 25 năm nhà thơ Chế Lan Viên qua đời. Ông là một nhân vật đầy nghịch lý của lịch sử văn học hiện đại Việt Nam, sẽ còn làm tốn nhiều bút mực. Hồi ức của nhà báo Lê Phú Khải cho ta biết thêm một số điều về ông…

 

Đầu năm 1976, tôi đang dạp xe trên đường Trần Hưng Đạo thì Chế Lan Viên gọi giật lại, ông chỉ tay vào bó hoa tôi đang cầm, hỏi: “Ông đem hoa đi tặng ai thế?” Tôi bảo: “Đem hoa đi tặng một người làm thơ hay hơn Chế Lan Viên!”. Tôi đi được mươi thước thì ông lại gọi lại. Hỏi: “Ai vậy?” Tôi trả lời: “Thanh Thảo”… Ngẫm nghĩ giây lát, ông bảo tôi: “Đúng đấy!”.

Chế Lan Viên là một người như thế. Với những người làm thơ cùng thời, ông là một thi sĩ nổi tiếng vào bậc nhất. Vậy mà khi tôi nói kiểu “trêu ngươi” như thế, ông lại khen: “Đúng đấy!”.

Số là thế này. Thanh Thảo tên thật là Công, anh làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam rồi đi B chiến đấu, và có làm thơ. Mấy năm trước hòa bình 1975, anh được ra Bắc điều dưỡng ở trại điều dưỡng Nam Sách, Hải Dương. Anh hỏi bạn bè ở giới văn nghệ Hải Dương, biết tôi dạy học ở Cẩm Giàng và là người yêu văn nghệ, “chịu chơi”, nên “trốn trại” đến chơi với tôi vài ngày. Tại đây, anh đã đọc cho tôi nghe nhiều bài thơ của anh, trong đó có bài Dấu chân trên trảng cỏ nổi tiếng sau này. Thơ Thanh Thảo được xem là táo bạo vào thời ấy. Anh tuyên bố: “Thế hệ chúng tôi bùng cháy ngọn lửa của chính mình. Không dựa dẫm những hào quang có sẵn”.

Tôi đã được đọc những vần thơ như thế trong cái xóm nhỏ nghèo nàn nơi trường tôi sơ tán tại Cẩm Giàng, trong lúc có nhà văn tên tuổi lại cho rằng mình là “hạt bụi lấp lánh ánh sáng của Đảng” (!). Người ta đã đặt câu hỏi: “Hào quang có sẵn” ám chỉ cái gì? Ai đã bắt thơ phải “dựa dẫm” trong một xã hội tự do như xã hội ta, v.v. và v.v. Thế là thành chuyện. Chính vì thế tôi mới “trêu ngươi” Chế Lan Viên. Nào ngờ… Buổi sáng hôm đó chính là lúc tôi ra ga Hàng Cỏ tiễn Thanh Thảo về ở hẳn quê nhà Qui Nhơn.

Người ta thường bình luận trái ngược nhau về thơ và con người Chế Lan Viên. Nhưng sự sắc sảo “toàn trị” của ông thì ai cũng phải thừa nhận.

Tôi gặp nhà thơ lần đầu tiên vào năm 1966 tại Yên Mỹ Hưng Yên, nơi khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội sơ tán bom đạn  Mỹ. Năm đó là năm thứ ba, năm cuối cùng trước khi chúng tôi ra trường. Khoa Văn tổ chức buổi giao lưu, mời nhà thơ Chế Lan Viên đến gặp gỡ sinh viên… Cuộc giao lưu có tổ chức biểu diễn văn nghệ của sinh viên mừng khách mời. Thấy Chế Lan Viên không mặn mà với các tiết mục văn nghệ, thầy Chủ nhiệm Khoa Lê Trí Viễn xuống ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Lê Phú Khải lên đọc bài thơ lúc ban chiều đi!”. Thế là tôi hồi hộp bước lên sân khấu. Tôi đọc bài thơ mới làm ban chiều để tặng khách mời của Khoa mà thầy Viễn đã coi… Thật không ngờ… Tôi vừa dứt lời thì Chế Lan Viên đã bật dậy, lên sân khấu ôm lấy tôi và cầm lấy bài thơ đó… đút túi áo ngực của mình. Cả khoa vỗ tay, và đương nhiên là thầy Chủ nhiệm rất hài lòng. Bài thơ “con cóc” của tôi là cách chơi chữ, ghép tên các tác phẩm thơ của Chế Lan Viên thành vần điệu. Bài thơ khá dài ấy tôi còn giữ đến bây giờ. Đại để có những câu như câu kết này:

Cho gửi lời thăm đến người anh thương nhớ đầy vơi…

Đã cùng anh “gánh vác”

Cả trời “sao chiến thắng” đến hồn tôi…

Gánh vác” là tên một tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Vũ Thị Thường, vợ vủa nhà thơ, lúc đó đang đi thực tế ở vùng biển Thái Bình, còn “Sao chiến thắng” là tên một bài thơ nổi tiếng của Chế Lan Viên. Tôi biết nhà thơ rất nhớ vợ, vì ông đã viết bài “Cái rét đầu mùa” mà tôi đã được đọc. Một bài thơ tình bốn câu rất độc đáo và sáng tạo. Có lẽ vì tôi đã chạm vào “chỗ da non nhất của lòng người”, nói theo chính ngôn từ của Chế, nên ông cảm động.

Từ đó, Chế và tôi đã trao đổi thư từ (chứ không phải e-mail như bây giờ) cho nhau. Khi tôi thường trú ở Mỹ Tho, Chế Lan Vien đã vô ở hẳn Sài Gòn và rất hay xuống Tiền Giang, có lẽ vì ông là đại biểu quốc hội của tỉnh này. Một buổi tối – ở tỉnh lẻ người ta đi ngủ rất sớm nên đường vắng – tôi và Chế đi ven lòng đường một con phố không còn ai đi lại, dưới ánh đèn lấp loáng gió sông Tiền… Tôi bảo ông: “Thơ chống Mỹ của ông thì xuất sắc rồi, nhưng sau này người ta sẽ quên đi, vì thời điểm lịch sử sẽ đi qua… Nhưng ông có những bài thơ tình còn sống mãi, trong đó có một bài mang vóc dáng thiên tài mà chính ông cũng không biết”. Chế hỏi tôi: “Bài nào?” Tôi nói: “Thì tôi đã bảo chính ông cũng không biết, chỉ có người đọc biết thôi”. Chế càng sốt ruột giục tôi: “Nói đi”. Tôi đọc một hơi bài “Rét đầu mùa”:

Cái rét đầu mùa anh rét xa em

Đêm dài lạnh chăn chia thành hai nửa

Nửa đắp cho em ở miền sóng bể

Nửa đắp cho mình ở phía không em”

Rồi tôi bình: “anh rét xa em” và “ở phía không em”, đó là những sáng tạo xuất thần, chỉ có tình yêu mới tạo nên được những lời như thế. “Rét xa em” là rét thế nào? “Phía không em” là phía nào, không ai định nghĩa, giải thích nổi, nó trừu tượng và mông lung hư ảo quá. Cái không định nghĩa được chính là thơ. Thơ là học thuyết về… bầu trời, ông Chế ạ!”.

CLV

Thủ bút Chế lan Viên

Chế chăm chú nghe tôi “tán” và ông tỏ ra hài lòng. Bỗng chai rượu đậu nành Chế đang xách rơi xuống ven lòng đường và vỡ làm nhiều mảnh. Số là, chiều hôm đó, có cuộc họp báo, tỉnh tặng mỗi đại biểu một cặp rượu đậu nành do Tiền Giang sản xuất. Hai chai rượu buộc vào nhau để xách. Tôi và Chế, mỗi người xách một cặp rượu. Có lẽ cặp rượu của Chế buộc không chặt nên mới rơi ra một chai. Tôi cúi xuống nhặt hai mảnh vỡ lớn đem để vào gốc cây bên đường. Chế vẫn ngồi nhặt tiếp các mảnh vỡ bé hơn. Nhặt mãi, nhặt mãi. Tôi sốt ruột kéo ông đi, Chế không chịu, ông bảo: “Những mảnh nhỏ này sắc lắm, phải nhặt cho hết kẻo người ta giẫm phải thì khốn…”. Tôi đứng dưới ánh đèn khuya nhìn một nhà thơ lớn ngồi chăm chú nhặt nhạnh từng mảnh thủy tinh bé nhỏ mà thấy nhân cách lớn lao của ông. Từ đó trở đi, nếu có ai phê phán gì ông, mà đã có rất nhiều người phê phán ông, tôi không tin nữa.

 

Cứ mỗi lần gặp Chế, tôi lại được nghe ông nói những suy nghĩ của mình về Thơ. Đó là những lý lẽ sâu sắc. Mặt này không thấy các nhà phê bình văn học nói tới. Có lẽ vì thế mà thơ Chế giàu chất trí tuệ, triết lý. Ông suy nghĩ để làm thơ, nếu có cảm hứng thì cũng là cảm hứng của suy nghĩ. Ông bảo tôi: “Thơ càng “pẹc” (personnel) càng hay. Càng “tôi” bao nhiêu càng hay, càng chủ quan bao nhiêu càng hay, càng vô lý bao nhiêu càng hay!”. Rồi ông phân tích: “Còn gì chủ quan hơn khi nhà thơ viết “chắc nàng cũng có nỗi buồn giống tôi”? Còn gì vô lý hơn chỉ vì cái giậu mùng tơi mà ngăn cách được hai con người… Nêu viết báo như cậu mà lại nói “chắc ông chủ tịch đã tham ô” thì chết người ta. Nếu viết báo mà vin vào cái giậu mùng tơi thì lý do không chính đáng. Vạy mà những câu thơ vừa chủ quan, vừa thiếu khách quan của Nguyễn Bính lại được thiên hạ phổ nhạc để ca hát năm này qua tháng khác… Vì nó rất “pẹc”!”.

Có lần ông lại bảo tôi: “Nếu theo lô-gích của nhà toán học thì Hồ Xuân Hương là một con mụ dở hơi khi viết: “Một đèo, một đèo, lại một đèo/ Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo…”. Nói ngay ra là ba đèo có hơn không?” Ông kể, có cô giáo dậy văn hỏi: có từ nào là thơ và từ nào không thể đem vào thơ? Ông đã trả lời: “Mọi từ đều bình đẳng, không có từ nào thơ và từ nào không thơ. Đến từ “cứt” là xấu chứ gì? Vậy mà nó vẫn được đem vào thơ, và còn hay là khác. Ông dẫn chứng ca dao:

Thân em như đóa hoa hồng

Vớ phải anh chồng như bãi cứt trâu

Và ông đã dẫn ngay thơ Chế Lan Viên đã đưa “cứt” vào thơ:

Không gì cứu được loài bán nước

Không cứt nào cứu được bọ hung!

Đi thực tế nông thôn với Chế Lan Viên, tôi thấy ông vui vẻ tiếp nhận cả tờ bướm của trạm bảo vệ thực vật huyện phát cho nông dân… rồi cẩn thận cất vô túi xách. Tôi nghĩ là ông xã giao để vui lòng người cho mình. Đến khi về nhà khách, tôi thấy ông lấy các tờ rơi, báo cáo của trạm y tế xã, của hội chữ thập đỏ huyện ra… vuốt ngay ngắn rồi xếp cẩn thận vào túi xách trước lúc ra về. Tôi ngồi hút thuốc nhìn ông sắp xếp đồ đạc, thấy thế ông nói: “Người ta có tài năng, mình không có tài năng thì lo thu góp tài liệu vậy!”

Chế Lan Viên từng là một nhà báo. Ông làm báo Cứu Quốc trong kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 4 từ 1947 đến 1954. Có lẽ không ai nói về nghề báo như khi ông nhớ lại: “Ôi… còn gì mà ta không động tới, hỡi chúng ta, những người làm báo hàng ngày, hàng ngày hay hàng đêm cũng được, đêm nào dưới ánh đèn lù mù hay le lói, ta không trõ mắt ra mà viết bài hay đọc bản tin… Cho tôi tỏ lòng biết ơn cái nghề bạc bẽo mà chúng tôi rất trung thành, cái nghề hèn mọn mà lại cao cả đó. Xưa làm thơ, tôi bứt hương trên ngọn cây, giờ làm báo, tôi phải nếm cả rễ cây dưới đất” (Tựa cuốn Người và đất của Phan Quang, NXB Thuận Hóa 1988). Chỉ vài dòng thế thôi, nhưng toàn là những điều cốt tử của nghề báo. Cái nghề phải “nếm cả rễ cây dưới đất”. Để làm gì? Nếu không phải để lần đến tận gốc sự kiện và vấn đề đang nảy sinh và phát triển giữa vô vàn biến động của đời sống. Bây giờ, những lúc ngồi buồn, tôi giở lại đôi ba lá thư nhà thơ viết cho tôi đã bạc nét với thời gian, mà qua bao lần di chuyển, tôi vẫn cố mang theo… và cứ mỗi lần đọc lại, tôi càng thấy Chế Lan Viên là một bậc thầy của các nhà báo, xét từ góc độ trí tuệ – văn hóa, cái gốc của mọi nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật làm báo. Nhận xét về một bài ký của tôi trên báo Văn Nghệ (1985), ông viết: “… Thà làm việc kể chuyện, thông tin mà có văn chương, còn hơn là làm văn chương mà đánh mất hết hiện thực. Tôi rất ghét các loại lưới đẹp mà không cho ta ăn một con cá nào. Đầy xuồng = nghĩa là lượng thông tin lớn…”

Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn, ông còn là một nhà báo tài năng. Thời gian làm báo liên tục của ông đến 8 năm (1947-1954). Tiếc rằng những bài báo của ông đến nay chưa có ai sưu tầm đầy đủ. Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của nhà báo Phan Quang, người có nhiều năm gần gũi và làm báo Cứu Quốc với Chế Lan Viên: “Anh sưu tầm tài liệu, chuẩn bị rất kỹ trước khi bắt đầu một bài viết, một buổi thuyết trình, một chuyến đi công tác. Đó là gì nếu không phải là phong cách báo chí” (Phan Quang, Tuyển tập, tập 2, tr.37 – NXB Văn Học 1999).

Trước 1975, có lần tôi từ Đài Tiếng nói Việt Nam 58 Quán Sứ đi bộ sang trụ sở Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật ở 51 Trần Hưng Đạo, gõ cửa phòng ông. Thấy Chế Lan Viên mặc quần áo giải phóng quân miền Nam, đầu đội mũ tai bèo đang ngồi làm việc. Trên bàn có một mảnh giấy quay ra phía ngoài, đề “Không tiếp khách quá 10 phút”. Thấy thế tôi chỉ ngồi đúng 10 phút rồi xem đồng hồ đứng dậy. Chế nói: “Đề thế thôi, để đề phòng có kẻ ngồi dai… Cứ ngồi chơi nói chuyện tiếp đi…”. Tôi đem câu chuyện Chế mặc đồ giải phóng quân trong phòng làm việc kể với bạn bè. Có người nói: “Chế làm thế để tạo thi hứng làm thơ về… miền Nam, về quân giải phóng”.

Tôi đọc thơ Thanh Thảo, có mấy câu:

Đêm nay có người lội sình

Có người ngồi ở thủ đô viết những dòng thơ thông minh

Có người dắt tay nhau vào tiệc cưới…

Rồi Thanh Thảo kết luận, đại ý: Đất nước là như thế, thế mới là đất nước!

Vậy mà Chế lại đồng ý với tôi rằng Thảo thơ hay hơn thơ Chế!

Có lẽ vì thế mà cuối đời ông đã viết Di cảo nhận trách nhiệm về mình khi đã cổ vũ cho những người đi vào cái chết trong Tết Mậu Thân (1968). 

 

Tác giả gửi Văn Việt.

 

Giải toả ngộ nhận về ba “danh nhân văn hoá thế giới”

Phùng Hoài Ngọc

 

Từ trước đến nay, có lẽ bắt đầu từ 1965, thông tin nhà nước (qua báo chí, đi vào sách vở và thực tiễn) đều lần lượt nói ba vị Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh được tổ chức UNESCO tôn vinh là “Danh nhân văn hóa thế giới”.

Dân chúng nói theo đài báo. Nhà trường nói theo Bộ, còn đưa vào sách. Thầy nói, trò tin. Ai cũng tin hết.

Rồi một thời gian sau lại có ý kiến nói “sự việc không phải như vậy”. Thông tin nhiễu loạn, chẳng còn biết thế nào nữa ! Vậy thì phải vào cuộc tìm văn bản gốc của UNESCO, nói có sách mách có chứng.

Sự thật thế nào?

Không có danh hiệu “danh nhân văn hóa thế giới” do UNESCO tôn vinh, mà chỉ có danh sách những buổi lễ kỷ niệm ngày sinh hoặc ngày mất của các danh nhân do chính các nước thành viên UNESCO đề nghị lên, nội dung thuyết minh công tích được ghi nguyên văn theo nước đề nghị. Đó là một trong những hoạt động thường xuyên của UNESCO với mục đích thúc đẩy hiểu biết giữa các dân tộc. Điều này không giống như việc công nhận Di sản văn hóa thế giới, có bằng chứng nhận của UNESCO, công nhận xong là có ý nghĩa lâu dài và được đầu tư bảo tồn, phát huy.

Việc tổ chức lễ kỷ niệm như vậy đã được UNESCO thực hiện từ năm 1954, và từ năm 1962, UNESCO lên kế hoạch kỷ niệm từng 2 năm một. Việc chọn kỷ niệm ai hoặc sự kiện lịch sử gì là do các nước thành viên của UNESCO đề nghị, UNESCO xét hồ sơ hợp lệ thì chấp thuận.

Xem tài liệu gốc của UNESCO sau đây để hiểu rõ hơn về qui cách, tiêu chuẩn về việc vinh danh: http://unesdoc.unesco.org/images/0012/001277/127747EB.pdf.

Hồi đó chẳng mấy ai biết văn bản gốc của UNESCO ở đâu. Do đó người dân không nghi ngờ các ông nhà nước đã dịch bừa, lại cố ý nói mập mờ về một cái “danh hiệu” không tồn tại.

Chính xác “danh hiệu” ấy theo tiếng Anh là “great personalities”, tức “nhân vật nổi tiếng, kiệt xuất”. Nhân vật do các nước đề nghị lên, UNESCO chỉ việc đưa vào danh sách hàng năm, rồi gửi cho các nước thành viên LHQ để biết. UNESCO không cấp cái “danh hiệu” nào cả, họ chỉ làm đầu mối trung gian, chuyển hồ sơ nhân vật đó cho các nước thành viên khác để giao lưu, tìm hiểu và khuyến khích tổ chức kỷ niệm (theo ngày tháng năm sinh hoặc năm mất vào các năm chẵn bội số 50 hoặc 100, nếu là danh nhân thì chỉ tổ chức sau khi họ đã qua đời). Riêng với nước giới thiệu danh nhân, UNESCO có tài trợ một phần để tổ chức lễ. Bên cạnh đó, cơ quan UNESCO cũng tổ chức kỷ niệm riêng tại trụ sở của họ.

Báo chí tuyên truyền Việt Nam thường nói “Danh nhân văn hóa thế giới” (?!). Đó là một sự khoa trương cường điệu hư danh. Thực chất các nhân vật ấy chỉ là danh nhân văn hóa tầm cỡ quốc gia thôi.

Lẽ thường ai cũng biết, “danh nhân thế giới” phải là người có công lao đóng góp chung, tạo ảnh hưởng tốt đến toàn nhân loại. Giả sử UNESCO đặt ra danh hiệu ấy để tôn vinh thì ắt hẳn phải đạt tiêu chuẩn như trên. Ví dụ, nếu muốn, chúng ta sẽ tôn vinh ông Máy chữ, bà Máy in, ông Điện thoại di động, ông Internet, v.v. là các Danh nhân văn hóa thế giới mà ai cũng tâm phục khẩu phục, bởi ai cũng thấy rõ ảnh hưởng tốt đến toàn thế giới. Và nếu như vậy thì hầu hết các nhà bác học, đặc biệt về khoa học kỹ thuật, y học đóng góp chung cho cả loài người đều được phong “Danh nhân văn hóa thế giới” mới phải lẽ.

Nếu là “danh nhân văn hóa thế giới” thì bản gốc tiếng Anh ắt phải có tính từ như “Global” hoặc “World” đứng trước danh xưng mỗi nhân vật hoặc chung danh sách, chỉ ra tầm mức đẳng cấp quốc tế, khác với từ chỉ phạm vi quốc gia: “national”.

Qua trao đổi với blogger Anh Vũ, chị đã cất công tìm ra tài liệu gốc gửi cho chúng tôi tham khảo. Đó là tài liệu gốc chụp nguyên vẹn bản tiếng Anh dạng pdf của tổ chức UNESCO.

1/ VỀ NGUYỄN DU

 Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công nhận là nhân vật văn hóa và ra quyết định kỷ niệm nhân dịp 200 năm năm sinh của ông (Wikipedia)

Thông tin mới nhất về việc thi hào Nguyễn Du được UNESCO tổ chức kỷ niệm đăng trên trang Di sản thế giới của Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch:

Link ở đây: http://disanthegioi.info/ArticleDetail.aspx?articleid=60953&sitepageid=277. đăng ngày 10 Tháng Mười Một 2013 , cho thấy sự ngộ nhận cố ý của Bộ văn hóa:

Xin đọc phần trích trang web của Bộ văn hóa sau đây:

Cùng với một số nhân vật khác trên thế giới, đại thi hào Nguyễn Du của Việt Nam chính thức được vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới trong kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 37 của Tổ chức Unesco đang diễn ra tại thủ đô Paris, Pháp.

 Quyết định trên được Đại hội đồng đưa ra sau khi đã đối chiếu với các quy định chặt chẽ về việc vinh danh và biểu quyết Nghị quyết 191/EX32 của Hội đồng chấp hành về việc kêu gọi các quốc gia cùng vinh danh trong 2 năm 2014-2015 một số nhân vật có tầm ảnh hưởng đặc biệt trong khu vực cũng như trên thế giới. Một trong số đó là đại thi hào Nguyễn Du của Việt Nam.

 Nhiều năm qua, qua tác phẩm truyện Kiều, thế giới đã phần nào biết thêm về lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Cũng vì lý do đó, mới có sự nhầm lẫn về việc Nguyễn Du đã được vinh danh Danh nhân văn hóa từ lâu. Thực tế năm 1965, Unesco có tổ chức một lễ kỷ niệm long trọng để tưởng nhớ tới đại thi hào Nguyễn Du và một số nhân vật của các quốc gia khác nhưng đấy chỉ đơn thuần là một hình thức tưởng nhớ những nhân vật có đóng góp và ảnh hưởng với thế giới. Phải chờ tới kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 37 này, đại thi hào Nguyễn Du mới thực sự được vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới. Trước đó, Việt Nam đã có Nguyễn Trãi được vinh danh là Danh nhân văn hóa và Chủ tịch Hồ Chí Minh được vinh danh Anh hùng giải phóng dân tộc.

Còn tài liệu gốc của UNESCO về Nguyễn Du như sau, xem trang web của Unesco:

http://unesdoc.unesco.org/images/0022/002261/226162e.pdf , gồm:

– Các văn bản lưu liên quan đến các cuộc họp của Đại hội đồng năm 2013.

Ở các trang 59-62, mục 68 về việc tổ chức các lễ kỷ niệm trong 2 năm 2014-2015 có nêu danh sách 108 sự kiện sẽ được tổ chức kỷ niệm, trong đó tên Nguyễn Du được nêu cuối cùng (vì danh sách xếp theo thứ tự tên nước).

(…) (số thứ tự 108): 250th anniversary of the birth of Nguyễn Du, poet (1765-1820),Vietnam.

dịch: Kỷ niệm lần thứ 250 năm sinh Nguyễn Du, nhà thơ (1765-1820), Việt Nam.

Ba cái sai lầm của Bộ Văn hóa TT&DL trong đoạn văn trên trang web di sản thế giới:

Sai lầm 1: “…năm 1965, Unesco có tổ chức một lễ kỷ niệm long trọng để tưởng nhớ tới đại thi hào Nguyễn Du”, thực ra là “Hội đồng hòa bình thế giới quyết định kỷ niệm Nguyễn Du năm 1965”, chứ không phải UNESCO.

 Năm 1965, chúng ta từng được nghe thông tin: “Hội đồng hòa bình thế giới” (một tổ chức phản đế do Liên Xô chủ yếu lãnh đạo) vinh danh và kỷ niệm thi hào Nguyễn Du. (Vài chục năm nay không còn nghe thấy tăm hơi “Hội đồng hoà bình thế giới” hoạt động gì nữa, có lẽ tổ chức này cũng đã nghỉ hưu theo Liên Xô cũ). Lễ kỷ niệm đó được tổ thức ở Hà Nội năm 1965 không dính dáng tới tổ chức UNESCO. Giai đoạn ấy Việt Nam ta chưa “chơi” với UNESCO vì coi họ là tổ chức thuộc “phe đế quốc tư bản”.

Sai lầm 2: Nói “danh hiệu” là không đúng.

Không có “danh hiệu”! Chỉ có Danh sách các nhân vật và sự kiện cùng kỷ niệm trong một năm nào đó.

Sai lầm 3: Không có “danh nhân văn hóa thế giới”. Chỉ có danh nhân của mỗi quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, tự gửi đến cho UNESCO tập hợp lại, lên danh sách chung, gửi thông báo đến các quốc gia thành viên.

(Báo Nhân Dân điện tử đã nhận ra sai lầm hệ thống, cố tránh cái danh hiệu ảo tưởng “danh nhân văn hóa thế giới”qua bản tin sau: “Tại kỳ họp thứ 37 Đại hội đồng UNESCO ở Pa-ri (Pháp) ngày 25-10-2013, Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du (1765 -1820) nhà văn hóa, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng của Việt Nam đã được chọn là nhân vật văn hóa do thế giới vinh danh, nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh Đại thi hào vào năm 2015”.

2/ VỀ NGUYỄN TRÃI

Trích Danh sách năm 1979-1980, văn bản gốc, dòng về Nguyễn Trãi, như sau:

Trích nguyên văn

Paris 30/10/ 1978

UNESCO

ANNIVERSARIES OF GREAT PERSONALITIES AND IMPORTANT HISTORICAL EVENTS

 “Nguyen Trai – Vietnamese poet and scholar – 600 th Anniversary of Birth – Proposed by German Democratic Republic” (ghi nhầm nước giới thiệu là CHDC Đức) .

Dịch:

Danh sách đề nghị năm 1978:

Paris 30/10/1978

UNESCO

Những lễ kỷ niệm các nhân vật nổi tiếng và sự kiện lịch sử quan trọng.

Nguyễn Trãi Nhà thơ, học giả Việt Nam, kỷ niệm 600 năm sinh được đề nghị bởi Cộng hòa Dân chủ Đức). Văn bản năm 1978 UNESCO ghi nhầm là Nguyễn Trãi thuộc nước Cộng hòa Dân chủ Đức – điều này cho thấy việc tôn vinh này cũng được làm qua loa đại khái, chẳng quan trọng gì lắm). Văn bản sau đây sửa lại sai sót trên.

Danh sách chính thức năm 1979:

Paris 5/6/ 1979

UNESCO

ANNIVERSARIES OF GREAT PERSONALITIES AND IMPORTANT HISTORICAL EVENTS

 Những lễ kỷ niệm các nhân vật nổi tiếng và sự kiện lịch sử quan trọng.

Nguyen Trai- Poet, creator of Vietnamese classical literature and national hero of Vietnam. Vietnam.

(Nguyễn Trãi, nhà thơ, người sáng lập văn học cổ điển Việt Nam, anh hùng dân tộc Việt Nam. Việt Nam).

 

3/ VỀ HỔ CHÍ MINH

Việc tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh Hồ Chí Minh đã được UNESCO chấp thuận vào năm 1987, được ghi vào nghị quyết. Tuy nhiên, vì những lý do nào đó (chẳng hạn nhiều người Việt ở nước ngoài phản đối tới UNESCO), việc tổ chức lễ kỷ niệm này sau đó đã không được UNESCO đưa vào hoạt động chính thức.Việc này thể hiện trong văn bản của UNESCO năm 1989.

 * Nguyên văn Nghị quyết năm 1987 của UNESCO có ghi danh Hồ Chí Minh:

Records of the General Conference

Twenty-fourth Session Paris, 20 October to 20 November 1987

(United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization: UNESCO)

nguồn: http://unesdoc.unesco.org/images/0007/000769/076995e.pdf

Trang 135.

Centenary of the birth of President Ho Chi Minh

The General Conference,

Considering that the international celebration of the anniversaries of eminent intellectual and cultural personalities contributes to the realization of Unesco’s objectives and to international understanding,

Recalling 18 C/Resolution 4.351 concerning the commemoration of the anniversaries of great personalities and events which have left an imprint on the development of humanity,

Noting that the year 1990 will mark the centenary of the birth of President Ho Chi Minh, Vietnamese hero of national liberation and great man of culture.

Considering that President Ho Chi Minh, an outstanding symbol of national affirmation, devoted his whole life to the national liberation of the Vietnamese people, contributing to the common struggle of peoples for peace, national independence, democracy and social progress,

 Considering that the important and many-sided contribution of Chi Minh in the fields of culture, education and the lizes the cultural tradition of the Vietnamese stretches back several thousand years, and that his President Ho arts crystal–people which ideals embody the aspirations of peoples in the affirmation of their cultural identity and the promotion of mutual understanding.

 Trong đoạn văn trên, ghi rằng “Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam”(President Ho Chi Minh, Vietnamese hero of national liberation and great man of culture).

 Xin lưu ý rằng toàn bộ lời văn nói về phẩm chất, công lao của nhân vật đều do quốc gia đề cử tự viết tự chịu trách nhiệm, UNESCO chỉ ghi lại nguyên văn.

* Khi tổ chức thực hiện nghị quyết Unesco, danh sách không có tên của Hồ Chí Minh nữa

(Danh mục các hoạt động kỷ niệm ngày sinh/ngày mất của các danh nhân và các sự kiện lịch sử trong 2 năm 1990-1991 do UNESCO xuất bản năm 1989)

Đường dẫn ở đây: http://unesdoc.unesco.org/images/0008/000844/084401EB.pdf.

Trang 3, ở đầu trang là những ngày lễ kỷ niệm tổ chức vào tháng 5/1990. Chỉ có một người và hai sự kiện, không có Hồ Chí Minh.

Kết luận

Xét cho cùng, việc tổ chức kỷ niệm danh nhân của các nước trên thế giới vốn là một hoạt động bình thường của UNESCO. Trước đây có lẽ họ cũng không coi trọng việc ấy lắm nên mới có những nhầm lẫn lung tung (như vụ Nguyễn Trãi văn bản 1978 ghi là thuộc Cộng hòa Dân chủ Đức, văn bản 1979 sửa lại là ở Việt Nam) hoặc bất nhất, thay đổi (như vụ danh nhân Hồ Chí Minh đã đưa vô Nghị quyết lại không thực hiện?). Riêng Nguyễn Du thì năm 2013 mới là lần đầu được UNESCO đề cập, nhưng báo chí Việt Nam lại nhầm lẫn với “Hội đồng hòa bình thế giới” kỷ niệm năm 1965.

Do hạn chế của thời đại thiếu phương tiện thông tin, các nhà nước cộng sản giữ độc quyền thông tin theo “định hướng”, lại phù hợp với thói háo danh, hư danh và tuyên truyền trục lợi chính trị, Nhà nước đã gây nhiễu, ngộ nhận và nghi ngờ cho dân chúng và xã hội. Hi vọng thời đại “thế giới phẳng” với hệ thống internet hoành tráng sẽ không cho phép họ làm ăn như thế nữa. Điều kiện tiên quyết phải là trung thực. Lỡ nói sai thì cần phải đính chính sòng phẳng công bằng.

 

Nguồn: Blog Giang Nam lãng tử

Thời tiết đô thị

 

Thời tiết đô thị là tên một cuốn sách do Alpha Books xuất bản. Hiện đã nối bản thêm một lần (có sửa bìa một chút). Được coi là bán chạy (so với các sách phi văn học hoặc tản văn khác).

Sách ra đời do Megabooks (Phan An) lựa chọn từ các entry của Blog 5xu, biên tập và phân loại. Alpha Books đầu tư in thành sách và phát hành. Lời giới thiệu sách cũng do Phan An nhờ Giáo Sư Châu và Tiến sĩ Quốc Anh viết. Ở thời điểm đó tác giả (5xu – Phương Cẩm Sa) mới chỉ quen Quốc Anh. Nhờ GS Châu mà cuốn sách bán chạy (do anh được giải Fields chỉ một tháng sau khi sách được phát hành).

Sách có thể đặt mua ở đây. Còn bản ebook mua ở đây.

Lời giới thiệu của Đỗ Quốc Anh

Tôi nhận viết lời giới thiệu cho tập sách “Thời tiết đô thị” của tác giả Phương Cẩm Sa mà tự nhủ sẽ vô cùng khó có thể giới thiệu tóm gọn những câu chuyện rất ngắn trong cuốn sách này, khi mà bạn đọc còn chưa lật ra xem. Thay cho công việc tóm gọn ấy, tôi xin ghi lại những ấn tượng rất cá nhân của mình về tác giả, mà nhiều bạn bè và người thân vẫn gọi là anh Văn.

Tôi được biết anh Văn từ nhiều năm, biết qua một vài người bạn, qua những câu chuyện xuyên qua ly cà phê, và qua những gì anh viết. Anh viết tản mạn, thực sự tản mạn theo những gì xảy ra xung quanh không gian sống và không gian xã hội của mình, lơ đãng trên dòng chảy thời gian lúc lượn lờ lỏng lẻo lúc gấp khúc cứng ngắc. Văn của anh là sự cô đọng những câu chuyện có thể kể đi kể lại hàng giờ, là sự cởi mở những khoảng trống suy nghĩ riêng tư thảng hoặc mới tìm được người đồng điệu, là bức tranh của góc nhìn, là giải phẫu con mắt, là bản in cố định của những dòng ngôn ngữ và lập luận không ngừng của anh.

Góc nhìn càng rộng thì tầm nhìn càng bao quát. Con mắt càng tinh tường thì sự thông hiểu càng chi tiết và sắc xảo. Ngôn ngữ càng uyển chuyển, lập luận càng linh hoạt, thì câu chuyện kể ra càng dễ đi vào những bước rẽ đột ngột không lường trước được, con đường khám phá của người đọc càng độc đáo và lạ lẫm. Đọc những bài viết của anh Văn, điểm đến, kết luận của mỗi bài chỉ là phần thứ yếu, mà điểm chính yếu là trải nghiệm của người đọc trên mạch dẫn của từng câu chuyện.

Anh viết tự do, nhưng văn của anh không kén người đọc; có chăng, văn kén cách hiểu, cách nhìn thông suốt qua mọi câu chuyện. Anh viết, hẳn là chỉ để cho riêng mình, nhưng không vì thế mà văn của anh cô độc. Đọc những gì anh viết, cũng giống như được ngồi đàm luận tản mạn với anh, cũng có cảm giác được học hỏi và được trao đổi, cũng có thể mải mê quên bữa cơm chiều. Những gì anh viết thường làm tôi nhớ rất kỹ lời nhà văn Argentina Jorge Luis Borges về tập truyện “Cuốn sách cát” của mình:

“Tôi viết không phải để cho một nhóm “Tinh hoa” nhỏ mà tôi không màng quan tâm, cũng không phải cho cái thực thể được thần tượng trong tiềm thức mà người ta gọi tên là “Đại chúng”. Tôi không tin vào cả hai khái niệm trừu tượng này, vốn dĩ nhà mỵ dân vẫn lấy làm thân thuộc.

Tôi viết là để cho tôi, cho bạn bè tôi, và để làm dịu dòng chảy thời gian.” – Jorge Luis Borges, “Cuốn sách cát”

Tôi có may mắn được đọc hầu hết những bài viết nhỏ trong tập sách này từ bản thảo đầu tiên, lúc tác giả mới đặt lên blog, khi trong đầu tác giả có lẽ không mảy may nghĩ đến chuyện một ngày những bài viết này sẽ được in ra thành sách. Đọc những bài viết mới ra lò còn nóng hổi giống như được ngồi hàn huyên chia sẻ cùng tác giả, bất kể có cách xa hàng ngàn cây số. Đến nay, những bài viết đã ít nhiều được “ủ” qua thời gian, được tuyển lựa kỹ hơn, mất bớt chất đắng chát mang tính thời sự chỉ có được vào thời điểm viết bài, mà lấy thêm nhiều vị sâu sắc từ việc nối kết liền mạch cảm xúc và lập luận của tác giả xuyên suốt cả cuốn sách.

Có người so sánh tản văn với rượu vang. Rượu vang cũng muôn mầu muôn vẻ, cũng tùy theo người thưởng thức mới biết hay dở, mùi và vị cũng tùy vào từng mùa, từng năm tháng, từng địa phương, tùy vào thành phần nho và cũng tùy vào người lựa chọn các loại nho để kết hợp nên hương vị chính. Rượu vang có loại nên uống ngay lúc mới làm xong, cũng có những loại càng để lâu càng thấm đậm mùi hương độc đáo và vị chát ngọt đọng sâu trong cuống lưỡi. Tôi xin trân trọng giới thiệu với các bạn cuốn sách “Thời tiết đô thị”, như giới thiệu một loại rượu lâu năm đặc biệt nồng đượm mà cá nhân mình rất tâm đắc.

Tết Canh Dần, 2010

Đỗ Quốc Anh

***

Lời giới thiệu của Ngô Bảo Châu

Có đôi lần tôi bị day dứt bởi câu hỏi này. Cuộc sống hiện đại ngày càng giống một dòng sông cuồn cuộn chảy. Chất liệu cho văn học là cái hỉ nộ ái ố của con người cứ ê hề ra như thế, tại sao văn học Việt Nam đương đại lại trung bình đến như vậy. Năm này qua năm khác, các nhà văn lão thành vẫn tiếp tục khai thác chủ đề người lính cao thượng cứ như thể báo Văn nghệ quân đội sẽ đóng vai trò chuẩn mực vĩnh viễn. Bao nhà văn trẻ hơn vẫn say sưa từ thử nghiệm này đến thử nghiệm khác mà không vượt khỏi mức độ hiện đại nghiệp dư. Ngay đến một con người xuất chúng như Nguyễn Huy Thiệp khi dũng cảm viết về chủ đề thành thị hiện đại cũng trở nên lơ ngơ như anh nhà quê ra tỉnh.

“Quả thật là cuộc sống không ngừng thay đổi. Sợ nhất là đời thay đổi mà mình cứ im im. Sợ nhất nhất là đời thay đổi một đằng, mình thay đổi đằng khác. “

Vậy ta hãy lắng nghe những con người trưởng thành trong cái dòng sông cuồn cuộn kia. Ở đó, hệ qui chiếu luân lý đã khác với các giá trị cổ điển. Ánh sáng đèn mầu, chuyến ra đi mê mải và cuộc chia tay tịnh không một giọt nước mắt không còn là những yếu tố phù du mà đã trở thành bộ phận cấu thành của tâm hồn.

Nhiều người cứ nghĩ văn viết trên blog hoàn toàn mang tính ngẫu hứng. Entry trước, entry sau không liên quan gì đến nhau. Người viết blog hay như 5xu chắc không hoàn toàn bị chi phối bởi cảm hứng ngẫu nhiên. Một quan sát mới, một liên tưởng lạ, có lẽ đã quanh quẩn trong đầu người viết từ lâu, chỉ chờ một yếu tố khách quan, để có thể tinh thể lại thành những con chữ. Văn viết trên blog được giải phóng khỏi tính tuần tự của văn chương cổ điển.

Trên blog của 5xu, cuộc sống hiện đại được những con chữ thể hiện mồn một. Giống một bộ sưu tầm tranh thủy mạc hơn một bộ phim tài liệu. Người viết ra những dòng này rất có thể còn bị chi phối bởi những giá trị cổ điển cho nên vẫn muốn đi tìm một bộ phim rõ nét về cuộc sống. Nếu ngộ ra cái tính bất định của cuộc sống, hắn đã cảm thấy hạnh phúc với những tấm tranh thủy mạc vẽ bởi một họa sĩ có tài.

Cái tự do vô cùng của văn viết trên blog đôi khi cũng là cái hạn chế của nó. Không có cấu trúc, mỗi entry tồn tại như một cá thể riêng biệt. Đọc lại một lượt Thời tiết đô thị, tôi chợt nhận thấy hóa ra là không phải như vậy. Mò theo sợi dây vô hình kết nối chúng lại, ta tình cờ được chiêm ngưỡng nhân sinh quan của tác giả : một nhân sinh quan thú vị và đáng ngạc nhiên hơn cả cái slogan “ lúc điên lúc loạn, lúc tối tăm, lúc sáng lòa …”.

Cái sợi dây vô hình kia là giọng văn trong trẻo của 5xu. Đọc nhiều đoạn văn mà thấy sung sướng như được ăn một bát cơm ngon. Gạo mới nấu khéo. Rất may là nhà sách Megabooks đã có sáng kiến mang bát cơm tinh thần này đến đông đảo bạn đọc.

Ngô Bảo Châu

***

Thời tiết đô thị và thời của sách-blog
Thu Hà – Báo Tuổi Trẻ

TT – Ðô thị có thời tiết riêng của mình không, nếu không kể đến mưa nắng của trời trên những con phố chật, đến bốn mùa xuân hạ thu đông lần lượt quay vòng qua các khung cửa kính ngột ngạt?

Có đấy, nếu đọc hết những entry trong blog của 5xu (tên blogger) mà anh đã trịnh trọng cho in thành một tập sách đẹp qua cái tên rất thời thượng: Thời tiết đô thị (*) với bút danh Phương Cẩm Sa.

Cũng không phải ngẫu nhiên mà tập tạp bút này có tới hai lời tựa: một của GS toán học Ngô Bảo Châu, một của tiến sĩ toán học Ðỗ Quốc Anh. Nó mang một hàm ngôn nữa đằng sau lời giới thiệu: đây là cuộc dạo chơi của những trí thức trẻ, làm khoa học tự nhiên, vào một khu vườn vốn không được coi là lãnh địa của họ: chữ nghĩa và cảm xúc.

Sống, Truyện, Review (Ðiểm phim, sách và nhạc), Văn nghệ sĩ, Nghĩ khác – là những chủ đề khác nhau nhưng rất gắn kết về tư duy và ngôn ngữ trong Thời tiết đô thị.

Không bị mặc định viết sách để in, cũng không bị gò vào một chủ đề nhất định, đối tượng đọc nhất định, tính liên tưởng rộng đến mức phóng túng (và nhiều khi thậm chí lan man), giọng văn tung tẩy đủ cung bậc từ trang nghiêm điềm đạm chuyên môn, hài hước dịu dàng duyên dáng, chua ngoa đanh đá phố phường đến ngọt ngào “trên cả sến” đã khiến tập tản văn có sức hấp dẫn khó tả với cư dân đô thị, đặc biệt là trí thức văn phòng và văn nghệ sĩ cà phê trà chén vỉa hè.

Cái độc đáo nhất của 5xu là có thể bắt đầu một cách cà chớn bông lơn “nhân một ngày nắng không dám bước chân ra ngoài”, nhưng lại kết thúc bằng một vấn đề nghiêm túc: “Tham nhũng có hệ thống sẽ là gốc của vấn đề xã hội trầm trọng nhất: phân hóa xã hội” (A Quest). Hoặc từ truyện cười dân gian “đồng nào mua mắm đồng nào mua muối”, dẫn đến một khái quát về “dân tộc tính” là kém tư duy kinh tế dẫn đến bất chấp hiệu quả sử dụng đồng vốn vì để xảy ra hiện tượng đảo vốn (đồng mua muối dùng để mua mắm).

Và sau cùng, để bài viết của mình đạt được bất ngờ cao nhất, chàng triết gia trà chén vỉa hè 5xu đặt cho nó cái tên tưởng chẳng liên quan gì: “Nỗi nhớ Mỵ Châu”(!). Nghe đầy vô lý nhưng đọc thấy khá có lý.

Gần như cùng một khoảng thời gian, các “sao” blogger thời Yahoo 360O cực thịnh, sau khi đã phải ngậm ngùi đóng cửa hoặc chuyển nhà vì “chủ sàn” chơi không đẹp, nay đồng loạt mang những trang nhật ký mạng ra sửa sang, tỉa gọt và trình làng với một gương mặt mới: sách. Và sách ấy đương nhiên là các tập tản văn: Nguyễn Trương Quý, Phạm Quang Vinh, Trần Ðình Dũng, Nguyễn Thị Hậu… và nay là 5xu Phương Cẩm Sa.

Sách của họ có một lợi thế là người đã đọc và comment (bàn luận) trên blog sẽ mua để đọc lại, một lợi thế nữa là tính linh hoạt, tự do, phóng khoáng và tính tương tác mạnh của blog đã khiến các vấn đề mà họ viết trải rộng trên nhiều lĩnh vực, liên quan đến rất nhiều đối tượng khác nhau.

Nhưng đó cũng có lẽ lại là một rào cản vô hình mà không phải ai trong số các “sao” blogger có thể vượt qua: vì xuất phát điểm là viết cho mình, cho một nhóm bạn nên có nhiều entry mới ở dạng “bán thành phẩm”. Một chuỗi entry trên blog cá nhân có thể “viết cho sướng”, nhưng một tập hợp bài viết thành sách thì không chỉ như vậy.

Vì thế, cảm giác thập thững, trồi sụt khi đọc Thời tiết đô thị cũng như các tập sách – blog là phổ biến. Có lẽ, thời tiết đô thị hiện đại phải là sáng nắng – chiều mưa – trưa gió mùa như vậy chăng?

***

Nỗi buồn trong trẻo của Thời tiết đô thị
Lâm An – Báo Pháp Luật

Thời tiết đô thị (sách do Alphabooks phát hành) được thể hiện bởi một giọng văn tỉnh của một cái đầu lạnh và thâm trầm.

Nắm bắt được tâm lý người đọc, tác giả rất khéo léo trong việc thể hiện tư duy logic và cảm tính vừa phải trong những trang viết. Cuốn sách được biên tập tốt với năm phần: Sống – Truyện – Điểm phim, sách, nhạc – Văn nghệ sĩ – Nghĩ khác, bao quát khá nhiều vấn đề trong những năm gần đây. Có lẽ đây là ưu điểm của cuốn sách tổng hợp, nhất là khi nó xuất phát từ một blogger lang thang giang hồ mạng lâu năm. Người đọc khó tính đến đâu cũng sẽ tìm được một bài viết phù hợp với lĩnh vực mình quan tâm.

Tự nhận mình không có tham vọng theo đuổi nghiệp viết lách mà chỉ lên tiếng về dòng chảy của những con sông thời hiện đại, tác giả đã truyền tải được những thông điệp của mình một cách nhẹ nhàng nhưng thành công. Không ám ảnh bi lụy cũng không quá cực đoan, tác giả Phương Cẩm Sa đã đem lại một món ngon tinh thần cho độc giả.

