Chuyện kể năm 2000 (kỳ 9) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

*

*        *

Bữa cơm đầu tiên hắn ăn với gia đình hắn. Con Thương và anh nó, thằng Hiệp ngồi đầu nồi. Cả nhà quây quần quanh cái mâm nhôm chỉ có hai món: Một quả trứng bác dành cho bé Dương và một bát ô-tô cá khô nấu với rau diếp, sáng tác của thằng Hiệp. Nó không muốn chơi với thằng Dương. Việc khó khăn ấy, nó đẩy cho em nó. Nó nhận phần nấu cơm.

Sau những giây phút choáng váng vì niềm vui bất ngờ quá lớn, Ngọc đã để ý ngay đến bữa cơm. Nhìn mấy chiếc lá rau diếp chín nhũn trong nồi riêu cá khô, nàng định xuống thang ra Ngã Bảy, nhưng khi biết bé Dương có tiêu chuẩn một quả trứng gà bác với cà chua, hắn nhất định giữ Ngọc lại. Hắn không muốn Ngọc đi đâu cả. Hắn không muốn xa Ngọc trong lúc này.

– Anh ăn kiểu gì cũng ngon mà.

Trừ mỗi mình thằng Hiệp ăn vội. Còn cả nhà vừa ăn vừa nhìn ngắm nhau. Vắng đàn ông lạnh nhà, vắng đàn bà lạnh bếp. Hắn đã về. Căn buồng của mấy mẹ con không lạnh nữa rồi. Cái Thương vừa ăn vừa bón cho em. Nhưng bé Dương không nghe, cứ đòi bố chúc. Nó vẫn chưa hết bỡ ngỡ vì có cả một người bố đang ngồi trước mặt nó, chúc cho nó, ăn cơm cùng với nó, với mẹ Ngọc, với các anh chị. Thỉnh thoảng nó lại ngừng nhai nhìn bố chăm chú. Hắn cũng âu yếm nhìn nó và đưa tay vuốt vuốt đứa con mà hắn biết hắn có từ gần bốn năm nay, nhưng đến giờ mới được nhìn thấy.

Đúng như Ngọc viết trong thư gửi cho hắn khi hắn còn ở tù: Anh cứ hình dung bé Dương giống hệt thằng Hiệp, nhưng lại có lúm đồng tiền nữa. Ai cũng khen xinh. Có hôm nó bảo: Xinh thế mà chẳng được cái gì ăn cả. Buồn cười lắm, anh ạ. Hắn nhìn Ngọc và thấy Ngọc đang nhìn mình như muốn hỏi: “Em nói có đúng không”. Hắn gật đầu: “Đúng”.

Thằng Hiệp lùa vội mấy bát cơm, buông bát đũa, lấy xe đạp của mẹ xuống gác: “Con đến chú Bình, đến bác Thân đây, rồi mẹ cho con mang xe đạp đi học luôn, không muộn mất, mẹ ạ”. Hắn thấy con hắn đứa nào cũng lớn quá. Lạ hẳn. Nhưng hắn vẫn nhận ngay ra là con hắn.

Bé Dương đứng lên, nắm chặt hai tay, răng nghiến lại (để biểu hiện quyết tâm của nó) nói:

– Mẹ về ông bà bắt bốn con gà của con cho bố.

Ngọc và con Thương cười vang. Để hắn hiểu hết ngọn nguồn câu nói ấy, Ngọc bảo:

– Chả là thế này. Em mua cho bốn đứa bốn con gà. Em Dương nhận hết bốn con: Của con, của bố.

Con chị chúm chím cái mồm, bắt chước thằng em, rồi bảo:

– Em hôm nay hào phóng thế nhỉ. Cho bố cả bốn con.

Hắn xốc bé Dương lên lòng. Bé vẫn tiếp tục câu chuyện của bé:

– Mẹ phải về ngay đấy.