Những thay đổi đương nhiên của con người và xã hội trong Thời tiết đô thị ta có thể chứng kiến hằng ngày ở bất cứ đâu. Nhiều đến mức người ta quên cả cảm giác nên buồn cho cái thời thế ấy, nên tiếc cho con người và cái cảm giác xưa cũ ấy. Và “khi người ta thôi trẻ”, người ta càng biết cách “hóa vàng” cảm xúc bằng chiếc áo ngôn từ khách quan. Dẫu vậy vẫn lẩn khuất đâu đó trong những trang viết là cảm giác về một niềm tin bị mất mát, sự chua xót và một nỗi buồn trong trẻo. Giống như tác giả vừa tan rã một giấc mơ dài của thế hệ những người sinh ra trong chiến tranh, từng trải qua những biến động lớn lao của đất nước thời mở cửa và hội nhập.

“Mấy giây sau tôi băng qua ngã năm. Tôi như thấy mình là người duy nhất còn tồn tại trên cõi đời này. Cái khoảng không giữa ngã năm ấy giống như một khoảng không gian hoàn toàn trống rỗng giữa vũ trụ bao la và tăm tối.

Tôi đã băng qua khoảng trống ấy trong một thứ ánh sáng trong vắt và tuyệt đối yên lặng”. (Trích Thời tiết đô thị – Phương Cẩm Sa).

***

“Thời tiết đô thị” – có mây và có mưa…
Alpha Books

So với một cuốn ghi chép những tản mạn, có vẻ như quá dài. Nhưng nếu đó là ghi chép của cả một quãng đời từ thanh niên tới trung niên, từ lúc loạng quạng bước vào đời tới lúc trưởng thành, thì cũng không phải là quá nặng.

Đúng như nhiều người nhận xét, có vẻ như tác giả là một tín đồ của H.Murakami. Gọi là ‘tín đồ’ bởi vì có cảm giác như khi đọc H.Murakami, anh ta ngỡ ngàng vì nhận ra có quá nhiều hình bóng của mình trong đó. Thế là hối hả bình luận, hối hả trích dẫn. Không chỉ người điểm sách ngụp lặn trong văn chương mà khiến cho cả những người đọc cũng bơi trong đó. Thành ra, những bài điểm sách chưa thực sự chỉ ra nhiều điều, dù có những nhận xét tinh tế về tác phẩm, dù nặng về những ảnh hưởng của nó tới người đọc hơn. Như khi nhận xét: “Đọc xong Rừng Na-uy, thấy cuốn sách nó cứ đi theo mình. Theo lâu lắm. Đọc xong Biên niên ký chim vặn dây cót, thấy mình chui tọt vào cuốn sách. Cũng khá lâu, mãi mới lóp ngóp chui ra được…”

Điều này cũng giống như khi viết về các nghệ sỹ, rất nhiều nhận xét tinh tế, nhưng lại chưa nâng lên được một tầm nào đó cao hơn, như một cái nhìn chung cho tất cả hay là chỉ ra được một nhân sinh quan nào của họ. Có lẽ vì còn dè dặt, ngại động chạm chăng? Vả lại, thế là phải, bởi chúng ta đâu cần lý luận nữa! Sách vở đã đầy ắp lý luận rồi. Hài hước nhưng cũng chính xác nhất là nhận xét về Hồng Nhung và Lam Trường, “Hồng Nhung là âm bản của Lam Trường về phát âm. Hồng Nhung, hát từ nào ra từ ấy, còn Lam Trường thì từ nào cũng như từ nào, phều phào như nhau.”

Cũng chính vì là tín đồ của H.Murakami, nên các truyện đều phảng phất như thế. Nhưng tất nhiên là không bằng được rồi. Bằng H.Murakami thì rách việc lắm, vì lúc ấy người ta sẽ lao vào mổ xẻ, tác động từ đâu mà thành như thế. Vì gia đình (con dòng cháu giống, người ta sẽ dẫn ra cụ tổ đến mấy mươi đời), vì giáo dục (người ta sẽ bảo là vì học ở trường ấy trường nọ,…) vân vân và vân vân… Thành ra chỉ quẩn quanh, anh, em và ‘sợi xích’ ấy. Đọc để giải trí mà, cũng vui. Vì toàn thấy những gái đẹp, chân dài, trẻ măng, có khi còn có nguy cơ thành tội phạm vì đang ở tuổi vị thành niên ấy! Có điều hơi băn khoăn là không hiểu sao lại thích hóa thân thành nhân vật nữ thôi. Các nữ tác giả thường muốn thành nhân vật nam, vì họ bị đối xử bất công bằng bao đời nay, việc hóa thân trong tưởng tượng khiến họ có cảm giác mạnh mẽ hơn; còn hầu hết, ở cả đời thật lẫn trong tưởng tượng, đàn ông hiếm khi muốn trở thành phụ nữ. Không hiểu có ẩn ức gì không?

Còn lại, có những phần tản mạn, suy tư về đời, về người, đọc thấy trống vắng, cô đơn vô cùng. Và những phần đặc sắc nhất chính là về đời sống ngổn ngang, được kể bởi một giọng triết lý của người dường như vô cùng từng trải, đã va đập với đủ những đắng cay ở đời, và giờ thì viết về những vết thương bằng đôi mắt của người ngoái đầu nhìn lại. Cũng giống giọng của một tay buôn chuyến đường dài, vừa ma mãnh, láu cá vừa trải đời. “Ăn chung mâm kiểu Việt Nam còn sinh ra cái tâm lý nhìn vào bát của nhau. Thằng này vào mâm là gắp miếng đùi, thế cổ cánh mày để cho ai? Thằng kia lại có tính nhường nhịn, nhường người cùng mâm gắp trước, hết nước mắm còn chạy đi lấy, quay lại nhìn bát của mình kém bát chúng nó. Một lần không sao, nhiều lần là nảy sinh xích mích.”

Nhiều người sẽ hỏi, tại sao lại là Thời tiết đô thị? Đô thị thì đương nhiên rồi, vì chủ yếu là cuộc sống ở đô thị, của đô thị, người đô thị. Còn thời tiết? À, thời tiết, là vì thời tiết thì có mây và có mưa…

***

Ném đá phi thời tiết
Lâm Vũ Thao

Chiều nay ngồi Coffee Bean ở Metropolitan thì nhận được Thời tiết đô thị của 5xu do bồ câu mang lại. Ghi nhận dạo này 5xu giao du với bồ câu hơi nhiều. Sách có ghi lời đề tặng rằng: “Tặng T., người đọc sách kỹ tính như luật sư và là luật sư yêu sách văn hơn văn bản luật.” Tuy chữ Xu xấu nhưng công nhận đề tặng thích. Gọi điện bảo Xu ra uống cà phê để được ném đá trực tiếp nhưng sợ bị mất việc nên Xu không dám ra. Thế đành ném đá thẳng lên blog vậy.

Vài nhận xét:

Bìa 1: Không thích hình bìa. Nếu tên cuốn sách là Thời tiết đô thị, thì thời tiết đô thị hẳn hơi ảm đạm. Sách Xu đâu ảm đạm như vậy. Cũng không thích chữ Phương Cẩm Sa màu tím. Xu tuy có lúc sến nhưng nhìn chung không đến nỗi tím. Không thích chữ blogger 5xu không viết hoa và nằm trong ngoặc đơn. Trông nó suồng sã quá.

Bìa 2: Đó là một đoạn văn hay của Xu, nhưng nó có hai lỗi, một lỗi về khoảng cách và một lỗi là không ghi trích trong bài nào.

Bìa 3: Tương tự bìa 2, có lỗi không ghi trích từ bài nào.

Bìa 4: Sai lỗi chính tả ngay dòng đầu tiên: “súc tích” chứ không phải “xúc tích”. Ngoài ra, nên bỏ học vị, học hàm sau tên của NBC và ĐQA.

Độ dày: 355 trang. Thích độ dày này. Dưới 200 trang thì in sách làm gì:)

Bố cục: Gồm 5 phần: Life, Stories, Review, Artists, Think Different. Thích bố cục này. Tuy nhiên, hơi dị ứng với hai chữ “Think Different”. “Think” được rồi, “different” hay không tính sau, vì ai cũng biết chắc Xu think, nhưng chưa chắc Xu đã think different.

Thích trang có hình em Giò đứng dưới chân cầu thang.

Lời đề tặng: Ấn tượng. Hình như viết lời đề tặng là nghề của Xu. “Tặng cho cả bầu trời có giông tố và có những ngày nắng đẹp” là một lời đề tặng hay hay, ngang với lời đề tặng trên một bài thơ của Tạ Thành Vinh “Tặng ngôi nhà và năm người con gái”. Hơi băn khoăn tặng “tất cả cyberworld” thì khác gì “tặng cyberworld”.

Nội dung: Có bài hay có bài dở – chuyện này bình thường. (Tham khảo nhận định về văn 5xu ở đây). Nhưng, nếu in sách, lẽ ra tác giả nên đích thân biên tập, chọn bài, sửa sang lại một tí. Blog là thứ đọc hàng ngày, còn sách là thứ đọc đi đọc lại, nên cần phải khó tính hơn trong biên tập.

Cuối cùng: Được tác giả tặng sách bao giờ cũng thích. Cảm ơn 5xu.

Nguồn: http://5xublog.org/ttdt/

Chuyện kể năm 2000 (kỳ 5) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

*

*        *

Bữa cơm tự do đầu tiên của hắn là bữa cơm hắn ăn ở quán ăn cạnh quốc lộ. Hắn không nhớ hắn ăn những món gì. Hắn chỉ nhớ đấy là quán cơm bán cho những người lao động. Một quán bên đường. Hắn cũng nhớ được là hắn vừa ăn vừa nhìn sang hàng bán bánh cuốn ngay bên cạnh. Hắn nhớ thế, vì khái niệm bánh cuốn đã quên đi bỗng sống lại trong đầu hắn: Ở mãi trong tù hẳn hắn quên đứt món ăn thuở bé hắn rất thích này. Mẹ gọi là bánh tráng. Thế mà hắn suýt quên.

Hắn ăn cơm một mình, chẳng thấy ngon miệng. Bữa ăn ấy chẳng làm sao nhớ được. Hắn vừa ăn vừa sẵn sàng vứt bát đũa xuống chạy ra, nếu có ô-tô đến. Hắn đợi ô-tô một mình. Hiển đã đi ra trước bằng xe đạp với cả một đoàn tháp tùng. Hiển đã dắt hắn đi mua chè ở nhà dân. Hắn nghiện chè, chưa bao giờ hắn có nhiều chè như thế. Hắn có tiền. Hắn được trại phát mười tám đồng. Đó là tiền trả công cho năm năm tù của hắn. Cầm món tiền, hắn nghĩ ngay đến việc tiêu. Mua chè. Chè ở đây nhiều, rẻ và ngon. Ai ở đây về cũng mua chè. Hắn cũng mua. Hai ki-lô.

Hắn chỉ để lại số tiền vừa đủ về tới Hà Nội. Cái bọc của hắn bây giờ phồng căng. Hoá ra bộ quần áo nâu là bộ quần áo có một phẩm trật tột cùng trong trại, ra đến đây lại là bộ quần áo chỉ cái thứ hạng thấp nhất trong xã hội. Nó nói với mọi người rằng hắn là một tên tù mới được tha. Ai cũng hiểu hắn là một tên tù vừa mãn hạn, một tên tội phạm bị pháp luật trừng trị, cải tạo nay được trở về, bắt đầu học lại cách sống lương thiện. Dân ở đây đã quá quen với những người mặc quần áo nâu như hắn.

Bà chủ quán hỏi hắn:

– Chú có uống chén rượu không? Tôi rót nhé. Tôi không tính tiền đâu.

Rõ ràng bà biết hắn vừa ở đâu ra. Nhưng không hỏi: “Chú bị có lâu không?” Hay “Chú về tận đâu?” Và bà muốn thết hắn chén rượu mừng.

Tuyệt vời làm sao. Cái tình người đầu tiên hắn hưởng khi trở lại thế giới này.

– Cứ ngồi đây, ô-tô qua luôn. Từ giờ đến tối còn nhiều ô-tô.

Hắn ngồi nép vào một góc quán, tay ôm cái bọc, nhìn trời, nhìn nắng mà sốt ruột. Mặt trời đã chênh chếch trên đầu cây đa Tân Trào xa xa rồi. “Cây đa Tân Trào đồng chí Giáp ra quân”, Trần Dần đã viết như vậy về cây đa này đấy.

Mãi mới có tiếng xe từ xa. “Xe đến đấy!” Bà chủ quán bảo hắn. Hắn đứng bật lên, tay cầm cái nón chóp cũ vẫy vẫy chiếc xe ca đang tới. Xe đông người vút qua trước mặt hắn. Người đứng lèn nhau cả ở bậc lên xuống. Hắn hoảng hốt và tuyệt vọng. Nhưng bộ quần áo nâu đã cứu hắn.

Hắn nghe tiếng một phụ nữ trên xe hét to:

– Ông tài, dừng lại cho người ta lên. Người ta vừa ở trại ra. Cho người ta lên.

Đó là tiếng nói của thiên thần, của người mẹ Việt Nam lúc nào cũng hiểu được khổ đau của người khác.

Hắn vứt cái nón chóp xuống vệ đường, trèo lên lách vào phía trong. Xe chuyển bánh về Hà Nội.

*

*        *

Cuối tháng 9 -1954, hắn đã làm một cuộc hành trình cuốc bộ từ Việt Bắc về Hà Nội. Đúng hơn, về một làng gần thị xã Hà Đông, rồi đi ô-tô về Hà Nội. Cuộc đi bộ hàng trăm ki-lô-mét kéo dài nhiều ngày ấy với hắn là những ngày hội. Không thấy mệt. Hay có thấy nhưng cứ hơn hớn. Lúc bấy giờ hắn cảm thấy người ta xếp đặt thế giới này cho bọn hắn. Như câu hát của trẻ em hiện nay “Trái đất này là của chúng mình“. Bọn hắn toàn đi qua những vùng mới giải phóng. Những vùng Tây mới rút. Đồng bào, nhất là thanh niên và trẻ em các làng xóm quây lấy bọn hắn, ngắm nghía bộ quần áo màu cỏ của bọn hắn… Bọn hắn nhảy múa tới khuya và nằm ngủ ở các gia đình, có khi ở sân đình. Rồi lại đi. Đi giữa ban ngày. Đi ngay trên đường nhựa. Đi và gặp nhiều đoàn khác cũng về xuôi.

Nằm chờ ở một vùng Hà Đông, bọn hắn được tập trung ở một sân đình rộng. Và hắn không thể ngờ được: Anh Diệu, người anh con ông bác ruột, ở Tuyên Quang, cũng có mặt trên sân. Hắn hiểu: Tất cả cơ quan đầu não của ta đã có mặt ở đây, áp sát thủ đô, sẵn sàng vào Hà Nội.

Hắn nhớ – điều này hắn nhớ – giọng trầm và chậm của ông bác sĩ, phó chủ tịch Uỷ ban quân chính Hà Nội căn dặn bọn hắn:

– Các đồng chí hãy nhớ lời dạy của Bác Hồ: “Người cán bộ kháng chiến nghìn vàng không mua được”.

Hắn lại trúng số độc đắc: Được lựa chọn trong số người vào Hà Nội trước, chuẩn bị cho Đại quân ta vào Thủ đô.

Bọn hắn, những thanh niên hai mươi tuổi, kiểm tra lại từng cái dây buộc bát sắt trên túi ba-lô, kéo lại xanh-tuya, rồi lên ô-tô. Tới một chỗ, có xe ô-tô của Tây đón. Hắn giữ được nét mặt tỉnh bơ khi các nhà báo chụp ảnh ở nơi đón tiếp. Ngồi cùng ô-tô với hắn là một người lớn tuổi, nghĩa là gần ba mươi, một thanh niên đã chiến đấu và rời Hà Nội cuối năm 1946, đi kháng chiến. Đồng chí Vũ, đoàn phó “Đoàn thanh niên xung phong công tác” của hắn.

Xe tải nhà binh, có mui, có ghế ngồi bắt vào thùng xe. Phía cuối xe là hai lính thuộc địa, nước da nâu, cầm súng để ngang đầu gối. Hắn ngồi cạnh đồng chí Vũ. Hắn chỉ nghe nói đến Hà Nội khi hắn đi học trên Thái Nguyên. Những chợ Đồng Xuân, cầu Long Biên, những Nam Đồng, ô Chợ Dừa. Những tên gọi qua thơ Văn Cao, nhạc Nguyễn Đình Thi, bút ký Trần Đăng. Những tên gọi ấy là khát vọng, là lương tâm của hắn, của những người đi kháng chiến.

Hắn ngồi im nghe đường nhựa kêu dòn dưới bánh xe lăn.

Bỗng nhiên Vũ lẩm bẩm một mình, rất khẽ:

– Ngã Tư Sở.

Và một lúc sau:

– Khâm Thiên.

Rồi:

– Ga Hàng Cỏ…

Tiếng thì thầm của Vũ làm hắn xúc động hơn cả tiếng gào: “Hà Nội ơi, ta đã trở về!”. Hơn cả những giọt nước mắt chảy trên má người chiến sĩ. Hắn biết xe đang đi qua những nơi ấy. Hắn xúc động không kém gì người chỉ huy của hắn khi xe vào giữa lòng Hà Nội.

Giờ đây hắn cũng xúc động như vậy khi xe chạy qua đê Yên Phụ về bến Nứa, khi gió mát sông Hồng phả vào mặt hắn. Lúc đó đã chiều tà. Đèn đường đã bật. Ôm cái túi có hai cân chè, một cái ca, bộ quần áo tù yểm được và một bọc thư từ, hắn đi dọc những phố xá đông đúc, chả ai để ý đến hắn. Hàng Đậu, Hàng Đường, Hàng Đào. Như một người từ cung trăng rơi xuống. Còn hơn cả Trần Đăng hồi kháng chiến “một lần đến Thủ đô”, “đi giữa thành phố len dạ và ánh sáng”. Trời đã tối hẳn. Người, xe, tàu điện. Cửa hàng. Đèn điện. Hồng Vân, Long Vân kem máy. Hắn nắn túi. Còn ít tiền. Hắn mua ba chiếc kem hết ba hào. Đi xuôi về phía Thuỷ Tạ. Ngồi xuống một gốc cây tối và khuất. Cắn, mút. Hớp những chỗ kem chảy. Ngọt. Bùi. Mát lạnh. Thế giới vẫn còn nền văn minh này: Làm cho mọi thứ lạnh đi.

Lần này về Hà Nội hắn mua kem ăn ngay. Không như dạo 1954 vào tiếp quản. Kỷ luật tiếp quản là không được vào quán ăn uống. “Người cán bộ kháng chiến nghìn vàng không mua được“. Đóng ở nhà thương Đồn Thuỷ, bọn hắn cử người đạp xe đi mua kem Cẩm Bình cho vào túi mang về, cả đơn vị cùng ăn.

Bờ Hồ vẫn như xưa. Vẫn những cách đi ấy, cách ngồi chơi hóng mát, tìm sự tĩnh lặng trong ồn ào ấy. Những đàn ông ấy, đàn bà ấy, trẻ con ấy của cuộc đời. Mặt hồ phẳng lặng, gợn ánh điện như những ngày nào hắn vào tiếp quản, như những ngày nào hắn cùng vợ hắn, còn là một cô nữ sinh tóc xoã, ngồi ghế mây uống nước chanh đá, ngắm mặt hồ huyền bí và thấy trong lòng mình những điều huyền bí đang đến: Tình yêu. Hắn nhận ra hồ. Hắn nhận ra Hà Nội. Nhưng hồ, Hà Nội không nhận ra hắn. Không nhận ra người quần áo nâu, ôm tay nải đang mang trong lòng mình bao nỗi niềm cảm xúc khi về tới Hà Nội, về tới Hồ Gươm. Con đường đôi cạnh hồ này đây, bọn hắn đã hát vang những bài ca kháng chiến, dù đêm đã khuya, đêm thu tiếp quản, đường nhựa ướt đẫm mưa thu. Mưa vẫn say sưa hát, bởi hạnh phúc là được đứng trong hàng, hát đồng ca.

Bốt Hàng Trống, nay là đồn công an. Hắn đã bị nhốt ở đây, ngày 9-10-1954, trước hôm tiếp quản một ngày.

Sáng mồng chín như thường lệ, bọn hắn lên chiếc xe Citroen đen cùng với một sĩ quan Pháp, đi tiếp quản các công sở. Lẽ ra một sĩ quan ta đi cùng với một sĩ quan Pháp, nhưng có lẽ bên Pháp đã rã đám vì ngày mai mồng 10 tháng 10 đã phải rút khỏi cầu Long Biên, nên họ chỉ cho một sĩ quan đi với ba người phía hắn.

Tới ngôi nhà 14-16 phố Hàng Vôi, xe dừng lại. Hắn xuống xe đi tới ấn chuông. Thay vì một người Pháp đi ra như mọi ngày, hắn thấy một cô gái ló đầu sau cửa xếp. Hắn giật mình lùi lại. Lần đầu tiên trong đời, hắn giáp mặt một người như vậy. Đầu uốn quăn như cái rế, môi son đỏ chót, má phấn. Cô gái còn giật mình hơn cả hắn. Chỉ thiếu kêu rú lên như giẫm phải rắn.

Hắn định trình bày, nhưng cô gái không nói một lời, biến mất. Một lúc sau, một người đứng tuổi, béo tốt mặc pi-gia-ma ra, vẫn đứng sau cửa sắt:

– Các ông nhầm. Đây là nhà tư.

Và đi vào.

Hắn đứng ngoài phố một mình, bộ quân phục xám. Phía bên kia phố là những ngôi nhà bốn tầng nhiều cửa sổ. Lính Pháp, lính ngụy… kín các cửa sổ, nhìn xuống hắn.

Các em nhỏ xúm lại quanh hắn trước tiên. Rồi người lớn đứng vòng ngoài. Họ đến để chiêm ngưỡng hắn, biểu lộ lòng quý mến những người kháng chiến, những người chiến thắng. Một người nói với hắn:

– Anh vào nhà tôi. Đứng thế này nguy hiểm lắm.

Nhưng một chiếc xe Citroen sơn trắng đã đến. Một người Pháp to lớn bước xuống (hẳn ông mặc pi-gia-ma đã gọi điện thoại tới). Hắn đưa giấy tờ của hắn. Giấy của Uỷ ban Liên hợp. Trung tá Đoàn Thế Hùng ký, Cô-lô-nen Galibert ký. Người ta mời hắn lên ô-tô về bốt Hàng Trống…

Hắn nhìn vào bốt Hàng Trống, lối đi hun hút nơi hắn đã ngồi trên chiếc Citroen trắng. Lối đi ấy bây giờ vắng, nhưng hôm ấy hai dãy lính bồng súng, lưỡi lê sáng quắc. Hắn sợ hãi, lo lắng và yên tâm ngay, khi thấy mấy đồng chí bộ đội đeo quân hàm ngồi trong buồng làm việc. Suốt ngày hôm ấy hắn phải ngồi ở bốt Hàng Trống, trong một căn buồng trên gác, nhìn sang bên kia đường Tràng Thi, san sát những biển hàng có vẽ những chiếc giày rất to, những mái đầu của các hiệu uốn tóc, những hiệu chụp ảnh. Ở căn gác đối diện, một cô gái quần trắng, áo trắng, nằm trên ghế xích đu đọc báo Tia Sáng, số báo Tia Sáng cuối cùng.

Mãi tối hắn mới được về Đồn Thuỷ trên một chiếc xe chở bánh mì, có hai người lính Âu Phi gác.

Hắn thở dài. Tiếng thở dài chào bốt Hàng Trống. Tiếng thở dài vĩnh biệt một thời.

Hắn đã đặt chân lên phố Bà Triệu. Đường phố vẫn như xưa. Mùi hoa sữa. Hắn khựng lại vì vấp phải mùi hoa sữa. Con đường này, mùi hoa này là tuổi trẻ của hắn, là tình yêu của hắn. Nàng đi cạnh hắn như đi trong mơ.

Nhiều kỷ niệm quá. Hắn tự nhủ phải bình tĩnh.

Hắn nắm chặt cái ca trong túi vải. Hắn đi trên vỉa hè rộng. Hắn tìm một số nhà, nhà một người bạn thân của hắn.

Hắn không muốn về nhà anh chị Diệu ngay bây giờ. Cũng gần, ngay phố Ngô Văn Sở thôi. Hắn biết, anh chị rất quí mến và thương hắn. Chả là anh chị đều làm ở một cơ quan báo, đánh giá cao khả năng của hắn và tin rằng hắn chẳng có tội gì.

Nhưng bạn hắn hiểu hắn hơn. Bao giờ bạn hắn cũng hiểu hắn hơn. Nhất là Phương. Nguyễn Vũ Phương, biên tập viên điện ảnh.

Lối đi nhỏ chạy cạnh ngôi nhà mặt đường dẫn sâu vào dãy nhà trong. Hắn hiện ra ở cửa.

– Thằng Tuấn!

Bố mẹ Phương kêu lên và ôm lấy hắn, rồi quay lại đẩy hắn ra xa mà ngắm nghía:

– Về bao giờ? Tuấn! Trời ơi! Được về rồi hả?

– Con được tha sáng nay. Con vừa về đến đây.

Hắn tìm kiếm điều hắn đang mong. Bố mẹ Phương hiểu, nhưng không nói. Hắn không thể im lặng được nữa:

– Phương đi chơi, hả bác?

Hắn nhận được câu trả lời bất ngờ nhất:

– Nó bị bắt rồi, con ơi.

Như chỉ chờ có vậy, mẹ Phương oà lên khóc.

*

*        *

Hắn vẫn hình dung ngày trở về của hắn khác cơ. Khác thế nào, hắn không biết. Trong tù, những người tù tuyệt vọng đố nhau: Nếu được tha thì về nhà lúc nào là tốt nhất. Đa số nói: Về nhà vào buổi tối. Đứng nép ngoài cửa, yên lặng nhìn vào trong nhà, xem bố mẹ hay vợ con đang làm gì. Để biết được, để nhìn thấy được một buổi tối bình thường của gia đình khi mình ở trong tù.

Bữa ăn mẹ Phương nấu cho hắn, hắn nhớ. Hắn nhớ bát mì sợi nóng hổi. Có cả rau muống đầu mùa, mềm xanh. Cả mấy miếng đậu rán, ớt bột. Nhưng nóng. Nóng quá. Hắn không quen ăn nóng. Năm năm hắn chỉ quen ăn nguội, nguội tanh nguội ngắt. Mùa rét, ăn xong run cầm cập.

Hắn thổi, hắn húp xì xoạp. Có cả mỡ nước. Mỡ lợn thật, không phải mỡ hoá học. Mồ hôi hắn vã ra, nước mũi chảy như lúc ốm. Mẹ Phương đứng nhìn hắn ăn, lấy khăn tay chấm nước mắt. Bà ép hắn:

– Ăn nữa nhé. Còn một tí nữa thôi!

Hắn lắc đầu:

– Con no lắm, no lắm rồi.

Hắn sẽ không bao giờ quên bát mì gia đình nóng bỏng ấy. Nóng và tình thương xót. Suốt buổi tối, trong khi trò chuyện, bố mẹ Phương nhìn hắn như qua đó tìm hiểu những gì Phương đang chịu trong tù. Hắn biết vậy. Hắn hiểu, hắn không được phép gây thêm một mối lo lắng suy nghĩ nào đối với bố mẹ Phương đã quá thừa đau khổ. Nhưng dù hắn có nói chăng nữa, cũng chẳng ai hình dung được những điều gì đang đến với Phương. Chỉ có hắn biết được thôi. Ngay cả chính Phương nữa, Phương cũng không biết được những gì sẽ đến với mình. Hắn vẫn cứ rợn người khi nghĩ đến một anh tù cựu nhìn hắn dạo hắn mới bị bắt. Hắn bị giam ở khu 76. Hắn cũng chẳng biết đó là khu gì, chỉ biết cả mấy dãy xà lim nằm lọt thỏm giữa tường bao có dây thép gai chạy điện, chỉ có hắn và một anh tù nữa, mỗi người một xà lim. Anh tù kia còn trẻ, mặt xanh rớt, đầy trứng cá. Trong một lần ông quản giáo mở cửa cho hắn đi đổ bô, hắn thấy anh tù trẻ đang ngồi nhổ cỏ dưới nắng. Thật là hạnh phúc đến khó hiểu. Hắn lễ phép:

– Thưa ông, xin phép ông cho tôi được nhổ cỏ.

Ông quản giáo đứng lặng như trời trồng. Khi đã hiểu ra, ông giận dữ sập mạnh cánh cửa. Hắn phải ngả người về phía sau, suýt nữa cánh cửa đập vào mặt hắn. Cái bô cứt và nước đái trong tay sánh rớt xuống chân hắn. Có tiếng khoá cửa. Hắn bị trừng phạt vì hắn, một kẻ có tội đang giam cứu mà lại đi đề nghị những điều như vậy với quản giáo.

Thế rồi anh tù trẻ chuyển đi, còn lại một mình hắn. Một mình hắn trong một dãy xà lim mênh mông. Hơn một tháng sau khi bị bắt, hắn được gọi ra cắt tóc. Một người tù mặc quần áo xám với cái hòm cắt tóc, chiếc ghế đẩu, đã đứng sẵn dưới tán lá chuối sát tường. Hắn ngồi xuống ghế. Ông quản giáo đứng cạnh, suốt thời gian cắt tóc, không rời mắt khỏi hai người. Hắn mủi lòng nhìn những nạm tóc xanh đen của hắn rơi xuống đất. Không ngờ máu huyết mẹ cha cho lại rơi xuống xó nhà tù. Hắn rơm rớm.

Lựa lúc người tù cắt tóc quay lưng lại phía ông quản giáo, che khuất hắn, hắn ngước nhìn anh ta. Đó là một người đứng tuổi, râu mép có những sợi bạc, da sạm. Và cặp mắt anh ta đang nhìn hắn làm hắn rùng mình. Anh ta nhìn hắn như nhìn một người đang đi về cõi chết. Đó là vĩnh biệt, là ái ngại, là thương xót, là đồng cảm, chia sẻ. Cái nhìn buốt xương sống, lạnh tim, báo cho hắn biết hắn mới chỉ ở tầng đầu địa ngục và đang tiếp tục xuống từng nấc thang khủng khiếp.

Cái nhìn của một con vật hiểu thế nào là lò sát sinh nhìn con vật khác ú ớ, lớ ngớ bước vào mà không biết mình đang bước vào đâu.

Mãi sau này hắn mới biết 76 là khu trọng phạm. Ở đó là án tử hình, là án chung thân, là đi chuyến tàu suốt.

Đôi mắt người ấy như một lời tiên tri, một định mệnh. Nhưng hắn tin ở hắn. Hắn không có tội. Hắn sẽ được tha một ngày gần đây thôi. Phương bây giờ mới bước những bước đầu tiên như hắn khi đó. Đến bao giờ Phương mới đi hết đoạn đường của Phương. Đoạn đường ấy thăm thẳm, ghê rợn, khủng khiếp vô tận, mà những người ngoài cuộc không thể nào hiểu được. Hắn như nhìn thấy Phương đang đứng trước mặt hắn. Tầm thước, mắt đẹp và thông minh, cằm hơi vểnh ra, kiểu cằm Maiacôpxki. Hắn nhìn thấy Phương cười. Hắn nghe thấy cả tiếng cười và sau đó là câu nói:

– Tuấn ạ! Tao vừa đi Hải Dương về. Thăm trại chăn nuôi lợn giống. Ở đấy tao thấy con lợn đực nhảy lên phóng tinh vào con lợn gỗ. Con lợn ấy quả giàu sức tưởng tượng hơn anh em mình nhiều.

Phương có cách nói như vậy. Hài hước và cay độc. Đó là câu pha trò để chấm dứt đề tài bọn hắn đang thảo luận: Trí tưởng tượng. Sự cần thiết và không thể thiếu được của trí tưởng tượng trong sáng tác. Đó là điều bọn hắn còn kém, bọn hắn phải nâng cao.

Phương viết. Viết nhiều, nhanh và thông minh. Nhưng hắn nghĩ cái Phương thiếu là vốn sống. Có vốn sống, Phương sẽ là người đi xa.

Hắn lục lọi những kỷ niệm với Phương. Ngày Phương kéo hắn lên trại sáng tác kịch bản điện ảnh, đèo hắn bằng chiếc xe mô-bi-lét, ngừng đạp là ngừng nổ. Phương về nhà hắn, hắn đi mua cá song nấu chua, những tưởng bạn sẽ trầm trồ khen ngon. Nhưng Phương cười lăn lộn, rồi vớ lấy túi xách, moi ra một lọ ruốc thịt mang theo từ Hà Nội. Lúc ấy hắn mới biết Phương chỉ ăn được một loại cá là cá chép. Thêm nữa là cá diếc vì cũng có vẩy trắng và ngoại hình giống cá chép.

Tính nết khảnh rả như Phương, vào tù khó đấy. Lấy đâu ra cá chép?

Hắn như nhìn thấy Phương bê bô nước han gỉ vào trong xà lim. Thấy Phương gánh phân ở một xó rừng heo hút…

Không. Còn lâu. Còn lâu Phương mới được gánh phân ở xó rừng heo hút. Phương mới bị bắt hơn một tháng. Cũng vào một ngày thứ sáu. Trong một tuần, thế nào cũng có một ngày khủng khiếp đối với ai đó. Như mình và Phương là ngày thứ sáu. Sao tù chính trị lại hay bị bắt vào ngày thứ sáu nhl. Có lẽ vì còn ba ngày nữa mới sang thứ hai của tuần lễ sau, ngày đầu tiên của tuần lễ hỏi cung. Ba ngày ấy (kể cả ngày thứ sáu) đủ để khám xét thêm nhữug nơi còn nghi vấn, xếp loại tài liệu và cũng đủ cho thằng tù nếm náp những phút giây địa ngục đầu tiên mà hiểu được cái gì đang chờ trước mặt.
Giờ đây đang là những ngày căng thẳng nhất, đau đớn nhất của Phương. Phương phải suy nghĩ, đối phó với những điều tệ hại nhất, bất ngờ nhất, vô lý nhất. Phương phải tập để quen với một hiện thực không thể nào quen được: sự mất tự do. Và đang tính toán chi li, keo kiệt từng ngày tù một như mọi người mới bị bắt khác. Phương phải thích nghi với cuộc sống xà lim, vì đã rơi ngược về tiền sử. Phải thích nghi với thời đồ đá, với bóng tối xà lim, từ bỏ thói quen dùng lửa. Phải dùng răng nanh tách cái đũa tre, bóc ra một thớ tre trước khi trả nhà bếp bát đũa. Rồi khi đổ bô, tranh thủ nhìn trước nhìn sau, nhặt lâý một mảnh sành, giấu vội mang về xà lim. Vót, cạo mảnh đũa thành một cái tăm. Cái tăm ấy dùng suốt một đời tù giam cứu. Dùng cho đến khi mòn đi một nửa vì tù chính trị giam cứu lâu lắm. Móng tay móng chân dài phải lấy răng mà cắn. Cắn móng tay dễ. Cắn móng tay còn là một cái thú giải sầu. Cắn móng chân phải chờ sau khi đi tắm về. Móng chân mềm và sạch. Ngồi xếp bằng. Lấy hai tay bê một chân lên, cúi đầu xuông gặm. Móng ngón cái dày, nhưng dễ gặm vì thuận khi đưa lên miệng. Gặm ngón út khổ nhất, khốn nạn nhất. Đưa ngón út lên mồm, dù là chân trái hay chân phải, xương sườn cứ ngoẹo đi, đầu cứ vạy đi mới nhét được ngón út vào một bên mép mà nhay mà nhấm. Hơn một tháng, Phương phải gặm móng chân ít nhất một lần rồi.

Hoá ra đêm đầu tiên của hắn ở ngoài đời là một đêm mất ngủ giữa lòng Hà Nội. Hắn nằm dài trên cái giường Phương vẫn nằm. Một mình hắn trong một cái bán mái con con, ngay cạnh vòi nước.

*

*        *

Nằm trên cái giường của Phương trong cái bán mái của Phương, hắn cứ có cảm giác giở mình hay quờ tay môt cái là chạm vào Phương. Phương đang nằm ngay bên cạnh. Tất cả đều nói về Phương. Phương như chỉ đi ra phố mua thuốc lá, sắp trở về ngay bây giờ. Căn buồng hẹp. Tường loang lổ. Nền gạch mục và mòn. Xếp sách trên giá. Tấm hình Xamôilôva(1) treo trên tường. Vẫn y như trước. Chỉ thiếu Phương. Cái gối vẫn là cái gối của Phương. Chiếc màn này chắc không phải chiếc màn Phương vẫn nằm. Cả chăn nữa. Chiếc màn giường Phương, cái chăn của Phương hẳn đã theo Phương vào tù, họp thành nội vụ của Phương. Giường màn chăn gối hắn đã nằm, hai đứa ôm quặp lấy nhau khi trời rét, quạt phì phạch khi trời nóng. Biết bao chuyện trong những đêm như vậy.

Hắn đã tự nhủ không có gì làm hắn bất ngờ được nữa. Thế rồi vẫn bất ngờ. Cái chuyện Phương bị bắt là một điều hoàn toàn không ngờ tới. Choáng và đau đớn. Đến nhà Phương mà Phương đã bị bắt giống như đến nhà một người bạn thì người ấy vừa được mang đi chôn xong, chỉ còn lại tấm ảnh trên bàn thờ với những câu đối, hoa huệ, với khói hương nghi ngút. Còn hơn thế, vì chính hắn từ cõi ấy trở về gặp Phương với bao điều muốn nói với Phương về cõi ấy. Và đã nghĩ rằng sẽ được nói cùng Phương biết bao nhiêu chuyện.

Phương ơi. Ngủ chưa? Đang trong giai đoạn lấy cung phải không? Người ta hỏi cung có nghĩa là người ta chăm chú bới tìm cho ra tội, chứ đâu có phải là tìm hiểu sự thực.

Người hỏi cung Phương là người thế nào? Bao nhiêu tuổi? Tên là gì? Có trình độ không? Cần nhất là có trình độ, có văn hoá và biết được đôi chút về văn nghệ, về lao động nhà văn. Và khách quan. Không độc ác.

Người hỏi cung mình tên là Lan. Ông Lan rất mù mờ về văn nghệ, nhưng lại cứ đinh ninh rằng mình hiểu biết tỏ tường bởi vì “các anh vẫn nói viết là lách mà, ai còn lạ gì”. Thật sơ đẳng, nguy hiểm, tai hại và khó chịu.

Tù chính trị bị hỏi cung lâu lắm. Mới hơn tháng. Đang trong giai đoạn căng. Phương phải gắn bó với ông chấp pháp của Phương bao lâu. Người tù nào cũng có một ông chấp pháp của mình, họp thành một đôi, họp thành một cặp. Người nọ là một bộ phận của người kia, người nọ tạo thành người kia. Giống như một chiếc giày của một đôi giày, thiếu đi một chiếc sẽ chẳng là gì cả. Ông Lan đã nói với hắn nhằm làm hắn hiểu rõ con người ông:

– Tôi đã thụ lý ba án tử hình, năm án chung thân và trên mười án hai mươi năm.

 

 

(1) Nữ diễn viên điện ảnh Liên Xô (cũ). Diễn vai chính trong phim “Khi đàn sếu bay qua”.

Ông Lan (mà sau này hắn biết còn được gọi là Lan mặt ngựa) rõ ràng là quá yếu, nên mới phải khoe khoang thành tích tuyệt vời ấy. Nhưng hắn vẫn vững tin vào hắn. Ba tháng sau khi bị bắt, hắn đã hỏi ông:

– Thưa ông. Xin ông cho biết nhận xét của ông về số bản thảo của tôi.

Ông Lan cười xuề xoà:

– Chúng tôi bận quá, nên chưa có thời gian đọc.

Ông Lan cười rất sợ. Ông cười còn đáng sợ hơn khi ông làm mặt nghiêm. Nó giả dối. Nó rờn rợn. Ông Lan mặt ngựa có đôi mắt sắc lạnh. Khi cười đôi mắt ông càng lạnh lẽo. Môi mỏng mím lại uy nghiêm làm phạm nhân thấy không thể giấu được điều gì. Hình như biết cái ưu thế ấy của mình, ông càng nghiêm nghị. Cặp mắt lạnh như thép nhìn chăm chăm vào hắn. Hắn có thói quen nhìn thẳng vào mặt người đối thoại.

Hắn nhìn lại ông. Hắn cũng cười. Cười khẩy nữa thì phải. Vì hắn không chịu được sự dối trá trắng trợn. Càng không chịu được sự cố tình.

– Thưa ông. Với lòng tin tưởng ở tinh thần trách nhiệm của ngành công an, tôi xin được nói với ông điều tôi nghĩ: Các ông đã đọc, các ông đã chia nhau đọc (hắn còn muốn nói các ông đã bắc kính lúp vào từng chữ của tôi để tìm ra những sơ hở, những sai sót), các ông đã nhờ người đọc và giám định. Có đúng như thế không ạ?

Mình nói và nhìn thẳng vào mặt ông chấp pháp. Ông chấp pháp của mình rất lạ. Không làm sao xác định được tuổi của ông ta. Khi mình thấy trẻ hơn mình. Khi già hơn mình. Khi trạc tuổi mình. Như lúc ấy mình thấy ông ấy già hơn mình. Ông chấp pháp của Phương bao nhỉêu tuổi. Hẳn ông ấy cũng nhìn Phương như ông chấp pháp của mình nhìn mình. Các ông ấy có cái nhìn giống nhau. Căm phẫn, uy nghiêm, cái nhìn của công lý, của thiết diện Bao Công. Cái nhìn của cách mạng, của đất nước đang đổ máu nhìn kẻ tội phạm. Lại cả cái nhìn đau xót của Đấng Cứu Rỗi nữa.

Hắn nhìn lại ông, bình thản, tự tin, không chút bối rối.

Con mắt ông Lan lạnh như thép. Con mắt hắn kiên nhẫn không lùi bước. Một thời gian đủ để ông Lan hiểu hắn, hắn nhìn chếch ra mang tai ông và nói tiếp:

– Ông không trả lời, nghĩa là đã đọc. Và đã kết luận. Nhưng các ông không cho tôi biết. Vậy thì vấn đề theo tôi nghĩ là như thế này.

Hắn ngừng lại một lát:

– Những kết luận ấy có lợi cho tôi. Thưa ông, có đúng thế không ạ?

Hắn lễ phép hỏi ông. Ông Lan cười như một cách trả lời: “Anh toàn nói chuyện tầm phào. Chẳng đâu vào đâu.” Nụ cười của người lớn trước những câu hỏi ngây thơ của trẻ con. Hắn ngồi im trên ghế, một cái trụ vuông xây nhô từ nền nhà lên. Đến lúc đó hắn mới biết có những cái ghế như vậy. Loại ghế bất di bất dịch. Mùa đông ngồi tê buốt và mùa hè vẫn lạnh cả đít. Dành cho tội phạm.

Ông Lan ngồi sau chiếc bàn gỗ thông thường. Ông đang cầm bút tô lại những dòng chữ ngoài bìa xếp hồ sơ của hắn: Cung vấn Nguyễn Văn Tuấn. Từ cái ghế xây xi-măng lạnh lẽo hắn nhìn rõ những hàng chữ ấy. Ông muốn cho hắn biết rằng ông không thèm nghe hắn, nhưng vẫn để hắn nói. Ông là người biết điều.

Hắn biết sau lưng ông là Sở Công an. Với ban giám đốc, với các phòng ban, với các trinh sát. Với những cuộc hội họp phân tích bản khai cung của hắn. Với quyết tâm tìm ra tội của hắn. Bởi vì qua cách hỏi cung của ông Lan, hắn biết người ta không khách quan nữa. Người ta vặn vẹo xuyên tạc soi mói.

– Nếu các ông không đưa ra những kết luận của các ông, tôi xin phép được đưa ra kết luận của tôi: Những bản thảo của tôi là tốt. Tôi ca ngợi Đảng, ca ngợi nhân dân, ca ngợi lãnh tụ. Tôi ca ngợi cuộc sống mới.

Ông Lan vẫn im lặng. Mắt nhìn xuống. Vẻ tự kiềm chế và chán ngán. Toàn bộ dáng người ông như muốn nói: Nói nữa đi, nói cho thích đi. Rồi tôi sẽ chỉ cho anh biết…

Đấy, họ là như thế đấy. Còn mình thì cứ nói toạc vấn đề, chẳng úp mở gì. Đã xác định phương châm “mềm dẻo về thái độ, cứng rắn về nguyên tắc” thế mà vẫn có lúc mình to tiếng dồn ông chấp pháp. Đến nỗi ông ta cười nhạt:

– Anh xử sự hơi ngược đấy. Lẽ ra chúng tôi phải có thái độ như anh bây giờ. Nhưng anh thấy đấy, chúng tôi vẫn bình tĩnh…

Mình nói luôn:

– Thưa ông. Nếu ông ở vào hoàn cảnh của tôi, một người bị xúc phạm, bị lăng nhục, tôi tin ông cũng xử sự như tôi.

Ông ta lại cười, lạnh lẽo và rờn rợn. Mình còn nhớ ở phòng hỏi cung bên cạnh những hôm trước vẫn còn vang lên tiếng quát tháo, lúc đó có tiếng reo: Tôi đọc lại cho anh nghe nhé: “Tôi bước vào phòng thấy Liên đang ngồi ở giường. Tôi ôm lấy Liên, đè Liên xuống giường. Liên đẩy tôi ra. Tôi lâý trong túi một miếng sắt vuông mỏng mà tôi đã chuẩn bị từ ở nhà, cắt đứt dây rút quần Liên. Tôi kéo quần Liên xuống và lấy tay đút dương vật vào âm hộ của Liên”. Đúng không nào. Ký vào!

Giọng đọc của ông chấp pháp bên đó lanh lảnh, reo vang, phấn khởi, vừa diễn đạt được tâm trạng của người phạm tội hiếp dâm lúc y hành động, vừa phản ánh niềm vui của ông chấp pháp đã đánh gục đối thủ. Đến nỗi ông Lan phải chạy sang nhắc:

– Khe khẽ cho bên này làm việc!

Thật chẳng ra làm sao. Bên này đang toàn những vấn đề văn chương, tư tưởng, bên kia lại cứ oang oang những âm hộ với dương vật. Cho nên khi trở về ngồi trước bàn, ông chấp pháp của mình càng nghiêm nghị.

Vệt môi mỏng của ông càng mỏng. Nom ông gần như cau có. Hắn thông cảm với ông. Ông chấp pháp bạn ông đã chiến thắng rồi. Còn ông, ông vẫn phải đánh vật với hắn. Với phần tử ngoan cố như hắn.

Ông Lan hất hàm hỏi hắn:

– Anh nói hết chưa?

– Báo cáo ông, hết.

Ông ra một đòn quyết định:

– Anh không viết như thế, ai người ta in cho anh? Anh bôi đen chế độ người ta gô cổ anh lại.

Hẳn ông Lan không chỉ có cái sắc sảo của riêng ông. Ông còn là kết tinh trí tuệ của tập thể. Một tập thể những người có trình độ, có mọi phương tiện trong tay. Có nghiệp vụ. Có quyền lực và đang sử dụng hết công suất của bộ máy quyền lực ấy như nhà tù, xà lim, phát động bè bạn hắn, thông tín viên của hắn chống lại hắn. Cả những người cơ hội, những người cầu an, những người trung thực. Ông đang có mọi lợi thế. Nhưng hắn một có niềm tin lì lợm vào mình. Niềm tin lì lợm vào công lý. Vào sự công bằng của luật pháp xã hội chủ nghĩa. Hắn coi thường mọi lợi thế của ông. Hắn đã đọc ở đâu đó lời nói của một người cộng sản trong tù: Chúng ta đúng. Vì thế chúng ta mạnh. Chúng (bọn Pháp) có cả một guồng máy khủng bố, nhưng không đàn áp nổi vì chúng không đại diện cho chính nghĩa.

Vốn là người sách vở, hắn nghĩ: Hắn đúng, hắn không sợ. Hắn thấy ngón đòn của ông Lan ngây thơ quá. Ông trở thành thế yếu (dù ông đang nhốt hắn trong xà lim, dù ông thông minh, có cả tập thể hỗ trợ). Vì ông không khách quan trung thực.

Hắn khinh ông, hắn khinh tất cả những người không trung thực. Những kẻ gắp lửa bỏ tay người.

Mình không ngờ ông Lan lại đi nói một câu ngớ ngẩn đến thế. Mình sửng sốt và nghiêm nét mặt vì những điều sờ sờ trước mắt mà ông Lan cố tình không nhìn thấy. Cố tình không chịu hiểu.

Thưa ông. Có ai bắt tôi phải viết những tác phẩm của tôi đâu. Chính ông cũng đã nói trong một buổi hỏi cung tôi: Văn là người. Văn của tôi là con người của tôi. Đó là tình yêu của tôi, là sự tự giác làm việc của tôi, suy nghĩ của tôi. Là máu của tôi. Là trái tim của tôi. Thưa ông, không ai gí súng vào tôi, bắt tôi phải viết những sáng tác ấy. Ông Trường Chinh có nói: “Mọi sáng tác đều bắt nguồn từ trong tim”. Nếu những chân lý phổ biến ấy của chủ nghĩa Mác-Lê-nin còn phát huy tác dụng thì sao tôi lại nằm ngoài quy luật.

Hắn hiểu rằng hắn đã bị đẩy vào vòng đấu. Trong đấu trường chỉ có một mình hắn. Vợ con, bố mẹ, anh em, bạn bè, không ai bên cạnh. Một mình hắn đã bị tước vũ khí. Hắn không chỉ đấu với ông Lan, ông Quảng, ông Trần. Hắn còn đấu với cả những dãy xà lim nặng nề hoang vắng 76, một mình hắn ở. Hắn đấu với sự cố tình bẻ queo luật pháp, bẻ queo sự thật của những người đạo đức chẳng hơn hắn, yêu nước chắc chắn không hơn hắn.

Phương ơi. Trần trụi, nhưng phải thắng. Dù thế nào chăng nữa. Ông Lan đã phải lùi một bước trước sự thật mình nêu ra.

– Anh đừng chủ quan với những tác phẩm của anh. Chúng tôi sẽ nói với anh vào những thời điểm thích hợp.

Ông Lan của mình hay nói hai tiếng “thời điểm” lắm. Một câu nữa ông hay nói là:

– Anh cứ về nghĩ kỹ đi, chúng tôi có đủ kiên nhẫn.

Chao ơi! Đức kiên nhẫn của ông Lan mới đáng phục làm sao! Ông có dư thừa kiên nhẫn. Ông kiên nhẫn về sống với cơ quan ông, bạn bè ông, vợ con ông. Còn mình về xà lim. Mình cũng phải học ông rèn luyện sự kiên nhẫn sống trong xà lim. Ông đã chứng minh ông có đủ kiên nhẫn chờ đợi mình hối cải, chờ đợi mình thấy rõ lỗi lầm của mình. Ba tháng sau, mình không được hỏi cung. Chín mươi ngày đêm xà lim, ngày nào đêm nào cũng dài như vô tận. Mình đoán, lại một đợt tìm tài liệu mới nữa đây. Lại những cuộc họp phân tích bàn cách giải quyết nữa đây. Mình nằm. Một mình. Mình nhắm mắt, quay mặt vào tường vẩy xi-măng cách âm lổn nhổn, nhọn hoắt như ốc nhồi. Mình hát thành lời khe khẽ. Mình hát thầm trong óc. Những bài hát in dấu trong đời chúng mình. Thời chống Pháp là những bài Sông Lô. Trùng trùng quân đi như sóng. Qua miền Tây Bắc, Hồng Hà chơi vơi mang nước trên nguồn về xuôi. Mình lẩm nhẩm như ở đài phát thanh: “Các bạn thính giả thân mến, trong chương trình ca nhạc kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh mùng Hai tháng Chín hôm nay chúng tôi xin giới thiệu”… , và Diệt phát-xít, Bao chiến sĩ anh hùng, Kìa xa xa nơi Côn Đảo ớ hờ.

Rồi ngược lên nữa: Con thuyền không bến, Thiên Thai, Trên sông Bạch

Đằng… Thứ nhạc thời chúng mình còn bé tý. Một buổi chiều thứ bảy vắng vẻ mình nghe thấy từ xa vọng lại một giọng huýt sáo rất trong một bài hát Pháp:

Qu’ avez vous fait de mon amour

Qu’ avez vous fait de mon bonheur (1)

Mình đoán người này ít nhất bằng tuổi chúng mình trở lên vì bài hát ấy có từ khi chúng mình còn nhỏ. Mình hát câu tiếp theo để thay cho một lời chào:

Étrange femme (2)

Và hỏi to:

– Mấy năm rồi ?

Tiếng trả lời vang vọng xa xa:

– Sáu năm rồi.

Sáu năm xà lim. Mình rợn người. Người ta quả có lòng kiên nhẫn. Người ta quả có lòng kiên nhẫn chờ mình lâu như thế. “Chúng tôi có đủ kiên nhẫn” dịch nghĩa ra là: “Anh không nhận thì anh cứ nằm mãi trong xà lim”. Phương chắc chắn cũng phải học bài học kiên nhẫn. Có anh tù chính trị nào thoát được bài học đó. Bài học kiên nhẫn mình còn đang học dở thì đã chuyển sang xà lim 75 rồi.

Hắn cởi truồng nằm trong xà lim, thiếp đi vì nóng. Và choàng tỉnh vì nóng. Người hầm hập. Mồ hôi toát ra. Hắn nhỏm dậy nhìn vết mồ hôi in thẫm trên những tấm ván lim thành hình một bộ xương người. Hắn ngắm nhìn bộ xương của hắn và nghĩ đến lúc chết. Hắn lẩm bẩm một mình:

(1) Nàng đã làm gì tình yêu của tôi

      Nàng đã làm gì hạnh phúc của tôi

(2) Ơi người đàn bà xa lạ.

– Xương mình to thật.

Hẳn trở dậy. Phải tắm. Phải lau đi cái mồ hôi dính nham nháp khắp người. Phải làm dịu mình một chút. Không chỉ hầm hập, ngột ngạt xà lim. Còn cháy trong người. Còn lò lửa trong óc.

Mình nghĩ đến cái bể nước nhà mình. Đến gáo nước đầy trong vắt múc lên giội từ vai hay đỉnh đầu trở xuống cho hạ nhiệt toàn thân. Thiên đường đấy. Và mình sẻ nuởc uống trong bô ra cái ca nhôm nửa lít. Tiêu chuẩn nước tắm của mình: Nửa lít bớt ra từ khoản nước uống. Nhúng khăn mặt vào ca. Lau. Lau từ mặt xuống cổ. Lau từ cổ xuống ngực. Xuống bụng. Dấp nước khăn mặt, rồi khoanh tay đập, đập vã vào lưng. Rồi lau xuống bẹn, xuống chân, cho đến khi cái khăn mặt nóng lên thì vắt nước đi. Vắt vào cái nắp bô vệ sinh để ngửa cho khỏi bắn nước bẩn trong bô ra ngoài. Rồi mới nghiêng nắp cho nước chảy vào bô. Cái thứ nước vắt ra ấy nâu nâu đen đặc nhơn nhớt. Bô đầy thì vắt nước lên tường xà lim cho nước ngấm vào tường. Cũng thấy người dễ chịu. Còn dễ chịu vì lúc tắm là lúc không để ý tới thời-gian-xà-lim. Nó qua đi mà chẳng tra tấn được mình như mọi lúc. Nhưng không lâu đã lại hầm hập. Không thể tắm nữa. Còn phải dành nước đế uống. Thì ngồi nhìn lũ kiến tha cơm…

Những con kiến bò ngoằn ngoèo vào tổ. Những con đi ra gặp những con đi về đều đứng lại. Như thăm hỏi. Lại cũng như kiểm tra. Hắn cố tình thả xuống một hòn cơm to. Lũ kiến bu lại. Đông. Rất đông. Không trông thấy cơm đâu. Như một hòn kiến động đậy. Cả những con kiến to cõng trên lưng những con kiến nhỏ. Nhiều loại kiến to. To kềnh. To vừa. Hơi to. Thuở nhỏ hắn và anh Văn hay chơi kiến. Đặt cho kiến các loại phẩm trật chức tước tùy theo kiến to kiến nhỏ khác nhau. Kiến vua. Kiến quan. Kiến cai. Kiến đội. Kiến quân. Hắn và anh Văn nghĩ ra một trò: Bắt châu chấu, cào cào đã bẻ càng thả cho kiến đốt. Cuộc chiến đấu thật quyết liệt. Trong những cuộc chiến như vậy bọn kiến cai, kiến đội được anh em hắn reo hò cổ vũ nhiều nhất.

Trong quyển Hải Đăng, nhà xuất bản đã ký hợp đồng in, nhưng hắn cứ nấn ná sửa đi sửa lại, rồi bị công an thu, có tả đàn kiến. Đó là kỷ niệm ấu thơ của hắn. Chỗ đó được nhà xuất bản rất khen. Cả đoạn tả con chuột nhắt nữa. Con chuột ở với người gác đèn biển. Bữa cơm, con chuột nhắt nhanh nhẹn chạy ra nhặt những hột cơm rơi và nhìn anh bằng đôi mắt đen láy. Nó là bạn của anh, là cư dân trên cái nhà đèn giữa biển. Nó làm anh đỡ cô đơn. Anh im lặng theo dõi cái sinh vật bé tí xíu ấy chạy chỗ nọ chỗ kia, nghe ngóng, tha thẩn. Nó cũng cô đơn như anh. Nhưng không hiểu nó có biết nó cô đơn không? Mong rằng nó không biết nó cô đơn, bởi vì điều ấy làm nó dễ sống hơn.

Thế rồi một hôm anh đùa với nó. Đùa hơi quá. Anh dang tay giậm chân đuổi nó, kéo cả những thứ dưới gầm giường, nơi nó vẫn ẩn nấp để dọa nó. Cu cậu sợ, vọt qua cửa sổ. Anh chạy ra nhìn theo nơi nó vừa nhẩy xuống. Ở chỗ ấy sóng biển sôi sục. Anh cứ đứng lì nhìn biển ào ào bọt trắng. Tiếc. Thương. Ân hận. Buồn rầu. Tự trách móc mình.

Mình viết những điều nó cứ vận vào mình. Trước đây mình cảm phục sự chịu đựng cô đơn của người anh hùng gác đèn biển. Nhưng anh ta còn có con chuột. Còn có bầu trời, mặt biển và những con tàu. Chúng mình đã bỏ xa anh ta. Bởi vì chúng mình sống trong xà lim. Những tiếng xà lim mình và Phương đã đọc trong những hồi ký cách mạng. Nó lấp lánh ánh hào quang cao cả, anh hùng, lãng mạn. Chúng mình cũng sống trong xà lim, nhưng không mang vầng hào quang ấy. Ngược lại đó là sự hạ nhục. Nhưng lương tâm chúng ta trong sáng. Và chúng ta bình đẳng với tất cả. Từ nay không ai có thể lòe chúng ta về chuyện tù đày, không ai có thể làm lóa mắt chúng ta về báu vật ấy.

Chỉ có điều chúng mình không thể nào hiểu nổi vì sao đang là đồng chí bỗng dưng lại biến ngay thành kẻ thù như vậy.

Hắn ngơ ngác nói với ông Lan:

– Thưa ông. Làm sao tôi lại chống Đảng, chống cách mạng. Không có cách mạng, tôi có thể làm gì? Một anh lý trưởng. Chánh tổng. Hoặc hương sư. Đảng đã trao cho tôi cây bút để tôi trở thành nhà văn. Cách mạng đã tạo nên một hiện thực phong phú anh hùng, tốt đẹp như thế để tôi thể hiện trong sáng tác. Rõ ràng các ông không hiểu tôi. Làm sao tôi lại đi chống cách mạng, chống Đảng.

Ông Lan đã tập hợp khá đầy đủ những yếu tố bất mãn của hắn: Không được đề bạt, ngoài Đảng, kêu ca mậu dịch, kêu ca cuộc sống khó khăn, tuyên bố không sáng tác, chán cả vợ con.

Vào xà lim ít ngày, nghe hỏi cung ít ngày, hắn đã quen. Hắn không thấy uất nghẹn nữa. Hắn đã quen với thói bẻ queo các hiện tượng phục vụ việc hãm hại hắn. Như hôm đầu tiên hắn được gọi. Nghĩa là ba hôm sau khi hắn bị bắt.

Ông Lan chỉ ghế cho hắn ngồi:

– Sao? Suy nghĩ nhiều lắm phải không?

Hắn cởi mở chân thành với tinh thần của người đồng chí:

– Thưa anh. Tôi không thể nghĩ được rằng tôi lại bị bắt.

Chưa đáp lại câu nói của hắn, ông Lan giảng giải về nội dung xưng hô cái đã:

– Các anh bây giờ là đối tượng của cách mạng. Chúng tôi là những người đại diện cho chính quyền. Các anh bất kể tuổi tác thế nào đều phải gọi chúng tôi là ông, là bà. Đây là nội quy chung. Nhưng riêng trường hợp anh có thể gọi tôi là anh cũng được.

Trong “lần thứ nhất giao duyên ” ấy mình đã được ông Lan đặt đúng vị trí của một tên tội phạm chống Đảng, chống chế độ. Và sự gia ân ông Lan dành cho mình mới to lớn làm sao: Được gọi cán bộ là anh! Bắt một người vô tội vào tù, biệt giam xà lim, rồi cho người ấy một biệt đãi được gọi cán bộ là anh. Làm sao mình có thể hiểu được họ. Phương có được ưu tiên như mình không. Và có sử dụng đặc ân ấy không?

Sau đó ông Lan mới giảng cho hắn về điều chính yếu một cách thản nhiên, gần như ôn tồn:

– Tất nhiên. Không một kẻ phạm tội nào lại nghĩ rằng mình bị bắt. Thằng ăn cắp nếu nó nghĩ nó sẽ bị bắt, nó đã chẳng đi ăn cắp. Con điếm cũng vậy. Nếu nó nghĩ nó sẽ bị bắt, nó đã chẳng đi làm điếm. Đó là quy luật.

Hắn thấy nghẹn ở cổ vì bảng xếp loại của ông Lan và việc hắn nghĩ hắn không thể bị bắt lại đúng quy luật của bọn tội phạm, chẳng có gì là lạ.

Nằm trong căn phòng của Phương, trong bóng tối của các cửa đóng kín, hắn trở về với những ngày đầu tiên ấy. Hắn được dẫn vào một phòng có những hai cái bàn. Một dành cho ông Lan. Và cái thứ hai chất đầy những bản thảo giấy tờ của hắn. Hắn được phép giở đống tang vật ấy. Xếp loại. Cùng với ông Lan xếp loại.

– Hải đăng Tiểu thuyết

– Hoa cau Truyện dài

– Làn sóng thứ nhất Tiểu thuyết

– Những người đang sống Kịch bản phim

– Những chuyện trên một vùng cửa biển Tập truyện ngắn

– Đầu cầu Trường ca

v. v…

Hơn một nghìn trang pơ-luya, với thứ chữ nhỏ ly ti. Miệt mài. Sao lại mộng du được dài như vậy. Hắn tự thấy hoảng lên vì kết quả lao động to lớn của chính hắn. Lẽ ra hắn đã được hàng nghìn đồng nhuận bút. Quyển Hải đăng nhà xuất bản đã vào kế hoạch, giục hắn đưa in nhiều lần, nhưng hắn còn cố sửa. Sửa đến từng dấu phẩy. Hắn muốn quyển đó là chef d’oeuvre(1)của hắn. Kịch bản Những người đang sống thì đã ký hợp đồng với xưởng phim và đã được ứng trước sảu trăm đồng. Đó là nhờ công sức của Nguyễn Vũ Phương.

Hắn lại được sờ vào những tờ giấy mà hắn đã mười năm miệt mài với bao mộng mơ, sự cố gắng vươn tới cái trần của mình, như một người thi đấu thể thao, luôn phải đạt mức cao nhất có thể đạt được. Lại cũng như một con kiến cần cù, kiên nhẫn tha từng bụi tấm về tổ. Trong một buổi hỏi cung sau này, hắn đã buộc lòng phải giảng giải cho ông chấp pháp để đáp lại lời buộc tội của ông là hắn bất mãn, chán không muốn viết, muốn bẻ bút.

– Thưa ông. Hơn một nghìn trang pơ-luya nếu in ra sẽ thành một nghìn năm trăm trang, nghĩa là dày bằng bộ Tam Quốc. Hãy cứ cho là tôi chỉ nháp có một lần và chép sạch một lần thì tôi đã viết ba nghìn trang. Mà phần lớn tôi viết về đêm, ngày lễ, ngày chủ nhật. Nếu chỉ viết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Độc lập Tự do Hạnh phúc ngoài giờ chính quyền được ba nghìn trang cũng là một sức lao động không nhỏ. Đó là chưa kể còn phải lấy tài liệu, sống với nhân vật, suy nghĩ, sắp xếp…

Nhưng giờ đây những tập bản thảo ấy chỉ là những tờ giấy vô hồn. Làm gì có văn chương, cuộc sống, tiếng cười, tình yêu, mặt trời, biển cả. Những tờ giấy ấy chỉ đơn giản là tang vật của vụ án. Như một bộ quần áo ăn cắp, như một cái chìa khóa vạn năng có thể phá mọi ổ khóa, như một đống tài liệu phong phú để lật tẩy bộ mặt thật tội lỗi của hắn. Hẳn ông Lan tin chắc rằng sẽ tìm thấy những câu, những chữ, những ý nào đấy chứng tỏ hắn là kẻ xỏ xiên, bất mãn, căm ghét chế độ. Ông hỏi hắn về những tờ giấy rời, sắp xếp nó vào đúng tập như một biên tập viên nhà xuất bản nhiệt tình, ân cần, trách nhiệm.

Lúc ấy mình không nghĩ gì, Phương ơi. Những bản thảo của mình sao xa lạ thế. Mình dửng dưng với nó. Khi người ta bị bắt, bị nhốt vào xà lim, nghệ thuật là vô nghĩa. Hơn thế còn là một sự mỉa mai, giễu cợt. Lúc bấy giờ

 

(1) Tác phẩm chủ chốt

mình vĩnh biệt chúng mà mình không biết. Mình vẫn tin rằng chúng sẽ trở về với mình, vì chúng đươc viết ra với những ý nghĩ tốt đẹp thế cơ mà! Rồi họ sẽ hiểu mình. Mình sẽ được ra. Đây chỉ là sự hiểu lầm đáng tiếc. Chúng sẽ trở về với mình. Lúc ấy mình đâu đã biết được đặc tính “Không bao giờ mắc sai lầm, luôn luôn đúng, luôn luôn công minh sáng suốt” của họ. Bởi vậy sau này nhớ lại lần soạn bản thảo sáng hôm ấy mình mới hiểu ra rằng mình là một người bố sắp bị hành quyết được sờ vào thi thể các con mình.

Ông Lan giở một bọc nhỏ. Nhìn vào, hắn biết ngay là họ đã về quê khám nhà bố hắn. Truyện Con dế trong căn buồng ông thuyền trưởng để ở quê nay cũng đã nằm trên bàn.

Khổ thân bố. Bố là người được cả huyện kính nể nay phải mang vết nhục này. Khi ông Lan lập biên bản về những bản thảo, sổ tay, thư từ nhật ký xong và hắn đã ký vào đó, ông hỏi hắn:

– Anh còn giấy tờ cần chuyển về cơ quan hay gia đình không? Chị ấy vẫn ở trên trường, chưa về. Chúng tôi đã về quê, gặp cụ. Nói chung là cụ xác định được.

Lúc bấy giờ mình mới nhớ ra. Mình móc túi áo. Mảnh biên lai may áo sơ-mi. Cái giấy công tác đi ngoại thành và gần chục cái vé phà, mỗi vé năm xu. Mình gửi cả cho ông Lan. Để ông ấy đưa cho Ngọc. Trở về xà lim, mình hiểu rằng mình không còn chút liên hệ nào với cuộc đời nữa. Và nghĩ đành phải chờ thôi. Cắn răng lại mà chờ thôi. Chờ người ta đọc. Chờ người ta hiểu. Chờ thời gian. Thời gian xà lim thì Phương đã biết nó thế nào rồi. Mà thời gian xà lim cũng chỉ mới là khúc dạo đầu.

Những giày vò ngày mai – truyện ngắn Phùng Thị Hạ Nguyên

nguyên 6
Phùng Thị Hạ Nguyên

 

Thôi em hãy đứng dậy

người bán hàng đã ngủ sau quầy

anh đưa em đi trốn

những giày vò ngày mai”

(Thanh Tâm Tuyền)

 

Nhà nghỉ nằm gần một ngôi chùa trong hẻm. Khi Hoà đẩy đầu xe vào, lấy thẻ xe từ cậu trai bảo vệ, Huyên vẫn tần ngần đứng ngắm chùa. Ngôi chùa nhỏ màu vàng, thanh sạch, yên tĩnh, Cửa chùa rộng mở nhưng trong sân không một bóng người, chỉ có cây lựu già nằm cạnh cổng nhấp nháy đu đưa cả chục chiếc lồng đèn nhỏ mọc lủng lẳng trên cây.

Lúc Hoà rùng mình gục đầu vào cái hõm nơi cổ Huyên, chỗ xương quai xanh vẫn gồ lên khi Huyên mặc áo cổ thuyền, Huyên chầm chậm vuốt mồ hôi trên trán Hoà, vừa vuốt nhẹ dọc sống lưng người thương, vừa nghĩ đến ngôi chùa màu vàng. Sao người ta lại xây nhà nghỉ bên cạnh chùa? Hàng ngày có hàng chục đôi trai gái như Hoà, Huyên, theo cái bảng ghi giá phòng đầy chào mời mà ghé vào đây, vùi vào nhau vội vàng cho kịp năm mươi nghìn giờ đầu, hai mươi nghìn giờ sau. Phật ở bên chùa đã đắc đạo, liệu có vì vài hơi thở gấp, vài tiếng rên khẽ theo nhịp mà thở dài, mà xao động hay không? Sao khi bên này người ta đi dọn phòng hàng giờ, vứt đi cả chục bao cao su đủ màu đủ mùi, thay hàng chục tấm drap giường nhàu nhĩ thì bên kia, trong hồ sen, bầu trời vẫn trong xanh thơm ngát , tiếng kinh vẫn đều đều xa vắng không chút bụi trần? Nếu ngoại biết Huyên hư thân ngay chốn tu hành linh thiêng, chắc ngoại rầy Huyên lắm.

Huyên gỡ người Hoà chầm chậm, kéo gối lại kê dưới mái đầu bù xù bết mồ hôi, khẽ khàng vào nhà vệ sinh rửa ráy, mặc lại quần áo. Huyên đã quen với cảm giác ê ẩm, hụt hẫng sau mỗi cơn yêu cuồng vội. Những lúc đầu, nằm trong bóng tối Huyên thường khóc. Nước mắt len lén chảy, chẳng vui, chẳng buồn, chỉ thấy rất bơ vơ. Dù Hoà đã vòng tay chặt hơn, hay xoa vai Huyên nhẹ nhàng cho đến khi mệt lả, từ từ chìm vào giấc ngủ. Dần dần rồi Huyên quen, không còn khóc nữa, chỉ nằm lặng rồi suy nghĩ vẩn vơ. Có lúc Huyên cầm khăn bông, tỉ mẩn thấm mồ hôi từng ngóc ngách trên người Hoà, lặng nhìn người thương say ngủ, mặt như đứa bé, không âu lo, tính toán, không cáu gắt, muộn phiền.

Chiều muộn, Hoà thường chở Huyên ra bờ sông, ngắm từng đợt bèo, đợt rác lững lờ trôi theo dòng nước. Nói với nhau những chuyện rất xa xôi. Chỉ trỏ những cô gái có hình xăm trên vai, trên ngực, trên bắp vế, bàn về cách thức ăn xin của những tập đoàn chăn dắt, rồi nhìn lên nền trời mà đặt tên cho những đám mây. Cũng có hôm cãi lộn, Huyên bắt xe ôm về trước. Hoà tới nhà, đập cửa rồi nài nỉ rồi đập chậu cảnh trên balcon rồi khóc rồi nước mắt rồi lại lao vào nhau khao khát, tủi hờn. Nên Huyên thích nhìn Hoà như đứa bé, lịm ngủ trên người mình, khuôn mặt dịu dàng chưa hết ngây thơ.

Lâu lâu nằm trong bóng tối Huyên thường nhớ đến khung cửa sổ nhỏ phòng trọ cũ của Hoà. Đối diện là hàng rào lưới leo đầy những ngọn mồng tơi, người ta phơi quần áo trên đó, thấp thoáng trong cái màu non mướt của lá là những xi líp ren đỏ, quần đùi ngả màu, khẩu trang hình búp bê sặc sỡ. Huyên đã thành đàn bà trong chao nghiêng những cú nhấp, chao nghiêng những sắc màu rộn rã ấy. Khung cửa sổ thật buồn. Nhân gom mớ khăn giấy đầy máu thấm giữa hai đùi Huyên, cho vào túi đen đem vứt vội vã, khi Huyên chưa kịp hỏi xin một tờ đem ép vào nhật ký. Nước mắt chảy dài, nằm nghe mùi xào nấu từ căn bếp hàng xóm, tiếng trẻ con nô đùa ngoài đầu hẻm, thấy một cái gì đó vừa rơi rất sâu, mãi vẫn chưa chạm tới đáy. Đứa bé gái tên Huyên đã chết nơi phòng trọ tối, tường nhà dán giấy báo nham nhở, cửa sổ hẹp và bầu trời rất xanh. Chỉ còn lại Huyên – đàn bà, thành thục, yếu đuối, hay ngẩn ngơ, hay buồn, hay khóc.

Mỗi lần Hoà gút đầu cái bao cao su mới dùng xong, cho vào gói giấy đem vứt, Huyên trầm trồ đống dịch nhỏ màu trắng ở cuối bao, “Bao nhiêu là em bé anh nhỉ?”. Hoà chỉ xoa đầu Huyên cười, nhìn cô gái nhỏ của mình thơ dại, vừa trẻ con vừa rất mực đàn bà. Huyên thì mải bận ngồi tính toán, nếu như mỗi lần mình “làm” mà đẻ một em bé thì đến bây giờ đã có bao nhiêu con. Những mẩu dịch không gặp nhau, những em bé không thành người, sẽ nô giỡn ở đâu nhỉ?

Huyên và Hoà nuôi chung một con heo đất, mơ giấc mơ Sapa sương mờ, Mù Căng Chải ruộng bậc thang lúa chín vàng trong gió, mơ váy cưới trắng muốt, chiếc xe tay ga lướt êm ru, khi dừng đèn đỏ không cần trả số. Mà mỗi tháng Huyên đều phải lấy nhíp khoèo ra vài tờ năm chục, một trăm, khi tới tháng mà vẫn chưa có lương, mẹ Huyên đau lưng hay em gái Hoà cần học phí. Heo ăn mãi không no, những giấc mơ dang dở, hai đứa tặc lưỡi, thôi ráng chờ tháng sau.

Có trưa trốn máy lạnh công ty xách hộp cơm ra công viên ăn trưa, nhìn dòng người ngược xuôi xuôi ngược, nhìn nắng đan qua kẽ tay, Huyên rút điện thoại nhắn cho Hoà một tin, “Em thương hai đứa mình lắm”. Rồi ngồi ngẩn ngơ không biết hôm nay Hoà được phân giao hàng ở quận nào, trời nắng có bịt khẩu trang không.

Nhà trọ toàn ở ghép, Hoà đến chỉ để ăn cơm, góc của Huyên là cái ô nhỏ gần cửa sổ, ăn xong vội vàng dọn rửa rồi dắt díu nhau ra đường. Bờ sông, ghế đá, bãi cỏ dưới chân cầu đi hoài cũng chán, rồi cũng tấp vào năm mươi bảy mươi(1), quýnh quáng yêu rồi mệt nhoài về chờ đến tối mai. Thành phố nhỏ quá, giấc mơ thì lớn, tình của Huyên chắc cũng như bèo, trôi hoài hoài rồi mệt nhoài, chết giấc trên đường theo sông ra biển.

Huyên thích nằm dụi đầu vào ngực Hoà trong bóng tối, rờ rẫm từng chỗ hõm, từng nốt ruồi, vết bớt. Rồi tưởng tượng đến lúc chia tay, Hoà lấy vợ, người ta cũng sờ, cũng biết từng vết sẹo, từng nốt chai. Bất giác nước mắt chảy. Rồi lại nhớ thơ Thanh Tâm Tuyền, “Anh là thằng điên khùng/Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới”(2). Rồi lẩm nhẩm những bài thơ tình mòn mỏi trong sổ tay.

Có tiếng chuông chùa. Âm vang, gần lắm mà xa lắm. Huyên không muốn đánh thức Hoà dậy. Cứ nằm mãi ở đây, ngủ yên an trong lòng nhau. Không quá khứ, không tương lai, không buồn thương, không mất mát, không mệt nhoài.

Trong giấc mơ của Huyên tối nay sẽ có áo cưới phồng xoè ren trắng, có Sapa lồng lộng sương gió, có những giọt dịch trắng được ấp ủ trong lòng Huyên thơm ngát, thành rất nhiều em bé phúng phính nô đùa…

 

Chú thích:

(1) Tiếng lóng chỉ nhà nghỉ bình dân.

(2) Trích bài thơ Dạ khúc của Thanh Tâm Tuyền.

Tác giả gửi Văn Việt.

Góp ý với Văn Việt

Từ ngày Văn Việt ra đời, tôi thích thú theo dõi hằng ngày. Có nhiều vấn đề cần được trao đổi rộng rãi để Văn Việt ngày càng thật sự là Văn Việt. Hiện nay, có một số người “cách mạng nòi” coi Văn Việt như một “kẻ đối kháng” vì không viết và nói theo họ chỉ đạo. Thôi đó là vấn đề khác. Chỉ biết rằng Văn Việt ra đời cũng như hàng trăm trang mạng “trung thực và phản biện” đã thu hút lượng bạn đọc rất đông đảo, đôi khi làm cho người làm “báo cách mạng” phát thèm. Viết báo, viết văn là phản ảnh thực tế cuộc sống, tôn vinh triết lý sống và rất cần có người đọc. Nếu Văn Việt có thiện chí tiếp thụ những góp ý của bạn đọc gần xa thì tôi, một bạn đọc 80 tuổi rồi vẫn sẵn sàng có ý kiến. Còn bây giờ, xin có một đề nghị nhỏ:

Lịch sử văn học, văn chương nước nhà có nhiều khúc quanh, nhưng cũng rất phong phú và có những thời kỳ thăng hoa với những tác phẩm để đời. Để không mắc vào vết xe đổ” tuyên truyền một chiều” và văn chương phải là văn chương, Văn Việt nên cung cấp cho bạn đọc nhiều tác phẩm bất hủ của trong nước và thế giới, qua rất nhiều thời kỳ thăng trầm của lịch sử nói chung và lịch sử văn học nói riêng. Chúng tôi mong Văn Việt giới thiệu trên trang của mình nhiều, trước mắt là một số tác phẩm tiêu biểu trong nước của thời kỳ Phục Hưng, văn chương của các thời kỳ phong kiến nổi tiếng, các tác phẩm gần đây nhất của nhóm “Tự lực văn đoàn”, các tác phẩm của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, của các nhà văn mà tác phẩm của họ sống mãi với thời gian. Tôi đề nghị Văn Việt giới thiệu lại tác phẩm “Đống rác cũ” cả hai tập của nhà văn Nguyễn Công Hoan, của nhóm tác giả Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, của Hoàng Cầm, Phùng Quán… cho đến các tác phẩm “bị cấm” như “Đại gia”, “Sắp cưới”, “Vào đời”, v.v. Thông thường số báo nào bị cấm, tác phẩm văn học nào bị cấm y như bạn đọc nháo nhào tìm đọc nhiều hơn lúc bình thường. Tôi tìm mỏi mắt không thấy tác phẩm “Đại gia” ở đâu.

Giới thiệu lại những tác phẩm này góp phần tôn vinh một nền văn học đa dạng, nhiều vẻ của các giai đoạn phát triển thăng trầm của nền văn học nước nhà. Bên cạnh đó cũng cần bố trí giới thiệu những tác phẩm nổi tiếng, cổ điển, trung cận đại và hiện đại của các nền văn học hiện đại thế giới. Thế giới hiện gồm có 205 nước và vùng lãnh thổ, những chúng ta lại chỉ chú trọng quan hệ hợp tác về một số mặt với một số nước là chưa đúng với phương châm người ta đề ra là “làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” thành thử người đọc, người nghe, người xem cứ bị “méo mó” nhận thức…

Vài ý kiến mạo muội như vậy được không?

Kính chúc Văn Việt khỏe và phát triển mạnh, góp phần xây dựng một xã hội dân sự tốt đẹp trong tương lai gần.

Nguyễn Thanh Hà, 80 tuổi, cựu phóng viên Thông tấn xã Việt Nam, hưu trí tại Hưng Yên. Bút danh: Nguyễn Mộng Hoài, Đoàn Vương Thanh, Thanh Hà.

 

Nguyễn Huy Thiệp và bước ngoặt của Văn học Việt Nam sau năm 1975 (kỳ 2)

Lã Nguyên

3. Từ không gian huyền thoại đến không gian truyện kể. Bước ngoặt của hệ hình ngôn ngữ

Không gian nhà binh trong văn học trước 1975 và không gian sinh hoạt thường nhật trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp không chỉ là hai “loại”, mà còn thuộc hai “hệ” khác nhau: loại trước thuộc hệ hình huyền thoại, loại sau thuộc hệ hình truyện kể. Là những ngôn ngữ khác nhau, các hệ hình không gian này có “ngữ pháp” riêng. Có thể dựa vào bốn đặc điểm khu biệt để nhận ra sự khác nhau giữa hai hệ hình ấy.

3.1. Mở rộng – đóng kín. Huyền thoại là mô hình vũ trụ. Dựa vào mô hình vũ trụ, không gian nhà binh trong văn học trước 1975 là không gian “mở”. Nó thuộc loại không gian“đường – bãi”: “bãi chiến trường”, “đường cách mạng”. “Đường cách mạng” là “đường thiên lí”. “Bãi chiến trường” là “đất quê ta mênh mông” (thơ Dương Hương Ly). Nó trải dài, mở rộng vô giới hạn:

Trên đầu ta, trời rộng vô cùng.

Và trước mắt, đất dài vô tận

(Tố Hữu, tr. 283)

Ngay một nông trường cà phê cũng trùm ôm vũ trụ:

Nông trường ta rộng mênh mông

Trăng lên, trăng lặn vẫn không ra ngoài

(Nông trường cà phê – Tế Hanh)

Không gian truyện kể là không gian tuyến tính. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nó là không gian “đóng”. Cũng có thể gọi nó là không gian “điểm”. Mọi đơn vị không gian trong sáng tác của ông, từ vi mô tới vĩ mô, đều đóng kín, khép chặt. “Nhà” được đóng kín bằng hàng rào. Nhà Lâm (Những bài học nông thôn) đã “ở cuối xóm, sâu trong ngõ nhỏ”, lại có “hàng rào trồng cây cúc tần”. Nhà Phạm Ngọc Liên (Giọt máu) được rào kín bằng tường bao: “… tường cao ba mét xung quanh, trên cắm mảnh sành, mảnh thuỷ tinh. Vữa là vôi cát trộn mật, đặc quánh”. Ở qui mô lớn hơn, những rặng núi, dòng sông, cánh đồng… làm thành hàng rào bọc kín mít làng mạc, thôn xóm. Đây là ngôi làng của Nhâm trong Thương nhớ đồng quê: “Đi trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhỏ trên đồng vàng. Xa mờ là vòng cung Đông Sơn, trông thì gần, nhưng từ làng tôi đến đấy phải năm mươi cây số” (tr. 253). Trong Những ngọn gió Hua Tát, bản “Hua Tát ở trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc”. Hua Tát có thể ra ngoài bằng nhiều lối, nhưng “lối đi chính” cũng chỉ “vừa một con trâu. Hai bên lối đi này đầy những cây mè loi, tre, vầu, bứa, muỗm và hàng trăm thứ cây dây leo không biết tên gọi là gì” (tr. 297).

3.2. Phân tầng – xoá bỏ tôn ti. Từ trong bản chất, huyền thoại thuộc thiết chế trung tâm. Nó có chức năng đưa thế giới hỗn độn vào khuôn phép trật tự. Trước 1975, văn học tạo ra một hệ thống tôn ti để đưa không gian vô hạn vào trật tự, khuôn phép. Ở đây thế giới được chia thành tầng bậc theo trật tự thấp – cao, trên – dưới. “Thấp”, “cao”, “trên”, “dưới” không hẳn là phạm trù định giới, mà chủ yếu là phạm trù định giá. Chúng xác định vị thế, đánh giá phẩm chất, nói lên tương quan giữa “ta” với “địch”, giữa “xưa” và “nay”. “Ta” – đứng trên đầu “thù”:

Sức ta là sức thanh niên

Thế ta là thế đứng trên đầu thù

(Tố Hữu, tr. 202)

“Thù”: là xác chết dưới chân ta:

Anh tên gì hỡi Anh yêu quí

Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng

Như đôi dép dưới chân anh dẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị sáng trong

(Dáng đứng Việt Nam.  Lê Anh Xuân)

Lãnh tụ ta: vòi vọi trên cao. Dưới thấp: đế quốc đê hèn:

Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút,

Trán mênh mông, thanh thản một vùng trời

Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng

Đêm tàn bay chập choạng dưới chân người

(Tố Hữu – tr. 170)

Xưa: các vị La Hán “ngồi” dưới vực thẳm:

Các vị ngồi đây trong lặng yên

Mà nghe dông bão nổ trăm miền

Như từ vực thẳm đời nhân loại

Bóng tối đùn ra trận gió đen

(Các vị La Hán chùa Tây Phương  Huy Cận)

Nay: miền Bắc “thiên đường của các con tôi”, Liên Xô – “thiên thần bay giữa giăng sao” và nhà thơ reo vui: “Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng” (Tố Hữu, tr. 259).

Không gian “khép kín”, “đóng chặt” trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là không gian phi tầng bậc. Nền tảng của truyện kể là sự kiện. Sự kiện là cái ngẫu nhiên. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đầy ắp những chuyện trớ trêu, nực cười. Trong Chảy đi sông ơi, chị Thắm chở đò ngang, cứu được nhiều người thoát chết đuối, cuối cùng, chị lại chết đuối mà không ai cứu. Trong Tướng về hưu, cả đời vào sinh ra tử, xông pha nơi mũi tên, hòn đạn, tướng Thuấn lành lặn trở về. Đến khi về thăm đơn vị một bận “dối già”, chỉ lên “trận giả” luyện binh, thế mà ông “chết thật”. Những chuyện trớ trêu, ngẫu nhiên như thế là những biến cố không thể đảo ngược. Cho nên, lấy sự kiện làm nền móng, truyện kể đặt toàn bộ thế giới vào “toạ độ” của cái “đương đại đang tiếp diễn” đầy những phù vân, dang dở. Nhờ thế, lần đầu tiên trong văn học sau 1975, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp xoá sạch không gian “tôn ti”. Ở đây mọi trật tự “thấp – cao”, “trên – dưới” đều bị lật ngược, đảo lộn.

Trong Chảy đi sông ơi, đám dân chài như quỉ ác tác quái trong đêm, lại có “con chuột to bằng bắp chân” từ quán trùm Thịnh “phóng thẳng ra ngoài cứ cười hềnh hệch” giữa ban ngày. Trong Con gái thuỷ thần, có đôi “giao long” “quấn nhau” trong “nia rách” và Mẹ Cả chỉ là “khúc gỗ mục chẳng hình thù gì”. Trong Muối của rừng, con người phải tồng ngồng giữa thiên nhiên như con vật, tư cách không bằng mấy con khỉ. Trật tự “sáu cõi” bị đảo lộn, ranh giới giữa người và vật, giữa quỉ với người thế là bị xoá bỏ.

Trong Không có vua, giữa ông Kiền vá xe, anh Cấn cắt tóc, Khiêm nhân viên lò mổ, Tốn dị dạng với Đoài công chức ngành giáo dục, Khảm sinh viên, chẳng thấy ai danh giá hơn ai. Lại có chuyện bố chồng nhìn trộm con dâu tắm, em thề độc sẽ “ngủ” bằng được với chị dâu, con cái họp nhau lại để “biểu quyết”: “Ai đồng ý bố chết giơ tay”. Ở nơi người hoá thành ma quỉ, “quỉ ở với người”, dĩ nhiên, trong nhà sẽ chẳng còn thế thứ; nghề nghiệp, địa vị xã hội cũng không phân chia thành “quí – tiện”. Ngay cả “văn chương” cũng thế. “Có thứ văn chương trốn đời, trốn việc”. “Có thứ văn chương làm loạn”. Lại có “văn chương hành nghề kiếm sống”, văn chương “vừa phải” thiên hạ đua nhau “học để làm quan” giống như mua “thịt dọi” ngoài chợ. “Thơ chỉ là thứ du dương bất lực”, “danh hiệu nhà thơ là thứ danh hiệu lỡm người bạc phúc” (Giọt máu), chẳng báu bở gì.

Hầu như tác phẩm nào của Nguyễn Huy Thiệp cũng ít nhiều đề cập tới chủ đề luân lí. Vàng lửaChút thoáng Xuân Hương có lẽ là những truyện ngắn bàn luận tập trung nhất về hàng loạt mối quan hệ cực kì phức tạp giữa “thiện” và “ác”, giữa “tục” với “thanh”, “vinh” và “nhục”… Trong Chút thoáng Xuân Hương, tri huyện Thặng trị nước theo kiểu bá đạo mà dân không loạn, ông Phủ Vĩnh Tường lấy vương đạo trị dân, đến khi chết chẳng thấy họ hàng quyến thuộc ở đâu. Vua Gia Long và Nguyễn Du trong Vàng lửa cũng là cặp đối lập như vậy. Nguyễn Du “yêu nhân dân mình”, “ông không đứng cao hơn họ, không hưởng thụ cao hơn họ”, nhưng “lòng tốt của ông là thứ lòng tốt nhỏ, không cứu được ai” (tr. 212, 213). Nguyễn Du “hơn những người khác ở nhân cách nhưng nhân cách ấy có giá trị gì khi cuộc đời thực của ông xúi xó, túng kiết?” (tr. 211-212). “Lòng tốt” và “nhân cách” của Nguyễn Du là “lòng tốt” của văn nhân. Vua Gia Long thì khác, ông hiểu “đời sống cộng sinh” là một “sàn diễn”. Nhà vua“đóng trò rất giỏi trong triều đình” (tr. 210). Ông“dám bỡn cợt với tạo hoá, dám mang cả dân tộc mình ra lường gạt, phục vụ cho chính bản thân mình. Ông làm cho lịch sử sinh động hẳn lên. Đấy là lòng tốt của nhà chính trị” (tr. 213). Trong Chút thoáng Xuân Hương, Ấm Huy nhận ra sự bất lực của ông Phủ Vĩnh Tường và thấy tri huyện Thặng “đúng một cách khốn kiếp”. Trong Vàng lửa, Phăng gọi vua Gia Long và Nguyễn Du là “những khối nguyên liệu vô giá, những vật quốc bảo” (tr. 212). Quả là không có ranh giới phân chia “văn nghệ” với “chính trị”. “Thiện” và “ác”, “vinh” với “nhục”, “tục” và “thanh” không phải là các cực đối lập, càng không phải là những giá trị có thể xếp đặt theo tôn ti, hay trật tự “thấp – cao” nào đó. Gia Long có lí khi nói với Phăng: “Vinh quang nào chẳng xây trên điếm nhục?”(tr. 211),“Sẽ đến lúc nền chính trị thế giới giống như món nộm suồng sã, khái niệm thanh khiết ở đây vô nghĩa”(214). Chị Hiên trong Những bài học nông thôn cũng có lí khi bảo: “Lấy chồng phải anh nghèo, bất tài mà lại cao thượng thì hãi lắm. Nó làm tan nát đời người đàn bà như bỡn” (tr. 178).

Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp còn đảo ngược tôn ti, trật tự của không gian nhận thức. Trong Bài học tiếng Việt, văn sĩ Vũ quả quyết: “Không phải “ý thức” như người ta vẫn nghĩ, mà “trực giác” mới là “trung tâm thần kinh”: Người ta đã “lịch sự”, đã “chính trị”, đã đạo đức giả, đã cố ý lờ đi cái ấy: con người tự nhiên, kẻ thành thật nhất, trung hậu nhất, ngang bướng và ương ngạnh. Vũ trân trọng gọi con người tự nhiên ấy là “ông lớn”. “Ông lớn” còn có ông nhỏ gọi là “ông b…”. Hãy lắng nghe ông ta! Đấy là bậc thầy của trực giác. Ông ta có luật chơi riêng chi phối tính cách con người, thậm chí số phận con người. Ông ta mới là trung tâm thần kinh, mới là trí tuệ. Hoàn toàn không phải là đầu óc, mà là đầu b… Người ta đã tôn vinh một nguỵ quân tử đẹp mã mà quên đi vị quân tử thực: bái vật tổ đại phu, nhà chiến lược” (tr. 692-693).

Việc xoá bỏ hệ thống tôn ti và trật tự tầng bậc của không gian giá trị là cơ sở để sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp tẩy sạch mạng lưới huý kị trong diễn ngôn văn học trước 1975.