Bé Dương, cái sinh linh kỳ diệu nhỏ bé của hắn mà hắn đang bồng bế trên tay được nuôi trong bụng mẹ bằng nước mắt là kết quả tình yêu giữa hai vợ chồng trong những ngày tự do cuối cùng của hắn khi hai người còn được gần nhau, khi hắn đưa nàng đi học. Đó là những ngày mãi mãi chói sáng, mãi mãi tươi đẹp, mãi mãi ghi nhớ trong cuộc đời tăm tối của hắn. Bởi bản thân sự tuyệt diệu của những ngày ấy. Bởi sau đó là tù tội, là chia cắt, là đen tối. Nào ngờ chuyến đưa Ngọc lên trường đại học, trở về thì bị… Nào ngờ xa Ngọc lần ấy là đi vào cõi khác. Cuộc đời hai vợ chồng cũng giống như những cây phi lao trồng dọc đường quốc lộ, trồng dọc hai bên đường Thanh Nguyên, từ phà Bính về nhà bố mẹ.

Khi đưa Ngọc đi, hàng cây xanh tốt biết bao. Khi để Ngọc ở trường trở về, hàng cây mơn mởn đang tuổi trưởng thành với những cành lá kim xanh trĩu nặng xếp thành hình chóp đã bị vặn cụt ngọn, những thớ gỗ ở chỗ gẫy đó xoắn lại đứt phựt như người ta xoắn vặn nắm rau muống. Cái vệt cơn bão số 7 năm 1968 đi qua còn để lại, cơn bão muộn đã gần cuối thu thật hãi hùng. Cũng như cây bị xoắn đứt ngang thân, ít lâu sau hắn bị bắt. Hay đó là điềm báo trước mà hắn không biết. Hạnh phúc và tai họa gần kề nhau như thế đấy. Lúc hàng cây đang xanh, lúc hai vợ chồng ngồi trên tàu hỏa lên Hà Nội và đi tiếp đến trường trong lòng biết bao náo nức là lúc cơn bão đã hình thành đâu đó ở biển Đông. Và cũng lúc ấy người ta đã lập hồ sơ chuẩn bị bắt hắn rồi.

Chuyến đi cùng nhau năm ấy lên trường đại học sẽ vĩnh viễn nằm trong trí nhớ hắn. Chỉ cần quên hết chung quanh, chỉ cần bật một kênh nào đó trong dĩ vãng là có một con tàu đang lăn bánh trong buổi chiều tà hầm hập, tiếng bánh gang dằn vào những chỗ nối, tiếng còi giật lên vang vọng, trong toa người đứng người ngồi chen chúc như nêm.

Và cũng bởi vì còn đang chiến tranh, chưa biết tàu chỉ chạy đến ga nào, đến đâu thì phải xuống để về trường. Địa chỉ trường Ngọc sẽ học hoàn toàn mới mẻ đối với cả hai. Nên hắn lấy vé tới ga cuối cùng. Ga Vũ ẻn.

Đó là chuyến tàu đưa Ngọc đến tương lai để bằng chị bằng em, bằng bè bạn. Cuối cùng mơ ước học đại học của Ngọc đã thành sự thật. Nàng đã phấn đấu. Liên tục đạt danh hiệu lao động tiên tiến. Có thừa số năm công tác quy định. Cơ quan đã cử nàng đi. Nàng thức đêm ở giường khi hắn ngồi cày ở bàn. Để ôn tập.

Tàu đi. Tiếng rầm rập mà nghe như tiếng hát ca. Nóng ngột ngạt, nhưng câu chuyện của hành khách trong toa vẫn cứ vui vẻ từ chuyện này nhảy sang chuyện khác. Dù đã tối rồi chẳng nhìn thấy mặt nhau. Đột nhiên tàu dừng lại. Nhao nhao. Đỗ đây à? Còn chạy nữa không? Thôi. Cứ xuống đứng cạnh đường sắt một lát cho mát.