3.3. Nguyên khối – phân mảnh. Tư duy huyền thoại dựa vào quy luật tuần hoàn của tự nhiên. Nó tạo ra bức tranh thế giới như một tiến trình phi xung đột. Được kiến tạo theo nguyên tắc huyền thoại, không gian nhà binh trong văn học trước 1975 dù mở rộng đến đâu vẫn là một chỉnh thể nguyên khối. Ở đây, không có chỗ đứng cho “chúng nó”: “Trời không của chúng bay. Đạn ta rào lưới sắt. Đất không của chúng bay. Đai thép ta thắt chặt” (Tố Hữu, tr. 175). Toàn bộ không gian ấy là của “chúng ta”: “Trời xanh đây là của chúng ta. Núi rừng đây là của chúng ta” (Đất nước  Nguyễn Đình Thi), “Của ta trời đất đêm ngày. Núi kia, đồi nọ, song này của ta” (Tố Hữu, tr. 175). Mà “ta” hay “chúng ta”, trong đó đều có “ta” với “mình”, không gian nhà binh được đồng nhất với không gian của tình yêu đối lứa: “Ta với mình, mình với ta. Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Nó còn được đồng nhất với không gian “lễ hội, và không gian “dòng tộc”. Đời sống của ta là “bài ca”, là “bản nhạc”, “Xuân … mới đến dăm năm. Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội” (Tố Hữu, tr. 261). “Trái đất quay… quanh Liên Xô đoàn tụ loài người”, Triều Tiên với Việt Nam là “hai anh em. Sinh đôi cùng một mẹ”. Nước ta là của chúng ta: “Chúng ta con một cha, nhà một nóc. Thịt với xương tim óc dính liền”. Kiến tạo trật tự tôn ti, xác lập tầng bậc “cao – thấp”, không gian nhà binh trong văn học trước 1975 lại xoá bỏ ý niệm “gần – xa”: “Bên ni biên giới là mình. Bên kia biên giới cũng tình quê hương” (Tố Hữu, tr. 213), hoặc “Con đi xa cũng như gần” (Tố Hữu, tr. 153). Cho nên, ở phương diện này, là một ngôn ngữ, nó tạo ra trường nghĩa riêng. Mọi cung bậc tình cảm của con người được biểu đạt qua cấu trúc không gian ấy đều không vượt ra ngoài khuôn khổ của ba dạng cơ bản: thiêng liêng cao cả, thân thiết ấm áphớn hở tươi vui.

Như đã nói, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, tôn ti “trên – dưới”, tầng bậc “thấp – cao” của không gian sinh hoạt bị xoá bỏ. Nhưng bản thân sự đóng kín ở tất cả các cấp độ không gian lại tạo ra một bức tranh thế giới rã rời, phân mảnh. Hàng loạt truyện ngắn khác của Nguyễn Huy Thiệp cho thấy hoá ra, nhà ta không hề chung “một nóc”, trên đầu ta, đâu chỉ có “một trời”. Không phải ngẫu nhiên, vừa tiến sâu vào vùng núi thuộc đất đội Bình Minh, men theo những dãy núi đá vôi trập trùng cao ngất, Ngọc (Những người thợ xẻ) thấy mình“vừa bé nhỏ, vừa cô đơn, lại liều lĩnh, mà bất lực, thậm chí vô nghĩa nữa” (tr. 138-139). Miền xuôi và miền ngược, thành thị và nông thôn là những không gian hoàn toàn khác nhau. Từ bên trong, cả nông thôn lẫn thành thị cũng đang phân rã thành những mảnh nhỏ. Ở phố, nhà này liền kề nhà kia, ngày Tết vẫn qua lại chúc tụng (Không có vua), mà hoá ra chẳng ai biết ai. Gia đình, nền tảng của đời sống gia trưởng, thực sự là nơi đang tan ra thảm hại nhất. Các thành viên trong gia đình tướng Thuấn (Tướng về hưu), hay gia đình ông Kiền (Không có vua) được nối kết với nhau bằng sợi dây mong manh, lúc nào cũng có thể đứt tung, vô phương cứu vãn. Trạng thái phân mảnh, tan rã của không gian sinh tồn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp được thể hiện qua kết cấu truyện kể, ở lối hành văn, qua việc mô tả đối thoại và nhiều thủ pháp nghệ thuật khác. Có một thủ pháp, thấy Nguyễn Huy Thiệp hay dùng, ấy là “lạ hoá”. Ví như, ông thường miêu tả nông thôn qua con mắt thành thị, hoặc miêu tả thành thị bằng cái nhìn của người nông thôn. Kí ức của chị Hiên về Hà Nội (Những bài học nông thôn) chỉ ghi lại mỗi hình ảnh “ông đeo kính, để râu con kiến”. Trong ấn tượng của chị, “bọn thành phố toàn quân mất dạy”, “người Hà Nội ai trông cũng ác” (tr. 176). Thành thị và nông thôn là hai không gian sinh tồn, hai hệ thống chuẩn mực hoàn toàn khác nhau.

Nhìn chung, Nguyễn Huy Thiệp không xây dựng truyện kể theo mạch của một hành động xuyên suốt. Truyện của ông thường là sự nối kết một chuỗi hoạt cảnh với vô khối “chuyện vặt” mà nếu bỏ đi vài đoạn, độc giả không chuyên rất khó nhận ra sự thiếu vắng của nó. Truyện nào của Nguyễn Huy Thiệp cũng có nhiều lời thoại. “Nói” trở thành “hành động” chính của các nhân vật trong sáng tác của ông. Nhưng những lời thoại ấy không mấy khi có chủ đề chung để gắn kết với nhau thành đối thoại. Đã thế, lời thoại thường đặt lẫn vào mạch của trần thuật. Cả lời trần thuật gián tiếp, lẫn lời thoại trực tiếp đều dùng đoản ngữ, với những câu rất ngắn, thiên về thông tin khách quan, tiết chế tối đa sự định giá và biểu cảm. Lối tổ chức truyện kể, cách mô tả đối thoại và kiểu hành văn như vậy tạo ra một thế giới ngổn ngang sự kiện, “chỗ nào cũng toàn là người”, người và những sự vật vụn vặt tan rã thành muôn mảnh chẳng có gì gắn kết với nhau [11].

Không gian sinh hoạt trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp xoá bỏ tôn ti và trật tự “cao – thấp”. Nhưng cấu trúc phân mảnh lại khiến nó nới lỏng giới hạn “gần – xa”. Chương trong Con gái thuỷ thần bỏ mẹ, bỏ em, “nhằm hướng mặt trời mọc” tìm đường “đi ra biển”. Có một điệp khúc được điệp đi điệp lại:“Trước mặt tôi, dòng sông thao thiết chảy. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển, mà tôi đã sống một nửa cuộc đời rồi đấy…”. “Xa” trước hết có nghĩa là “xa xôi”, “xa vời”, “vô vọng”. Già nửa truyện ngắn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp kể về những cuộc lên đường, những chuyến ra đi. Chuyến đi nào, bất luận là của ai, vua chúa, tướng ta, hay cả một dòng họ, cũng là hành trình xa xôi, vô nghĩa, vô vọng. “Xa” còn có nghĩa là “xa lạ”, “xa cách”. “Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa”. Đó là tiếng nói nội tâm đầy xót xa của nhân vật “tôi” trong Tướng về hưu. Ở bản thảo đầu tiên của tác phẩm này, Nguyễn Huy Thiệp còn gửi vào dòng suy ngẫm của nhân vật nhận xét thế này: “Cha tôi bảo: Sao tôi cứ như lạc loài? Tôi nghĩ: Sao tôi cứ như lạc loài?” (tr. 708). “Lạc loài”, “cô đơn” là sự cảm nhận thấm thía về sự “xa cách”, “xa lạ” giữa con người với con người trong thế giới đóng kín, phân mảnh.

Có thể thấy, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là sự cộng hưởng của hai khu vực giao tiếp lời nói. Một mặt, nhờ xoá bỏ tôn ti và trật tự “cao – thấp”, không gian sinh hoạt ở đây trở thành ngôn ngữ của khu vực giao tiếp “suồng sã”. Mặt khác, cấu trúc phân mảnh, khép kín lại biến không gian ấy thành ngôn ngữ của những tiếng nói đơn độc, xa lạ, mình nói, mình nghe, những tiếng nói, ngay cả khi nó bỡn cợt, cũng gợi dậy ở người đọc một nỗi buồn nhẹ nhàng, mà mênh mang, sâu sắc.

3.4. Khởi nguyên – mạt thế. Tư duy huyền thoại dựa vào qui luật tuần hoàn của tự nhiên đã khuôn mô hình không gian trong văn học trước 1975 vào phạm vi của cái khởi nguyên. Sự sống được nói tới trong văn học bao giờ cũng bắt đầu từ “Ngày ấy”, “Từ ấy” và dừng lại ở “Hôm nay”, “Thu nay”, “Xuân nay”. “Hôm nay” là “buổi” “dựng xây đời” (thơ Chế Lan Viên), là “Đời vui đó, hôm nay mở cửa” (Tố Hữu). “Thu nay” là “Tháng Tám mùa thu xanh thẳm” (Tố Hữu), là “Mùa thu… khác rồi” (thơ Nguyễn Đình Thi). “Xuân nay” là “đỉnh cao muôn trượng” (Tố Hữu) với chiến thắng huy hoàng, bình minh rạng rỡ, mặt trời chói lọi. “Hôm nay ôn lại quãng đường dài”, nhìn về phía trước cái “ngày ấy”, “từ ấy”, chỉ thấy “địa ngục”, “gió đen”, “trời đất tối tăm”, thấy“nghìn đêm thăm thẳm sương dày” (Tố Hữu), thấy “Cha ông xưa đấm nát tay trước cửa cuộc đời. Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá” (thơ Chế Lan Viên). Nó là vũ trụ hỗn độn, phi thời gian, phi tồn tại. Nhìn về sau này, tương lai chỉ là sự nối dài của “đỉnh cao muôn trượng” kia. Đời “từ nay” thế là có hướng đi: “Gió lộng đường khơi rộng đất trời” (Tố Hữu), “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh” (thơ Hồ Chí Minh), chúng ta, những “người lính đi đầu”, “tất cả dưới cờ”, chỉ việc “hát lên và bước”, “tiến lên phía trước” (Tố Hữu, tr. 262).

Khác với huyền thoại, nền tảng của truyện kể là sự kiện. Tình huống làm nảy sinh sự kiện là xung đột. Dựa vào xung đột để kiến tạo bức tranh thế giới, mô hình không gian trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp được khuôn vào cái khu vực của thời mạt. Cái khung của không gian thời mạt được định vị ở một số điểm chủ chốt như sau:

 “Động loạn” là triệu chứng rõ nhất của thời mạt. Đọc chùm cổ tích Những ngọn gió Hua Tát, chỗ nào cũng thấy có “động rừng”. Trong Tướng về hưu có cô Thuỷ là con dâu ông Thuấn. Nghe nói bố chồng ngỏ ý muốn giúp ông Cơ và cô Lài dọn đỡ việc nhà, Thuỷ liền phản đối: “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ” (chữ in nghiêng, do tôi nhấn mạnh – L.N). Nhưng đã “về hưu” thì tướng còn “chỉ huy” ai? Bởi vậy, “loạn cờ” vẫn là hồn cốt của thiên truyện. Sau Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp viết Không có vua. “Không có vua”, dĩ nhiên, “cờ” càng “loạn”! Cho nên “động loạn” là chủ đề xuyên suốt gần như toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, từ truyện lịch sử như Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, cho tới truyện phong hoá, thế sự, như Tướng về hưu, Không có vua, Những người thợ xẻ, Huyền thoại phố phường, Giọt máu, Tội ác và trừng phạt

Không gian tâm linh bị bóp nghẹt là biểu hiện khác của thời mạt. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, không gian tâm linh này thường được mã hoá bằng truyền thuyết, huyền thoại bao bọc trong lớp sương khói âm u của làng bản, thôn xóm ngày xưa cùng những kỉ niệm thời thơ trẻ của con người, ví như chuyện con trâu đen trong Chảy đi sống ơi, hoặc Mẹ Cả trong Con gái Thuỷ Thần. Đôi khi, nó có thể được gợi ra qua những chi tiết kì ảo, hay chỉ đơn giản bằng một bức tranh. Bức tranh ba ông Phúc, Lộc, Thọ của nhà Lâm trong Những bài học nông thôn là chi tiết rất đắt: “Trang trí duy nhất trong nhà là bức tranh lụa cổ vẽ hình ba ông Phúc, Lộc, Thọ với dăm đứa trẻ dâng đào. Tranh lồng trong khung kính chăng đầy mạng nhện. Lâu ngày mặt kính mờ đi, trên mặt kính đầy vết cứt ruồi” (tr. 169-170). Tôi cố in đậm mấy chữ “đầy mạng nhện”, “mặt kính mờ đi”, “đầy vết cứt ruồi” để không cần bình luận cũng đủ thấy, ở đây, không gian tâm linh hoàn toàn trở thành góc khuất bị bỏ quên giữa không gian sinh hoạt thường nhật của con người. Trong Con gái thuỷ thần, chi tiết kể về hai loại giấc mơ của Chương cũng thuộc thứ “thần cú”, “nhãn tự” “biết nói” như vậy. Đây là giấc mơ của Chương về Mẹ Cả: “Một ngày đầy ắp công việc. Giấc ngủ kéo đến. Hình ảnh Mẹ Cả chen vào giấc ngủ ở một khe hở nào đó rất nhỏ, không phải thường xuyên, tôi không chắc một năm đã được một lần” (tr. 96. Những chữ in đậm do tôi nhấn mạnh – LN). Còn đây là những giấc mơ thường nhật của Chương: “Có lần mơ thấy đi cày, cày hết chân ruộng Gò mả nguỵ thì đến thị xã, cứ cày mãi, dân thị xã phải dắt nhau chạy. Có lần mơ thấy đào đá ong, xắn phải ngón chân cái, một lúc sau ngón chân lại tự mọc ra, lại xắn phải lần nữa, cứ thế vài chục lần, lần nào cũng đau lắm. Lại có lần mơ thấy lột giang, dao cứa đứt cả năm ngón tay, khi ăn cơm phải vục mặt xuống như chó. Đại để giấc mơ của tôi là thế, toàn những việc làm hàng ngày, chẳng ra gì” (tr.96). Quả là thế ưu thắng tuyệt đối nghiêng hẳn về không gian sinh hoạt thường nhật. Nó bóp nghẹt không gian tâm linh, chen cả vào giấc mơ, đẩy không gian tâm linh ra khỏi thế giới tinh thần của nhân vật.

Bản chất thời mạt thể hiện đầy đủ nhất ở hành động “sống”. Đọc sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, người ta thấy rõ, ở đây,“sống” đồng nghĩa với tha hoá. Trong Con gái thuỷ thần, Chương nhận xét: “Thời tôi đang sống là thời khó khăn gian khổ […]. Người ta rối rít tìm kiếm việc làm, kiếm tìm hi vọng” (tr. 123). “Mọi người rối rít cuống cuồng để tìm miếng ăn” (tr. 110). Cái “hi vọng” mà người ta “rối rít”, “cuống cuồng” tìm kiếm cũng chỉ là “miếng ăn”. Cho nên, sự tha hoá diễn ra ở ngay hành động “tìm miếng ăn” này. Mọi công việc thổ mộc, từ cày bừa, gặt hái, đào đất nung gạch (Con gái thuỷ thần, Những bài học nông thôn) cho tới đẵn cây, xẻ gỗ (Những người thợ xẻ), đều là lao động khổ sai, nặng nhọc, nhàm chán. Tha hoá giết chết nhân tính. Gần như tác phẩm nào của Nguyễn Huy Thiệp cũng trình ra một thế giới, nơi bản năng và dục tính hoành hành, con người hiện lên như một bầy ma quỉ. Tha hoá huỷ hoại cả nhân hình. Đây là chân dung ngoại hình của ông Giám đốc nông trường Bình Minh: “Chúng tôi gặp ông Thuyết ở đầu ngõ. Tôi rùng mình vì trông thấy khuôn mặt ông ta: mặt đen mà tái như da bìu dái, lông mày rậm, răng vẩu mà vàng như răng chó” (tr. 141). Nhưng đó không phải là ngoại lệ. Trong sự hình dung và quan sát của Chương (Con gái thuỷ thần), không một ai, kể cả bản thân mình, có gương mặt bình thường của con người: “…Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt quen, tựa như mặt bà hai Khởi vừa tròn vừa to, mũi trông như vỏ cam sần, hoặc như mặt chị Vĩnh, dài, mà tai tái như dái trâu, như mặt cô Hỷ, đỏ như tôm luộc, mặt anh Dư bạnh ra như mặt ngựa. Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ. Tôi tìm một mảnh gương vỡ soi thử mặt mình. Mảnh gương bé quá, không rõ hết mặt. Chỉ thấy trong gương một đôi mắt đờ dại nhìn mình như tượng gỗ trên chùa” (tr. 98. Những chữ in đậm do tôi nhấn mạnh – LN).

Thật ra, tác phẩm nào của Nguyễn Huy Thiệp cũng thấp thoáng có chữ “tâm”. Ông có hẳn một tác phẩm đặt tên là Phẩm tiết và một tác phẩm khác lấy tiêu đề là Tâm hồn mẹ. Phẩm tiết kết truyện bằng chi tiết kì ảo: Vinh Hoa bỏ Gia Long mà đi, “Nhà vua sai tìm Vinh Hoa khắp nơi nhưng không thấy. Ít lâu sau, ở vùng huyện lị Đà Bắc (thuộc phủ Hưng Hoá), người ta vớt được xác một phụ nữ quí tộc, trên tay có bế một đứa bé con còn sống” (tr. 232). Ở phần kết Tướng về hưu, cũng có chi tiết: ông “tướng chết”, anh con trai “mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào” và nhận ra “hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người” (tr. 37. Chữ in đậm do tôi nhấn mạnh – LN). Cảm động nhất là cái chết của lão Kiền ở cuối truyện Không có vua: “Lão Kiền lúc đầu vật vã, rồi nằm yên […] Đến bốn giờ sáng hôm sau, lão Kiền tắt thở, trên môi thấp thoáng nụ cười, trông rất hiền lành, trung hậu” (tr. 76-77). Tôi gọi đó là những cái “chết – phục sinh”. Con người không chết và cái “tâm” của nó không thể huỷ diệt. Nhưng sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp không phải là bản tráng ca về những cái “chết hoá thành bất tử”, “chết như sống, anh hùng, vĩ đại”. Trong Tướng về hưu có đoạn đối thoại thế này: “Kim Chi khóc: “Anh ơi đàn bà chúng em nhục lắm” […]. Tôi bảo: “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?”. Cha tôi bảo: “Đàn ông thằng nào có cái tâm thì nhục. Tâm càng lớn, càng nhục” (tr. 33). Trong Không có vua, Sinh nức nở: “Trời ơi… Sao cái thân tôi nhục nhã thế này” (tr. 68). Ngay cả Lão Kiền cũng phải thốt lên: “Làm người nhục lắm”. Gần như trang văn nào của Nguyễn Huy Thiệp cũng vừa nực cười, vừa đầy day dứt thế sự, tái tê cảm giác chua xót về “nỗi nhục làm người” như vậy. Mỗi tác phẩm của ông vì thế là vở diễn đầy bi hài về sự tha hoá không thể cứu vãn của đời sống ở thời mạt thế.

Cuối cùng, hướng vận động của truyện kể là nhân tố không thể bỏ qua khi bàn về khung không gian thời mạt trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Huy Thiệp có đến già nửa số truyện ngắn dành để kể về những người đàn ông với những cuộc lên đường, những chuyến ra đi. Chương trong Con gái thuỷ thần bỏ mẹ, bỏ em, “nhằm hướng mặt trời mọc” mà tìm đường “đi ra biển”. Trong Tướng về hưu, năm 12 tuổi, ông Thuấn “trốn nhà ra đi”. Sau gần 60 năm trận mạc, 70 tuổi, ông về nhà, nhưng chẳng bao lâu lại vội vã lên đường. Trong Những người thợ xẻ, Bường hăng hái dẫn một đám họ hàng thân tộc, có cả đứa con trai mới 14 tuổi, lên tận Tây Bắc “kéo cưa lừa xẻ”. Trong Giọt máu có ông làm nghề mổ lợn là Phạm Ngọc Gia dẫn cháu là Phạm Ngọc Chiểu sang tận Kẻ Lủ đến nhà ông Bình Chi theo thầy học chữ, những mong “cờ tiến sĩ về tay”, khiến “thiên hạ phải học cái đức họ Phạm nhà này”. Nguyễn Huy Thiệp có đến mấy truyện kể về những tay thợ săn: Muối của rừng, Trái tim hổ, Con thú lớn nhất, Sói trả thù… Thợ săn vác súng lên rừng, tay nào cũng chỉ chăm chắm hạ gục được “con thú lớn nhất”. Trong Kiếm sắc, Đặng Phú Lân “tìm đường vào Gia Định theo Nguyễn Ánh”, chọn minh chúa để thờ. Truyện Vàng lửa kể việc: “Năm 1814, người ta phát hiện ra một nơi có vàng. Phăng xin vua Gia Long cho một số người châu Âu cùng mình đi tìm kiếm”. Truyện Phẩm tiết kể “Năm Kỷ Dậu (1789) Quang Trung Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc”. Vừa gặp Vinh Hoa, vua Quang Trung hỏi nhỏ: “Vận Tây Sơn được mấy đời”. Truyện lại kể “Năm Tân Dậu (1801), vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh chiếm Phú Xuân”. “Vào thành an dân”, cái mà Ánh quan tâm là “kiểm kê kho đụn”, “tìm kiếm phi tần”. Mỗi người đều nhắm một mục đích riêng khi lên đường: kẻ vì danh lợi, kẻ vì quyền lực, ai cũng ham hố, hăm hở. Nhưng thảm bại ê chề là kết cục chung dành cho những chuyến lên đường, những cuộc ra đi đầy hăm hở, ham hố ấy. Đoạn đầu truyện Phẩm tiết vừa nói “Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt Mãn Thanh”, cách chỉ vài trang lại thấy nói “Nguyễn Phúc Ánh chiếm Phú Xuân, Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc, triều đình Tây Sơn sụp đổ”. Quang Trung kiêu hùng là thế mà vẫn không tránh được cái kết cục: “Khi Ánh chiếm Thăng Long, thống nhất giang sơn, Ánh trả thù Tây Sơn rất thảm khốc” (Kiếm sắc). Hai trong số ba đoạn kết của Vàng lửa dành cho Phăng và những kẻ tìm vàng một số phận cực kì bi thảm.

Truyện kể của Nguyễn Huy Thiệp không chỉ dừng lại ở kết cục thảm bại, mà vận động theo hướng tìm “thiện” gặp “ác”, cầu “thanh” gặp “tục”. Trong Chảy đi sông ơi, chị Thắm chở đò ngang cứu được không biết bao nhiêu người thoát khỏi chết đuối, thế mà cuối cùng chị lại chết đuối mà không ai cứu. Trong Kiếm sắc, Lân mang thanh kiếm gia truyền tận tuỵ thờ Ánh, Ánh lại sai đao phủ dùng ngay kiếm ấy để chém đầu Lân. Trong Con thú lớn nhất, vác súng lên rừng bắn con thú lớn nhất, súng của tay thợ săn lại nã vào đầu vợ hắn và đầu của hắn. Giọt máu mở ra bằng việc Chiểu đi học chữ, thi đỗ, làm quan, Phong bỏ nghề mổ lợn gia truyền ra Hà Nội làm báo. Truyện khép lại bằng kết cục nhà họ Phạm gần như tuyệt tự. Trong Con gái thuỷ thần, trên hành trình tìm Mẹ Cả, Chương chỉ gặp toàn những chuyện bạc ác đểu cáng, chuyện dối trá nguỵ tạo, chuyện phàm tục dơ dáng. Mạch vận động này của truyện kể gợi dậy ở người đọc cảm giác sâu sắc về sự vô nghĩa của tấn trò đời. Trong Con gái thuỷ thần, nhân vật Chương của Nguyễn Huy Thiệp “chợt nhận ra con người phải lùi rất xa mới gạn lọc được đôi chút dấu vết giá trị văn minh…” (tr.129-130). Chương thấy “chỉ có nỗi buồn là vĩnh cửu”, “hàng trăm, hàng vạn thế hệ nối nhau […] như hàng tỉ những con phù du, con vờ chết đi chẳng để lại một dấu vết gì” (tr.130). Sống có nghĩa là nhập vào dòng chảy vĩnh hằng dẫn tới cõi tận thế hư vô. Ta hiểu vì sao, nhiều tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp được kết thúc bằng cái chết, hay cảnh bia mộ, nghĩa địa. Kể chuyện Thế tổ Nguyễn Ánh, Nguyễn Huy Thiệp không quên nhà Nguyễn là triều đại “để lại nhiều lăng” (Vàng lửa). Hay trong Giọt máu, câu chuyện về dòng họ Phạm trải mấy đời trên dưới một trăm năm, thế mà cuối cùng chỉ còn lại ngôi mộ hoang phế, “vào mùa nước,… Hà Bá với các quân tướng ba ba, thuồng luồng vẫn lên tụ họp đánh chén, đom đóm thắp đèn sáng rực thâu đêm, ếch kêu ồm ộp lẫn trong trong tiếng nhạc nghe như tiếng người nức nở” (tr. 400).

4. Mấy lời kết luận

4.1. Trong sáng tác văn học, không gian được mô hình hoá để tạo thành các cấu trúc biểu nghĩa. Nghĩa là ở đây, nó cũng được sử dụng như một ngôn ngữ, giống như ngôn ngữ của các nghệ thuật tạo hình. Nghiên cứu văn học có thể dựa vào ngôn ngữ không gia phân biệt các phong cách nghệ thuật và phân kì lịch sử tiến trình văn học.

4.2. Sau 1975, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp thực sự tạo thành bước ngoặt quan trọng. Có hai cơ sở cho phép ta nói về bước ngoặt này. Thứ nhất, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra một loại hình ngôn ngữ không gian kiểu mới. Văn học trước 1975 lấy không gian nhà binh để kiến tạo bức tranh thế giới. Mô hình không gian nhà binh trở thành ngôn ngữ của văn học trước 1975. Nguyễn Huy Thiệp lấy không gian sinh hoạt để kiến tạo bức tranh thế giới. Mô hình không gian sinh hoạt trở thành ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Chẳng những thế, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp còn đổi mới hệ hình ngôn ngữ không gian. Văn học trước 1975 kiến tạo ngôn ngữ không gian theo hệ hình huyền thoại. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo ngôn ngữ không gian theo hệ hình truyện kể. Tạo ra mô hình không gian khép kín, phân mảnh, xoá bỏ trật tự tôn ti, lấy “mạt thế” làm “khung”, hệ hình ngôn ngữ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp tiến sát tới chỗ giáp ranh giữa chủ nghĩa hiện đại và ngôn ngữ hậu hiện đại.

4.3. Có thể quan sát bước ngoặt của văn học sau 1975 qua nhiều ngôn ngữ khác, ví như hình tượng, hay ngôn ngữ thể loại. Nhưng đó sẽ là câu chuyện của những công trình tiếp theo.

 

Đồng Bát, tháng 5/ 2014

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Chú thích:

[11] Về cấu trúc phân mảnh của lời thoại và lời trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, xin xem: Trần Đạo. “Tướng về hưu”, một tác phẩm có tính nghệ thuật. //Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn), Nxb Văn hoá Thông tin, H., 2001, tr. 41-51; Nguyễn Thị Hương. Lời thoại trong truyện ngắn “Tướng về hưu”. // Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn), Nxb Văn hoá Thông tin, H., 2001, tr. 52-58.

Thơ Xứ Phúc

Xu PhucVăn Việt: Xứ Phúc tên thật là Nguyễn Huy Hoàng sinh năm 1973. Hiện là biên dịch viên tự do. Có thơ được đăng rải rác trên các trang web Công giáo và có mặt trong tuyển tập Có Một Vườn Thơ Đạo dưới bút danh Trầm Tư do linh mục Trăng Thập Tự chủ biên.

 

 

 

 

 

 

 

Sốt

 

sốt rồi

sốt từ trong

sốt ra ngoài

sốt từ muỗng cháo

sốt đến trời gầm

sốt em nóng hổi

sốt tình chia phôi

sốt người hoang mang

sốt đời khốn khổ

sốt muốn chửi thề

sốt muốn á khẩu

sốt muốn đi tu

sốt muốn làm tình

sốt muốn yên phận

sốt muốn đổi đời

sốt người dân Việt

bao giờ hết khổ?

 

 

Hèn

 

không dám vượt qua nỗi sợ
tôi ngồi một mình trong bóng tối
nhìn đời qua kẽ hở những ngón tay
một nửa nỗi buồn
một nửa niềm vui

không dám vượt cái hèn
tôi làm “thằng bàng quan”
nhìn đời qua sợi khó vòng vo
ru ngủ đời mình qua những bài hát triết lý yếm thế

tôi sống hèn chưa thể biết sống vinh
như loài giun sống dưới mặt đất
lâu ngày sợ ánh sáng
tự huyễn hoặc mình bằng những lí thuyết xa vời

không dám sống như mình đáng sống
như cỏ cây phải hướng về mặt trời
tôi ngồi trong sợ hãi
tự vuốt ve cái tôi lý tưởng
rằng có ngày nhân loại hiểu lòng tôi

 

 

giữa

ở giữa những ngón tay
những mắt đời mở ra
những giọt nước mắt không dám chảy thành dòng
ta nhìn nhau
chật hẹp qua những ngón tay
làm sao biết đời sống lồng lộng
rộng hơn khoảng sân vuông giáo đường
rộng hơn tiếng hát em chiều lễ thứ bảy
ai chờ nhau đến tàn buổi lễ

ở giữa những ngón tay
che nửa miệng người
những uất ức, dồn nén không dám lên tiếng
nụ cười méo xệch
đừng bảo tôi hãy cố cười lên
những nụ cười giả tạo
đừng đổ vào miệng tôi hớp rượu ngoại xa xỉ và nóng ran cổ họng
đừng nhét vào miệng tôi điếu thuộc ngoại xa xỉ thơm mùi sô cô la
chân tôi còn ở đây
tay tôi còn níu nơi này
sao tôi hèn như vạt cỏ để người chùi chân

ở giữa những nỗi buồn giấu kín và nụ cười giả tạo
tôi thấy tôi cong queo như hạt lúa chín ai phơi để quên ngoài sân
chờ không thấy người gom vào bồ
chờ không thấy đất lành tươi tốt
chờ không thấy
hoài không thấy
hạt lúa chín vô tích sự
mặc mưa nắng qua đi

 

 

Như những viên sỏi dưới biển sâu

như những viên sỏi không chịu nằm yên dưới lòng biển sâu

đôi khi cũng thèm lắm
được hét to
những uẩn ức, đè nén,
những căm phẫn

đôi khi cũng ước ao
được sống như mình đáng sống
như mình là thế
không phải cố gắng nép mình trong khuôn định

sao hèn thế
như loài giun trốn ánh mặt trời
đi tìm bóng đêm để ngủ quên ngàn đời

đôi khi trong giấc mơ
ta là ta – không giả dối, không nhân danh
em là em – không giấu nước mắt trong lúm đồng tiền

em đi qua đời tôi
tôi đi qua đời em
gặp nhau giữa khoảng khắc ngày và đêm

đôi khi trong giấc mơ
ta hóa thành anh hùng
mài gươm bên giếng thành cổ tan hoang
ngựa chùn chân, quỵ trước chiến hào

đôi khi nghe tiếng gió
tưởng ước mơ xưa trở về
nào hay mặt trời khuất sau bóng người

như những viên sỏi không chịu nằm yên dưới lòng biển sâu
những khát khao sôi như nham thạch

 

 Tác giả gửi Văn Việt.

THẢO LUẬN VỀ DỊCH THUẬT (2): Dịch

Trần Trọng Vũ

Các nhà văn, dịch giả kính mến,

Văn Việt vào cuối tháng 4, có in một bài viết của Nguyễn Lê Trung, bàn về công việc dịch thuật, đặc biệt là dịch thơ, nhân Trịnh Lữ công bố bản dịch một chùm thơ của Emily Dickinson. Tuy nhiên, với bài viết của Nguyễn Lê Trung, Văn Việt nhận thấy vấn đề không những chưa khép lại mà dường như mới được mở ra. Đó là:

    1. Dịch văn học nói chung, và dịch thơ nói riêng, điều cốt tử là gì?
    2. Dịch hoàn toàn đúng nghĩa, nhưng không thơ, bạn có chấp nhận điều này không?
    3. Dịch kiểu phóng tác, đi xa ý, nhưng có chất thơ, thì sao?
    4. Nhiều người cho rằng dịch là diệt; khi nào dịch không là diệt?
    5. Câu chuyện dịch để quảng bá văn học Việt ra thế giới hiện đang đến đâu? Điều gì tạo ra thành công, nếu có, và điều gì đem lại thất bại?
    6. Bạn nghĩ sao về quan niệm dịch giả là đồng tác giả?
    7. Bạn suy nghĩ gì vai trò của văn học dịch và thực trạng dịch văn học hiện nay?
    8. Vì sao có rất nhiều dịch giả có tiếng hiện đã và đang gây những scandal trong dịch thuật? Có nguyên nhân cụ thể nào không?
    9. Bạn có thể miêu tả công việc dịch một tác phẩm nào đó của bạn đã đem đến cho bạn nhiều kinh nghiệm nhất? 

Văn Việt

 

Trước đây, hầu như tất cả những bình luận ở Việt Nam về tiểu thuyết Người dưng (dùng chữ của Dương Tường) đều tập trung vào sự lạ thường và nhàm chán của cuộc sống được kể, ở văn phong lạ lùng và lạnh lùng, v.v. Riêng tôi khi lần đầu tiên đọc nó – một trong những ngày bắt đầu ở Pháp – đã phải thức trắng một đêm, bởi vẻ xa lạ đầy quyến rũ của câu chuyện, cùng sự thân thiết vô cùng của tiếng Pháp trong tiểu thuyết, mà không hiểu vì sao.

Nhiều năm sau, khi tìm kiếm những tài liệu về ngữ pháp tiếng Pháp, tôi bất ngờ hiểu được vì sao cuốn sách này đã ngay lập tức gần gũi với tôi đến như vậy. Người dưng được coi như một cuộc cách mạng trong lịch sử văn học Pháp, bởi vì đây là lần đầu tiên tác giả đã chia động từ không theo cách chia dành riêng cho văn học. Phát hiện trên giải thích toàn bộ tình yêu của tôi với riêng tác phẩm này, nhưng lại khiến tôi băn khoăn nhiều về tất cả các bản dịch Pháp-Việt, bởi sự khác biệt quá lớn giữa hai ngôn ngữ, hai văn hóa.

Cũng cần phải giải thích một chút về tiếng Pháp. Tất cả các động từ trong ngôn ngữ này đều được chia theo rất nhiều thời và cách, tùy theo tình huống và thời điểm của hành động, tùy theo khả năng có thể xảy ra hay không xảy ra, theo một hoặc nhiều chủ ngữ, theo chiều dài thời gian và ngữ cảnh… Mọi nhà văn trước Người dưng khi viết bắt buộc phải hiểu rằng họ đang kể lại một câu chuyện, và do đó mọi động từ đều phải bị đưa về thời quá khứ. Nhưng có một cách chia động từ ở thời quá khứ dành riêng cho văn học (passé simple). Và cũng có một cách chia động từ khác, được coi là nặng nề, thiếu tinh tế, kém văn học, được sử dụng đại trà trong cuộc sống thường nhật (passé composé). Hai hình thức này không bao giờ được phép đi cùng nhau, nguyên tắc này không thay đổi.

Albert Camus là nhà văn đầu tiên đã chọn cách chia động từ thô mộc (passé composé) làm hình thức ngữ pháp duy nhất cho Người dưng của ông. Những động từ của khẩu ngữ này đã đưa tiểu thuyết đến gần với cuộc sống hơn bao giờ hết. Những động từ này do đó không chỉ có nhiệm vụ “viết cái gì”, mà đã thực sự tham gia vào việc “viết như thế nào”.

Kể từ Người dưng các nhà văn Pháp có thêm một hình thức nữa cho các động từ của họ, để chọn một trong hai mà vẫn tôn trọng nguyên tắc ngữ pháp, để không trộn lẫn chúng với nhau. Tiểu thuyết này đã nhiều lần được dịch sang tiếng Việt, nhưng chỉ những ý nghĩa của động từ được chuyển ngữ, còn toàn bộ hình thức của chúng đều bắt buộc bị bỏ lại.

DỊCH ĐỂ HIỂU

Như vậy động từ trong nhiều ngôn ngữ được coi như xương sống của tác phẩm, quyết định cấu trúc và tham gia tích cực vào hình thức của tác phẩm. Động từ thiết lập quan hệ của câu chuyện với người viết, với người đọc, trong thời gian và cả trong không gian. Nhưng ở tiếng Việt vai trò này của động từ hầu như trống vắng. Dịch cấu trúc ngữ pháp của các ngoại ngữ như tiếng Pháp là điều không thể.

Thực ra, “dịch cho đúng” hay “dịch để hiểu” luôn là mối băn khoăn của mọi dịch giả trên thế giới. Trong trường hợp của Người dưng nhiệm vụ của anh ta còn khủng khiếp hơn, vì dường như việc chuyển ngữ này cần đem lại thông tin cho độc giả về sự “hiểu” hơn là “đúng”. Và có vẻ “dịch để hiểu” đòi hỏi dịch giả phải có những phẩm chất khác với người “dịch cho đúng”, để trước hết hiểu được không chỉ nội dung mà cả hình thức của tác phẩm. Những phẩm chất này có thể là sự nhạy cảm đặc biệt của anh ta với nghệ thuật, với công việc làm nghệ thuật, là thị hiếu, là kiến thức. Nếu không, dịch giả sẽ không thể biết rằng dù Người dưng được dịch chính xác đến đâu, toàn bộ cuộc cách tân của những động từ đều sẽ dĩ nhiên biến mất trong bản dịch tiếng Việt.

Tôi không biết phán đoán sau có đúng không: Tôi cho rằng khi dịch giả Dương Tường chọn nhan đề của tiểu thuyết này là Người dưng, thay cho Người xa lạ như đã ghi trong mọi từ điển, ông muốn bù đắp lại sự mất mát quá lớn của việc chuyển ngữ? Có phải ông muốn nhan đề của nó phải báo trước cho độc giả một cú nhảy vĩ đại của hình thức, từ lĩnh vực văn học cao quý, sang bản thân đời sống kém tế nhị? Hình như Người dưng sỗ sàng hơn, hợp với khẩu ngữ hơn còn Người xa lạ lịch thiệp hơn, văn chương hơn?

Tuy nhiên, bản dịch Người dưng đã bị dư luận phê bình tương đối nhiều bởi đã không được “dịch cho đúng”. Nhu cầu “đúng” của đám đông thế là vượt qua rất xa nhu cầu “hiểu”.

SỰ KHÁC BIỆT

Câu hỏi đặt ra mà ít người biết tới: Cần phải xóa đi sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ? Hay là sử dụng nó, như một công cụ trong dịch thuật?

Nhận xét này của tôi không biết có chính xác, khi tôi cho rằng những dịch giả chuyên nghiệp có xu hướng xóa đi những đặc thù của ngôn ngữ này để bình thường hóa chúng trong ngôn ngữ kia. Ví dụ, bản dịch tiếng Việt từ một ngoại ngữ phải cực kỳ Việt hóa, đến mức không nhận ra là một bản dịch nữa, được như vậy càng tốt.

Những dịch giả là nghệ sĩ, hoặc nhà văn, nhà thơ, hình như có xu hướng ngược lại. Họ đôi lúc đưa vào bản dịch những cách hành văn và thói quen ngữ pháp ở bản gốc. Ví dụ vị trí của tính từ và danh từ, ví dụ những cách ví von hoặc những âm ngữ. Nghĩa của câu không đổi, nhưng cách hành văn trở nên bất thường và bất ngờ.

Tôi còn nhớ Trần Dần (dưới một bút danh khác) những năm 1970 có dịch cuốn Black Boy của Richard Wright, bản dịch của ông đã bị cực kỳ phê phán trên báo chí. Bởi vì ông đã dịch tên sách là Nhóc đen, cho âm ngữ được gần với nguyên bản. Ban biên tập sửa lại với sự đồng ý của dịch giả, cho êm ả hơn, thành “Chú nhóc đen”, nhưng vẫn chưa đủ. Một nhà lý luận văn học thời ấy trong bài báo của mình, sau khi phê bình, đã sửa lại một lần nữa là Cậu bé da đen. Như vậy nhu cầu “dịch cho đúng” của độc giả Việt Nam mà tôi đã viết ở phần trên thực ra không phải là “dịch cho đúng” với nguyên bản, mà thường xuyên phải “đúng” với thói quen người Việt và ngữ pháp tiếng Việt.

Đến đây, dịch thuật bắt gặp một hiện thực muôn đời của văn học: nếu thói quen của độc giả được chiều chuộng, tác phẩm sẽ được công chúng yêu thương lại.

 

 

DỊCH THƠ GIỐNG NHƯ LÀM THƠ        

Tôi còn nhớ đến bây giờ hơn 30 năm sau, một tạp chí Văn học nước ngoài do Hội Nhà văn xuất bản. Lúc ấy tôi còn thiếu niên, còn chưa biết một câu tiếng Pháp. Tạp chí này chỉ ra được vài số, lưu hành không rộng rãi, trong đó tôi đã tìm thấy bài thơ Dưới cầu Mi-ra-bô của Guillaume Apollinaire (tôi mạn phép phiên âm lại tên chiếc cầu, cho những ai không biết tiếng Pháp). Bài thơ được giới thiệu đồng thời qua hai bản dịch, của Tế Hanh và Xuân Diệu. Lúc ấy tôi đọc đi đọc lại nhiều lần, với rất nhiều hứng thú, bởi vì hai bản dịch tuy của cùng một nguyên bản, nhưng lại cho tôi nhìn thấy rõ hai phong cách, một uyển chuyển và cầu kỳ hơn, một dứt khoát và ngắn gọn hơn. Tôi cũng nhận thấy ở đấy hai nhạc điệu không mấy gần nhau.

Lúc bấy giờ kiến thức văn học của tôi hầu như không có gì, nhưng tôi đặc biệt yêu cả hai bài thơ, sau nhiều lần so sánh cả ý nghĩa lẫn vần điệu của chúng. Tôi đã không hề đặt câu hỏi ai đã dịch đúng, ai đã dịch sai. Câu hỏi nếu có, chính là bài thơ nào hay hơn?

Đến bây giờ, tôi vẫn có cùng một thiên vị cho một trong hai nhà thơ – dịch giả. Cảm nhận ấy không thay đổi. Nhưng câu hỏi đặt ra không còn nguyên vẹn. Bây giờ, tôi sẽ không hỏi bản dịch nào hay hơn, mà sẽ hỏi tôi thích bài thơ nào hơn?

Bây giờ tôi cũng có thể nhận xét một cách tri thức, rằng hai bài thơ này khác chữ nhưng đồng nghĩa. Do vậy, những chữ khác nhau nhưng gần nghĩa với nhau sẽ được sử dụng rất nhiều trong dịch thuật. Nhất là ở tiếng Việt nhịp điệu của câu phụ thuộc quá nhiều vào âm điệu do các con dấu và những chữ thừa mang lại.

Tôi cũng sẽ băn khoăn hơn nữa, vì dường như dịch thơ phải bắt buộc là làm thơ, vì tôi chưa bao giờ đủ tài năng ghép vần mà không gượng ép. Nếu tôi phải dịch một bài thơ, tôi sẽ phải biến nó thành một đoạn văn xuôi. Nhưng hình như các nhà thơ Việt Nam của thế hệ đã qua chú ý hơn đến nhạc điệu của thơ, và làm việc rất nhiều để bắt vần cho thơ. Trong khi đó, các nhà thơ của ngày hôm nay tiến gần đến văn xuôi, nhạc điệu và vần điệu có vẻ không còn là mối quan tâm lớn của họ. Chính vì vậy, nhiều bản dịch thơ nước ngoài ngày nay giống với thể loại văn xuôi hơn, nhưng văn xuôi này luôn luôn được xuống dòng.

Vậy mà, PHÁ VỠ vần điệu và KHÔNG CẦN vần điệu là hai cách làm khác xa nhau vô cùng. Giống như CỐ TÌNH dịch không đúng và VÔ TÌNH dịch không đúng. Giống như nét vẽ xô lệch của một họa sĩ và một người không biết vẽ. Hai nét vẽ ấy đều được gọi là XÔ LỆCH nhưng sự khác nhau lại rất ghê gớm.

DỊCH VÀ SÁNG TẠO

Tôi cho rằng độc giả Việt Nam có một may mắn rất lớn, là có được tương đối nhiều bản dịch văn học do các nhà văn hoặc nhà thơ đảm nhiệm. Những tác giả này có thể đưa vào bản dịch những nhạy cảm đặc biệt của họ với văn học, nỗi đồng cảm cho người sáng tạo, hoặc truyền đạt lại ở đấy sự “hiểu” hình thức của nguyên bản. Ở những xã hội phát triển nhà văn dịch sách hiếm hơn rất nhiều bởi vì đã có sẵn một đội ngũ đông đảo dịch giả chuyên nghiệp. Tuy nhiên đôi khi may mắn ở trên có thể biến thành không may mắn, khi vốn ngoại ngữ của người dịch không chuyên ấy không đủ, khi anh ta không được sống lâu năm ở những đất nước của ngoại ngữ ấy, hoặc khi nguyên bản chỉ là cớ để anh ta thao diễn cảm hứng của mình.

Ở những bản dịch văn học phản ứng của người đọc kém êm ả hơn nơi những bản dịch kỹ thuật. Bởi vì dịch giả văn học bắt buộc phải sử dụng một trong nhiều cách diễn đạt đã có hoặc chưa tồn tại của ngôn ngữ, để tạo được nhạc điệu cho câu văn, mà vẫn trung thành với nghĩa của nó trong nguyên bản. Công việc này do đó chính là sáng tạo và sáng tạo bên trong những khuôn khổ bắt buộc của dịch thuật. Nhưng đã là sáng tạo, chắc chắn sẽ phải làm phiền nhiều ai đó trong số độc giả. Sáng tạo nào chẳng nguy hiểm. Quy luật này không đổi cho mọi lĩnh vực.

Và, nếu như để chơi một bản nhạc có sẵn, bắt buộc người chơi phải biết nhạc lý và sử dụng được nhạc cụ, để chép một khuôn mặt người chép phải biết vẽ và hiểu ngôn ngữ của hội họa. Nếu không các kết quả sẽ chỉ là những đống bùng nhùng của âm thanh và màu sắc. Cũng vậy, để dịch một bài thơ người dịch dĩ nhiên phải có những khả năng nhất định của nhà thơ, để có thể làm thơ, với một số lượng hạn chế của ngôn từ.