Hàng quà nhiều. Đèn con sáng như sao sa. Những bà mẹ, những em bé, những người vợ của một vùng quê mang ra đây nắm cơm nếp đỗ đen, quả bòng, quả na, nồi bún riêu, mẹt thuốc lá. Tàu lại chuyển bánh. Tất cả bám đu lên. Rồi trời đen kịt lại. Tàu đang đi vào một vùng gió mát lạnh hơi nước. Mặt mũi nóng bừng dịu lại. Mưa. Mưa chéo. Gió ào ào bên ngoài. Cánh cửa đóng kín nhưng vẫn có những giọt nước li ti bắn vào mặt họ. Ngọc ngồi nhích lại gần hắn. Tiếng hồng hộc của con tàu đang lao đi trong đêm mưa gió làm hai người quên được một chút lo lắng đến quãng đường còn lại. Nó có cái gì động viên, kích thích họ. Thế rồi cơn mưa tạnh đột ngột như đã đột ngột trút nước. Gió nhẹ. Cửa mở. Mát lạnh hai má. Tàu dừng hẳn. Lần này thì xuống tàu thật rồi. Hai vợ chồng chờ lấy xe đạp. Về đâu?

Những người bán hàng mời chào. Có cả những quán nhỏ, treo đèn, có ghế có bàn. Hắn và Ngọc ăn phở. Hắn thích ăn phở.

Khi trả tiền ông chủ quán xong, như một phép mầu, số hành khách xuống tàu đã biến đi đâu hết. Chỉ còn lại hai người. Ông hàng phở chỉ cho họ biết lối đi ra đường quốc lộ. Con đường tối lượn quành sát một sườn núi bị vạc hoắm vào.

Hắn và Ngọc nhìn nhau. Ngọc nhìn quanh và phát hiện có một ánh đèn giữa cánh đồng phía xa. Họ nhận ra đấy là cánh đồng vì trăng đã lên. Một vầng trăng muộn to lớn trên bầu trời không một hạt bụi. Một vầng trăng muộn tuổi thơ.

Hai người dắt xe về phía đó. Như những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ trong rừng, trèo lên cây cao thấy ánh lửa trong nhà phù thủy đằng xa. Nhưng họ không phải là những đứa trẻ và đấy cũng không phải là nhà của phù thủy. Đấy là một nhà kho hợp tác giữa đồng. Sân gạch rộng. Lúa tháng tám xanh trĩu lá chung quanh trải ra đến mờ sương. Làng xóm chỉ là một vệt đen mãi xa.

Hắn dắt xe thiếu nhi Liên Xô (anh Chân đã mua cho hắn cái xe này), Ngọc dắt xe Thống Nhất với chậu men, túi dết, ba-lô, túi xách… Một người đàn ông đứng tuổi đang ngồi lau súng giữa nhà. Nghe hắn trình bày, ông ta vui vẻ:

– Cô chú cứ nghỉ ở đây.

Ông pha nước, nói về cơn dông, về đường đi đến cái xã có trường Ngọc học sơ tán. “Cũng gần đây thôi. Hai chục cây số nữa là đến, dễ đi lắm”.

Rồi đứng dậy:

– Súng đây. Chú trông kho giúp tôi. Hợp tác hôm nay giết lợn. Tôi đi lấy ít lòng ra anh em mình uống rượu.

Người sao đáng yêu. Vừa gặp đã tin ngay. Không hỏi giấy. Không hỏi đăng ký kết hôn. Lại trao cho cả súng. Có lẽ mặt mũi bọn hắn trông cũng lương thiện.

Khi đó con người đối với nhau còn tốt. Còn có lòng tin. Còn coi nhau như anh em.

Đi gần hết sân, ông thủ kho quay lại:

– Bể nước mưa đầy ở đầu nhà đấy. Rửa mặt mũi đi. Hay là tắm luôn cho mát.

Ông đi và mất hút vào cánh đồng mờ mờ hơi nước.

Trong xà lim hắn đã nhiều lần nhớ lại đêm hôm ấy. Ngọc cũng biết hắn đang nghĩ tới điều gì. Nàng bảo:

– Chuyến vừa rồi lên thăm anh, em lại đi qua Tam Dương. Cùng một lối đi, anh ạ.

Nàng chỉ nói vậy. Hắn hiểu, điều đó với nàng có ý nghĩa gì. Con đường ấy sáng hôm sau hắn với nàng từ biệt ông thủ kho ra đi. Rồi từ Vĩnh Tường ngược lên. Vừa gò lưng đạp xe trên con đường nhựa hai bên trồng toàn những cây bồ kết dại vừa đọc Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi (1). Mỏi là ngồi nghỉ. Mua na ngồi ở gốc cây vệ đường mà ăn, mặc người qua lại. Hắn nhường Ngọc đi xe Thống Nhất bon hơn, dễ đi hơn. Nàng lại đi qua Tam Dương, nghĩa là nàng lại sống lại cái đêm tuyệt vời ấy. Nàng vợi nước mưa. Bể nước mưa đầy. Nước từ máng vẫn còn chảy ri rỉ xuống bể. Nàng cúi xuống vớt nước lên ngực để quen với nước lạnh. Hắn giội ào. Nước mát làm hai người tỉnh lại, xuýt xoa vì sung sướng, được rửa sạch bụi bậm của cả một ngày. Ngọc cẩn thận nhìn chung quanh và đứng thẳng người lên giội như hắn. Lần đầu tiên hắn thấy trăng vàng chảy trên người, trăng vàng chảy trên da thịt vợ hắn. Trăng chiếu lên người nàng. Trên đầu nàng là vòm trời thu không một gợn mây, chỉ một vầng trăng to tròn, gần như trong suốt im lặng đang tỏa sáng. Chung quanh nàng là đồng lúa chạy tới mờ sương. Loang loáng phía xa những chuôm ao dát bạc giữa đồng.

Hắn nhìn tấm thân trần của vợ hắn lồ lộ giữa trời như lần đầu tiên hắn được thấy. Đó, nàng lại bước những bước uyển chuyển tới bể. Nàng bước lên bậc và cúi xuống múc nước, một bên vai nhô lên. Nàng bước ra xa bể, nghiêng người giội gáo nước lên vai. Trăng lại chảy trên người nàng. Trăng

(1) Thơ Hồ Xuân Hương

chảy từ vai đến gót chân nàng, tràn ra sân gạch. Trăng chiếu trên người nàng thành những mảng sáng và tối. Ở những bờ sáng tối gặp nhau, rực lên những viền vàng. Tất cả đang lịm đi. Không một tiếng chó sủa, tiếng gà gáy. Trời đất vừa được tắm rửa sau cơn mưa lành lạnh đêm thu, tinh khiết lạ thường.

Hắn nhìn trời, nhìn trăng và lại nhìn Ngọc. Biết hắn đang nhìn, nàng quay lưng về phía hắn. Hắn lùi ra xa hơn để nhìn nàng trong toàn cảnh, để đặt nàng đúng trong bầu trời này, để đặt nàng dưới trăng này, giữa cánh đồng gió nhẹ này. Rồi hắn bước tới bể, múc một gáo nước giội cho nàng. Nàng đứng im, ngoan ngoãn. Những búp tóc đen ướt nước sau gáy càng làm nổi làn da nàng trắng ngần. Nàng đưa tay ra phía sau cuộn lại. Hắn thấy ngay eo nàng, chỗ sống lưng thắt lại trước khi cong ra có một khoảng nước loang và khô đi rất nhanh. Hắn múc một gáo nước giội cho hắn từ đầu xuống. Vẫn ướt đẫm như vậy, hắn ôm nàng, khe khẽ hờ hờ như nàng làm bằng thủy tinh dễ vỡ. Nàng thoát khỏi tay hắn, bảo hắn:

– Mặc quần áo vào đi. Ông thủ kho sắp về.