Tác giả gửi Văn Việt.

Để non sông trường tồn: Cần một chủ nghĩa yêu nước kiểu mới*

Đặng Hoàng Giang

Thử nhìn lại chủ nghĩa yêu nước truyền thống

Trong tiếng Việt, tinh thần yêu nước, lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước là các cụm từ/khái niệm mang hàm nghĩa tương đương nhau. Theo Wikipedia, khái niệm “chủ nghĩa yêu nước” (patriotism), với từ gốc patrie – nghĩa là quê cha đất tổ, bắt đầu được các nhà triết học sử dụng từ thế kỷ 18. Về sau, tùy theo nguồn gốc và bối cảnh sử dụng, khái niệm này đã mang thêm nhiều nội dung mới. Ngày nay, chủ nghĩa yêu nước là một khái niệm của khoa học chính trị, phản ánh sự cam kết với những lý tưởng nhất định và sự quan tâm tới những kết quả chính trị [1].

Ở Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước gần như đồng nhất với chủ nghĩa dân tộc (nationalism) và chủ nghĩa dân tộc được xem là một động lực lớn của lịch sử đất nước. Từ xưa đến nay, lòng yêu nước của người Việt thường được hiểu là tinh thần xả thân chiến đấu nhằm giữ trọn một lời thề đã tồn tại xuyên suốt lịch sử dân tộc: bảo vệ đến cùng từng tấc đất, ngọn cỏ thiêng liêng của Tổ quốc trước họa xâm lăng. Như vậy, nói đến tinh thần yêu nước kiểu cũ là nói đến một thái độ ứng xử đặc trưng gắn liền với bối cảnh chiến tranh: được hình thành, tôi luyện bởi các cuộc chiến tranh vệ quốc; tỏa sáng rực rỡ trong các cuộc chiến tranh và chỉ xuất hiện mỗi khi Tổ quốc bị xâm lược.

Vì thế, mặc dù đã được ca ngợi hết lời, chúng ta vẫn có lí do để nói rằng: tinh thần yêu nước kiểu cũ là một kiểu ứng xử bùng lên nhất thời, bị kích thích bởi ngoại cảnh, chưa trở thành một nguyên tắc sống mang tính tự nguyện, tự nhiên trong suốt cuộc đời của người Việt Nam. Sở dĩ nói người Việt yêu nước nhất thời vì nếu trong chiến tranh, họ đẹp đẽ bao nhiêu thì trong đời thường, hình ảnh của họ lại trở nên đối lập bấy nhiêu. Giã từ vũ khí, người Việt trở lại cuộc sống đời thường trong nguyên vẹn hình hài tiểu nông với rất nhiều thói hư, tật xấu: khôn vặt, ích kỉ, hời hợt, cục bộ, phe cánh,… Kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ – vốn được xem là “túi khôn” của người Việt – có rất nhiều câu phản ánh thực tế ấy: “Thổi lửa cháy mồm”, “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”, “Ta về ta tắm ao ta – Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Được hình thành từ những cá nhân riêng lẻ như vậy, xã hội của người Việt trở thành một cộng đồng rời rạc, manh mún, rất dễ chia cắt và phân hóa. Đến nay, sau những biến đổi to lớn về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa diễn ra trong hơn nửa thế kỉ trước, các căn bệnh cố hữu trong lối sống của người Việt không hề giảm mà còn trở nên đậm đặc hơn. Đặc điểm bao trùm trong quan hệ xã hội là tình trạng thiếu liên kết, thiếu niềm tin, thiếu khoan dung giữa các cá nhân, các thế hệ, các nhóm và các cộng đồng. Rõ ràng, tính nhất thời của tinh thần yêu nước kiểu cũ mang đậm dấu ấn của con người tiểu nông.

Tinh thần yêu nước nhất thời cũng được bộc lộ qua cách ứng xử của một số  thể chế nhà nước đã từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam. Điểm chung của các nhà nước này là chúng chỉ đẹp trong chiến tranh: khi Tổ quốc lâm nguy, nhờ giương cao ngọn cờ dân tộc, chính quyền lãnh đạo nhân dân đánh bại kẻ thù xâm lược, bảo vệ thành công nền độc lập dân tộc. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, nhà nước đã mượn thành quả chiến thắng để củng cố tính chính danh của mình, che đậy các khuyết tật của hệ thống chính trị, xoa dịu các mâu thuẫn xã hội vốn có và tiến tới xác lập sự thống trị lâu dài lên toàn xã hội. Cho nên, sau các cuộc chiến tranh vệ quốc, tuy nền độc lập quốc gia được giữ vững nhưng các quyền cơ bản của con người cá nhân không được thừa nhận, đảm bảo. Nghịch lí này, cộng với xu hướng chuyên chế, tập quyền của các nhà nước trung ương, đã kìm hãm sức bật của đất nước. Như vậy, trong nhiều trường hợp, tinh thần yêu nước kiểu cũ đã trở thành công cụ chính trị của các nhà nước cai trị, nhà nước chiến tranh.

Tóm lại, dù nhìn dưới bất kì góc độ nào, tuy mang đến các chiến thắng oanh liệt trong các cuộc chiến tranh, tinh thần yêu nước kiểu cũ chính là nguyên nhân sâu xa làm cho quốc gia phân liệt, suy yếu, trì trệ và trở thành đối tượng thường xuyên của các cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài. Trong bối cảnh hiện tại, muốn chủ quyền non sông thực sự trường tồn, chúng ta cần hướng đến một tinh thần yêu nước kiểu mới.

Hướng đến một chủ nghĩa yêu nước kiểu mới

Yêu nước kiểu mới là làm tròn trách nhiệm công dân:Tư cách công dân với một số phẩm chất nổi bật (khả năng tư duy độc lập, tinh thần khoan dung với kẻ khác, tinh thần thượng tôn pháp luật, ý thức chịu trách nhiệm, ý thức vị cộng đồng) được xem là yêu cầu quan trọng hàng đầu của người công dân trong xã hội hiện đại. Với người Việt Nam hiện nay, yêu nước kiểu mới nghĩa là quyết tâm khắc phục những nhược điểm của lối sống tiểu nông vốn chịu sự chi phối sâu sắc của bản năng và tập tục để sống theo tinh thần của người công dân hiện đại. Tức là, thay vì trở thành một phản xạ có điều kiện cho trước, lòng yêu nước cần được chuyển hóa thành các suy nghĩ, hành vi cụ thể trong đời sống hàng ngày. Người ta gọi đó là chủ nghĩa yêu nước công dân (civic patriotism): người dân bộc lộ tình yêu Tổ quốc thông qua một quá trình tham gia chủ động, thường xuyên vào các sự kiện của đời sống [2] mà cầu nối gắn kết họ với xã hội bên ngoài chính là các hội đoàn dân sự. Nhờ tham gia vào đời sống công cộng, mỗi người có được cảm nhận chân thực nhất về sự hiện hữu và các giá trị của anh ta trong cuộc đời này; Đồng thời, góp phần hình thành các liên kết xã hội và thúc đẩy niềm tin giữa họ với những cá thể khác. Do đó, việc tham dự vào các sự kiện của đời sống cũng quan trọng không kém việc được thỏa mãn các nhu cầu cơm ăn, nước uống. Vì nói như Hannah Arendt, “không thể gọi là hạnh phúc, mà không tham gia vào công việc công cộng. Không thể gọi là tự do nếu không thể nghiệm thế nào là tự do công cộng. Không thể là tự do hay hạnh phúc mà không có chút quyền hành nào trong quyền lực công cộng” [3].

Yêu nước kiểu mới là cải cách thể chế theo hướng nhân bản, hiện đại:Trong thế giới văn minh ngày nay, lẽ phải và chân lý không còn là sáng tạo tùy tiện của kẻ mạnh mà thuộc về các giá trị, các chuẩn mực, các mô hình đặt con người ở vào trọng tâm của phát triển. Trên đường đi tới xã hội hiện đại, con người đã sáng tạo nên một mô hình thể chế nhà nước tiến bộ, mang tính phổ quát, được xem là bệ đỡ vật chất cho sự phồn thịnh của các quốc gia phát triển: nhà nước pháp quyền. Nhưng nhà nước pháp quyền không tồn tại biệt lập mà luôn song tồn với hai thể chế khác: kinh tế thị trường và các hội đoàn dân sự. Nếu tư cách công dân được xem là chuẩn mực của con người hiện đại thì cấu trúc tam vị nhất thể này được xem là dấu hiệu căn bản để xác định trình độ văn minh và năng lực phát triển của mỗi quốc gia. Trong ba thể chế vừa nêu, mỗi thể chế đảm nhận một chức năng đặc thù. Nếu nhà nước điều tiết các quan hệ xã hội bằng hệ thống luật và thị trường đảm nhận việc sản xuất, phân phối, lưu thông các sản phẩm hàng hóa thì các cộng đồng dân sự sẽ đảm nhận cái “khoảng trống chức năng” mà nhà nước và thị trường để lại. Các cộng đồng dân sự một mặt tham gia vào những công việc mà bản thân nhà nước và thị trường không tự mình kham nổi (cung cấp các dịch vụ công, đảm bảo tính liên tục của các quá trình sản xuất…); mặt khác, với năng lực tự quản của mình, các cộng đồng dân sự góp phần giải quyết những vấn đề vượt ra khỏi phận sự của nhà nước và thị trường, đặc biệt là trong các hoạt động muôn hình muôn vẻ của sinh hoạt xã hội và sinh hoạt tâm linh. Mối quan hệ cộng sinh, tương hỗ giữa ba thể chế này là tiền đề căn bản để tạo nên một xã hội dân chủ, minh bạch, sáng tạo, bao dung và phát triển. Điều đáng nói là với sự tác động của các định chế chính trị – kinh tế minh bạch, tiến bộ, chủ nghĩa yêu nước công dân có được một môi trường chính trị – văn hóa lành mạnh, lí tưởng để phát triển tối đa. Vậy nên, yêu nước theo kiểu mới cũng có nghĩa là kiên quyết chuyển từ mô hình thể chế cũ sang mô hình thể chế mới với ba trụ cột: nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự. Nếu thực tâm chuyển đổi theo hướng này, chúng ta không chỉ tìm ra một lối thoát hữu hiệu cho vấn đề biển Đông trước mắt, mà còn mở ra một triển vọng to lớn để đưa đất nước thoát khỏi vũng lầy của chia rẽ, nghèo đói, lạc hậu và trở thành một thành viên có giá trị trong thế giới hiện đại, văn minh.

Việc Trung Quốc hung hăng áp dụng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán ở Biển Đông đang đặt tương lai dân tộc trước thử thách mang tính sống còn. Nhưng “trong nguy có cơ”: chính điều này cũng đang mở ra một cơ hội không thể tốt hơn để dân tộc ta đi tới một cuộc thay đổi thực sự. Lịch sử đang chờ đợi ở các nhà lãnh đạo đất nước và toàn thể nhân dân một tầm nhìn dài hạn, một dũng khí lớn lao và một khát khao cháy bỏng nhằm thay đổi vận mệnh dân tộc.


(*) Bài này đã được vietnamnet biên tập và đăng tải với tiêu đề Yêu nước có cần ra điều kiện. Đây là bản tác giả gửi VHNA.

[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Patriotism

[2] From constitutional to civic patriotism. Cambrige University Press. 2002.http://discovery.ucl.ac.uk/12053/1/12053.pdf

[3] Dẫn theo Bùi Văn Nam Sơn (2011), Văn hóa và văn hóa chính trị, nguồn: amvc.free.fr. 

Nguồn:

http://www.vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/dien-dan38/de-non-song-truong-ton-can-mot-chu-nghia-yeu-nuoc-kieu-moi

Tại sao nước Mỹ lại không dạy Đức dục?

Nông Duy Trường

Lời Mở Đầu

Đức dục là một môn học mà hầu như nước nào cũng có, tuy tên gọi có khác nhau tùy theo từng nước; có nước gọi là đạo đức học, có nơi lại gọi là giá trị học. Tại 31 nước Âu châu, có nước bắt buộc học sinh phải học, có nước cho vào môn nhiệm ý bắt buộc (Korim & Hanasova, 2010). Trong chương trình giáo dục của các nước Đông Nam Á, gồm 11 nước, cũng có môn đức dục (Southeast Asian Ministers of Education Organization – SEAMEO). Riêng tại Việt Nam, môn luân lý đã được đưa vào trong chương trình giáo dục tiểu học từ năm 1941 với cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư lớp sơ đẳng do Nha Học Chính Đông Pháp ấn hành. Giáo dục, nói chung, có thể quy vào ba lãnh vực chính là trí dục, thể dục, và đức dục. Ai cũng nhận thấy tầm quan trọng của đức dục; nhà nước nào cũng hô hào phải dạy dỗ và rèn luyện nhân cách, đức tính cho con em từ thuở nhỏ. Nhưng trong những thập niên gần đây, hầu như trên toàn thế giới đều xảy ra một hiện tượng đáng báo động là tình trạng “hư hỏng” của học sinh, thí dụ như bạo lực, gian lận thi cử, hỗn láo trong học đường tại Nhật Bản trong cuối thập niên 1990, tại Indonesia và Việt Nam trong những năm gần đây khi báo chí tường thuật những vụ bạo hành, đánh lộn, gian lận thi cử trong giới học sinh (Tsuneyoshi, 2001; Postscript, 2011).

Nước Mỹ cũng không là trường hợp ngoại lệ. Phong trào phản chiến và hippie của thập niên 1960 và 1970 đã khiến cho giới trẻ tại Mỹ hoài nghi về tất cả mọi giá trị xã hội và sống một cuộc sống buông thả tới mức báo động (Beachum &McCray, 2005). Tình trạng báo động này khiến một số nhà giáo dục, tổ chức xã hội thiện nguyện, đã phải họp lại tại Aspen, Colorado năm 1992 để tìm cách đối phó.[1] Kết quả là một phong trào Đức Dục, do những cá nhân và hội đoàn thiện nguyện cổ xúy, đã được phát triển tại Mỹ cho đến ngày nay. Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại không có môn đức dục chính thức trong chương trình giáo dục phổ thông tại Mỹ? Những lý do nào đã  khiến môn đức dục bị “đẩy” ra ngoài chương trình giáo dục phổ thông của Mỹ? Hiện tượng thiếu vắng môn đức dục tại Mỹ là kết quả của sự tác động và ảnh hưởng của nhiều triết lý giáo dục và chính sách của nhà nước đối với nền giáo dục phổ thông. Những động thái này cùng với nỗ lực của những tổ chức xã hội dân sự, phi chính phủ (civil society organization-CSO) trong lãnh vực phát huy và rèn luyện đức dục cho học sinh tại Mỹ, sẽ được phân tích và giải thích trong bài viết này.

Đức Hạnh và Đức Dục là gì?

Có phải nước Mỹ không có môn đức dục trong giáo dục phổ thông hay không? Câu trả lời là không phải. Đức dục là một phần cơ bản không thể thiếu được trong chương trình giáo dục của Mỹ từ những ngày đầu lập quốc (Howard, Berkowitz & Schaffer, 2004). Nhưng thời gian qua, xã hội Mỹ gặp nhiều thay đổi và du nhập nhiều luồng tư tưởng và triết lý từ Âu châu, nên môn đức dục cũng bị ảnh hưởng nặng nề và bị bỏ rơi lại đằng sau, đến nỗi nhà giáo dục Hunter (2000) đã than thở là: “Đức dục đã chết rồi. Những cố gắng làm cho nó hồi sinh chỉ phí công thôi” (xiii).

Trước hết cần phải định nghĩa thế nào là đức hạnh[2] và đức dục. Howard, Berkowitz, và Schaeffer (2004) trích định nghĩa của Thomas Lickona như sau:

Đức hạnh bao gồm…những giá trị trong hành động. Đức hạnh có ba phần tương quan với nhau: hiểu biết về đạo đức, cảm nhận về đạo đức, và hành động đạo đức. Đức hạnh tốt gồm có biết điều tốt, muốn làm điều tốt, và thực hành điều tốt; tức là gồm có tập quán của tâm trí, tập quán của tình cảm, và tập quán của hành động. Ta muốn cho con em chúng ta phán đoán được cái gì là đúng là phải, thiết tha đến điều phải, và làm những điều mà chúng tin là đúng–ngay cả khi phải đối diện với những áp lực từ bên ngoài hay cám dỗ từ bên trong. (51) 

Nói cách khác, “đức hạnh gồm có sự nhận thức và hành động theo những phán đoán đạo đức trong một hoàn cảnh xã hội, và đó cũng chính là mục đích của đức dục” (Howard et al., 190).

Hệ thống trường học ở Mỹ từ thời Thuộc địa cho đến trước Nội chiến Nam Bắc

Kể từ khi người di dân Âu châu đến định cư tại Mỹ cho đến thời kỳ trước khi xảy ra Nội Chiến, nước Mỹ không có một hệ thống giáo dục chính thức cho từng thuộc địa (lúc đó những tiểu bang còn gọi là thuộc địa). Những người di dân đầu tiên đến Mỹ định cư tại bốn vùng chính: New England, New York, Pennsylvania, và Virginia. Mỗi vùng lại có thổ ngơi và khí hậu khác biệt, cho nên, điều kiện sinh sống cũng theo đó mà trở nên khác nhau. Tuy nhiên, về phương diện giáo dục và trường học, thì cả bốn vùng đều có một mẫu số chung là không có trường công lập. Tại mỗi làng, cha mẹ dạy cho con cái biết đọc tại nhà để học giáo lý và đọc kinh, hay tại vài nơi có trường học thì đó là trường tư tại gia do những cô giáo làng dạy, cũng chỉ dạy vỡ lòng cho biết đọc, biết viết mà thôi (Swett, 1900). Những người di dân đến Virginia thời đó cho rằng con cái họ nếu biết một cái nghề nào đó, giữ được đức tin theo Anh giáo và biết đọc biết viết là quá đủ rồi (Vejnar,2002).

“Chương trình” dạy học cho trẻ em thời đó có ba hướng rõ rệt: thứ nhất là đi tập việc để học lấy một nghề; thứ hai là đi nhà thờ để được dạy về giáo lý và luân lý; và thứ ba là đi học ở trường để biết viết biết đọc hay là học ở nhà, nếu cha mẹ có thể dạy cho con mình học chữ. Còn nếu gia đình khá giả hơn, thì con cái có thể được gửi đi học thêm chương trình giáo dục theo truyền thống Anh quốc, gồm có,học đọc và viết tiếng Anh, tiếng Hy-lạp, Latinh.

Sau này khi dân số gia tăng tại cả bốn vùng, vào khoảng giữa thế kỷ 17, thì những trường “văn phạm” được thành lập. Trường “văn phạm” là mô hình trường học du nhập từ Anh quốc, chủ yếu dạy ngôn ngữ bằng văn phạm. Ở bên Anh, trường văn phạm (thế kỷ 16-18) được thành lập nhằm dạy văn phạm Latinh, nhưng dần dà bao gồm thêm các môn khác như đọc, viết, và số học. Tại Mỹ, trường văn phạm chỉ chú trọng vào đọc viết Anh ngữ và số học để làm tính và tương đương với cấp tiểu học bây giờ. Những trường này hoạt động bằng ngân sách của chính quyền địa phương và có thu thêm học phí của học sinh. Nhưng những trường này cũng chỉ dành cho nam sinh mà thôi; con gái thời thuộc địa chưa được đi học. Để được nhận vào học, học sinh phải nhận được mặt chữ và biết đọc bằng đánh vần trước đã (Swett, 1900). Mãi đến năm 1635, trường công lập đầu tiên hoạt động bằng tiền thuế do dân đóng góp trực tiếp mới được thành lập tại thành phố Dorchester ở New England (Swett).

Các trường học thời thuộc địa hoạt động riêng rẽ như vậy, một phần được chính quyền địa phương tài trợ, nhưng phần lớn là do học phí của phụ huynh đóng góp; tình trạng này kéo dài cho đến khi nước Mỹ tuyên bố độc lập (ngày 4 tháng 7, 1776). Sau đó bảy trong số 13 tiểu bang mới có chính sách rõ rệt cho giáo dục. Khi các thuộc địa hợp nhất lại thành quốc gia, Thomas Jefferson (sau này trở thành tổng thống đời thứ ba) đề nghị phải xây dựng một nền giáo dục cho toàn quốc; một nền giáo dục do chính quyền kiểm soát, không bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, và mọi học sinh đều được theo học. Nhưng ý tưởng này không được thực hiện mãi tới mấy thập niên sau đó. Trong khoảng thời gian này, trường học tại Mỹ vẫn theo ba dạng, hoặc là tư nhân, hoặc là từ thiện, hoặc là do tôn giáo tổ chức (Thattai, 2001).

Vai trò của tôn giáo và chương trình giáo dục thời thuộc địa

Bản chất của người di dân đầu tiên đến Mỹ, đa số là vì lý do tôn giáo, đã xác định vai trò của tôn giáo trong sinh hoạt hàng ngày và tại trường học. Nếu cha mẹ biết chữ, thì họ dạy cho con cái ở nhà để chúng biết đọc Kinh thánh và học giáo lý. Tại mỗi làng, nhà thờ là trung tâm sinh hoạt của mọi người, và những mục tiêu chính của nhà thờ trong giáo dục là dạy cho trẻ con biết đọc để chúng có thể đọc Kinh và dạy chúng trở thành người tốt (Jeynes, 2003). Trường học thời thuộc địa ngoài việc dạy chữ còn một nhiệm vụ quan trọng hơn là rèn luyện đạo đức, như John Clark, một nhà giáo dục hàng đầu thời đó đã trình bày quan điểm của mình về giáo dục và vai trò của người thầy: “…trước hết phải là người đạo đức. Vì…mục đích chính của giáo dục là tạo nên những con người đức hạnh” (Clark, 1793, 93, theo Jeynes, 2003).

Một tài liệu tại văn khố tại Dorchester năm 1645 cho ta biết nhiệm vụ và chức năng của ủy ban giáo dục đầu tiên của nước Mỹ. Căn cứ theo điều 2, một niên học kéo dài cả năm (chứ không có nghỉ hè như vây giờ), và nhiệm vụ của thầy giáo gồm có những điều sau:

5. Thầy giáo sẽ nhận và dạy tất cả học sinh được gửi tới trường một cách bình đẳng và không thiên vị, bất kể phụ huynh giàu hay nghèo, hay có quyền lợi gì trong trường hay không.  

6. Thầy giáo sẽ dạy dỗ tất cả học sinh được gửi tới trường một cách chu đáo để cho học sinh được học về cách trí và văn chương, cũng như cách cư xử và bổn phận đối với tất cả mọi người, nhất là đối với những bậc trưởng thượng tại bất cứ nơi đâu, ở ngoài đường cũng như trong nhà. 

7. Cứ mỗi 6 ngày, vào lúc 2 giờ chiều, thầy giáo sẽ dạy giáo lý Thiên Chúa giáo cho học sinh bằng sách Giáo lý, hay nếu không có thì bằng những phương tiện khác. (Swett, 1990, 12)

Những điều nêu trên cho thấy là không thể tách rời tôn giáo ra khỏi môn đức dục trong chương trình giáo dục thời thuộc địa, dù chương trình này chỉ mới tới bậc tiểu học. Chương trình giáo dục thời thuộc địa không có thay đổi nào đáng kể cho tới thập niên 1830 và 1840, khi phong trào “xóa dốt” được phát động với phong trào xây dựng trường học công cho cả nước (Gutek, 2004).

Sự hình thành trường công lập và hậu quả đối với môn Đức dục

Horace Mann thuộc tiểu bang Massachussetts và Henry Bernard thuộc tiểu bang Connecticut được hậu thế đánh giá là hai nhà giáo dục tiên phong, là hai lãnh tụ về giáo dục của nước Mỹ mà ảnh hưởng còn để lại ngày hôm nay. Cả Mann và Bernard cùng chủ trương “chống dốt, chống những quyền lợi chính trị địa phương lặt vặt, chống những tập đoàn lợi ích đặc biệt, và phe nhóm trong tôn giáo” (Gutek, 2004, 149). Mann tin rằng khi sự giáo dục giúp cho những người bình dân có khả năng biết đọc, biết viết, biết tính toán và có kiến thức khoa học, thì giáo dục đã cho họ chiếc chìa khóa để tự giải phóng khỏi sự nghèo khó và tạo ra một sân chơi bằng phẳng hơn với giai cấp thượng lưu (Badolato, 2002). Tuy nhiên, giáo dục còn có một mục tiêu cao thượng hơn là chỉ dùng kiến thức để thủ đắc vật chất. Mann chân thành tin tưởng: “trách nhiệm đầu tiên của trường công lập là nâng cao và thăng hoa đạo đức. Xóa dốt và rèn luyện cho học sinh biết dùng trí phán đoán là phần quan trọng của giáo dục, nhưng vẫn còn là thứ yếu so với việc dạy dỗ những giá trị đúng đắn” (Eakin, 2000, 3).

Mặc dù Mann chủ trương phải dạy đạo đức cho học sinh trong trường công lập, nhưng ông không chủ trương kết hợp kiến thức đức dục với bất kỳ một giáo lý tôn giáo nào hết; thay vào đó, cũng giống như những nhà lãnh đạo cùng thời với ông, là chủ trương dạy kiến thức công dân (công dân giáo dục), nhằm củng cố nền dân chủ. Những kiến thức công dân gồm một tập hợp những giá trị đạo đức có tính chất thiết yếu cho việc xây dựng “tư cách” và “đức hạnh” công dân; những đức hạnh này dù không thuộc về bất kỳ một tôn giáo hay hệ phái tôn giáo nào, nhưng đều tương hợp với tất cả” (Eakin, 2000).

Quan  điểm của Mann về đức dục phản ánh trào lưu tư tưởng thời bấy giờ là chủ trương phân cách tôn giáo và học đường.[3] Nếu trường học là trường tư hay thuộc về một tôn giáo nào đó, thì chương trình huấn luyện đức dục của trường đó là việc riêng tư của họ; họ muốn dạy gì thì dạy. Tuy nhiên, nếu đó là trường công, dùng công quỹ để điều hành, thì vấn đề đức dục trở nên phức tạp, vì hệ thống giá trị nào thuộc hệ phái tôn giáo nào sẽ được chọn để giảng dạy trong học đường?[4] Một trong những lý do dẫn đến sự tranh cãi về vấn đề này là những làn sóng di dân mới với nhiều gốc tôn giáo khác nhau ồ ạt đổ vào Mỹ. Sự chuyển tiếp từ hệ thống học đường chịu ảnh hưởng tôn giáo của thời thuộc địa sang hệ thống học đường thế tục và công lập xảy ra trong giai đoạn từ 1776 đến 1825 (Mulkey, 1997).

Dù vậy, trong giai đoạn này, trường công lập tại Mỹ vẫn tiếp tục dùng Kinh thánh để giảng dạy đạo đức và môn đức dục. Cho tới năm 1870, thì tôn giáo mới hoàn toàn bị tách rời khỏi học đường vì một phán quyết của tòa án. Những trường học của Công giáo không được nhận tài trợ từ chính quyền vì có lập luận cho rằng đó là những trường học thuộc về một tôn giáo.[5] Những người ủng hộ tài trợ của chính quyền cho trường học của Công giáo phản bác bằng lập luận là những trường công lập cũng là trường thuộc tôn giáo Tin Lành vì sử dụng Kinh thánh (của Tin Lành) trong giảng dạy đức dục. Nội vụ được đưa ra giải quyết tại tòa án và phán quyết của tòa Tối Cao tiểu bang Ohio, năm 1873, ủng hộ lập trường của Bộ Giáo dục là cấm không cho sử dụng Kinh thánh trong trường công lập nữa (Joselit, 2007).

Tuy nhiên, trước khi có quyết định của Tòa Tối Cao Ohio (mặc dù đây chỉ là quyết định của tòa án tại một tiểu bang, ảnh hưởng của quyết định này đã lan sang các tiểu bang khác), kể từ năm 1836, William McGuffey, một mục sư và là một học giả, đã soạn thảo và ấn hành những Sách Tập đọc McGuffey, gồm những chuyện, tích về những danh nhân và cách cư xử của họ, để thay cho Kinh thánh trong việc dạy đức dục (Lickona, 1973). Sách này cũng tương tự như Luân Lý Giáo khoa thư tại Việt Nam năm 1935 nói đến gương của Mẫn Tử Khiên, Tích Quang, vân vân. Chương trình giáo dục công lập của Mỹ trong thời gian đầu gồm có tập đánh vần, đọc, viết, số học, địa lý, văn phạm, công dân, và cách trí. Sách Tập đọc McGuffey đã được sử dụng làm sách giáo khoa để dạy đọc, viết, văn phạm, và công dân cho chương trình tiểu học trong suốt 70 năm (Vail, 1911). Bộ sách tập đọc McGuffey gồm có tám cuốn: cuốn thứ nhất và nhì là vỡ lòng và vỡ lòng có hình ảnh minh họa, cuốn thứ ba là đánh vần, bốn cuốn từ tập đọc lớp một đến lớp bốn, và cuốn cuối cùng là sách hướng dẫn cho phụ huynh và thầy cô sử dụng Sách Tập đọc. McGuffey tuyển chọn rất công phu những bài đọc, bài thơ, bài học từ những tác giả cổ điển và từ những tác giả Mỹ; nhưng yếu tố quan trọng nhất khiến cho Sách Tập đọc McGuffey thành công là sự chọn lựa những nhân vật, tác giả, danh nhân không liên quan đến tôn giáo để dạy những bài học về luân lý và công dân. Điều này đã thỏa mãn được cả hai phe chủ trương tôn giáo và phi-tôn giáo trong học đường. Đặc điểm của Sách Tập đọc McGuffey được mô tả như sau: “Sách Tập đọc gồm những bài đọc đúng đắn, phù hợp, và không thể thiếu được trong việc dạy dỗ lòng yêu nước, ngay thẳng, thật thà, siêng năng, tiết độ, can đảm, lễ độ và những đức tính khác trong việc rèn luyện trí tuệ và đức hạnh” (Vail, 1911, 3).

Việc dạy đức dục qua Kinh Thánh, như được trình bày ở trên, đã phải rút lui vì sự phân cách giữa tôn giáo và học đường. Nhưng chương trình đức dục bị tấn công nặng nề nhất từ những tư tưởng và triết lý giáo dục du nhập từ Âu châu vào và ảnh hưởng đến nền giáo dục của Mỹ trong giai đoạn kế tiếp.

Tác động của những triết lý giáo dục trong chương trình giáo dục và đức dục tại Mỹ

Tất cả mọi hệ thống giáo dục đều được đặt trên căn bản của một nền triết lý nào đó, vì từ bản chất giáo dục là một hành trình đi tìm và hướng về những gì được xem là đúng, là tốt, là đẹp (một cái đẹp mà mọi người cùng công nhận), tức là hành trình hướng về chân, thiện, mỹ (Gutek, 2004). Hành trình này tương ứng với những ngành sau đây của triết học: siêu hình học, nhận thức luận, giá trị luận và luận lý học. Siêu hình học nhằm tìm xem cái gì là thật, là thực sự hiện hữu. Nhận thức luận nhằm trả lời câu hỏi làm thế nào mà ta biết là ta biết, và ta tiếp thu ‘cái biết’ như thế nào? Giá trị luận nhằm trả lời câu hỏi thế nào là đẹp, thế nào là thiện ác, xấu tốt? Sau cùng là luận lý học, môn học giúp cho con người tư duy đúng đắn (Gutek, 2004). Nước Mỹ, từ bản chất, là một nước di dân, đa chủng, vì vậy nước Mỹ bao gồm đủ mọi loại văn hóa, tư tưởng của những người di dân. Hệ quả là nền triết lý giáo dục của Mỹ cũng chịu ảnh hưởng của những nền triết lý giáo dục khác nhau.

Phái triết học cổ xưa nhất và còn tồn tại đến bây giờ là triết phái lý tưởng (idealism). Ở phương Tây, Plato được xem là triết gia phát triển nền triết học này. Về phương diện siêu hình học, những người theo phái Lý tưởng quan niệm rằng “cái thực tại tối hậu, thật sự hiện hữu là khái niệm và ý tưởng tinh túy nằm trong lãnh vực tinh thần, phi-vật chất” (Gutek, 2004,  21). Từ đó suy ra, mục đích quan trọng nhất của giáo dục phải là sự rèn luyện và phát triển trí tuệ và tinh thần của học sinh. Những người theo phái Lý tưởng còn tin rằng tư tưởng và khái niệm đã có sẵn trong tâm trí của con người rồi, nhưng sự chấn động tạo ra bởi quá trình sinh sản đã giam hãm những tư tưởng tinh túy này vào trong phần thể xác và chôn vùi dưới tiềm thức của con người. Người thầy, do đó, nên dùng phương pháp vấn-đáp của Socrates để giúp cho học sinh đem những tư tưởng và chân lý này trở về phần ý thức của mình (Gutek, 2004).  Còn về phần giá trị, cả về cái tốt lẫn cái đẹp, những người theo phái Lý tưởng tin rằng đó là những điều phổ quát, và vĩnh hằng. 

Mặc dù Siêu hình học và Giá trị luận của triết phái Lý tưởng sau này bị các triết phái khác tấn công, phái Lý tưởng vẫn còn nhiều ảnh hưởng trên nền giáo dục của Mỹ trên phương diện hệ thống cấp bậc của giáo trình và rèn luyện tổng quát cho học sinh. Phái Lý tưởng cho rằng giá trị có một hệ thống theo thứ bậc từ thấp đến cao, và những “giá trị nào có quan hệ trực tiếp đến việc phát triển và xác định bản chất tinh thần và trí tuệ của con người thì được xếp hạng cao hơn những giá trị khác” (Gutek, 2004, 26). Về phương diện đức dục, người thầy chính là một gương sáng cho học sinh noi theo để trở thành người tốt và hướng tới chân lý (Gutek, 2004). Hơn thế nữa, phái Lý tưởng đóng một vai trò quan trọng trong đức dục trong thời thuộc địa vì nguồn gốc của chân lý phát xuất từ Thượng đế cũng còn được người Mỹ thuộc địa quan niệm là Thượng đế của Ki-tô giáo.

Sau ảnh hưởng của triết học Lý tưởng là triết phái hiện thực (realism). Triết phái hiện thực cũng là một trong những nền triết học quan trọng của phương Tây mà ta có thể truy nguyên về triết gia Aristotle của thời cổ Hy-lạp. Aristotle là học trò của Plato, nhưng quan niệm về triết học của Aristotle khác quan niệm của thầy rất xa. Tín điều trọng tâm của triết phái hiện thực là quan niệm cho rằng con người là một sinh vật có lý trí, và tín điều này được đặt trên những tiền đề sau:

(a) ta sống trong một thế giới gồm có những vật thể, những người khác, và những hiện tượng nằm bên ngoài xác thân của nó; (b) ta có thể thu thập được những thông tin về thế giới bên ngoài này, thực ra ta còn có thể biết và hiểu được những điều này vận hành và quan hệ với nhau như thế nào; (c) những kiến thức đã được tổng quát hóa này, còn gọi là lý thuyết, về những vật thể, đối tượng bên ngoài, là bản đồ hướng dẫn tốt nhất cho những hành vi và cách cư xử của con người. (Gutek, 2004, 35)

Về phương diện siêu hình học, phái hiện thực cho rằng thế giới bên ngoài của chúng ta không phải chỉ có phần tinh thần như phái Lý tưởng quan niệm, mà thế giới này là một thế giới có “thực,” gồm có cả vật chất và hình thể. Con người, nhờ vào lý tính và giác quan có thể “biết” được thế giới bên ngoài. “Cái biết của con người là kết quả của hai chức năng: giác quan cho ta biết về chất và sự trừu tượng, và khái niệm cho ta biết về hình thể” (Gutek, 38).[6]

Về phương diện giá trị luận, phái hiện thực và lý tưởng có điểm giống nhau nhưng cũng có điểm khác nhau then chốt. Thứ nhất, phái hiện thực quan niệm rằng, mặc dù con người không có ai giống ai, nhưng cùng có chung khả năng suy luận và sự tự do để chọn lựa những hành động theo suy nghĩ của họ. “Ở mức độ tổng quát cao cấp nhất, có một hệ thống đạo đức chung dựa trên nhân tính của con người. Mức độ tổng quát này có tính phổ cập cho mọi người chứ không tùy theo hoàn cảnh hay tình huống mà thay đổi” (Gutek, 2004,  40). Tuy nhiên, phái hiện thực cũng chú trọng đến tính cách và vai trò của cá nhân, và mỗi cá nhân phải hành xử sự tự do chọn lựa và năng lực của lý trí của chính mình trong những vấn đề liên quan đến đạo đức, nhưng đồng thời cũng phải tôn trọng cách hành xử của những người khác (Gutek, 2004).

Harry S. Broudy, một trong những triết gia hàng đầu của phái hiện thực, lập luận rằng đức dục gồm có ba phần mà mỗi cá nhân phải thực hiện; đó là sự tự-quyết, tự-thể hiện, và tự-tích hợp. Sự tự-quyết có nghĩa là mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm và tự quyết định về việc hoạch định cho tương lai của mình, và qua đó có ảnh hưởng đến tương lai của những người khác; sự tự-thể hiện nghĩa là trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc thể hiện tiềm năng của chính mình; và sau cùng là sự tự-tích hợp, nghĩa là khả năng nhận định và tổng hợp những giá trị khác nhau, thậm chí xung đột với nhau, để quyết định xem giá trị nào sẽ là những giá trị chính hướng dẫn cho sự tự-thể hiện của mình. Thêm vào đó, phái hiện thực cũng nhấn mạnh đến vai trò của phụ huynh và thầy cô trong việc đào luyện đức dục cho học sinh (Gutek, 2004).

Theo sau hai triết phái cổ điển, có lẽ chủ nghĩa Thực dụng là một trong tất cả những nền triết lý có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến xã hội về phương diện giáo dục và xây dựng dân chủ của Mỹ. Triết phái Thực dụng do các triết gia người Mỹ như Charles S. Peirce, William James, and John Dewey[7] hình thành vào đầu thế kỷ 20. Trọng điểm của triết phái thực dụng là ứng dụng vào thực tế những ý tưởng/kiến thức và đánh giá những kiến thức này qua kiểm tra thực nghiệm. Dewey, triết gia có nhiều ảnh hưởng nhất của triết phái thực dụng chủ trương “tri hành hợp nhất,” nghĩa là “cái biết của con người có tương quan mật thiết và liên hệ đến sự thực hành cái biết này” (Gutek, 71). Triết phái thực dụng dựa trên ba tiền đề: (a) giá trị của ý tưởng phải được xác nhận qua thực nghiệm trong sinh hoạt thực sự của con người; (b) kinh nghiệm là kết quả của sự tương tác của con người với nhau và với môi trường chung quanh; và (c) những vấn nạn mới nảy sinh từ những sự tương tác này có thể được giải quyết bằng phương pháp khoa học, còn gọi là “phương thức tư duy toàn diện.”[8] Ảnh hưởng lớn lao của triết phái thực dụng trong việc phát triển và sự tiến bộ của nền khoa học và kỹ thuật của Mỹ là điều mà ai cũng phải công nhận. Tuy nhiên, hệ luận của những tiền đề thực dụng khi áp dụng vào môn đức dục lại tạo ra một ảnh hưởng khác; đó là quan niệm luân lý tương đối.[9] Những người thực dụng lý luận rằng những điều vẫn được coi là chân, thiện, và mỹ không phải là những gì bất biến và phổ quát cho mọi người, mà được xác định bởi chính kinh nghiệm tương tác của mỗi cá nhân với môi trường chung quanh. Quan niệm luân lý tương đối của phái thực dụng bị những người chủ trương là có những tiêu chuẩn phổ quát chung cho những hành vi đạo đức chỉ trích nặng nề. Thế nhưng, quan niệm luân lý tương đối đã “đẩy” môn đức dục thêm một bước ra khỏi chương trình đức dục trong học đường của Mỹ. John Dewey, vì được xem là “lãnh tụ” của phái thực dụng, nên cũng bị chỉ trích nặng nề về quan niệm luân lý tương đối là làm hư hỏng nền đức dục của Mỹ. Tuy nhiên, Dewey trong những tác phẩm về đạo đức cho thấy ông chú trọng đặc biệt đến việc rèn luyện đức dục, giá trị, và tư cách cho học sinh. Dewey khẳng định: “đức tính của trẻ em phải được phát triển và rèn luyện trong một môi trường xã hội, tự nhiên, và công bằng. Học đường nên tạo ra môi trường như vậy cho việc rèn luyện đức dục” (Mulkey, 36). 

Chủ nghĩa Hiện Sinh trở thành một triết thuyết hấp dẫn dân Mỹ sau Đệ nhị Thế chiến. Điều này có lẽ là một phản ứng tất yếu trước sự trỗi dậy của vai trò thống trị thuần lợi nhuận của doanh nghiệp trong xã hội, và sau những đố nát, hủy diệt nhân phẩm do chiến tranh thế giới tạo nên. Triết gia hàng đầu của phái Hiện sinh là Jean-Paul Sartre, cũng là một tiểu thuyết gia nổi tiếng của Pháp. Sartre tóm tắt những tín điều của triết phái hiện sinh như sau: “con người hoàn toàn không có một mục tiêu cố định hay đã có sự tự khẳng định nào về vai trò của mình trong thế giới khi bước chân vào cuộc đời. Những lựa chọn có tính chất then chốt trong cách sống như thế nào là những hành vi tạo nên bản chất và tự khẳng định mà cá nhân tạo nên cho mình trong xã hội” (Gutek, 2004,  88). Từ đó suy ra, sự hiện hữu của một cá nhân cũng giống như sự hiện hữu của những cá nhân khác, không tạo ra điều gì khác cho bất kỳ ai, ngoại trừ cho chính cá nhân đó.

Về phương diện giáo dục, phái hiện sinh quan niệm là có hai loại kiến thức. Loại thứ nhất là những kiến thức về thế giới vật chất tự nhiên, những kiến thức căn bản của đời sống; loại kiến thức này con người chỉ có thể chấp nhận và sử dụng trong cuộc sống của mình, chứ không làm khác hơn được. Loại thứ hai, đối với những người theo phái hiện sinh, thì lại quan trọng hơn nhiều và có tính cách chủ quan; nghĩa là “kiến thức về chính con người chúng ta trong tư cách một nhân vị sống trong một thế giới do chính ta quyết định chọn lựa” (Gutek, 91). Như thế, bổn phận đạo đức chính yếu của một cá nhân là quyết định và chịu trách nhiệm về việc kiến tạo những giá trị cho chính mình. Hệ luận của quan niệm này đã tạo một ảnh hưởng tai hại về phương diện đức dục, vì khi không có một hệ tiêu chuẩn khách quan nào làm chuẩn mực, thì mọi hành vi dựa trên sự chủ quan của cá nhân đều được coi là hành vi đạo đức. Phái hiện sinh, do đó, đã “đẩy” môn đức dục thêm một bước ra khỏi học đường.

Sau những ảnh hưởng của phái hiện sinh, có lẽ ảnh hưởng của phái Phân Tích Ngôn ngữLuận Lý Thực chứng là tai hại hơn cả cho ngành đức dục tại Mỹ. Phái phân tích đặt chân vào nước Mỹ trong thập niên 1960 và 1970, sau khi những triết gia hàng đầu về giáo dục ở Mỹ, Canada, và Australia chấp nhận triết phái này. Một trong những nguyên nhân phái phân tích được dung nạp và phát triển là phản ứng của những nhà giáo dục trước tình trạng sử dụng những thuật ngữ và ngôn ngữ mơ hồ vay mượn từ các ngành nhân chủng, xã hội, và tâm lý học và đem vào áp dụng trong ngành giáo dục. Phái phân tích quan niệm trong ngôn ngữ có ba loại mệnh đề, gồm có mệnh đề phân tích, tổng hợp và tình cảm. Hai loại mệnh đề phân tích và tổng hợp là những loại cần thiết cho việc diễn đạt tư tưởng có mạch lạc và nghĩa lý. Loại mệnh đề tình cảm là để diễn tả những tình cảm, cảm xúc, hay ý kiến về giá trị phải quấy, đẹp xấu, v.v. Do đó, những triết gia phái phân tích chủ trương phải tách biệt rõ ràng những loại ngôn ngữ dùng cho sự kiện và những loại ngôn ngữ dùng cho giá trị.

Về phương diện biện luận, phái phân tích đã có những đóng góp quan trọng đáng kể, khi vạch ra những từ ngữ mơ hồ dùng lẫn lộn trong học thuật; nhưng về phương diện đức dục, thì hậu quả lại tai hại vì theo phái này những khái niệm đạo đức đúng sai, phải quấy là những điều không thể chứng minh được mà tùy theo sự diễn dịch của cá nhân (Josephson, 2002).  Nói như thế không có nghĩa những triết gia theo phái phân tích không đánh giá cao sự quan trọng của khái niệm về giá trị và hệ thống giá trị, nhưng điểm theo chốt, theo quan niệm của họ: nhiệm vụ của triết gia không phải là để cố vấn cho thiên hạ nên sống như thế nào về phương diện đạo đức và luân lý (phần in nghiêng để nhấn mạnh của người viết) (Gutek, 2004).

Triết phái sau cùng có ảnh hưởng sâu rộng đến môn đức dục tại Mỹ là phái Hậu-hiện đại. Phái Hậu-hiện đại có nguồn gốc từ hai triết gia người Đức là Nietzsche và Heidegger[10] từ cuối thế kỷ 19 sang giữa thế kỷ 20. Triết gia Hậu-hiện đại đương thời là hai triết gia tiêu biểu người Pháp:  Jacques Derrida và Michel Foucault[11]  Gutek, 2004). Phái Hậu-hiện đại cho rằng “thời kỳ hiện đại đã chấm dứt vào hậu bán thế kỷ 20 và chúng ta đang ở vào thời kỳ hậu-kỹ nghệ” (Gutek, 122). Triết gia Hậu-hiện đại phủ nhận nền triết học truyền thống dựa trên siêu hình học trên cơ sở sau: “những nhà trí thức trong một thời kỳ nào đó đều tìm cách biện minh và giải thích cho sự vận dụng kiến thức mang lại sức mạnh cho một thành phần trong xã hội, nhưng lại từ khước những thành phần khác” (Gutek, 130). Phái Hậu-hiện đại cũng phủ nhận luôn cả phương pháp khoa học của phái Thực dụng là chẳng đáng gọi là “khách quan” mà đã có sẵn mầm thiên vị cho những nhà trí thức được đào tạo trong môi trường sử dụng phương pháp đó. 

Về phương diện đức dục và giá trị luận, phái Hậu-hiện đại chủ trương là có nhiều cách tiếp cận khác nhau, có tính chất tương đối theo điều kiện và hoàn cảnh chủ quan của từng cá nhân. “Những giá trị đạo đức-ý thức giữa cái đúng và sai-phản ánh điều kiện sống và cách thức con người đối phó với những hoàn cảnh này” (Gutek, 132). Nói một cách khác, phái Hậu-hiện đại không những chủ trương đạo đức tương đối mà còn đạo đức đa nguyên nữa. Và đó cũng là một lý do cộng thêm vào sự nhượng bộ cuối cùng của môn đức dục trong chương trình giáo dục phổ thông tại Mỹ.

Vai trò của tổ chức xã hội dân sự trong phong trào đức dục tại Mỹ

Như đã trình bày, sự phân cách giữa chính trị, tôn giáo, và học đường là nguyên do chính khiến cho môn đức dục bị “gạt” ra khỏi chương trình giáo dục phổ thông. Sau đó là ảnh hưởng của những triết lý giáo dục khác nhau trong việc hình thành một nền triết lý giáo dục quốc gia. Hậu quả của những động thái này là tình trạng đáng báo động về suy đồi đạo đức trong học đường và ngoài xã hội tại Mỹ. Nếu đức dục không phải là trách nhiệm của học đường, thì thuộc trách nhiệm của ai? Người Mỹ quan niệm rằng vấn đề đức dục, đạo đức thuộc về phạm vi cá nhân, gia đình và tôn giáo. Nhưng cấu trúc gia đình của Mỹ cũng đang trên đà lung lay với con số gia đình chỉ có một phụ huynh ngày càng gia tăng và phải quay cuồng với đời sống nên chẳng còn thì giờ để chăm sóc đến con cái.[12] Tình trạng báo động này khiến một số nhà giáo dục, tổ chức xã hội thiện nguyện, đã phải họp lại tại Aspen, Colorado năm 1992 để tìm cách đối phó. Kết quả là một phong trào Đức Dục, do những cá nhân và hội đoàn thiện nguyện cổ xúy, đã được phát triển tại Mỹ cho đến ngày nay. Phong trào Character Counts và sau này là tổ chức Character Counts trở thành một trong những tổ chức xã hội dân sự lập ra chương trình xiển dương và rèn luyện đức dục song song với chương trình giáo dục trong học đường và gia đình. Character Counts dùng  “Sáu Đức Hạnh Trụ Cột” làm nền tảng cho chương trình giáo dục và huấn luyện đức hạnh cho trẻ em tại Mỹ. Sáu Đức Hạnh Trụ Cột gồm có: Tín (Trustworthiness), Trách Nhiệm (Responsibility), Tôn Trọng (Respect), Công Bình (Fairness), Nhân Ái (Caring), và Nghĩa vụ Công dân (Citizenship) (trong bài viết sau, tác giả sẽ đi sâu vào chi tiết và phân tích “Sáu Đức Hạnh Trụ Cột” trong đức dục).

Kết Luận

Môn đức dục trong hệ thống giáo dục công lập của Mỹ đã chịu nhiều thử thách từ khi nước này được thành lập. Trong ba thập niên vừa qua, đức dục đã phải thoái bộ và hoàn toàn bị đẩy ra khỏi chương trình giáo dục chính thức, vì những lý do chính trị phân cách tôn giáo và giáo dục và sự tranh cãi giữa khái niệm “cái tốt” vĩnh hằng và phổ cập của triết học cổ điển với khái niệm đạo đức tương đối, đạo đức đa nguyên của phái hiện sinh, hậu-hiện đại, v.v. Nếu ta không biết “cái tốt” là gì, thì ta không thể giảng dạy và phát huy “cái tốt,” chứ đừng nói đến việc “làm tốt.” Tuy nhiên, có điều thú vị đáng ghi nhận là Sách Tập đọc McGuffey đã được sử dụng để dạy môn đức dục hơn 70 năm; chỉ vì cuốn sách này là một cuốn sách “thế tục” dùng những câu chuyện và danh nhân trong đời thường để làm gương về đức hạnh. Thực ra, tôn giáo nào cũng dạy con người làm điều tốt và sống ngay lành; cho nên Sách McGuffey đã tồn tại trong một thời gian dài gần 100 năm. Hơn nữa, bất kể nền văn minh nào cũng tôn trọng tín, nghĩa, nhân, công bình. Chẳng ai muốn làm việc, giao dịch với người bất tín, bất kể người đó theo tôn giáo nào hay thuộc sắc dân nào. Phong trào giảng dạy đức dục đang được phục hồi tại Mỹ vì xã hội Hoa Kỳ đang phải đối phó với rất nhiều thách thức như sự suy đồi của nền tảng gia đình, tình trạng thói hư tật xấu lan tràn trong giới trẻ. Công cuộc đào luyện đức hạnh cho giới trẻ không phải là công cuộc của riêng học đường hay tôn giáo mà phải là công cuộc chung của cả xã hội, trong đó những tổ chức xã hội dân sự có một vai trò hết sức quan trọng.

 

© Học Viện Công Dân 2012

Tài liệu tham khảo

Badolato, Robert. (2002). The educational theory of horace mann. New Foundation Publishing [Electronic version]. Retrieved May 1, 2007, from http://www.newfoundations.com/GALLERY/Mann.html

Beachum, F., & McCray, C. (2005). Changes and Transformations in the Philosophy of Character Education in the 20th Century. Retrieved from http://www.usca.edu/essays/vol142005/beachum.pdf

Eakin, Sybil. (2000). Giants of american education: Horace mann. Technos Quarterly, (Vol. 9, No. 2, pp. 1-3).

Gutek, Gerald L. (2004). Philosophical and ideological voices in education. Boston: Pearson.

Howard, Robert W., Berkowitz, Marvin W. & Schaeffer, Esther F. (2004).

Politics of character education. Educational Policy, (Vol. 18, No. 1, pp. 188-215).

Hunter, James D. (2000). The death of character: Moral education in an age without good or evil. New York: Basic Books.

Jeynes, William. (2003). Religion, education, and academic success. California: Information Age Publishing.

Joselit, J. W. (2007). Bible wars. The Jewish Daily Forward. Retrieved from http://forward.com/articles/9982/bible-wars/

Josephson, Michael. (2002). Character education is back in our public schools. The State Education Standard [National Association of State Boards of Education Electronic version]. Retrieved April 15, 2007, from http://www.nasbe.org/Standard/11_Autumn2002/Character.pdf

Korim, D., & Hanesova, D. (2010). The role of character education and its equivalent subjects in the school curriculum in Slovakia and selected European countries. The New Educational Review, 21(2), 1-326.

Lickona, Thomas. (1993). The return of character education. Educational Leadership, (Vol. 51. No. 3, pp. 6-11).

Lickona, Thomas. (1999). Religion and character education. Phi Delta Kappan, (Vol. 81. No. 1, pp. 21-28).

Mulkey, Young J. (1997). The history of character education. JOPERD–The Journal of Physical Education, Recreation & Dance, (Volume: 68. Issue: 9, pp. 35-38).

Nha Học Chính Đông Pháp. (1941). Luân Lý Giáo Khoa Thư Lớp Sơ Đẳng.

Postscript. (2011). Preventive diplomacy: No Asian century without the pan-asian  institution. Retrieved from http://www.habibiecenter.or.id/download/PostScript%20May-Jun%202011.pdf

Ryoko Kato Tsuneyoshi. (2001). The Japanese model of schooling: Comparisons with the United States. Psychology Press:
Routledge.

Swett, John. (1900). American public school: history and pedagogics. New York: American Book Co.

Thattai, Deeptha. (2001). A history of public education in the United States. Association for Indina’s Development E-journal. Retrieved May 10, 2007, from http://www.servintfree.net/~aidmn-ejournal/publications/2001-11/PublicEducationInTheUnitedStates.html

Vail, Henry H. (1911). A history of the McGuffey Readers. Cleveland: The Burrows Brothers Co.

Ghi chú

[1] Phải mất tới hơn 20 năm, các tổ chức xã hội dân sự mới có thể kết hợp với nhau thành một phong trào có tính chất
toàn quốc.

[2] Đức hạnh gồm có hai chữ là đức (徳) và chữ hạnh (行). Đức nghĩa là cái đạo để lập thân, còn ở trong tâm, chưa thể hiện ra bên ngoài. Hạnh (còn đọc là hành) là đức đã thể hiện ra bằng hành động (Tự điển Hán Việt Thiều Chửu).

[3] Vấn đề này vẫn còn đang được tranh cãi và kéo dài cho tới ngày hôm nay.

[4] Theo thống kê hiện nay, có khoảng 217 hệ phái Tin Lành trên khắp nước Mỹ (thoát thai từ Thiên Chúa giáo) và trong số này có 24 hệ phái chính như Baptist, Pentecostal, Lutheran, v.v…Đó là chưa kể tới Công Giáo (Catholic) với tổng số giáo dân khoảng 68 triệu (năm 2011). (theo Hartford Institute for Religion Research: http://hirr.hartsem.edu/research/fastfacts/fast_facts.html#denom). Tổng số người Mỹ theo đạo Thiên Chúa ước chừng 245 triệu người: http://religions.pewforum.org/reports 

[5] Những người di dân gốc Anh đầu tiên đến Mỹ, dù không tuyên xưng đạo Tin Lành (Protestant) là tôn giáo chính, nhưng mặc nhiên công nhận như vậy. Đạo Công giáo (Catholic) và những tôn giáo khác (dù cùng gốc Ki-tô giáo) vẫn bị coi là dị giáo.

[6] Theo John Locke, một ý tưởng tổng quát trừu tượng, như “cái cây,” “cái xe,” là một khái niệm “cây” hay “xe” mà ta “thấy” trong tâm trí, không còn những đặc tính nào khác như cây tre, cây táo, cây chanh, v.v. Những triết gia khác, như Schopenhauer, lý luận rằng khái niệm chỉ là sự trừu tượng hóa những gì người ta nhận thức.

[7] John Dewey (1859-1952) là một trong số những triết gia, nhà giáo dục hàng đầu của Mỹ, người đã xướng xuất, phổ biến và áp dụng Triết phái Thực Dụng trong các ngành giáo dục, khoa học, và kỹ thuật của Mỹ.

[8] Xem thêm bài về Phương Thức Tư Duy Toàn Diện tại http://www.icevn.org/vi/node/393

[9] Xem thêm bài “Đạo đức và Luân lý Đông Tây” của Phan Châu Trinh phân biệt sự khác nhau giữa đạo đức và luân lý tại http://icevn.org/vi/DucDuc/Dao-Duc-Va-Luan-Ly-Dong-Tay

[10] Friedrich Nietzsche (1844-1900) chủ trương “Thượng Đế đã chết” và hư vô chủ nghĩa. Martin Heidegger (1898-1976) cũng đồng thời là một triết gia phái hiện sinh. Tác phẩm nổi tiếng của Heidegger là “Hiện hữu và Thời gian.” 

[11] Jacques Derrida (1930-2004) đề xướng ra lý thuyết phê phán (critical theory) và giải cấu (deconstruction); Michel Foucault (1926-1984) vận dụng lý thuyết phên phán trong môn xã hội và tâm lý học và trong những định chế xã hội như trại giam. Cả hai triết gia này đều tuyên bố là họ chịu ảnh hưởng của Nietzsche.

[12] Thống kê năm 2004 cho thấy 36% trẻ em sinh ra là con có mẹ không có cha; 45% trẻ em sinh ra trong gia đình mẹ ly dị cha sống dưới mức hay ngang mức nghèo theo tiêu chuẩn liên bang; hơn một nửa số thanh thiếu niên bị bắt vì tội hình sự và 75% nghiện ngập xuất thân từ gia đình chỉ có một phụ huynh; và sau cùng 75% thiếu nữ không chồng mà có con xuất thân từ gia đình chỉ có một phụ huynh (nguồn: http://www.singleparentsuccess.org/stats.html).

Nguồn: http://icevn.org/vi/node/1851

Chuyện kể năm 2000 (kỳ 4) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

*

*        *

Cả trại vừa “đánh đồng thiếp” đi được một lúc thôi chứ mấy, thì có tiếng súng nổ chói đanh ngay mang tai. Rền từ rừng xanh vọng về. Liên tiếp năm sáu phát. Tất cả choàng dậy. Ngơ ngác. Sợ hãi. Tiếng Cán quát:

– Tất cả ngồi yên tại chỗ.

Cả trại vẫn im lặng như chết. Lại hai tiếng súng nữa. Cách nhau. Phát một. Có tiếng chân người chạy. Tiếng gọi nhau. Và tiếng béc-giê sủa ồm ồm.

– Lại có thằng nào trốn trại rồi.

Tiếng ai đó lầu bầu. Giọng Nghệ An. Một lúc sau là Lê Bá Di giọng Quảng Trị:

– Báo cáo. Tôi Lê Bá Di, số tù 127, vào nhà mét đi đái.

Im ắng. Bên ngoài im ắng lắm. Có lẽ anh tù trốn đã chạy được vào rừng. Cuộc rượt đuổi diễn ra xa trại. Anh ta có trốn thoát được không? Ai thế nhỉ?

Tất cả ngồi dậy trong màn, chờ đợi một sự kiện gì đó nhưng chẳng có gì xảy ra. Thế là lại chen chúc nhau trong nhà mét. Rồi lại về màn. Hắn và già Đô như cùng ngả lưng xuống chiếu một lúc. Già chép miệng:

– Trốn đi đâu được mà trốn cơ chứ.

Lại nằm. Lại nghĩ. Nghĩ đến anh tù trốn trại chui lủi trong rừng. Đến các ông công an, đến đàn chó đang lùng sục. Rồi nghĩ đến thân phận mình tù không án, ngày về chẳng có. Thôi. Đừng nghĩ gì nữa. Tất cả sẽ qua. Đến cả cuộc đời mình rồi cũng qua nữa là…

Khi đã hoàn toàn yên lặng, có tiếng chân người ngoài sân. Loang loáng ánh đèn pin. Tiếng Chắt khàn khàn:

– Dậy nhé! Tất cả dậy! Dậy! Điểm danh!

Lại bật dậy. Chui ra ngồi ở đầu màn. Lại xếp bằng tròn. Tay để trên đùi, ngửa lên. Người sàn trên sóng đôi với người sàn dưới. Sàn bên này đối xứng với sàn bên kia. Ông Thanh Vân hầm hầm bấm đèn pin soi vào mặt từng người. Rồi đi ra. Chắt lại khoá cửa. Hai người đi sang buồng khác. Còn ngủ nghê gì được nữa. Ngao ngán hết cả người. Nhưng nằm xuống chiếu rồi Lượng vẫn vui vẻ nói lên tâm trạng chung của anh em khi bị điểm danh đột xuất, khi bị rọi đèn pin vào mặt:

– Báo cáo cán bộ. Ai trốn thì trốn, chứ chúng tôi cho ăn kẹo cũng không trốn. Có trốn thì trốn thời gian sơ tán rồi. Chúng tôi cứ phải có hộ khẩu, có sổ gạo, không là chết đói.

Nằm trong màn, Lượng cứ báo cáo với bóng đêm như vậy. Không ai hưởng ứng Lượng. Tất cả cố gắng tìm đến với giấc ngủ bị ngắt quãng.

Hắn cũng cố chợp được một lúc. Trở dậy trời đã sáng. Sáng hôm ấy trời nắng. Đã cảm thấy cái nắng của đầu hè. Mây bục. Bay. Dồn. Lộ ra những khoảng trời xanh thèm khát gần trăm ngày nay.

Thấy tiếng chân ông Quân, tất cả xuống đất. Ca, ống bương, bi-đông, khăn mặt chờ sẵn. Ông Quân mở toang hai cánh cửa và rất nhanh nép sang một bên tránh cái mùi người, cái mùi hôi hôi của hơi người, quần áo giày dép chăn màn, nhà mét bị nhốt một đêm ào ra. Cái mùi đó, những người ở trong nhà quen mũi không thấy. Còn người ngoài không ai chịu được. Nó nặng. Có trọng lượng. Nó ùa ra như nước ùa khi cánh cửa đập mở. Nó nồng nặc cứ thẳng cửa tràn ra sân. Có lẽ vì thế mà đất sân ở đó đen sạm lại và tất cả những cây trẩu trồng đối diện với các cửa buồng đều còi cọc, lá bị cháy táp không lớn được. Đó là một loại không khí có áp suất lớn, được cấu tạo khác hẳn với khí quyển của trái đất. Chả thế có những hôm ông cán bộ khác mở cửa buồng thay ông Quân, vừa mở tung cánh cửa, ông như bị đánh mạnh vào ngực, giật mình lùi lại, nép vội vào một bên làm cho cả bọn cười rộ lên.

Những người tù xếp hàng hai bước ra trước cái bút dứ dứ của ông Quân. Thiếu một người. Tù gọi ầm:

– Còn ai trong ấy ra mau lên.

Dự thắt vội dải rút quần, từ nhà mét chạy ra. Dự buồn đi đồng, đã định nhịn đến lúc đi làm, nhưng không chịu được. Thân tù thật khổ. Đi ỉa cũng vội. Ỉa không hết cứt.

Ngoài sân anh em tù thoải mái hít thở không khí trong lành. Nhiều người không đánh răng, chỉ súc miệng. Hắn vẫn có thuốc đánh răng, nên già Đô cũng được đánh. Hắn phải bảo mãi già Đô mới chịu đấy. Già cười:

– Trâu bò nó có đánh răng đâu mà răng nó trắng thế. Các cụ nhà mình có đánh răng đâu mà các cụ vẫn sống lâu.

Mấy anh tập thể dục. Hắn cũng múa may vài đường cơ bản. Chỉ riêng Nguyễn Văn Phổ, tù mười tám năm tập rất đều. Tập thể dục đều, tắm đều và làm việc cũng đều nữa.

Phổ cũng là tổ trưởng như hắn. Anh em nghỉ, hắn nghỉ, Phổ vẫn làm. Phổ chỉ làm việc nhẹ thôi: Đánh luống. Xới cỏ. Phổ làm không vội vã, cứ nhát một đều đặn, chăm chỉ. Nắng tháng Sáu, anh em dạt cả vào gốc cây tránh nắng, Phổ vẫn một mình với cái cuốc giữa nương, mồ hôi đầm đìa. Hắn bảo Phổ:

– Anh nghỉ cho anh em nghỉ với chứ.

– Anh em cứ nghỉ đi, mình làm quen rồi, nghỉ nhiều lại chán.

Phổ ở Phú Sơn về. Hắn ở QN lên. Đi làm với nhau nhưng không nói chuyện với nhau. Tù vốn giữ mình, giữ mồm, giữ miệng. Hắn vừa đưa nhát cuốc vừa lẩm bẩm một mình:

Hôm nay đi chùa Hương

Hoa cỏ mờ hơi sương

Cùng thầy me em dậy

Em vấn đầu soi gương (1)              

Hắn đang nghĩ về quá khứ, nghĩ về những áng thơ bất hủ dù không được in lại.

Bỗng Phổ hỏi:

– Anh thích Nguyễn Nhược Pháp lắm à?

Hắn nhìn Phổ, kính trọng một người tù có kiến thức. Phổ cũng như trăm ngàn người tù khác. Quần áo xám bạc, da đen tai tái. Dòng chữ đỏ in trên ngực: AM xê-ri kỳ cựu. Hắn đáp:

– Vâng. Tôi thuộc Nguyễn Nhược Pháp từ nhỏ.

Phổ buông cuốc:

– Tôi là anh ruột Nguyễn Nhược Pháp đây.

Đến lượt hắn rời cuốc. Hắn không ngờ Phổ là con Nguyễn Văn Vĩnh: “Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè, đến khi gió bấc thổi” . Hắn thuộc từ lúc còn bé tí. Bố hắn mua về cho hắn cả một quyển ấy, khi bố hắn sang phố. Còn những “chuột nhắt, mèo và gà trống” những “cá to cá bé nuốt nhau” (2)

Từ ấy hai người hay trò chuyện. Phổ đọc cả thư con gái út đã mười tám tuổi cho hắn nghe. Phổ có một cái gáo múc nước bằng tôn hoa nhà gửi cho. Đi làm về, dù xa dù gần, Phổ cũng xách theo một gáo nước suối. Sáng hôm sau tập thể dục xong, Phổ tắm. Đầu Phổ  ít tóc nhưng chải mượt. Nóng lạnh, hôm nào Phổ cũng tập thể dục, cũng tắm. Có lẽ Phổ  bình thường hoá cuộc sống trong tù.

Anh em rửa mặt đánh răng, đi đái đã vãn. Số trực nhật đã xuống bếp lấy suất ăn sáng. Những cặp mắt hướng về nhà bếp. Trong tù thì chỉ có đợi ăn. Chia thức ăn sáng đơn giản hơn. Mì nấu muối, hay sắn, hay khoai lang. Cũng cân. Nhưng chỉ một lần cân thôi. Sợ nhất khoai lang như hôm nay, vớ phải củ hà thì meo suốt sáng.

Tiếng kẻng gọi đi làm. Hắn cùng mọi người bị bọc, bước ra sân. Hắn trông thấy Hợp nhét con chuột nhắt vào bị. Con chuột cứng quèo, co lại trông

 

(1) Chùa  Hương. Thơ của Nguyễn Nhược Pháp, thời đó còn bị cấm, không được in lại.

(2) Thơ  ngụ  ngôn của  La Phông-ten. Nguyễn  Văn Vĩnh  dịch 

càng béo, to hơn ngón tay cái, vàng hươm. Đúng là một con chuột cụ. Trưa nay Hợp sẽ có thứ sột sệt cải thiện rồi. Các toán xếp thành hàng hai, ngồi trên sân hướng về cổng trại dốc thoai thoải. Trông như những mô đất xám xếp thành luống gù gù kín cả sân trại. Ở phía cổng, ông Quân nhìn tờ giấy gọi to:

– Phạm nhân Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Thế Hiển ở lại.

“Xà lim rồi”. Hắn ghé tai già Đô, nói nhỏ. Hai người bao giờ cũng xếp hàng đôi cạnh nhau. Già Đô vội lục bị, dúi cho hắn hai củ khoai lang. Đó là toàn bộ suất sáng của già. Già không ăn, già để phòng xa cho hắn. Rất nhanh, hắn nhét vào bị của hắn, sợ người khác trông thấy. Một người tách hàng tù đứng ra. Đó là Hiển, một anh tù trẻ. Có tiếng quát: “Anh Tuấn đâu?” Hắn nặng nề khoác bị đứng lên, đi ra khỏi hàng, về phía cổng. Hàng nghìn con mắt nhìn vào hắn.

Ông Quân tay cầm quyển sổ, tay cầm bút máy:

– Toán rau xanh!

Toán rau xanh đứng lên. Nón rách, quần áo xám, cúi mặt, phớt đời, lầm lì, khó hiểu đi hàng đôi chầm chậm trước mặt ông Quân. Ông cầm cái bút máy, cứ mỗi hàng tù đi qua, lại dứ một cái, miệng lẩm nhẩm đếm. Rồi ông ghi vào sổ.

Ở trong buồng trực, nhiều ông công an áo xanh, công an áo vàng đang uống nước, hút thuốc cười nói. Khi người cuối cùng trong toán ra cổng trại, một ông công an vũ trang xách khẩu súng dựa vào tường, khoác lên vai đi theo. Và một ông công an áo vàng, đó là ông quản giáo phụ trách toán.

– Toán làm đồi!

Lại một toán tù quần áo xám uể oải chậm chạp, tuyệt vọng đứng lên. Số tù đỏ, số tù đen in ở lưng, ở ngực áo, ở ống quần. Ông Quân lại giơ bút dứ dứ. Ông đếm từng đôi, miệng lẩm nhẩm. Trong phòng trực lại một ông quản giáo súng lục, một ông công an vũ trang khoác súng trường đi ra.

– Toán may.

– Toán lò vôi.

– Toán lò gạch.

Cứ thế sân trại rỗng. Phòng trực rỗng. Ông Quân đi vào cái phòng trực rỗng ấy, ngồi xuống ghế, đặt quyển sổ lên bàn làm tính cộng.

Hắn nhìn thấy anh tù trẻ và bước về phía anh ta:

– Tập trung hay án?

– Án. Anh bọp à?

Hắn gật đầu lo lắng:

– Không biết các ông ấy gọi lại làm gì.

Hiển không giấu được niềm vui:

– Em hôm nay hết án. Lo quá, chỉ sợ ông ấy cho thêm cái bọp. Khi nhận được thư bố em, em mới yên tâm.

– Án mấy ?

– Đúng một năm, ăn đủ, ở đủ. Chẳng được giảm ngày nào. Người nhà em lên đón từ hôm qua.

Ông Quân đã cộng trừ xong, buông quyển sổ:

– Anh Hiển vào đây.

Hiển bước vào phòng. Một mình hắn đứng chờ. Lại càng lo lắng, càng buồn, càng nẫu ruột. Trên đầu hắn là cái bốt gác chính ngay ở cổng trại. Có tiếng lục cục trên đó. Tiếng dựng súng, tiếng kéo ghế, tiếng chân người. Một đầu mẩu thuốc đỏ lừ rơi xuống gần chân hắn. Kìa Hiển đã ra. Hiển nhảy chân sáo ra cổng sau khi vẫy hắn. Nụ cười sáng bừng. Đó là những bước chân đầu tiên của tự do. Cái vẫy tay mới tuyệt vời. Nó vừa là biểu hiện của tự do vừa là bản thân tự do. Không ai dám vẫy tay vui tươi một cách chân thành như vậy trước mặt ông quản giáo khi còn là một thằng tù. Những giây phút đầu tiên được trở lại làm người tự do mà hắn chứng kiến. Chỉ thoắt một cái đã thay đổi hoàn toàn dù vẫn mang trên người bộ quần áo xám có in số. Thật không thể hiểu được.

Nhưng hắn không kịp suy nghĩ nhiều. Ông Quân hiện ra ở cửa, ra hiệu cho hắn vào. Hắn nhìn thấy cái hòm gỗ của hắn vứt chỏng chơ dưới đất. Nắp hòm mở, bên trong màu gỗ trắng, bên ngoài màu sơn xám. Cái hòm đã gắn bó với hắn ba năm tù. Cái hòm trung thành không bỏ hắn suốt từ toán tăng gia sang toán rau xanh trại Q.N. Rồi theo lên V.Q với hắn. Toán làm đồi, toán văn nghệ, toán chăn nuôi… Ông Quân ngồi xuống ghế chậm chạp. Lấy ra một tờ giấy đánh máy, đánh vần từng chữ. Hắn biết thế vì thấy miệng ông lẩm nhẩm. Rồi ông để trễ kính xuống sống mũi, ngước nhìn hắn qua phía trên mắt kính:

– Anh tên chi?

– Báo cáo ông. Tên tôi là Nguyễn Văn Tuấn.

– Ngày tháng năm sinh?

– Mồng ba tháng bảy năm 1934 ạ.

– Quê quán?

Hắn nói quê quán.

– Về đem nội vụ ra đây. Anh được tự do.

Giọng ông hờ hững.

*

*     *

Hôm ấy là mồng ba tháng tư năm 1973. Hắn nhớ. Cứ mỗi lần bận bịu, suýt quên, hắn lại nhớ đến con số ấy để khỏi quên đi cái ngày quan trọng nhất của mình. Ngày sống lại. Về sau, chắc chắn hơn, hắn ghi vào một quyển sổ. Bẵng đi vài năm lao vào kiếm sống, vật lộn để tồn tại, nhớ lại ngày ấy hắn đâm lẫn lộn. Mồng bốn tháng ba hay mồng ba tháng tư. Hắn giở sổ ra xem. Nhưng vẫn còn ngờ ngợ. Có thể ngay lúc ghi hắn đã nhầm lẫn mất rồi. Đến khi dọn dẹp giấy má, tìm lại được bức thư hắn viết cho vợ hắn ngay tối hôm sau khi được tha trong một căn buồng Hà Nội thì hắn mới thật tin. Đúng 3-4- 1973.

Tuy nhiên lúc nào hắn cũng nhớ rất rõ ngày hôm ấy. Nhớ từng chi tiết.

“Về đem nội vụ ra đây. Anh được tự do”. Hắn không té xỉu. Không chết lặng đi, không dựa lưng vào tường để khỏi ngã. Không cắn môi để khỏi cười trước ông quản giáo như những nhà văn giàu tưởng tượng có thể nghĩ và viết.

Hắn bị bất ngờ. Đúng. Hắn không ngờ hắn được tự do, trong khi những người mười tám năm, hai mươi mốt năm vẫn còn ở lại. Con số năm tháng ấy không gợi mấy trong lòng hắn, nhưng đến khi nghe Phổ  nói:

– Tôi đi tù năm vợ tôi 33 tuổi. Năm nay vợ tôi 5l tuổi rồi.

Thì hắn bàng hoàng. Hiện thân của đau khổ ở Nguyễn Văn Phổ nhỡn tiền cũng làm hắn hoảng. Nhưng đến khi đau khổ mười tám năm tù hoá thân thành một người phụ nữ thì hắn rợn người.

Ôi! Đời một con người. Tuổi ba mươi đang là tuổi chín nhất của người phụ nữ. Tuổi của chăm sóc và đòi hỏi chăm sóc. Tuổi của yêu đương và đòi hỏi yêu đương. Hắn rỏ những giọt nước mắt trong lòng khóc thương người phụ nữ Hà Nội 5l tuổi mà hắn chưa biết mặt. Hắn rỏ những giọt nước mắt trong lòng khóc thương vợ hắn đang ở tuổi chín ấy, phải goá sống, phải vật lộn, đè bẹp, giết chết lòng mình, giết chết tuổi trẻ, giết chết những đòi hỏi yêu đương, sống trong cô đơn và nhục nhã.

Hắn bị bất ngờ vì nó đã đến, tuy vẫn chờ đợi nó, đồng thời hắn lại nghĩ rằng nó đã đến quá muộn. Phải, nó đã đến quá muộn. Hắn có tội gì mà phải ở đến năm năm. Lẽ ra nó phải đến lâu rồi.

Hắn cười, nhìn ông Quân như muốn ông xác nhận lại điều ông vừa nói, điều quan trọng tột cùng đối với hắn, nhưng ông Quân không để ý gì đến hắn. Với ông, hắn không còn ở đây nữa. Ông đang để tâm trí vấn một điếu thuốc sâu kèn. Ông chỉ hút thuốc rời, vấn lấy và không lúc nào rời điếu thuốc trên môi.

Hắn nói:

– Cám ơn ông. Xin phép ông tôi về buồng.

Ông Quân vẫn nhìn vào điếu thuốc đang quấn dở, gật đầu, không quay lại. Hắn về buồng, cho vào bị bộ quần áo tù thay đổi, hai cái chén mắt trâu. Hắn nắn lại hai củ khoai mềm mềm, sự phòng xa của già Đô nếu hắn vào xà lim. Hắn ấn cái bị vào góc trong cùng nội vụ của già. Hắn muốn cho già nhiều nữa, nhưng hắn sợ có người nào đó phát hiện, già không nhận được. Tốt nhất là thông qua quản giáo, thông qua trại.

Hắn chỉ đút vào cái túi khâu bằng một ống quần tù cái ca có cả nắp của Lỷ Xìn Cắm, cái bút máy Pilot ngòi cánh sẻ bằng vàng 14 ca-ra không có mực từ mấy năm nay, xấp thư từ vợ con bố mẹ hắn gửi vào cho hắn. Rồi hắn đem hết nội vụ ra. Bê, xách, ôm, đeo. Hắn đặt tất cả xuống đất trước mặt ông Quân.

– Báo cáo ông. Tôi để tất cả những thứ này nhờ trại chuyển cho mấy anh.

Hắn chỉ cái hòm: “Cái này cho anh Lê Bá Di, cả khoá nữa ạ”. Hắn chỉ cái áo bông Trung Quốc to xù, rộng thùng thình: “Cái này cho anh Đô”. Hắn chỉ cái chăn bông: “Cái này cũng cho anh Đô”.

Hắn cảm thấy tự do đang nhập vào hắn để hắn từ một xác chết biến thành người khi nói những câu ấy: Hắn đã có thể nhờ vả các ông quản giáo, có quyền đối với những thứ của hắn và cho hết tài sản đồ sộ, quí giá tạo thành cuộc sống người tù của hắn. Ông Quân gật, ừ. Rồi ông chậm rãi bảo:

– Anh ghi lại đi. Đây bút giấy. Ghi đi.

Hoá ra ông Quân rất coi trọng lời dặn của hắn. Hắn bỗng thấy quí ông, thấy ông thật tốt. Chưa ai coi trọng lời dặn của một thằng tù. Phải, đến lúc này hắn vẫn còn là một thằng tù. Hắn mới chỉ đi hết đoạn đường tù của hắn, nhưng chưa đặt chân sang đến bên kia, chưa đặt dù chỉ một chân thôi sang phần của tự do.

Phải người không có trách nhiệm ừ ào để đấy. Hắn biết sao được. Mà biết thì đã làm sao?

Hắn cảm thấy mình dược đối xử như một con người khi cầm bút giấy ông Quân đưa, nhìn đống nội vụ ngổn ngang, ghi chép. Tự nhiên hắn thấy phải gấp rút. Hắn không cớ thời gian. Hắn vội lắm rồi.

Thuốc lào cho anh Nguyễn Văn Hợp, bi-đông cho anh Vũ Lượng, cặp lồng cho anh Dự…

Ông Quân cầm tờ giấy hắn đưa, rồi lại nhìn đống nội vụ của hắn:

– Chu cha. Anh này đi tù mà cứ như ở nhà. Lắm đồ.

Đấy là hai cái chén mắt trâu hắn đã để vào trong bị, xếp sang chỗ già Đô rồi, ông không trông thấy đấy. Ông Quân đưa cho hắn một tờ giấy có đóng dấu son, cả chữ ký của của ông thượng uý giám thị phân trại.

– Anh vào trại trong, lối đi vào thôn Khởi Nghĩa. Lấy giấy tờ của trại chính.

Hắn chào ông Quân, phấn khởi nên chào to, cởi mở, tuy vẫn kính trọng.

Hắn bước ra khỏi cổng trại. Nhìn về phía ngọn đồi xa xa, nơi hắn đoán là cả toán đang chặt hom sắn. Hắn đã dứt ra khỏi họ và bỗng trào lên niềm thương xót những người còn ở lại chịu kiếp tù đày. Tôi đã được tự do. Tôi đã được ra khỏi trại. Tôi đã thoát khỏi cuộc sống tù tội. Tôi trở lại làm người. Chào anh em đang tiếp tục cuộc sống âm phủ. Tôi đã trở về dương thế. Hắn bỗng nhớ đến điều mọi người sợ nhất: Chết trong tù. Chết là hết thôi. Nhưng mang cái tiếng chết rục tù thì nhục nhã quá. Già Đô sợ nhất điều ấy. Tuổi già đã cao. Cứ có một anh tù nào chết là già lại lo. Già như trông thấy nụ cười độc ác của ông giám đốc Phin “Thằng ấy tao cho chết rũ tù rồi”.

Hắn dừng hẳn lại. Nhìn về phía đồi. Một mỏm đất nhô lên giữa vòng vây của rừng xanh. Hắn tìm bóng dáng già Đô. Hắn nói với già trong ý nghĩ : “Tôi thì không thể chết ở trong tù được rồi! Già cũng vậy. Sẽ gặp nhau ở P”.

Hắn tin rằng sẽ gặp lại già, gặp lại Lượng. Cân thì khó gặp. Kỷ Mình cũng khó. Vì hai người ở xa. Kỷ Mình đã từng tâm sự với hắn:

– Tôi đi tù vì cái chính trị tôi cao, A Tuấn à!

Cái chính trị cao của Kỷ Mình là đấu tranh vạch mặt những người trong uỷ ban, trong ban chủ nhiệm hợp tác xã làm sai chính sách, rằng họ là những phìa, tạo mới. Rằng họ đã lấy mìn của bộ đội, nổ mìn dưới suối đánh cá. Rằng họ đã bán quế của hợp tác xã, đút tiền vào túi họ. Thỉnh thoảng Kỷ Mình lại thở dài hối hận:

– Tôi đi tù vì cái chính trị tôi cao à!

Anh em vẫn lúi húi làm. Chẳng ai ngẩng lên nhìn hắn. Để hắn vẫy tay, khuơ nón chào từ biệt.

Tự do quả là một cái gì lạ thật. Cũng con đường ấy nhưng nay đi mà thấy nhẹ như bay. Cả khu trại rộng mênh mông kia không có sức hút với mình nữa. Con đường này cũng không còn lực hút. Đồi, rừng, ruộng không còn lực hút. Chúng không còn là chỗ vẫn để mình đi làm, mình về trại. Chúng không còn là chỗ để giết dần, giết mòn mình. Mình đã tách khỏi từ trường. Đã tách khỏi chúng.

Hắn ngẩng lên nhìn trời. Trời nắng cuối xuân. Trời xanh và mây vẫn bay. Đẹp. Cây đa Tân Trào nổi tiếng xa xa mọi hôm chỉ gợi lên vẻ thâm u xa vắng, hôm nay cũng đẹp. Những thân chính, những rễ phụ hơi võng trắng xoá trong nắng, tán lá rợp nền trời.

Trên đường, hắn gặp mấy ông quản giáo, mấy ông công an vũ trang. Cả mấy thỏi nam châm này cũng không còn lực hút. Hắn vẫn chào và bỗng hiểu rằng những người từng gắn chặt với hắn ấy từ nay chỉ là xa lạ.

Đã vượt qua khu nhà khách. Nơi hắn gặp Ngọc mấy tháng trước. Hắn cũng thấy lố nhố người. Những người từ các nơi về đây, mệt mỏi và đau khổ. Chờ gặp mặt. Mười lăm phút nhìn nhau ngắn ngủi của những người ở hai thế giới. Ôi! Cái vòng đời không bao giờ hết. Đã qua cái dốc về phía sau quả núi mà hắn chưa đi đến bao giờ. Đến một ngã ba. Đi theo ngả nào? Hắn đứng phân vân lựa chọn. Đó là cảm giác tự do đầu tiên đối với hắn: Được phân vân. Được đứng trước một ngã ba, tự mình lựa chọn con đường. Tự do là được quyền do dự.

Một người đi xe đạp từ phía sau tới. Quần ka-ki màu be, áo sơ-mi trắng bong. Người tự do đầu tiên hắn gặp. Hắn định hỏi thăm đường, bỗng người ấy phanh xe gọi to:

– Anh… anh gì nhỉ. Anh cũng được tha đấy à?

Bấy giờ hắn mới nhận ra Hiển, anh tù án được tha trước hắn ít phút. Có lẽ Hiển quên tên hắn vì hắn cũng chỉ là một trong trăm ngàn người tù đang bị giam giữ. Còn hắn nhớ tên Hiển vì Hiển là khát vọng tự do của hắn.

– Anh đi lấy giấy phải không? Lên đây em đèo.

Thật may mắn. Đã may thì may đủ đường. Hiển ở toán chăn nuôi. Rất thông thạo đường lối. Hắn nhảy lên poóc ba-ga xe đạp.

– Ở đâu ra xe thế này?

– Cái cộ (1) này người nhà em mang ở P lên. Anh cũng ở P à?

Thật là hạnh phúc của người tù án. Họ sung sướng biết bao. Người nhà biết trước ngày về lên đón mang theo cả xe đạp, cả quần áo. Vợ con hắn bây giờ vẫn nghĩ rằng hắn còn đang trong tù, lo lắng, mòn mỏi chờ ngóng ngày hắn được về. Em. Anh đã được tự do. Anh đang được tự do. Anh sẽ về với em. Cố chờ một hai ngày nữa thôi, em ạ. Xe đi. Gần năm năm hắn mới lại được ngồi trên xe đạp và bây giờ hắn mới thực sự biết thế nào là tự do.

Tự do, đó là tốc độ.

Ngồi trên xe đạp đi trên con đường nhỏ, hai bên là rừng rậm, chỉ khoảng mười ki-lô-mét một giờ, hắn thấy cây lá chạy vun vút về phía sau. Gió vù vù qua tai. Gió phạt hai bên má hắn mát rượi. Hắn bỏ nón ra cho gió thổi vào tóc. (Bọn hắn vẫn đội nón đi làm cho mát. Ngoài ra cái nón còn dùng để che nhiều thứ tạt được khi đi qua ông trực trại.) Hắn xoè bàn tay ra cho gió lùa qua kẽ tay. Hắn thực sự cảm thấy mình tự do.

Các cảm giác, gió, tốc độ, di chuyển ấy hắn không bao giờ nghĩ đến, quên hẳn đi rồi, vụt đến, quen thuộc, thân thiết và thích thú lạ thường.

Cho tới mãi về sau này, cứ nghĩ đến ngày được tha, hắn lại nhớ đến cảm giác gió ùa phạt qua hai má hắn. Cảm giác ấy gắn liền với buổi sáng hắn được ra tù nên nó là tự do.

Năm năm. Phải hiểu cái tốc độ năm năm vừa qua của hắn. Đó là một năm xà lim và sáu tháng được ra buồng chung. Chỉ nằm một chỗ. Nằm trong một hộp bê-tông. Ngồi. Nằm. Đứng. Ngồi. Nằm. Đứng. Bắt rệp. Nhìn kiến tha cơm. Nói vọng sang với Đỗ, người tử tù xà lim bên kia chờ ngày đem bắn. Không nhìn thấy trời. Chỉ có cảm giác trời qua những nan chớp chéo xuống ở mãi sát trần, có hàng song sắt to và dày. Không một sự xáo động nào của không khí. Suốt ngày nhờ nhờ, đục đục. Rồi ba năm ở hai trại trung ương, có tốc độ đấy nhưng là tốc độ con rùa. Hắn đi làm. Mọi người đi làm. Đầu cúi, lê từng bước. Chậm chạp chỉ có lợi cho bọn hắn. Thời gian đi đường là thời gian lao động. Đi nhanh ra chỗ làm làm gì. Lúc làm cũng vậy. Cả bọn ngồi xổm, mân mê từng lá cỏ và rứt. Rồi xển sang chỗ khác. Còn chậm hơn tốc độ con

(1)Xe, xe đạp.

sên.

Chỉ một lần hắn đạt tốc độ cao trong khi làm việc. Đó là lần đi gánh than ở cách trại Q.N mười cây số. Không hiểu sao lại có hàng đống than trong rừng.

Hắn cùng anh em quẩy phân ký (1) leo lên. Vừa leo vừa thở. Nhưng gánh xuống còn mệt hơn. Gánh than nặng kéo hắn xuống dốc. Hắn phải chạy cho nhanh. Trông thấy hòn đá nhọn, cái gốc cây vát cũng quăng chân vào, không tránh được. Gánh than nặng trĩu cứ lôi xuống không thể nào dừng lại. Rồi lại quẩy phân ký leo dốc. Thở. Mồ hôi đẫm tóc, đẫm áo. Rừng im lặng, ngột ngạt. Muỗi. Vắt. Ruồi vàng. Trong một lúc dừng chân khi leo dốc, hắn rên lên thành lời:

– Bố mẹ vợ con có biết lúc này mình khổ thế nào không?

Chỉ lần ấy hắn có tốc độ. Nhưng không có gió nào lọt tới rừng già. Còn cứ ngồi xển mà nhổ cỏ. Ai quát cũng mặc. Cả bọn cứ ngồi, cứ xển. Nước sông, công tù. Công của thằng tù vô tận. Đó là khi đi làm. Khi về cũng vậy. Về trại sớm hơn chục phút để vào buồng giam sớm ư? Cứ lê bước, cúi đầu nhìn đất, ngửa mặt nhìn trời. Thời gian là tra tấn. Thời gian là đau khổ, nhục nhã, ê chề, quằn quại. Muốn quăng đi, ném đi khúc đời tù tội rỏ máu này, dù tuổi sống bớt đi mười năm cũng được. Tù đọng, mục nát từ trong lòng. Trong cuộc đời. Trong sự di chuyển. Tù đọng mực nát ở chung quanh.

Thế rồi bỗng nhiên là bánh xe lăn nhanh. Là tiếng gió thổi vù vù qua tai. Là gió phạt hai bên má. Là đi đến một nơi mình chưa biết. Là nói cười với người bạn tù vừa quen, được tự do trước mình mười lăm phút và đã mặc quần áo của người tự do. Hai người tự do nói chuyện với nhau như không hề có những năm tháng tù đày, như vẫn được tự do từ trước tới nay. Không phải tập cho quen. Không có gì bỡ ngỡ.

Vâng. Con người ta sinh ra vốn là tự do.

*

*        *

Khu văn phòng trại trong, nghĩa là Tổng trại, nơi ông thiếu tá, chánh giám thị làm việc, ở cách trại của hắn khá xa. Đường đi quanh co sâu mãi vào rừng. Hắn chỉ nhớ được là toàn cây cối. Nhà lá ẩn trong những lùm cây. Một ông cán bộ trả lời khi hắn hỏi thăm đường:

 

 

(1) Một loại sảo đan bằng nứa hình cái hót rác, có buộc dây thép liền làm quang

– Các anh được về hở. Đi qua cái nhà kia khoảng trăm mét thì rẽ phải. Rồi đi thẳng hơn cây số nữa là đến.

“Cái nhà kia” nhô ra từ một ngoẹo núi. Hai người đi về phía ấy. Hắn giật mình khi trông thấy con béc-giê đầu tiên từ một ngách núi đi ra. Nó như một điềm gở. Như báo trước một tai hoạ. Con béc-giê to lớn, ướt át, thè lưỡi đỏ đọc, đuôi cúp, theo sau là một ông công an cầm dây xích. Rồi bốn con béc-giê khác cũng ướt át, cũng to lớn lần lượt hiện ra cùng với một đoàn áo vàng, áo xanh, tất cả ướt đẫm. Một anh tù quần áo xám rách tơi tả bị trói hai tay quặt về phía sau đi ở giữa. Chỉ nhìn lướt qua (không dám nhìn kỹ, dù đã được tự do) hắn cũng nhận ngay ra Sáng. Anh tù trốn trại đêm qua! Anh tù ấy là Sáng. Và Sáng đã bị bắt lại.

Hiển vội xuống xe. Hai người sợ hãi nép vào một bên đường. Lúc Sáng đi qua, hắn liều nhìn thẳng vào Sáng. Vẫn là cái nhìn của Sáng. Nhìn đấy nhưng chẳng nhìn thấy gì. Cái nhìn vô hồn vô cảm trên khuôn mặt nhẫn nhục, cam chịu.

Hiển bảo hắn khi đoàn người đi qua:

– Tay này quản chế đây mà.

– Toán lò rèn. Tên là Sáng. Người cùng huyện mình đấy. Bốn lần trốn trại rồi.

Hiển tròn mắt:

– Lần này là năm à?

– Năm. Lần nào cũng bị bắt lại.

– Tay ấy án hay bọp?

– Bọp.

Hiển ra chiều thông cảm:

– Bọp thì gay thật. Trông hắn gầy quá. Về cùm xà lim chỉ có chết. Trốn thế qué nào được mà trốn. Chắc lần này cạch rồi.

Hắn không biết Sáng đã cạch chưa. Bởi vì cái khát vọng tự do của Sáng ghê gớm lắm. Cùng giam ở 75 Trần Phú, cùng từ bê dê (buồng D) chuyển lên Q.N, ngồi cùng một chiếc ô-tô với hắn, chân ướt chân ráo tới Q.N một ngày, Sáng đã chuẩn bị trốn trại ngay, nhưng chẳng hiểu vì sao bị lộ. Ông Thanh cán bộ ban giáo dục, tạm thời phụ trách toán hắn, gọi Sáng ra. Ông kê một cái bàn ngay chỗ toán hắn làm, ngoài trời, đầu hội trường, quát tháo ầm ĩ. Tất cả bọn hắn xanh le mắt. Sáng bị cùm ngay. Xà lim ngay. Ăn cháo loãng ngay. Mười ngày sau mới được ra. Sáng vào toán quản chế. Toán mộc. Cùng với Giang.
Mười ngày xà lim ăn cháo loãng, cùm đủ để thay đổi vóc dáng Sáng. Không như Lê Bá Di phải mất nhiều năm nhai sắn mới có bộ mặt hổ mang bành, Sáng thay đổi rất nhanh. Từ mặt tròn, Sáng trở thành mặt dài. Nước da Sáng vốn rất trắng khi ra có màu xanh cớm nắng, thiếu hồng cầu. Người thon hơn. Thế mà chỉ mười hôm trước Sáng còn là một cậu bé nông thôn tầm thước, đẹp trai, trắng trẻo, có khuôn mặt tròn trĩnh, má phính, tóc mượt mà. Đó chỉ là vết nắn lại con người Sáng, vết nắn nhẹ nhàng đầu tiên. Sáng còn được nắn lại nhiều lần nữa.

Là một thanh niên nông thôn đi tù, Sáng không có bạn. Sáng sợ bọn Triều Phỉ, Lập Ba Tai, Ba Đen… Vốn đã xa lánh anh em trong toán, Sáng lại càng cô đơn. Chiều chiều, trước lúc khoá buồng, Sáng đứng một mình, dựa vào gốc cây ở sân trại, hoặc ngồi lên tảng đá cuội to, lối vào trạm xá, nhìn ngắm những người tù khác đi lại vật vờ với đôi mắt trong trẻo và sầu thảm.

Chỉ hơn một tháng sau Sáng lại trốn trại. Trốn ban ngày. Ngay ở chỗ làm. Khi các ông công an phát hiện và bổ vây thì Sáng đã đi xa rồi. Lần ấy Sáng đi nhanh vì Sáng yểm được bộ quần áo trong lúc đóng số tù. Áo sơ-mi trắng, quần ka-ki, bộ quần áo diện Sáng vẫn mặc sang P xem diễu hành, xem bắn pháo hoa ngày 2 tháng 9, bộ quần áo ấy không bị đóng số. Vượt khỏi hàng rào khu quản chế, Sáng trút bộ quần áo tù, mặc vào người bộ xi-vin.

Nhưng Sáng đi đâu được. Là một cậu bé nông thôn, nơi xa nhất Sáng đến là thành phố P. Họ hàng Sáng toàn ở quê. Sáng chỉ có thể về làng. Các ông công an cũng phán đoán như vậy. Các ông về làng Sáng, bắt được Sáng đang ăn cơm với mắm cáy, rau muống luộc dưới bếp cùng với bố mẹ và chị Dậu. Sáng bị đưa lên ô-tô về trại. Chẳng lẽ lại trói Sáng, còng Sáng ngay trước mặt bố mẹ Sáng. Và hình như các ông ấy cũng cho rằng Sáng chỉ nhớ nhà, đói mà trốn về thôi. Lúc đó cả trại chưa ai hiểu được khát vọng tự do của cậu bé nông thôn mới mười tám, mười chín tuổi kia.

Xe đi, tới một thị trấn miền rừng thì dừng lại. Đã trưa. Các ông ấy phải ăn cơm. Sáng ngồi uống nước ngay cạnh. Thế mà chỉ thoắt một cái Sáng biến mất. Các ông bỏ dở bữa cơm. Tìm. Huy động cả dân phố tìm.

Sáng vẫn biến mất, không một dấu vết. Cuối cùng một ông công an tìm thấy Sáng trong hố phân sầu. Đó là một thùng phân người, phân súc vật ngâm với nước giải, súc vật chết. Sáng lặn xuống dưới, mồm ngậm một ống đu đủ thò lên xuyên qua lớp phân nổi đóng thành bánh dày cứng ở bên trên để thở. Sáng bị đưa về trại. Ông Lâm tập trung bọn hắn lại nghe ông nói về đường lối cải tạo con người, về Sáng:

– Những anh nào có ý định trốn trại? Trốn đi đâu? Tôi đố các anh trốn đi đâu được đấy. Chạy ra nước ngoài à? Nước ngoài nó không thèm dùng bọn các anh. Hay vào Nam? Với Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ? Được đấy nhỉ. Anh nào có giỏi cứ đi.

Đúng là không trốn đi đâu được! Ngày xưa các cán bộ cộng sản có thể ở nhà một cơ sở hàng tháng. Giờ đây ai nuôi anh được một tuần.

– Chúng tôi đã bắt được anh Sáng, nhưng dọc đường anh Sáng lại nhẩy vào hố phân sầu trốn lần nữa. Cơm không muốn ăn, ăn cứt.

Mặt ông đanh lại, khinh khỉnh, khinh khỉnh. Ông tiếp:

– Làm người không muốn lại muốn làm con vật. Con vật biết suy nghĩ cũng không hành động như vậy Có tội mới phải vào đây. Vào đây chỉ có một con đường duy nhất: Chịu sự cải tạo. Chính sách cải tạo nhân đạo của Nhà nước ta rõ như ban ngày: Đưa các anh trở lại làm người, đưa các anh trở lại con đường ngay thẳng. Hiểu rõ tội lỗi của mình. Hiểu rõ giá trị của lao động…

Sáng không được nghe bài nói chuyện của ông Lâm. Sáng đang nằm trong xà lim. Cùm. Mười lăm ngày cháo loãng cầm hơi. Lần này Sáng được nắn lại mặt mũi một cách căn bản. Đầu cắt trọc. Trên cái mặt choắt lại, trông đầu Sáng to ra một cách kỳ dị. Mũi tự nhiên to ra. Mồm như vẩu. Toàn răng là răng. Xanh bóng. Gió thổi cũng bay. Lướt đi. Trong bộ quần áo xám đóng số đỏ rộng thùng thình. Nhưng không có gì dập tắt được khát vọng tự do của Sáng. Hai tháng sau Sáng lại trốn trại. Lần này Sáng cáo ốm. Tù ốm, khi bị dồn vào một buồng, khi được ở lại buồng mình (tất nhiên là đều khoá). Trong một lần ở lại buồng toán mộc – toán Sáng, Sáng đã thủ sẵn một lưỡi cưa. Sáng cưa chấn song cửa sổ (chấn song gỗ to bằng cổ tay). Cưa đứt xong Sáng gắn lại bằng vôi. Khi chuyển buồng Sáng nhận chỗ nằm ngay cạnh cửa sổ là vì mục đích ấy. Sáng chờ. Sáng chờ một đêm mưa bão. Vẫn để nguyên màn mắc, chui ra. Vượt qua giao thông hào. Trèo qua hàng rào cao. Vào rừng.

Mãi đến sáng, trại mới biết Sáng trốn. Báo động toàn trại. Áo vàng. Áo xanh. Và chó. Vào rừng sâu. Trèo lên những đỉnh rừng cao nhất. Xuống thung lũng. Phục kích đón lõng. Cả ngày. Cả đêm. Các ông dắt chó qua chỗ hắn làm tỉnh táo, khoẻ khoắn và khô ráo. Khi trở về ướt đẫm người, ướt đẫm chó, mệt mỏi bơ phờ tức giận.

Sáng bị bắt lại sau năm hôm chui lủi trong rừng.

Lần trốn trại thứ tư phải đến nửa năm sau. Sáng trốn theo lối nhà mét. Nhưng lần ấy Sáng bị lộ. Các ông để Sáng trèo qua mái buồng giam, trèo qua hàng rào cao vây quanh trại mới thả chó ra. Sáng vừa tiếp đất thì lũ chó chồm lên. Các ông để chó làm việc với Sáng. Năm con chó cắn xé một anh tù kiệt sức như một cái giẻ vật vã dưới đất. Không còn mảnh quần áo nào lành. Ngực, mông, đùi Sáng đầy những vết răng chó. Sáng tắm máu. Lại xà lim. Mức xà lim tăng dần lên. Lần thứ ba một tháng. Lần này hai tháng. Phải đè bẹp ý chí của Sáng. Phải để cho những ai có ý định trốn trại nhìn vào Sáng. Hết hạn phạt ra khỏi xà lim, Sáng không thể gầy hơn được nữa. Đã định hình rồi, Sáng chỉ khác trước có đôi mắt. Đôi mắt lờ đờ. Sáng như không nhìn thấy gì. Không nhìn thấy ai. Như người đang sống ở đâu đâu. Đôi mắt Sáng chỉ nhìn thấy chập chờn định mệnh.

Hắn kính trọng khát vọng tự do của Sáng, con người hành động của Sáng, nhưng hắn cũng nghĩ như Lượng, như ông Lâm, chánh giám thị trại Q.N: Không thể trốn đi đâu được trong xã hội quản lý tuyệt vời hoàn chỉnh này: Sổ gạo, phiếu thực phẩm, sổ hộ khẩu, phiếu chất đốt. Đúng là chỉ có một con đường: Chịu đựng. Chịu đựng cho đến bao giờ là tuỳ ở ý thích của các ông ấy. Bởi thế lại càng phải giữ mình, giữ mồm, giữ miệng, cẩn thận từng li từng tý. Không tin một ai. Giữ kín lòng mình. Không cởi mở với một ai. Không phàn nàn kêu ca điều gì. Dù như vậy là quá sức mình. Nhưng đó là cách duy nhất để còn có ngày về. Hắn đã làm được như vậy. Cả trại đã làm được như vậy, trừ một số ít anh em cánh trẻ.

Ngồi trên cái xe đạp Hiển đèo đi lấy giấy tờ để thoát khỏi trại, hắn cứ nhìn về phía trại, cứ nhìn theo đoàn cán bộ cùng với chó dong Sáng về trại, về cái vòng tròn hàng rào những cột cọc gỗ nứa vây ba phần tư quả đồi nằm lọt trong lòng chảo, bốn chung quanh núi cao rừng rậm. Dù đã khuất sau ngoẹo núi, hắn như vẫn nhìn thấy đoàn người dẫn Sáng đi ngược lại ấy. Hai vec-tơ ngược chiều. Hắn đến với ánh sáng. Còn Sáng đi vào bóng tối. Buổi sáng này là tuyệt vời với hắn. Buổi sáng này là tuyệt vọng với Sáng, là đổ sụp với Sáng. Đời. Bày ra lắm trò chơi đến thế. Lại một lần nữa hắn cảm thấy tất cả chặng đường ghê rợn hắn vừa bỏ lại sau lưng. Và hắn muốn mau mau thoát khỏi nơi này, mau mau về với tự do, về với bố mẹ, vợ con, bè bạn.

*

*        *

Từ hai căn nhà lợp lá cọ hình thước thợ lẩn dưới tán lá những cây to vọng ra tiếng cười nói làm Hiển và hắn tin rằng mình đã đến nơi định đến.

Hiển dựng xe ở vách. Hai người rụt rè bước vào. Trước mặt hắn là một khung cảnh quen thuộc. Đó là nơi làm việc văn phòng, mà từ khi đi công tác hắn đã sống và trưởng thành, vì thế hắn còn thấy gần gũi nữa. Là nơi cán bộ công nhân viên ngày ngày đến với sổ sách giấy tờ và được công nhận cái danh hiệu vẻ vang là người nhà nước. Tủ đứng mậu dịch xếp liền nhau. Bàn mậu dịch cùng đánh một mầu dầu bóng. Những người công an nam nữ mặc sắc phục ngồi trước bàn. Một cái bàn chỉ để ấm chén, phích, gầm bàn có sọt để điếu cầy.

Thấy hắn vào, tất cả im câu chuyện. Hắn và Hiển đưa giấy tờ cho một cô thượng sĩ:

– Báo cáo bà. Chúng tôi đến lấy giấy tờ.

Người này chỉ sang bàn bên. Một cô trung sĩ trẻ da ngăm ngăm, xấu xí, quê mùa cầm lấy tờ giấy.

– Anh chờ một tý.

Đã lâu lắm hắn mới nghe thấy âm thanh của phái đẹp. Nó trong. Vang. Ngân nga. Nó lăn vào lòng người. Êm dịu.

Cô trung sĩ vào sổ và giở một cái cặp ba dây. Cô bảo Hiển sang bàn bên (chắc hồ sơ tù án để riêng). Bên ấy cũng là một trung sĩ.

Tiếng máy chữ bỗng rộ lên rào rào, giòn tan, vui vẻ.

Cô trung sĩ đứng lên mở tủ. Cô quá béo. Hàng cúc áo quân phục chật căng, tóc xoã xuống vai mềm mại. Hắn cảm thấy cô xinh đẹp, uyển chuyển nữa. Hãy thông cảm với hắn. Hắn là người có thẩm mỹ. Nhưng hắn đã nhìn những khuôn mặt sát khí đằng đằng của các ông quản giáo súng lục trễ hông, các ông vũ trang lạnh lùng, súng trường lệch vai quá lâu rồi. Ngày đêm, chung quanh hắn chỉ là những người tù, toàn đàn ông quần áo xám một màu, những số tù di động, những nước da bờn bợt, sưng sưng, cử động chậm chạp, nhìn xuống, miệng mím, đôi mắt mệt mỏi lờ đờ. Thấy những người không thuộc đối tượng quen thuộc ấy, hắn đều thích thú.

Như hôm chuyển trại từ Q.N lên đây, cùng già Đô “hai ba nào” nhảy xuống đái, hắn bỗng nhiên nhìn thấy đồng bằng. Những bà mẹ ngồi ở vệ đường với quang gánh cải bắp. Những đứa bé cởi truồng, thò cả chim chạy theo người lớn, vừa chạy vừa khóc trong tiếng vọng về của một phiên chợ gần đâu đó. Hắn như tỉnh lại.

Lúc này hắn thấy các cô sao mà uyển chuyển và duyên dáng, nhất là mái tóc. Những mái tóc mềm mại óng ả chảy xuống vai. Thì ra cuộc đời vẫn tồn tại những mái tóc như vậy.

Cô trung sĩ đưa cho hắn một tờ giấy nhận tiền:

– Anh chờ một tý, chị thủ quĩ sắp về.

Hắn bảo Hiển:

– Khéo muộn mất. Sắp trưa rồi.

Cô trung sĩ thông cảm với hắn:

– Ô-tô có đến ba giờ chiều cơ. Anh tranh thủ nhận quần áo và thay, trả quần áo cho trại.

Cô mở một tủ khác, đưa cho hắn bộ quần áo nâu. Hắn biết ai về cũng được phát bộ quần áo nâu này. Bộ quần áo của tự do đấy. Mặc bộ quần áo ấy anh là người tự do. Đó là bộ quần áo khao khát ước mơ. Hắn cầm bộ quần áo gụ, mới tinh, hỏi lối và đi sang phòng thay quần áo. Chỉ một mình hắn. Hiển không nhận quần áo nâu. Hiển đã có bộ cánh người nhà đem lên, Hiển không cần.

Phòng thay quần áo liền bên, hơi tối, vì các cửa đều đóng. Những cây luồng buộc từ cột nọ sang cột kia, chạy bốn chung quanh. Rất nhiều quần áo tù cũ vắt ở đây. Muỗi đói vo ve bay lên, rồi lại đậu xuống những chữ số đỏ đen lòi ra ở những chiếc quần ảo mốc hôi hám, dấu vết trút lại của những người thoát khỏi tù đày, về với tự do.

Hắn thay nhanh. Hắn ngắm nghía bộ quần áo nâu mặc trên mình, vuốt vuốt nếp áo, kéo cái ống quần, hớn hở và sung sướng như hồi còn bé, mẹ hắn may cho hắn bộ quần áo nâu khi hắn ở vùng giáp ranh về từ biệt mẹ, đi lên Thái Nguyên. Lần ấy, chính mẹ hắn vuốt tà áo, kéo gấu quần cho hắn. Từ xám chuyển sang nâu, hắn đã đổi màu. Hắn không vắt bộ quần áo tù của hắn lên cây luồng để trả trại. Hắn gấp và cuộn tròn bộ quần áo cũ, lấy dây dải rút ở cái quần dài quấn lại như bó giò thật chặt, rồi đút vào ca, cho ca vào túi. Cái túi nom chẳng phồng ra bao nhiêu. Cái trò yểm hắn thạo. Hắn muốn đem bộ quần áo tù CR 880 của hắn về nhà, cho vợ hắn, bạn bè hắn nom thấy màu tù, cái đã khoác lên người hắn cả quãng đời vô tận vừa qua. Hắn muốn đem về làm kỷ niệm.

Hắn nghe thấy tiếng người rộ lên bên văn phòng. Tiếng các cô thánh thót, ríu rít, tiếng đàn ông cười vui.

Hắn hiện ra ở cửa văn phòng với bộ quần áo nâu. Và hắn lại nhìn thấy ông Thanh Vân. Ông đang kiễng chân giơ một tệp sách lên cao giữa gần chục bàn tay trắng trẻo của các cô công an từ hạ sĩ đến thượng sĩ.

Một cô kéo tay ông Thanh Vân xuống:

– Đưa đây xem nào.

Một cô khác:

– Hay không đấy?

Cô trung sĩ béo tin tưởng:

– Truyện Thanh Vân chọn thì nhất rồi.

Người ta đang giải lao. Người ta đang nô đùa một tý.

Ông Thanh Vân đặt mấy quyển sách xuống bàn. Các cô mỗi người một quyển. Hắn thấy một quyển truyện của người bạn hắn. Và kìa! Quyển “Người gác đèn biển”. Quyển truyện của hắn. Quyển truyện hắn viết. Hắn đã là người viết văn. Tên hắn in trên bìa sách chứng tỏ điều đó.

Như có một ma lực, hắn bước đến chỗ ấy. Hắn buột kêu to như gặp lại con mình:

– Thưa các ông các bà, đây là sách tôi viết.

Mọi người ngơ ngác. Cả Hiển cũng không hiểu câu hắn vừa nói.

– Cái gì? Anh nói gì?

Đấy là câu hỏi của ông Thanh Vân. Hắn cầm lấy quyển truyện. Bìa có đóng dấu của trại. Hắn nhìn mãi những chữ tên hắn in trên bìa sách. Thật không tin được. Bề thế, trang trọng như nhiều tên tác giả khác, như mọi người làm văn hoá khác. Mọi người đáng được kính trọng khác. Tôi đã quên tên tôi dưới mặt trời. Hắn choáng váng muốn ngã. Hắn lật trang trong. “Mùa hè đã về trên biển”. Câu mở đầu quyển truyện của hắn. Bỗng nhiên hắn đối mặt với tuổi trẻ của hắn. Tuổi trẻ phơi phới và tin tưởng. Coi thường mọi vất vả khó khăn. Buổi gặp gỡ với độc giả do Thư viện Hà Nội tổ chức khi hắn tròn ba mươi tuổi. Những độc giả trẻ đáng yêu tuyệt vời. Những giờ phút trí tuệ thăng hoa. Những đêm khuya, như một con ngựa kéo cày, đánh vật với ngôn ngữ. Và những chuyến ra khơi mê hoặc. Sóng cứ to lên mãi. Nước cứ xanh lên mãi. Biển đó. Loà nắng. Sóng dào dạt. Gió dào dạt. Hắn từ tàu xuống xuồng. Tàu chỉ đu đưa. Còn xuồng thì tung lên hạ xuống. Hắn nắm chắc thang dây ướt và bẩn. Chở sóng hút xuồng xuống, hắn nhảy. Những người khác nhảy. Sóng bắn lên mặt. Lên môi. Mặn. Xuồng vọt lên, vào đảo. Con đường trên đảo rải toàn san hô. Hắn bám vách núi đá lên Bàn Cờ Tiên. Mồ hôi dính áo. Những cây bòng bòng héo nẫu đứng im phăng phắc. Tay bám vào những thớ đá. Chân bám vào những thớ đá. Mặt úp vào đá. Hơi đá nóng phả ra. Thở cả mang tai. Hầm hập. Hầm hập. Và bỗng nhiên tóc bay tung. Gió tới tấp. Mát lạnh khuôn mặt. Đã lên đến đỉnh: Bốn phía chân trời.

Hắn lắp bắp như người nghẹn thở:

– Quyển sách của tôi.

Cô trung sĩ nhìn giấy tờ của hắn. Rồi lại nhìn tên hắn in trên bìa sách. Cô đưa tờ lệnh tha cho ông Thanh Vân đọc. Ông ngẩng lên nhìn hắn chăm chú từ đầu đến chân. Rồi với giọng hiểu biết:

– Anh lại Nhân văn Giai phẩm chứ gì?

Hắn lắc đầu:

– Báo cáo ông. Nhân văn Giai phẩm có từ năm 1956, tôi bị bắt năm 1968.

– Thế anh bị bắt về tội gì?

Đúng như hắn nghĩ: Trại chỉ là cái kho. Có lệnh nhập thì nhập. Có lệnh xuất thì xuất. Ban giám thị, ban giáo dục, ban quản giáo chỉ là người giữ kho. Ông Thanh Vân, thuộc ban giáo dục, còn hỏi hắn: Anh bị bắt về tội gì?

Đối thoại sao được với ông Thanh Vân. Mỗi người một mặt bằng khác nhau. Làm sao có thể hiểu được tiếng nói của nhau. Làm sao ông có thể dịch nghĩa tội tuyên truyền phản cách mạng như anh em tù : “À! Tội nói sự thật”.

Hắn chỉ cười mà không trả lời ông Thanh Vân. Hắn cầm tờ lệnh tha từ tay cô trung sĩ. Hắn đi đến bàn thủ quĩ lĩnh tiền. Biết nói gì với ông Thanh Vân. Ông có biết “Nhân văn Giai phẩm” là gì không. Hay ông chỉ nghe nói đến như một tên tội chung cho tất cả những người làm nghệ thuật. Hẳn ông xuất thân từ một gia đình cốt cán ở nông thôn, được số phận nuông chiều, khi bé chăn trâu cắt cỏ. Lớn lên đi học, rồi đi công tác thoát ly, vào đây làm quản giáo.

Đến bây giờ hắn mới thấy ông còn trẻ quá. Chỉ mười tám, mười chín tuổi.

Phố những cửa hiệu u tối – tiểu thuyết của Patrick Modiano

Dương Tường dịch

GIỚI THIỆU

Phố những cửa hiệu u tối by Patrick ModianoSự xuất hiện của Patrick Modiano vào cuối thập kỷ 60 được coi như một hiện tượng của văn học Pháp đương đại. Ra đời năm 1945 ở Boulogne-Billancourt, Paris, vào lúc kết thúc thế chiến II, Modiano thuộc một thế hệ chỉ biết về chiến tranh qua những vang vọng xa nhòa, song cách nào đó, dấu vết của những cơn “binh lửa can qua” trên quy mô hành tinh lại hằn sâu trong tâm thức ông như một ám ảnh thường trực. Năm 1968, Modiano trình làng cuốn tiểu thuyết đầu tay Quảng trường ngôi sao (La place de l’Etoile) và cùng một lúc giật hai giải thưởng văn học Roger Nimier và Fenméon. Sau cuốn Tuần tra đêm (La ronde de nuit – 1969) và một quãng lặng sáu năm, tác phẩm thứ ba của ông Những đại lộ ngoại vi (Les boulevards de ceinture – 1975) được Viện Hàn lâm Pháp tặng Giải thưởng lớn về tiểu thuyết. Và ba năm sau, giải Goncourt, giải văn học quan trọng nhất của Pháp, được trao cho ông về cuốn Phố những cửa hiệu u tối (Rue des boutiques obscures). Đều đặn, mỗi năm ông cho ra một tác phẩm, trong đó có thể kể: Biệt thự buồn (Villa triste), Biên niên ký gia đình (Livret de famille), Một thời thanh xuân (Une jeunesse), Những chàng trai tốt biết mấy (De si braves garçons), Khu phố hẻo lánh  (Quartier perdu), Phòng để quần áo thời thơ ấu (Vestiaire de l’enfance), Chuyến du hành tân hôn (Voyage de noces)… và mới đây, trong mùa sách 1992, Một gánh xiếc đi qua (Un cirque passe).

Patrick Modiano một mình chiếm một vị trí riêng biệt trên văn đàn. Tuần báo Nouvelles littéraires (Tin Văn học) đánh giá ông “là người tuyệt vời nhất, kỳ diệu nhất và chắc chắn là có tài nhất trong số các nhà văn trẻ của nước Pháp” (số 2774 năm 1981). Giới phê bình Pháp coi ông trước hết như là người lật nhào các qui tắc của tiểu thuyết tiên phong mới. Điều làm cho Modiano trở thành một gương mặt độc đáo, duy nhất trong loại của mình, là nỗi băn khoăn day dứt về bản thể và hiện hữu của mình. Modiano coi bản thân mình cũng như cả thế hệ ông là những người không có thời gian. Suy nghĩ định vị cho mình trong Lịch sử, tìm hiểu quá khứ của mình trong quá khứ Lịch sử và dưới ánh sáng ấy, hình dung rõ hơn những đường nét của tương lai, đó là quan tâm chủ yếu của ông thể hiện qua các tác phẩm. Sự sụp đổ của những ảo tưởng tháng 5/1968 lại càng khiến cho sự tự vấn rất “Hamlet” ấy thêm nhức nhối trong Modiano. Ông cho rằng một khi qua được cuộc sát hạch ngược trở về mê cung quá khứ thì sẽ có thể trả lời câu hỏi mình là gì hiện nay. Dường như ông muốn thử thách bản thân bằng cách tự đặt mình trong hoàn cảnh gay go của những năm chiến tranh, tự kiểm nghiệm xem mình có thể ứng xử như thế nào và làm gì trong những điều kiện ấy. Quan tâm đến độ quằn quại của Modiano đối với quá khứ, đặc biệt là thời kỳ chiếm đóng, là một phẩm chất cực kỳ hiện đại của văn học Pháp hiện nay. Một số lớn tác phẩm của ông được đặt trong khung cảnh của thời kỳ nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng (1940-1944) nghĩ là trước khi có ông. Ý đồ xác định vị trí của mình trong lịch sử, ở các tiểu thuyết của Modiano, vượt lên thành một vấn đề có tầm rộng lớn hơn: con người và thời gian. Con người có quan hệ như thế nào với sự vận-động-tàn-phá-tất-thảy của thời gian? Câu trả lời cho vấn đề có vẻ siêu hình ấy là cần phải xác định minh bạch vị trí của mình trong sự vận động ấy – không những anh là anh như hiện nay, mà còn có thể như là những gì có trước anh nữa. “Con người bao giờ cũng tò mò muốn biết cội nguồn của mình,” Modiano thổ lộ. Việc đi tìm những “cội nguồn” ấy trở thành nét chủ đạo của các nhân vật trong mọi tác phẩm của ông.

Những đại lộ ngoại vi[1], đó là những tìm kiếm đau khổ của nhân vật chính dò theo dấu vết của cha mình – không chỉ theo nghĩa đen, mà còn (và thậm chí là chủ yếu) theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ: tìm sự gần gũi bên trong với con người ấy, đúng hơn, với quá khứ ấy.

Suy nghĩ về con người như một hạt cát xoáy lộn trong dòng thác thời gian, cố gắng tập trung vào số phận con người, Modiano dường như nhằm chủ yếu vun đắp một ý thức về hiện hữu. hơn là dựng lên một bức tranh hình tượng cụ thể về thế giới. Điều đó cũng khá rõ ở Một gánh xiếc đi qua, cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông vừa ra mắt vào mùa sách này ở Pháp. Một chàng trai không biết từ đâu tới, một cô gái không biết còn trong trắng hay đã mang nặng một quá khứ xáo động, một cuộc gặp gỡ khó tin và nàng kéo chàng vào một Paris kỳ ảo rồi biến mất. Gánh xiếc đi qua, nhưng chân trời vừa thoáng thấy đã khép lại, nhưng dấu hằn để lại là mãi mãi.

Phố những cửa hiệu u tối, giải thưởng Goncourt, một trong những tác phẩm chủ yếu của Modiano, là nỗi khắc khoải triền miên về nguy cơ đánh mất danh tính và bản cách. Điều gì đã thúc đẩy anh chàng Guy Roland, nhân viên của một hãng thám tử tư, lao theo dấu vết của một người không quen biết đã mất tích từ lâu? Đó là nhu cầu da diết tìm lại được mình sau bao đời của con người vốn xưa kia có thể là anh ta, kiên nhẫn lần mò về những nơi có thể đã từng chứng kiến cuộc tình của anh ta với một người đàn bà giờ đây đã biệt tăm, cố bấu vào những bóng mờ của những nhân chứng duy nhất từng tham dự vào thời thanh xuân của gã môi giới hàng mang hộ chiếu đáng ngờ dưới cái tên Pédro McEvoy, mà, cuối cùng, anh ta tin rằng chính là mình. Như trong một vòng đu quay, những mẩu ký ức loang loáng, chập chờn, rời rạc không ngừng xoáy lộn với những câu hỏi đau đớn: “Tôi là ai?… Có đúng đó là đời tôi không? Hay là đời một người khác mà tôi đã lẻn vào?” Hình như đây không chỉ là một bi kịch cá nhân, mà còn là bi kịch của cả nhiều cộng đồng. Chúng ta đã chẳng chứng kiến những quá trình đau đớn tìm lại danh tích và bản cách bị thất lạc của nhiều dân tộc trong những năm hỗn mang của đoạn cuối thế kỷ này hay sao?

Modiano có cái tài “phù phép” với thời gian, xóa nhòa được ranh giới giữa các lớp thời gian khác nhau khiến cho những sự vật hiện ra như không thể tin được dưới một ánh sáng lung linh kỳ ảo. Với Phố những cửa hiệu u tối, ông đã khẳng định vị trí đặc biệt của mình trong văn học Pháp nửa sau thế kỷ 20. Tất cả các tiểu thuyết của ông đều được xếp vào danh sách các tác phẩm hay nhất hằng năm ở Pháp. Và có lẽ giá trị lớn nhất của Modiano là ở chỗ nỗ lực không mệt mỏi khôi phục một ý thức nhân bản – quan tâm tìm về và bám chắc không rời xa cội nguồn nếu muốn khỏi bị tha hóa.

Dương Tường

 

TRÍCH TÁC PHẨM

XIII

 

Cái số điện thoại đã từng là số máy của tôi hiện còn có bao nhiêu trong cuốn sổ ghi nữa? Phải chăng đó chỉ là số dây nói của một văn phòng, nơi người ta chỉ có thể gọi tôi vào một buổi chiều?

Tôi quay số Anjon 15-18. Chuông đổ liên hồi nhưng không có ai trả lời. Liệu có còn dấu vết gì của tôi trong cái căn hộ hoang vắng đó, căn phòng từ lâu không người ở, nơi chiều nay chuông điện thoại réo hoài vô vọng?

Thậm chí tôi khỏi cần phải gởi phòng chỉ dẫn làm gì. Tôi chỉ cần rướn căng bắp chân cho quay chiếc ghế bành da của Hutte. Trước mặt tôi, những dãy Bóttin và niên giám. Một cuốn trong số đó, nhỏ hơn những cuốn khác, được đóng bằng da dê in màu ve nhạt. Đó đích thị là cuốn tôi cần. Tất cả những số điện thoại có ở Paris từ ba mươi năm nay đều được liệt kê trong đó, kèm theo địa chỉ.

Tôi giở các trang, tim đập thình thình. Và tôi đọc thấy:

ANJon 15-28-10 bis phố Canbacérès, Q.8

Nhưng cuốn Bóttin sắp theo tên đường phố của năm ấy lại không nhắc gì đến số điện thoại ấy.

CAMBACÉRÈS (phố)

Q.8

10 bis HỘI ÁI HỮU NHỮNG THỢ MÀI KIM CƯƠNG MIR 18-16

KHÂU MAY – THỜI TRANG ANJ 32-49

PILGRAM (Hélène) ELY 05-31

REBBINDER (Hãng) MIR 12-08

REFUGE (de) ANJ 50-52

S.E.F.I.CMIR 74-31

MIR 74-32

MIR 74-33

 

XIV

 

Một anh chàng tên là Pedro. Anjon 15-10 bis, phố Cambacérès, quận 8.

Xưa hình như gã làm việc ở một tòa công sứ Nam Mỹ. Chiếc đồng hồ quả lắc Hutte để lại trên bàn giấy chỉ hai giờ sáng. Bên dưới, đại lộ Niel, họa hoằn mới có vài chiếc xe qua lại và đôi khi tôi nghe thấy tiếng phanh kít khi đèn đỏ bật.

Tôi giở những cuốn Bottin mà ở trên đầu có các danh sách các sứ quán và các đoàn đại diện với các thành viên.

Cộng hòa Dominique

Đại lộ Messine, 21 (Q.8) CARnot 10-18

N… Đặc phái viên và công sứ đặc mệnh toàn quyền. Tiến sĩ Gustavo J.Henriquez. Bí thư thứ nhất.

Tiến sĩ Salcador E.Paradas. Bí thư thứ hai (và phu nhân), phố Alsace, 41 (Q.10).

Tiến sĩ Bienvenido Carroso. Tùy viên, phố Descamps, 45 (Q.16), điện thoại: TRO 42-91.

Venezuela

Phố Copemic, 11 (Q.16), PASsy 72-29

Công sứ quán: phố la Pompe, 115 (Q.16), PASsy 10-89

Tiến sĩ Carlo Aistimuno Coll. Đặc phái viên và công sứ đặc mệnh toàn quyền.

Jaime Picon Fegres. Tham tán.

Antonio Maturib. Bí thư thứ nhất.

Antonio Brinno. Tùy viên.

Đại tá H. Lopez-Mendez. Tùy viên quân sự.

Pedro Saloaga. Tùy viên thương mại.

Goatemala

Quảng trường Joffre, 12 (Q.7), điện thoại: SEGur 09-59.

Adam Maurisque Rios. Tham tán đại diện lâm thời.

Ismael Gonzalez Arevalo. Bí thư.

Frederico Murgo. Tùy viên.

Ecuador

Đại lộ Wagram, 91 (Q.17), điện thoại: ETOile 17-89

Gonzalo Zaldumbide. Đặc phái viên và công sứ đặc mệnh toàn quyền (và phu nhân)/

Alberto Puig Arosemena. Bí thư thứ nhất (và phu nhân)

Alfredo Gangotena. Bí thư thứ ba (và phu nhân)

Carlos Guzman. Tùy viên (và phu nhân).

Victor Zevallos. Tham tán (và phu nhân), đại lộ Lesna, 21 (Q.16).

El Savador

Riquez Vega. Đặc phái viên.

Thiếu tá J.H.Wishaw. Tùy viên quân sự (và con gái)

F. Cappurro. Bí thư thứ nhất.

Luis…

Những con chữ nhảy múa. Tôi là ai?

 

XV

 

Rẽ sang trái, bạn sẽ ngạc nhiên vì sự tịch lặng và trống trải ở đoạn đường này của phố Cambacèrès. Không một chiếc xe. Tôi đi qua trước cửa một khách sạn và chói mắt vì một cây đèn chùm lấp lánh tất cả các bóng pha lê của nó trong hành lang liền với cửa vào. Có ánh nắng.

Số 10 bis là một ngôi nhà hẹp bốn tầng lầu. Lầu một có nhiều cửa sổ cao. Một cảnh sát đứng canh ở vỉa hè đối diện.

Một cánh cửa của ngôi nhà để mở, rote thời gian bật. Một phòng ngoài dài, tường xám. Phía trong cùng, một cửa với những ô kính nhỏ, tôi kéo ra khó khăn vì chét gỉ. Một cầu thang không rải thảm dẫn lên các tầng trên.

Tôi dừng lại trước cửa lầu một. Tôi đã quyết định hỏi những người thuê nhà ở tầng lầu xem số điện thoại ANJon 15-28 đã có thời kỳ nào là của họ không và cổ họng tôi thắt lại vì tôi biết cách thức tiến hành của mình thật kỳ. Trên cửa, một tấm biển đồng, tôi đọc thấy: HÉLÈNE PILGRAM.

Một hồi chuông mảnh và mòn đến nỗi chỉ nghe thấy từng lúc. Tôi ấn ngón tay trỏe trên nút thật lâu. Cửa hé ra, gương mặt một người đàn bà tóc ngả màu tro xám và cắt ngắn hiện ra ở khe cửa.

– Thưa bà… Tôi muốn hỏi thăm…

Bà ta dõi cặp mắt rất trong sáng nhìn tôi trân trân. Không thể đoán được tuổi bà. Ba mươi, năm mươi?

– Số điện thoại cũ của bà có phải là ANJon 15-28 không ạ?

Bà ta cau mày.

– Phải. Tại sao?

Bà mở rộng cửa hơn. Bà mặc một chiếc áo ngủ đàn ông bằng lụa đen.

– Tại sao ông lại hỏi tôi điều ấy?

– Bởi vì… Tôi đã từng ở đây…

Bà tiến ra thềm nghỉ đầu cầu thang và da diết nhìn vào mắt tôi. Mắt bà trố ra?

– Nhưng… ông là… ông… Mc Evou?

– Vâng, tôi đáp liều.

– Mời ông vào.

Bà có vẻ xúc động thật sự. Chúng tôi đứng đối diện nhau, giữa một phòng ngoài sân đã hư. Một số mảnh ván đã được thay bằng những miếng vải nhựa linôlêum.

– Ông không thay đổi lắm, bà mỉm cười nói với tôi.

– Bà cũng vậy.

– Ông vẫn còn nhớ tôi?

– Tôi nhớ bà rất rõ, tôi nói với bà.

– Thật quý hóa…

Đôi mắt bà nán lại nhìn tôi, dịu dàng.

– Ông lại đây…

Bà đi trước dẫn tôi vào một gian phòng rất lớn trần rất cao mà các cửa sổ chính là những cửa sổ tôi đã nhận thấy từ ngoài phố. Sàn gỗ, cũng hư như ở phòng ngoài, được phủ từng chỗ bằng thảm len trắng. Qua các cửa sổ, một mặt trời mùa thu rọi một ánh sáng màu hổ phách vào gian phòng.

– Mời ông ngồi…

Bà chỉ cho tôi một cái ghế dài phủ gối nhưng kê sát tường. Bà ngồi xuống bên trái tôi.

– Gặp lại ông một cách… đột ngột, thật cũng lạ.

– Tôi có việc đi qua khu phố này, tôi nói:

Tôi thấy bà trẻ hơn lúc xuất hiện qua khe cửa hé mở. Không một vết nhăn nhó nào ở khóe môi, quanh mắt cũng như ở trán và gương mặt phẳng phiu đó tương phản với mái tóc bạc.

– Tôi có cảm giác là bà đã thay đổi màu tóc. Tôi đánh liều nói.

– Không mà… tóc tôi đã bạc từ năm hai mươi lăm tuổi… Tôi ưng giữ nguyên màu tóc này…

Ngoài chiếc ghế dài, đồ đạc chả có mấy. Một cái bàn hình chữ nhật kê sát tường đối diện. Một cái manequin cũ giữa hai cửa sổ, thân choàng  mọt tấm vải màu be bẩn và sự hiện diện khác thường của nó gợi đến một xưởng may. Vả lại, tôi nhận thấy một chiếc máy khâu để trên một cái bàn ở góc phòng.

– Ông nhận ra căn hộ này chứ? bà hỏi tôi. Ông thấy đấy… Tôi vẫn giữ những thứ này…

Bà khoát tay về phía người giá thợ may.

– Chính Denise đã để lại tất cả những cái đó…

– Quả vậy, tôi nói, cũng không thay đổi gì mấy…

– Còn Denise? bà sốt ruột hỏi. Cô ấy ra sao rồi?

– À, tôi nói, lâu rồi tôi không gặp lại cô ấy…

– Thế đấy…

Bà có vẻ thất vọng và gật đầu như thể bà hiểu rằng không nên nhắc đến cô “Denise” ấy nữa. Vì tế nhị mà.

– Thực ra, tôi nói, bà quen Denise lâu chưa?…

– Lâu rồi… Tôi quen cô ấy do Léon…

– Léon?

– Léon van Allen ấy.

– Tất nhiên rồi, tôi nói, chột dạ vì cái giọng biểu lộ trong câu này, một giọng trách móc khi thấy cái tên “Léon” không gợi cho nhớ ngay đến “Léon van Allen”.

– Anh ra ra sao rồi, Léon van Allen ấy? tôi hỏi.

– Ồ… đã hai ba năm nay tôi không được tin tức gì của ông ấy… Ông ấy đã đi Guyane thuộc Hà Lan, ở Paramaribo… Ông ấy đã mở lớp dạy múa bên đó…

– Dạy múa?

– Vâng. Trước khi làm nghề khâu may, Léon đã là diễn viên múa … Ông không biết sao?

– Có, có chứ. Nhưng tôi quên bẵng đi mất.

Bà ngả người ra sau dựa lưng vào tường và thắt lại chiếc dây lưng áo ngủ.

– Còn ông, ôn giờ ra sao?

– Ồ, tôi ấy à?… chẳng sao cả…

– Ông không làm ở sứ quán Cộng hòa Dominque nữa à?

– Không.

– Ông có nhớ hồi ông đề nghị làm cho tôi một tấm hộ chiếu Dominique? Ông bảo ở đời phải đề phòng và bao giờ cũng phải có mấy tấm hộ chiếu…

Kỷ niệm này làm bà thích thú. Bà thốt lên một tiếng cười ngắn.

– Lần cuối cùng bà được tin về… Denise là bao giờ? tôi hỏi bà.

– Ông đi Megève với cô ấy và từ nơi ấy, cô gởi cho tôi một bức thư ngắn. Rồi từ bấy đến nay bặt tin.

Bà đăm đăm nhìn tôi, vẻ dò hỏi nhưng hẳn là bà không dám đặt thẳng một câu hỏi trực tiếp. Cô nàng Denise là ai nhỉ? Nàng có đóng vai trò gì quan trọng trong đời tôi không?

– Bà tưởng tượng coi, tôi nói, có những lúc tôi có cảm giác mình đang ở trong một màn sương mù dày đặc… Tôi bị những lỗ hổng trong trí nhớ… Những thời kỳ buồn chán… Cho nên, nhân tiện qua phố này… tôi mạo muội… lên đây… để thử tìm lại cái… cái…

Tôi hoài công tìm một chữ chính xác mà không ra nhưng cái đó không quan trọng gì vì bà mỉm cười, và nụ cười ấy cho thấy bà không hề ngạc nhiên trước ứng xử của tôi.

– Ông muốn nói: tìm lại thời vui vẻ ngày xưa?

– Vâng, đúng thế… Thời vui vẻ…

Bà cầm lấy một cái hộp thếp vàng trên một cái bàn nhỏ ở đầu đi văng và mở ra. Hộp đầy thuốc lá.

– Không, cảm ơn, tôi nói.

– Ông không hút thuốc nữa ư? Thuốc lá Ăng lê đấy. Tôi nhớ là ông thường hút thuốc lá Ăng lê mà… Mỗi lần chúng ta gặp nhau ở dây, cả bộ ba, với Denise, ông đều mang đến cho tôi một túi đầy những bao thuốc lá Ăng lê.

–  Phải, đúng vậy…

– Ở công sứ Dominique, loại thuốc ấy, ông muốn bao nhiêu cũng có…

Tôi vươn tay tới cái hộp thếp vàng, dùng ngón tay cái và ngón trỏ nhón một điều. Tôi e sợ đưa lên miệng. Bà đưa bật lửa cho tôi sau khi châm điếu thuốc của mình. Tôi phải bật đi bật lại mấy lần mới lên lửa. Tôi hít một hơi. Lập tức, một cảm giác nhoi nhói rất đau làm tôi ho sù sụ.

– Tôi mất thói quen rồi, tôi bảo bà.

Tôi không biết làm thế nào để rảnh nợ với điếu thuốc lá này, tôi cứ cầm nó giữa ngón tay cái và ngón trỏ trong khi nó cháy dần.

– Vậy là bây giờ, tôi nói, bà ở căn hộ này?

– Vâng. Tôi lại dọn đến đây khi tôi bặt tin Denise… Vả lại, trước khi đi, cô ấy cũng bảo là tôi có thể lấy lại căn hộ…

– Trước khi cô ấy đi?

– Vâng mà… trước khi ông cùng cô ấy đi Megève…

Bà nhún vai như thể đó là điều hiển nhiên đối với tôi.

– Tôi có cảm giác tôi ở lại căn hộ này trong thời gian rất ngắn…

– Ông ở đây mấy tháng với Denise…

– Và bà, bà ở đây với chúng tôi?

Bà ngẩn ra nhìn tôi.

– Cố nhiên là thế, kia… Đây là căn hộ của tôi… Tôi cho Denise mượn vì tôi phải đi Paris…

– Xin lỗi… Tôi vừa nhãng đi nghĩ sang chuyện khác.

– Ở đây tiện cho Denise. Có chỗ cho cô ấy đặt một xưởng khâu may….

Một cô thợ khâu ư?

– Tôi cứ tự hỏi: không hiểu tại sao bọn tôi lại rời căn hộ này, tôi nói.

– Tôi cũng thế…

Lại cái nhìn dò hỏi ấy/ Nhưng tôi biết giải thích thế nào cho bà? Tôi biết ít hơn bà. Tôi chẳng biết gì về những chuyện này. Cuối cùng, tôi đặt vào cái gạt tàn mẩu thuốc cháy gần hết làm bỏng ngón tay tôi:

– Trước khi đến ở đây, chúng tôi có gặp nhau không nhỉ? tôi rụt rè hỏi liều.

– Có. Hai ba lần. Ở khách sạn ông trọ…

– Khách sạn nào?

– Phố Cambon. Khách sạn Castille. Ông còn nhớ phóng vé ông thuê để ở với Denise?

– Vâng.

– Ông và cô ấy đã rời khách sạn Castille vì cảm thấy ở đó không an toàn… phải thế không?

– Vâng.

– Quả là một thời kỳ lạ lùng…

– Thời kỳ nào?

Bà không trả lời mà châm một điếu thuốc nữa.

– Tôi muốn đưa bà xem mấy tấm ảnh, tôi nói.

Tôi rút từ trong áo vét ra một cái phong bì đã trở thành một vật bất ly thân, trong đó tôi xếp tất cả các ảnh. Tôi đưa cho bà xem tấm hình Freddie Howard de Luz, Gay Orlow, người thiếu phụ không quen và tôi chụp trong “phòng ăn mùa hè”.

– Bà nhận ra tôi chứ?

Bà quay người để xem tấm ảnh dưới ánh sáng mặt trời:

– Ông đứng với Denise, nhưng hai người kia thì tôi không biết…

– Bà không biết Freddie Howard de Luz?

– Không.

– Cả gay Orlow cũng không?

– Không.

Rành là người ta sống cách ngăn thật, các bạn của cùng một người mà không biết nhau. Thật đáng tiếc.

– Tôi còn hai tấm ảnh của Denise nữa.

Tôi chia cho bà tấm ảnh nhỏ cho thẻ căn cước và tấm đứng tì khuỷu tay ở lan can.

– Tôi biết tấm này rồi, bà nói với tôi… Thậm chí tôi nghĩ cô ấy đã gởi cho tôi một tấm như thế từ Megève nữa kia. Nhưng tôi không nhớ tôi đã để nó ở đâu…

Tôi lấy lại tấm ảnh từ tay bà và ngắm thật kỹ. Megève. Đằng sau Denise, có một khung cửa sổ nhỏ với một cánh gỗ. Phải cánh cửa và hàng lan can ấy có thể là một nhà gỗ trên núi.

– Cái chuyện đi Megève ấy dù sao cũng là một ý kỳ cục, tôi đột ngột tuyên bố. Denise có nói với bà cô ấy nghĩ thế nào về việc ấy không?

Bà ngắm tấm ảnh căn cước. Tim đập thình thình, tôi chờ bà trả lời:

– Có… cô ấy có nói với tôi về chuyện đó… cô ấy bảo Megève là một nơi an toàn… Và từ đó, bao giờ cũng có khả năng vượt qua biên giới.

– Phải… Tất nhiên…

 Tôi không dám đi xa hơn. Tại sao tôi lại rụt rè và sợ sệt đến thế khi đề cập đến những đầu đề thân thiết với mình? Nhưng cả bà nữa, tôi hiểu điều này qua cái nhìn của bà, bà cũng muốn nghe tôi giải thích. Cả hai chúng tôi đều im lặng. Cuối cùng bà quyết  đinh:

– Nhưng chuyện gì đã xảy ra ở Megève?

Bà đặt câu hỏi này với tôi một cách khẩn cấp đến nỗi lần đầu tiên, tôi cảm thấy lòng tràn đầy chán nản và thậm chí còn hơn chán nản nữa kìa – tuyệt vọng, cái nỗi tuyệt vọng thường xâm chiếm ta khi ta nhận biết được rằng, bất chấp mọi cố gắng, mọi ưu điểm cùng toàn bộ thiện chí của ta, ta vẫn vấp phải một trở ngại không thể vượt qua.

– Tôi sẽ giải thích cho bà hay… Để một hôm khác…

Chắc chắn trong giọng tôi hoặc trong sắc diện tôi, có một cái gì lạc thần vì bà đã riết chặt cánh tay tôi như để an ủi và bà nói với tôi:

– Tha lỗi cho tôi đã đặt với ông những câu hỏi thiếu tế nhị… Nhưng… tôi là bạn thân của Denise mà…

– Tôi hiểu…

Bà đứng dậy.

– Ông đợi tôi một lát…

Bà rời căn phòng. Tôi nhìn xuống chân ngắm những vũng ánh sáng tạo nên bởi những tia nắng trên tấm thảm len trắng. Rồi những mảnh ván sàn và cái bàn hình chữ nhật và cái manequin cũ trước kia thuộc về “Denise”. Liệu rồi, cuối cùng, tôi có nhận ra được một nơi tôi đã từng sống?

Bà trở lại, cầm cái gì trong tay. Hai cuốn sách. Một sổ nhật ký.

– Hôm đi, Denise bỏ quên cái này… Đây… tôi biếu ông…

Tôi ngạc nhiên không thấy bà xếp những vật kỷ niệm ấy trong một cái hộp thư Stioppa de Djagoriew và người làm vườn cũ của bà mẹ Freddie. Rút lại, đây là lần đầu tiên trong cuộc tìm kiếm của tôi, người ta không cho tôi một cái hộp. Ý nghĩ ấy làm tôi bật cười.

– Có gì mà ông thích thú thế?

– Chẳng có gì cả.

Tôi ngắm bìa những cuốn sách. Trên một trang bìa, mặt một người Trung Quốc để ria, đội mũ quả dưa, hiện ra trong màn sương mù màu xanh lơ. Một đầu đề Charlie Chan. Trang bìa kia màu vàng và ở mé dưới, tôi nhận thấy một cái hình vẽ một cái mặt nạ có cắm một cái bút lông ngỗng. Cuốn sách này tên là Thư nặc danh.

Denise đọc mọi thứ tiểu thuyết trinh thám! bà nói với tôi. Còn có cái này nữa…

Bà chìa cho tôi một cuốn sổ nhật ký bìa da cá sấu.

– Cảm ơn.

Tôi mở cuốn sổ và lần giở các trang. Chưa thấy viết gì: không một cái tên nào, không một cuộc gặp. Cuốn sổ nhật ký có ngày tháng, nhưng không có năm. Cuối cùng, tôi tìm thấy giữa các trang một tờ giấy và tôi giở ra:

Cộng hòa Pháp

Tỉnh Seine

Trích lục các giấy khai sinh của quận 13 Paris

Năm 1917

Ngày 21 tháng Mười hai năm 1917.

Vào hồi 15 giờ, ở phố bến tàu Austerlitz 19, đã ra đời Yvette Coudreuse, giống cái, con của Paul Coudreuse và Henriette Bogeerts, vô nghề nghiệp, ở địa chỉ trên.

Ngày 3 tháng Tư năm 1939 kết hôn với Jimmy Pedro Stern tại Paris (quận 17).

Để trích lục y bản chính

Paris – ngày 16 tháng Sáu năm 1939.

– Bà đã xem cái này chưa? tôi hỏi.

Bà ngạc nhiên nhìn tờ giấy khai sinh.

– Bà có biết chồng cô ấy không? Cái gã… Jimmy Pedro Stern ấy?

– Denise không bao giờ nói với tôi là cô ấy đã có chồng… Còn ông, ông có biết chuyện đó không?

– Không.

Tôi đút cuốn sổ nhật ký và tờ giấy khai sinh vào túi trong, cùng với phong bì đựng ảnh và không hiểu tại sao một ý nghĩ vụt qua óc tôi.

– Cảm ơn bà đã cho tôi những vật kỷ niệm này.

– Xin ông cứ lấy, ông Mc Evoy.

Tôi nhẹ hẳn người khi thấy bà nhắc lại họ tôi vì khi bà phát âm nó lần đầu, tôi nghe không được rõ lắm. Tôi những muốn ghi ngay lập tức, nhưng tôi còn phân vân về chính tả.

– Tôi thích cái cách bà phát âm họ tôi, tôi bảo bà. Điều đó là khó đối với một người Pháp… Nhưng bà viết nó như thế nào? Khi viết chữ đó, bao giờ người ta cũng mắc lỗi chính tả.

Tôi dùng một giọng nghịch ngợm. Bà mỉm cười.

– M.C.E hoa, V…O…Y bà đánh vần.

– Liền một từ duy nhất? Bà chắc thế chứ?

– Hoàn toàn chắc, bà nói như thể phá một cái bẫy mà tôi giăng ra nhử bà.

Vậy là McEvoy.

– Hoan hô! tôi khen bà.

– Tôi không bao giờ phạm lỗi chính tả.

– Pedro McEvoy… Tôi mang một cái tên thật kỳ. Bà không thấy ư? Có những lúc tôi vẫn chưa quen với nó…

– Này… Suýt nữa tôi quên cái này, bà nói.

Bà rút trong túi ra một cái phong bì:

– Đây là mẫu thư cuối cùng tôi nhận được của Denise…

Tôi giờ tờ giấy và đọc:

Magève, ngày 14 tháng Hai

Hélène thân mến,

Thế là quyết định rồi. Ngày mai, mình sẽ cùng Pedro vượt biên sang bên đó, mình sẽ gởi tin tức về cho cậu thật nhanh.

Trong khi chờ đợi, mình cho cậu số dây nói của một người ở Paris mà nhờ đó, chúng mình có thể liên lạc được với nhau.

OLEG DE WRÉDÉ AUTEUIL 54-73

Hôn cậu

Denise

– Và bà có gọi dây nói chứ?

– Vâng. Nhưng lần nào người ta cũng bảo tôi là ông chủ đi vắng.

– Cái tay… Wrédé này là ai?

– Tôi không biết. Denise không bao giờ nói với tôi về người này.

Dần dần, anh mặt trời rút khỏi căn phòng. Bà thắp một ngọn đèn nhỏ trên cái bàn thấp đầu đi văng.

– Tôi sẽ lấy làm vui thích nếu được nhìn lại căn phòng tôi đã ở, tôi bảo bà.

– Tất nhiên là được rồi.

Chúng tôi theo một hành lang và bà mở một cửa bên phải.

– Đấy, bà nói. Tôi thì không dùng đến các phòng này nữa… Tôi ngủ trong phòng bạn… ông biết đấy… cái phòng nhìn ra sân ấy mà…

Tôi dừng lại ở khung cửa vào. Trời hãy còn đủ sáng. Hai bên cửa sổ, rủ xuống một tấm rèm màu cặn rượu vang. Tường phủ giấy có vẽ những họa tiết màu xanh nhạt.

– Ông nhận ra chứ? bà hỏi tôi.

– Vâng.

Một cái giát lò xo ở bức tường cuối phòng. Tôi đến ngồi lên mép cái giát lò xo ấy.

– Tôi có thể ở lại một mình mấy phút không?

– Tất nhiên.

– Cái này nhắc tôi nhớ đến “thời kỳ vui vẻ”…

Bà ném về phía tôi một cái nhìn buồn bã và gật đầu.

– Tôi đi pha tí trà…

Cả trong căn phòng này nữa, sàn gỗ cũng hư, nhiều miếng ván đã mất mà không được thay để lấp những chỗ trống, trên tường đối diện với cửa sổ, một lò sưởi lát đãhoa trắng và một tấm gương ở bên kia khung thếp vàng mỗi góc lại cầu kỳ gắn thêm một vỏ ốc… Tôi ngả mình nằm ngang cái giát lò xo, đăm đăm nhìn lên trần rồi nhưng mô típ trên giấy phủ tường. Tôi gần như gí trán vào tường để xem cho rõ những chi tiết. Những cánh đồng quê. Thiếu nữ đeo tóc giả ngồi trên những cái đu, mục đồng mặc quần ống phông chơi đàn măng đô lin. Rừng cây dưới trăng. Mọi cái đó chẳng gợi cho tôi kỷ niệm gì, vậy mà những hình vẽ này hẳn đã từng quen thuộc đối với tôi hồi tôi còn ngủ trên chiếc giường này. Tôi tìm trên trần, một vết tích bất kỳ, mà không biết nó là cái gì. Nhưng chẳng có gì níu mắt tôi lại.

Tôi đứng dậy và ra chỗ cửa sổ. Nhìn xuống dưới đường.

Phố vắng tanh và tối hơn lúc tôi vào khu nhà. Gã cảnh sát vẫn đứng canh vỉa hè trước mặt. Phía trái, nếu tôi cúi đầu, tôi có thể thấy một khoảng cũng vắng tanh với những nhân viên cảnh sát khác đứng canh. Như thể cửa sổ của tất cả những khu nhà nuốt lấy bóng đêm đang xuống dần. Những cửa sổ ấy đen ngòm và ta thấy rõ là không có ai ở đấy.

Bấy giờ, một cái gì bật đánh “tách” trong tôi. Cái cảnh nhìn thấy từ căn phòng này gây cho tôi một cảm giác lo âu, nơm nớp, mà tôi đã từng biết. Những mặt tiền này, con phố vắng này, những bóng người canh gác này trong hoàng hôn làm tôi bối rối một cách quỷ quyệt như một bài hát hay một mùi hoa xa kia đã từng quen thuộc. Và tôi dám chắc rằng nhiều lần, cũng vào giờ này, tôi đã từng đứng đây rình ngóng không động đậy, không làm một cử chỉ nhỏ nào và thậm chí không dám thắp lấy một ngọn đèn.

Khi tôi trở lại phòng tiếp khách, tôi tưởng không còn ai ở lại đó nữa, nhưng bà ta đã nằm dài trên ghế nhung. Bà ngủ. Tôi khẽ khàng lại gần và tôi ngồi xuống đầu kia của chiếc ghế dài. Một cái khay với một ấm trà và hai cái tách đặt giữa tấm thảm len trắng. Tôi khẽ ho. Bà không thức giấc. Tôi bèn rót trà ra hai tách. Trà nguội lạnh.

Ngọn đèn bên chiếc ghế dài để cả một phần của căn phòng chìm trong bóng tôi và tôi phải khó khăn mới nhận ra cái bàn, cái ma nơ canh và cái máy khâu, những đồ vật mà “Denise” đã bỏ lại đó. Những buổi tối xưa kia của chúng tôi trong căn phòng này thường như thế nào nhỉ? Làm sao mà biết được?

Tôi nhắp trà từng ngụm nhỏ. Tôi nghe thấy hơi thở của bà ta, một hơi thở gần như không thấy được, nhưng căn phòng tĩnh lặng đến nỗi một tiếng động nhỏ nhất, một tiếng thì thầm khẽ nhất cũng bật lên rõ ràng đến phát sợ. Thôi, đánh thức bà ta làm gì? Bà ta không thể cho tôi biết gì nhiều lắm. Tôi đặt tách xuống chiếc thảm len.

Đúng lúc rời căn phòng, tôi làm cho sàn gỗ kêu cót két, và tôi đi vào hành lang..

Tôi mò mẫm tìm cửa ra, rồi tìm rơ le thời gian của cầu thang. Tôi đóng cửa hết sức nhẹ nhang. Tôi vừa đẩy cánh cửa có ô kính kia để đi qua lối vào khu nhà thì cái bật “tách!” mà tôi đã cảm thấy khi nhìn qua cửa sổ phòng ngủ trên kia, lại vang lên lần nữa. Lối vào rực một ánh sáng trắng lóa tỏa ra từ ngọn đèn hình cầu treo trên trần. Tôi quen dần với thứ ánh sáng quá gắt ấy. Tôi đứng lại đó ngắm những bức tường xám và những ô kính cửa lấp lánh.

Một cảm giác xuyên qua tâm trí tôi, như những mảnh mộng vụt hiện vụt tan khi mà tức dậy ta cố nắm bắt để dựng lại toàn bộ giấc chiêm bao. Tôi thấy mình đang đi trong một Paris tối tăm và đẩy cửa khu chung cư này của phố Cambacérès. Thế rồi, mắt tôi bỗng nhiên chói là và trong một giây, tôi không trông thấy gì nữa hết vì ánh sáng trắng lóa ở cửa lối vào tương phản mạnh mẽ với bóng đêm bên ngoài.

Chuyện ấy là từ hồi nào nhỉ? Vào thời tên tôi là Pedro McEvoy và tối nào cũng về đây? Phải chăng tôi đã nhận ra lối vào, tấm rơm chùi chân hình chữ nhật to tường, những bức tường xám, cái bóng đèn hình cầu trên trần đánh đai bằng một cái vành đông? Đằng sau những ô kính cửa ra vào, tôi trông thấy những bậc đầu của cầu thang mà tôi thèm cất bước chậm rãi đi lên để làm lại những cử chỉ tôi đã từng làm và theo những lộ trình ngày xưa của mình.

Tôi tưởng như còn nghe thấy trong lối vào những khu chung cư dư ấm những bước chân của những người thường qua đó và đã biệt tăm từ bấy đến nay. Một cái gì vẫn tiếp tục rung lên sau khi họ đi qua, những làn sóng mỗi lúc một yếu đi nhưng vẫn năm bắt được nếu tập trung chú ý. Thực ra, có thể chưa bao giờ tôi là cái gã Pedro McEvoy đó, tôi chẳng là cái gì cả, nhưng những làn sóng xuyên qua tôi, khi xa xăm, khi mạnh hơn và tất cả những dư vang tản mát bồng bềnh trong không trung ấy kết tinh lại và đấy là tôi.

 

Dịch giả gửi Văn Việt. Trích theo sách đã in của NXB Văn học và Công ty Nhã Nam.

 

 



[1] Nhà xuất bản Hội nhà văn và Hội nghiên cứu Giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, 1989, bản dịch của Dương Tường.

Mai này, bao người biết “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”?

Đoàn Khắc Xuyên

Nhìn hình ảnh một thí sinh đơn độc ngồi làm bài thi môn sử trong phòng thi trống trải ở nhiều địa phương trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông vừa qua, có lẽ không ai không thấy ngậm ngùi. Ngậm ngùi cho quốc sử, ngậm ngùi cho môn sử ở nước ta. Rồi từ ngậm ngùi chuyển qua âu lo cho tương lai: với cái đà học sinh ngoảnh mặt với lịch sử nước nhà thế này, với nền giáo dục coi nhẹ khoa học xã hội trong đó có môn sử thế này, liệu mai này còn bao người Việt biết “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi” hay thờ ơ chỉ biết mạnh ai nấy sống?

Mai này, bao người biết “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”?

Các nhà bảo tàng cũng là nơi chứa đựng những bài học lịch sử sinh động với con trẻ. Ảnh: H.A.T

Nhớ hồi nhỏ học lịch sử, những tâm hồn non trẻ từng mê mẩn, buồn vui với những câu chuyện bi hùng trong lịch sử dân tộc: chuyện Thánh Gióng bỗng lớn như thổi để đánh giặc Ân, đánh giặc xong cưỡi ngựa về trời; chuyện Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống ách đô hộ tàn ác của giặc Tàu và tên thái thú Tô Định; chuyện Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, dựng nền độc lập; chuyện Đinh Bộ Lĩnh phất cờ lau tập trận, dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt và xưng hoàng đế; chuyện Lý Thường Kiệt với tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”, đánh tan giặc Tống; chuyện chàng thiếu niên Trần Quốc Toản bóp nát quả cam trong tay vì nhỏ tuổi không được tham gia bàn chuyện đánh giặc Nguyên ở hội nghị Bình Than; chuyện Trần Bình Trọng trong tay giặc vẫn dõng dạc “thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”; chuyện Nguyễn Phi Khanh trên đường lưu đày qua đất giặc, khuyên con là Nguyễn Trãi trở về lo báo thù nhà; chuyện Lê Lai liều mình cứu chúa; Nguyễn Trãi với Bình Ngô đại cáo; Quang Trung đại phá quân Thanh… Bao nhiêu câu chuyện lịch sử là bấy nhiêu lần những trái tim non trẻ lúc đau thương phẫn nộ vì quân giặc bạo tàn với dân mình, lúc tự hào về truyền thống bất khuất của cha ông, để từ đó lớn lên biết “khóc cười theo mệnh nước”.

Liệu người Việt mai này sẽ mang bản sắc gì khi một trong những phương tiện quan trọng nhất để con người hiểu và gắn bó với cội nguồn của mình, bản sắc dân tộc của mình từ khi còn trẻ, là giáo dục lịch sử, lại bị coi nhẹ như vậy?

Giờ thì học sinh quay lưng với môn sử. Tại sao và trách ai? Không thể trách học sinh, không thể trách người trẻ, khi những nhà quản lý giáo dục từng coi việc hàng loạt bài thi sử bị điểm 0 năm kia là chuyện bình thường. Và cũng bình thường nốt khi học sinh xé tập làm bông giấy tung lên ăn mừng khi biết sẽ không thi môn sử. Trách nhiệm trước tiên phải đặt trên vai người lớn, trên vai những ai đã biến môn sử trong nhà trường thành một môn phụ, một môn thi tự chọn sau khi đã biến nó từ một môn học hấp dẫn, có khả năng hun đúc lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc thành môn học thuộc lòng xơ cứng những sự kiện và số liệu; biến môn quốc sử đầy sức sống cuồn cuộn, đầy nước mắt và nụ cười theo dòng chảy mấy ngàn năm của dân tộc thành một môn chính trị khô khan, tập trung vào quãng thời gian lịch sử ngắn ngủi gần đây. Không thể nhận xét khác đi khi đọc ba câu hỏi trong đề thi sử năm nay.

Tại hội đồng thi trường THPT Thái Lão, huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), môn sử có một thí sinh dự thi. Ảnh: VVN

Đã có bao nhiêu hội thảo, bao nhiêu báo cáo, bao nhiêu nghị quyết hay ho về bồi bổ, xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc, nhưng ý chí chính trị trong nghị quyết, báo cáo, hội thảo và thực tiễn giáo dục dường như mỗi bên đi mỗi ngả. Liệu người Việt mai này sẽ mang bản sắc gì khi một trong những phương tiện quan trọng nhất để con người hiểu và gắn bó với cội nguồn của mình, bản sắc dân tộc của mình từ khi còn trẻ, là giáo dục lịch sử, lại bị coi nhẹ như vậy? Liệu với cách giáo dục nghiêng lệch hiện tại, rồi ra chúng ta sẽ có một thế hệ rất có thể biết làm giàu cho bản thân mình, nhưng còn chung tay làm giàu cho cả đất nước, góp phần làm cho cả dân tộc mạnh lên thì chưa chắc?

Hình ảnh một thí sinh ngồi đơn độc làm bài thi sử trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm nay, xét về nhiều góc độ, thật ám ảnh. Liệu hình ảnh ấy có báo hiệu một tương lai sáng sủa nào cho dân tộc khi không biết mai này còn bao người biết “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!”(*).

 

_______

(*) Lời trong ca khúc Tình ca của Phạm Duy.

Nguồn: http://nguoidothi.vn/mai-nay-bao-nguoi-biet-khoc-cuoi-theo-menh-nuoc-noi-troi.ndt

Khi “Lịch sử chấm dứt” dân chủ vẫn còn đó

Francis Fukuyama

Chấn Minh chuyển ngữ

cat

Đám đông cố trèo lên Bức tường Berlin vào ngày 10 tháng 11 năm 1989, buổi sáng sau khi lần đầu tiên bức tường bị chọc thủng. Ảnh: Getty

Hai mươi lăm năm sau sự số Thiên An Môn và sự sụp đổ của bức tường Berlin, chế độ dân chủ mở vẫn không có đối thủ.

Hai mươi lăm năm về trước, tôi đã viết bài “Sự chấm dứt của lịch sử?” cho một tạp chí nhỏ có tên là “National Interest” (Quyền lợi Quốc gia”). Lúc đó là vào mùa Xuân năm 1989 và với chúng tôi, những người đã bị cuốn hút vào những tranh luận chính trị và thức hệ lớn của Chiến Tranh Lạnh, thời khoản đó thật không thể tưởng tượng được. Bài viết ấy xuất hiện vài tháng trước khi Bức tường Berlin sụp đổ, đúng vào lúc các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ xảy ra tại Thiên An Môn ở Bắc Kinh, và ngay khi một làn sóng chuyển tiếp vào thể chế dân chủ dâng lên tại Đông Âu, Châu Mỹ Latin, Châu Á, và Phi Châu ở phía dưới sa mạc Sahara.

Tôi lý luận rằng Lịch Sử (trong ý nghĩa triết học lớn) đã vận hành rất khác với những gì các nhà tư tưởng cánh trái đã tưởng tượng. Quy trình hiện đại hóa kinh tế và chính trị đã không đưa đến chủ nghĩa cọng sản, như những nhà Mácxít đã khẳng định và Liên Xô đã thề thốt, nhưng đã đưa đến một hình thái dân chủ mở và kinh tế thị trường nào đó. Đỉnh cao của lịch sử, tôi đã viết, hình như là tự do: những nhà nước dân cử, các quyền cho con người, một hệ thống kinh tế trong đó tư bản và lao động luân lưu dưới sự giám sát tương đối nhẹ nhàng của nhà nước.

Vào lúc này, khi nhìn lại bài viết đó vào thời điểm này, hãy bắt đầu từ một điểm hiển nhiên: Năm 2014 xem ra rất khác với năm 1989.

Nước Nga, một nước có một chế độ độc tài thông qua bầu cử và đang sống nhờ tiền bán dầu hỏa, nay đang tìm cách đe dọa và uy hiếp các nước láng giềng để lấy lại các đất đai đã mất khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Trung Quốc vẫn còn là một nước độc tài nhưng nay là một nước có một nền kinh tế lớn thứ nhì trên thế giới và nhiều tham vọng mở mang bờ cõi tại Nam Hải và Biển Đông. Như ông Walter Russell Mead, một nhà phân tích chính sách ngoại giao đã viết mới đây, địa chính trị của một thời xa xưa đã hùng dũng trở lại, và nền ổn định toàn cầu đang bị đe dọa từ cả hai đầu của lục địa Âu-Á.

Vấn đề của thế giới hôm nay không những là các nhà nước độc tài đang chuyển động tiến lên mà còn ở tình hình không mấy tốt đẹp lắm tại các nước dân chủ đang hiện hữu vào lúc này. Hãy lấy Thái Lan, nơi mà cơ cấu chính trị không lành lặn cho lắm nay đã nhường chổ cho một cuộc đảo chánh quân sự, hay là Bangladesh, nơi mà hệ thống nhà nước vẫn còn bị dằng co níu kéo bởi hai bộ máy chính trị thối nát. Nhiều quốc gia hình như đã chuyển tiếp thành công vào thể chế dân chủ – Thổ Nhĩ Kỳ, Sri Lanka, Nicaragua – nay lại đang tụt hậu và trở về lại với các tập quán độc tài. Tại nhiều nước khác, kể cả các thành viên mới của Liên hiệp Âu Châu như Romania và Bulgaria, nạn tham nhũng vẫn còn lan tràn như một cơn dịch.

Và thêm vào đó là những nước dân chủ đã phát triển. Cả Hoa Kỳ lẫn Âu Châu đã kinh qua nhiều khủng hoảng tài chánh trầm trọng trong thập niên qua, có nghĩa là tăng trưởng èo uột và thất nghiệp cao, đặc biệt cho những người trẻ. Dù rằng vào lúc này kinh tế Hoa Kỳ đang bắt đầu tăng trưởng trở lại, các phúc lợi vẫn chưa được chia sẽ đồng đều, và hệ thống chính trị Hoa Kỳ nay đang bị phân cực và chia rẽ theo các lằn ranh đảng phái. Và vì thế, Hoa Kỳ nay khó lòng có thể được xem như là là một ví dụ sáng ngời cho các nước dân chủ khác.

Như thế thì, giả thuyết tôi của tôi về sự chấm-dứt-của-lịch-sử đã được chứng minh là sai hay chưa, và nếu không sai, có cần hiệu đính lại nhiều không? Tôi tin rằng ý tưởng gốc của giả thuyết đó chủ yếu vẫn còn đúng, nhưng vào lúc này tôi hiểu nhiều hơn về bản chất của phát triển chính trị, một điều mà tôi đã chỉ thấy được một cách không rỏ ràng lắm vào những ngày bồng bột trong năm 1989.

Người dân Tusinia tập hợp để chống lại sự cai trị của nhà cầm quyền, 27/1/2011. Ảnh: AFP/Getty

Khi quan sát các xu huớng lớn của lịch sử, điều quan trọng là không bị mê hoặc bởi các phát triển ngắn hạn. Dấu ấn của một hệ thống chính trị kiên cố là tính bền vững trong dài hạn, chứ không phải là hiệu suất đạt được trong một thập niên nào đó.

Trước tiên, hãy xem xét các hệ thống kinh tế và chính trị đã thay đổi một cách đáng kể như thế nào trong hai thế hệ qua. Về mặt kinh tế, sản lượng của nền kinh tế thế giới đã tăng lên rất nhiều, gấp bốn lần trong thời khoản giửa đầu các năm 1970 và cuộc khủng hoảng tài chánh vào các năm 2007-2008. Cho dù cuộc khủng hoảng này là một bước lùi lớn, các mức độ thịnh vượng trên toàn cầu đã tăng truởng rất mạnh mẽ tại tất cả các lục địa. Điều này đã xảy ra vì thế giới đã đan kết lại vào nhau trong cùng một hệ thống mậu dịch và đầu tư mở. Ngay cả tại những nước cộng sản như Trung Quốc và Việt Nam, ưu thế thuộc về các quy luật thị trường và sự cạnh tranh.

Nhiều thay đổi lớn lao cũng đã xảy ra trong lãnh vực chính trị. Vào năm 1974, theo chuyên gia ngành dân chủ học Larry Diamond tại Viện Đại học Stanford, chỉ có 35 nước có chế độ dân chủ theo bầu cử, số nước này đại diện cho dưới 30% các nước trên thế giới. Đến năm 2013, con số những nước này đã lên đến 120 nước, hay 60% tổng số các nước trên thế giới. Năm 1989 đánh dấu sự gia tốc của một khuynh huớng lớn mà một nhà chính trị học đã quá cố của Viện Đại học Harvard, ông Samuel Huntington, đã gán cho nhãn hiệu là “làn sóng thứ ba” của dân chủ hóa, một làn sóng đã bắt đầu từ phía Nam của Âu Châu và Châu Mỹ Latin khoảng 15 năm trước và sau đó sẽ lan ra Phi Châu dưới sa mạc Sahara và Á Châu.

Sự xuất hiện của một trật tự kinh tế dựa trên thị trường toàn cầu và sự lan rộng của dân chủ là hai hiện tượng có liên kết rõ rệt. Dân chủ luôn luôn dựa trên một giai cấp trung lưu dày rộng, trong khi đó thì đội ngũ những công dân trù phú có sở hữu tài sản đã tăng vọt lên tại mọi nơi trong thế hệ vừa qua. Tại những nước mà người dân giàu có và được giáo dục tốt hơn, họ thường hay đòi hỏi các nhà nước phải làm nhiều hơn cho họ – và vì họ trả thuế, họ cảm thấy họ có quyền buộc nhưng quan chức nhà nước phải biết chịu trách nhiệm. Một số lớn trong các pháo đài kiên cố nhất của chủ nghĩa độc tài là những nước giàu-vì-có-dầu-hỏa như Nga, Venezuela, và các chế độ tại Vịnh Ba Tư. Tại đó, “lời nguyền rủa của tài nguyên”, như người ta đã gọi, cho các nhà nước này những nguồn thu nhập khổng lồ mà không cần đến sự đóng góp của người dân.

Cho dù có chấp nhận việc các nhà chuyên chế tại những nước giàu vì dầu hỏa có khả năng chống lại các đổi mới, kể từ năm 2005 chúng ta đã là nhân chứng của một hiện tượng TS Diamond gọi là một “sự suy thoái dân chủ” toàn cầu. Theo tổ chức Freedom House (Nhà Tự Do), một tổ chức thuờng công bố một báo cáo được sử dụng rộng rãi, số lượng và chất lượng các nhà nước dân chủ – đo lường được qua các chỉ số như bầu cử không gian lận, tự do báo chí, v.v.) đã giảm xuống liên tục trong vòng tám năm qua.

Nhưng hãy nhìn sự suy thoái dân chủ này từ một quan điểm khác: cho dù chúng ta đang âu lo về chiều hướng độc tài tại Nga, Thái Lan, hay Nicaragua, vào các năm 1970, tất cả những nước đó đều là những nước độc tài. Bất chấp những ngày cách mạng đầy cảm hứng tại Quảng trường Tahrir ở Cairo vào năm 2011, Mùa Xuân Ả Rập hình như đã không mang lại được một nền dân chủ đích thực tại bất cứ nước nào khác ngoài nước tại đó nó đã xuất phát: Tunisia. Tuy vậy, sau Mùa xuân Á Rập và trong dài hạn, chính trị tại các nước Ả Rập sẽ có khả năng đáp ứng bén nhạy hơn. Việc kỳ vọng chuyện này sẽ xảy ra một cách nhanh chóng là một điều hết sức không thực tế. Chúng ta quên là sau cuộc cách mạng 1848 – “Mùa Xuân Của Các Dân Tộc” của Âu Châu, dân chủ đã cần thêm đến 70 năm nữa mới củng cố được.

Trên lãnh vực tư tưởng, hơn thế nữa, nền dân chủ cởi mở không có bất cứ cạnh tranh đích thực nào. Nước Nga của Vladimir Putin và nước Iran của các giáo chủ Hồi giáo (Ayatollah) ca ngợi những lý tưởng dân chủ trong khi trong thực hành chúng chà đạp lên các lý tưởng đó. Nếu không phải là như thế, tại sao lại trưng cầu dân ý giả mạo về “quyền tự quyết” tại miền Đông nước Ukraine? Một số người Hồi giáo cực đoan ở Trung Đông có thể mơ về một Vương quốc Hồi giáo, nhưng đây không phải là sự lựa chọn của tuyệt đại đa số những người đang sống tại các nước Hồi giáo. Ở ngoài, hệ thống độc nhất có thể xem như có khả năng cạnh tranh về mọi mặt với các nước dân chủ cởi mở là cái gọi là “mô hình Trung Quốc”, một mô hình xáo trộn một nhà nước chuyên chế với một nền kinh tế thị trường bán phần và một trình độ quản lý hành chánh kỹ thuật và quản lý kỹ thuật và có năng lực cao.

Tuy thế, nếu có ai hỏi tôi muốn đánh cuộc, là 50 năm sau, Hoa Kỳ và Âu Châu sẽ giống Trung Quốc hay ngược, lại tôi sẽ chọn ngược lại mà không do dự gì cả. Có nhiều lý do để nghĩ rằng mô hình Trung Quốc không bền vững được. Tính hợp pháp của hệ thống và độc quyền cai trị của đảng dựa trên tăng trưởng ở mức độ cao, mà điều này, nói cho gọn, sẽ không thể nào xảy ra khi Trung Quốc tìm cách vươn lên từ một nước với lợi tức trung bình để trở thành một nước có lợi tức cao.

Trung Quốc đã tích lũy những món nợ ngầm khổng lồ khi để độc chất ngấm vào đất đai và khí trời. Dù cho khả năng ứng xử vụ việc của nhà nước Trung Quốc vẫn nhanh nhẹn hơn đa số các hệ thống chuyên chế khác, giai cấp trung lưu đang tăng trưởng của Trung Quốc không chắc gì sẽ chấp nhận hệ thống phụ quyền quan liêu hủ bại hiện hành một khi thời thế trở nên khó khăn. Trung Quốc nay không còn rao truyền một lý tưởng phổ cập nào ở ngoài biên giới của mình, như đã từng làm trong những ngày cách mạng dưới ông Mao. Khi mà các mức độ bất công và lợi thế lớn lao của những người có kết nối chính trị ngày càng gia tăng, “giấc mơ Trung Quốc” chỉ là biểu tượng của một phương pháp làm giàu của một số người tương đối nhỏ chứ không là gì khác.

Tuy nhiên, những điều đã nói ở trên không có nghĩa là chúng ta không cần làm gì cả và mãn nguyện với hiệu suất của dân chủ trong hai thập niên qua. Giả thuyết lịch-sử-chấm-dứt của tôi không bao giờ có ý đồ làm một lời tiên đoán xác định hay giản đơn cho sự toàn thắng không tránh được của nền dân chủ mở trên khắp thế giới. Các chính thể dân chủ chỉ sống sót và thành công khi người dân sẵn sàng chiến đấu cho pháp quyền và các nhân quyền, và đòi hỏi những người làm chính trị phải chịu trách nhiệm cho những gì họ làm. Những xã hội như thế dựa trên lãnh đạo, khả năng tổ chức, và may mắn tuyệt đối.

Vấn đề lớn nhất và độc nhất của những xã hội muốn dân chủ hóa là không thành công khi tìm cách cung ứng thực chất những điều người dân mong muốn từ một nhà nước: an toàn cá nhân, được dự phần khi kinh tế tăng trưởng, và các dịch vụ công cộng cần thiết (đặc biệt là giáo dục, y tế, và hạ tầng cơ sở) để đạt được cơ hội cá nhân. Các nhà tranh đấu dân chủ, vì những lý do dễ hiểu, chú tâm vào việc giới hạn quyền lực các nhà nước chuyên chế hay ăn cướp. Nhưng họ không dành nhiều thời gian suy nghĩ về việc cai trị một cách có hiệu năng. Những người đó, theo lời của Woodrow Wilson, quan tâm nhiều hơn về việc “kiểm soát thay vì làm cho nhà nước sinh động hơn.”

Ở đó chính là sự thất bại của Cách Mạng Cam vào năm 2004 tại Ukraine, một cuộc cách mạng đã lật đổ được Viktor Yanukovych lần đầu tiên. Các nhà lãnh đạo nắm được chính quyền qua các cuộc chống đối đó – Viktor Yushchenko và Yulia Tymoshenko – đã phí phạm năng lực của họ khi lao đầu vào những gây gổ nội bộ và những thỏa thuận mờ ám. Nếu có được một chính phủ dân chủ và hữu hiệu lên nắm chính quyền, nếu dọn sạch được thối nát và tham nhũng ở Kiev, nếu tạo dựng lại niềm tin vào các cơ quan chính phủ, nhà nước đã có thể xác định và thiết lập được tính hợp pháp của mình trên toàn cõi nước Ukraine, kể cả miền Đông nói tiếng Nga, rất lâu trước khi Putin có đủ sức mạnh để can thiệp. Thay vào đó, các lực lượng dân chủ đã tự đánh mất uy tín, và lót đường cho sự trở về của ông Yanhkovych vào năm 2010, để mở màn cho sự bế tắc căng thẳng và đẫm máu trong những tháng vừa qua.

Ấn Độ đã bị kềm hãm bởi một khiếm khuyết về hiệu suất tương tự khi so sánh với Trung Quốc. Việc Ấn Độ vẫn không tan rã sau khi được thành lập như là một nước dân chủ vào năm 1947 là một điều rất ấn tượng. Nhưng nền dân chủ Ấn Độ, cũng như kỹ thuật làm dồi thịt, không có gì hấp dẫn khi nhìn từ gần. Nhà nước đầy rẫy tham những và bao che bè cánh; theo Hiệp Hội Cải Cách Dân Chủ Ấn Độ, 34% những người đắc cử vào những kỳ bầu cử gần đây là những tội phạm hình sự đang bị truy tố vì đã sai phạm các trọng tội như giết người, bắt cóc, và tấn công tình dục.

Chế độ pháp quyền có mặt ở Ấn Độ, nhưng luật pháp chậm và có hiệu năng thấp đến mức nhiều người đi kiện chết trước khi được đơn kiện của họ được tòa án xét xử. Tối Cao Pháp Viện Ấn Độ có trên 60 mươi ngàn trường hợp chưa cứu xét đến, theo báo Hindustan Times. So với một Trung Quốc chuyên chế, nhà nước một nước dân chủ lớn nhất thế giới hoàn toàn bó tay khi tìm cách cung cấp cho người dân những hạ tầng cơ sở hiện đại hay những dịch vụ cơ bản như nước sạch, điện lực, và giáo dục cơ bản.

Tại một vài tiểu bang Ấn Độ, 50% các thầy giáo không đi làm việc, theo kinh tế gia và nhà hoạt động Jean Drèze. Narendra Modi, một người theo chủ nghĩa quốc gia Ấn Độ Giáo với một quá trình khoan dung đáng lo ngại đối với các hành vi bạo lực chống lại người Hồi giáo, vừa được bầu làm Thủ tướng bởi một đa số đáng lưu ý, vì người ta hy vọng là bằng cách này hay cách khác ông sẽ vượt qua được các tranh cãi vô bổ của chính trị Ấn Độ để thực sự làm được việc.

Hơn nhiều người khác, Người Mỹ thường không hiểu được sự cần thiết của một chính phủ có hiệu năng và chỉ chú tâm vào việc giới hạn quyền lực của các cơ quan thẩm quyền. Vào năm 2003, chính phủ của ông George W. Bush hình như đã tin rằng hai cơ chế – một nhà nước dân chủ và một nền kinh tế thị trường – sẽ tự phát trỗi lên tại Iraq sau khi nước Mỹ đã loại bỏ được chế độ độc tài Saddam Hussein. Họ đã không hiểu rằng hai cơ chế kể trên chỉ có thể hình thành thông qua các tương tác giữa nhiều định chế phức tạp – các đảng phái chính trị, các tòa án, các quyền sở hữu, sự chia sẻ cùng một ý thức dân tộc – đã hình thành và phát triển tại các nước dân chủ tiên tiến qua nhiều thập niên, thậm chí nhiều thế kỷ.

Không may thay, Hoa Kỳ cũng là một trong rất nhiều nước không có khả năng cai trị một cách có hiệu năng. Hiến pháp Hoa Kỳ, dựa trên một mô hình do Madison đề xuất, khi tìm cách ngăn chặn chế độ độc tài bằng cách đặt ra rất nhiều chặn kiểm soát và cân bằng ở mọi cấp nhà nước, đã biến nhà nước thành một chế độ của quyền phủ nhận. Trong tình trạng phân cực – hay nói rõ hơn, tàn độc – của nền chính trị hiện nay tại Washington, nhà nước Hoa Kỳ đã chứng minh được là không còn có khả năng đi tới hay đi lùi một cách có hiệu năng được nữa.

Ngược lại với các lời kêu la quá khích của cả hai bên, vấn đề tài chính dài hạn và rất trầm trọng mà nước Mỹ đang đối đầu vẫn có thể giải quyết được qua những thỏa hiệp chính trị hợp tình hợp lý. Thế nhưng Quốc hội Mỹ chưa thông qua một ngân sách, theo chính những quy định của Quốc hội, trong nhiều năm qua. Mùa thu năm ngoái, đảng Cộng Hòa đã đóng cửa toàn bộ nhà nước chỉ vì không thể tìm được đồng thuận trong việc nhà nước trả các nợ cũ. Cho dù nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn cội nguồn của các phát kiến kỳ diệu, rất khó lòng xem nhà nước Hoa Kỳ như là một nguồn cảm hứng cho thế giới vào lúc này.

Hai mươi lăm năm sau, sự đe dọa lớn nhất đối với giả thuyết lịch-sử-chấm-dứt không phải là sự kiện ở một nơi nào đó và vào một ngày nào đó, sẽ hình thành một mô hình lớn hơn, tốt hơn và có khả năng vượt qua và thay thế mô hình chế độ dân chủ mở; chủ nghĩa thần quyền Hồi giáo hay chủ nghĩa tư bản Trung Quốc cả hai đều không có khả năng đó. Khi các xã hội bước lên được cái thang tự động đi lên của kỹ nghệ hóa, cơ cấu của các xã hội đó sẽ bắt đầu thay đổi theo chiều huớng ngày càng gia tăng các đòi hỏi tham gia chính trị. Nếu các nhà lảnh đạo chính trị thích ứng được với các đòi hỏi này, chúng ta sẽ tiến đến một phiên bản nào đó của dân chủ.

Câu hỏi cần nêu lên là có thể nào tất cả mọi quốc gia chắn chắn sẽ bước lên được cái thang tự động đó hay không. Vấn đề nằm trong sự gắn bó giữa chính trị và kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đến mức độ cất cánh được đòi hỏi phải có một số định chế tối thiểu ví dụ như khả năng buộc người ký khế ước tuân thủ nó và những dịch vụ hay tiện ích công cọng luôn luôn có khi cần. Thế nhưng, việc thiết lập những định chế này rất khó khăn trong các hoàn cảnh như nghèo khổ cùng cực và chia rẻ chính trị. Trong lịch sử, nhiều xã hội đã thoát ra được “cái bẫy” trên qua những tai nạn lịch sử, theo đó những điều xấu (như chiến tranh) thông thuờng lại sinh ra những điều tốt (như những nhà nước hiện đại). Tuy nhiên, một điều không ai có thể biết rỏ là mọi việc tất yếu sẽ tốt đẹp cho tất cả mọi người.

Vấn đề thứ nhì mà tôi đã không đề cập đến 25 năm về trước là sự suy thoái chính trị, tự nó là một thang tự động đi xuống.Trong dài hạn, mọi định chế đều có thể suy thoái. Vì chúng thường cứng nhắc và bảo thủ; các phương pháp ứng xử dành cho những yêu cầu của một thời đại lịch sử không nhất thiết sẽ đúng khi các điều kiện bên ngoài thay đổi.

Hơn nữa, các định chế hiện đại được thiết kế một cách máy móc và với thời gian thường hay bị những tác nhân chính trị nhiều quyền lực thu gom vào tay họ. Vì việc thích tưởng thưởng gia đình hay bạn bè là một ý muốn tự nhiên hiện diện và vận hành trong bất kỳ hệ thống chính trị nào, các tự do sẽ thoái hóa và trở thành đặc quyền. Tại các nước dân chủ (hãy nhìn xem luật thuế má tại Hoa Kỳ vào lúc này) điều này cũng đúng không kém gì tại các nước độc tài. Trong những điều kiện đó, nguời giàu có khuynh hướng trở nên giàu hơn không nhất thiết hoàn toàn vì lợi nhuận trên tư bản cao hơn, như kinh tế gia người Pháp Thomas Piketty đã tranh luận, nhưng bởi vì họ còn có khả năng tiếp cận hệ thống chính trị và có thể dùng các quan hệ họ có để cổ động cho quyền lợi của họ.

Khi bàn về các tiến bộ kỹ thuật, điều khó tiên đoán được là ai sẽ thụ hưởng các lợi ích của chúng. Những sáng chế mới như kỹ thuật truyền thông giúp trải rộng quyền lực vì chúng làm cho các thông tin ít tốn kém và dễ tiếp cận hơn, thế nhưng chính các kỹ thuật đó cũng xói mòn số lượng các việc làm không đòi hỏi một trình độ kỹ năng cao, đồng thời đe dọa đến sự hiện hữu của một giai cấp trung lưu dày rộng.

Không một ai nay đang sống trong một chế độ dân chủ đã được thiết lập từ lâu có quyền tự mãn về sự sống sót của chế độ đó. Bất chấp các thăng trầm ngắn hạn của nền chính trị thế giới, sức mạnh của các lý tưởng dân chủ vẫn là vô hạn. Chúng ta thấy sức mạnh đó trong những cuộc biểu tình lớn và đông người vẫn đã dấy lên một rất cách bất ngờ từ Tunis đến Kiev hay Istanbul, tức là tại những nơi mà người dân đòi hỏi nhà nước phải công nhận họ có phẩm giá ngang hàng vì họ cũng là con người. Chúng ta cũng thấy sức mạnh đó trong hàng triệu người đang tuyệt vọng tìm mọi cách đi ra khỏi các nơi như Guatamala City và Karachi để đến Los Angeles hay London.

Dù cho chúng ta có đặt nhiều câu hỏi về việc còn bao lâu nữa thì tất cả mọi người sẽ đến đó, chúng ta phải không có bất cứ nghi ngờ gì về hình thái của xã hội sẽ hiện diện khi Lịch Sử chấm dứt.

 

Fukuyama là một nhà thành viên cao cấp của Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford. Ông là tác giả cuốn “Trật tự chính trị và điêu tàn chính trị: Từ cách mạng công nghiệp dến toàn cầu hóa dân chủ” sẽ xuất bản vào ngày 1 tháng 10 năm nay bởi Farrar, Strauss và Giroux.

Nguồn (bản gốc tiếng Anh): http://online.wsj.com/articles/at-the-end-of-history-still-stands-democracy-1402080661

Nguồn (bản tiếng Việt): http://www.vietthuc.org/francis-fukuyama-khi-lich-su-cham-dut-dan-chu-van-se-con-do/