Điều đó chỉ kích thích thêm hắn – cái việc hai vợ chồng hắn như vụng trộm. Hắn kéo nàng ra giữa sân:

– Ở đây có thể nhìn thấy ông ấy từ xa. Không sợ.

Ở đó trăng càng vằng vặc.

Ngọc đã ở trong vòng tay hắn. Ngọc mát lạnh đêm thu trong tay hắn, đầy đặn, mềm mại và ngoan ngoãn. Hắn hôn lên khắp người Ngọc. Ở đâu trên người nàng cũng một mùi nước mưa tươi mát và tinh khiết ấy. Mùi của trăng, của đêm thu, của cánh đồng, của sương, của trời đất sau cơn mưa có trên mọi chỗ da thịt nàng. Hắn bế Ngọc lên, rồi lại đặt Ngọc xuống. Hắn ép Ngọc vào người mình, cảm thấy tim nàng đang đập dồn phía ngoài lồng ngực hắn.

Ngọc vẫn ngoan ngoãn và im lặng. Ngọc đứng úp mặt vào vai hắn. Hắn thấy hơi thở Ngọc nóng hổi ngay nơi cổ. Hắn cảm nhận hết người nàng, vừa quen thuộc vừa mới mẻ.

Và bỗng nhiên nàng thức tỉnh.

Nàng ghì lấy hắn, mỗi lúc một mãnh liệt hơn. Nàng rướn lên ép chặt vào người hắn. Nàng đưa tay vuốt dọc người hắn, rồi quay mặt hắn về phía trăng, nhìn ngắm. Môi nàng hé mở. Hắn cúi xuống. Cái hôn này còn hơn cả những cái hôn ở nhà anh chị Diệu, còn hơn cả những cái hôn ở Vĩnh Tuy.

Nàng lại lùi ra xa để nhìn hắn trong toàn cảnh. Nhìn hắn từ đầu đến chân như hắn đã nhìn nàng. Mặt nàng tràn đầy ánh trăng, tình yêu và hạnh phúc.

Hắn bước tới, nhẹ như không có trọng lượng. Sân gạch sạch và mát rượi sau cơn mưa. Hắn quỳ xuống, vòng tay về phía sau đỡ lấy nàng. Nàng đứng run rẩy như sắp ngã. Hắn áp má vào người nàng vẫn đang mát lạnh. Ở đó những giọt trăng vàng li ti còn đọng rối bời làm hắn choáng ngợp. Và bỗng thấy mình lạc giữa mênh mông. Một mênh mông xoai xoải lớn dần lên không còn trời và đất. Một mênh mông im lặng chờ đón hắn và dù có tới đó cả nghìn lần thì đây vẫn là lần đi tới đầu tiên. Như trở về hang động sơ khai. Như mưa xuân mịn màng một thời thơ ấu. Như lạc giữa một khu rừng nguyên sinh, những cây cao hoang vu ẩm ướt vút lên, khe suối êm đềm chảy và khúc ngoặt sau suối hứa hẹn một thảm cỏ xanh rờn, trên đó là lâu đài cổ tích. Không còn nữa trời đêm, cánh đồng, sân gạch vằng vặc. Chỉ mát rượi nơi má, nơi cánh tay vòng ôm đỡ nàng, mà họng thì khô khát.

Và những giọt trăng sát môi hắn, sát mi mắt hắn cứ lớn dần lên mãi. Hắn chầm chậm ngậm lấy trăng vẫn còn đang chảy xuống, vẫn còn đang đọng lại lung linh. Trăng tan trên môi, trên miệng. Trăng ngấm vào đầu lưỡi. Một thứ nước thần tiên.

Ngọc cong người ép đầu hắn vào đó như người hụt hẫng bám vào điểm tựa, như người sắp chết chìm giữa biển níu lấy cái phao cứu mạng. Rất nhanh, nàng quỳ xuống, ôm lấy hắn từ phía lưng, thì thầm:

– Để đến đêm. Ông thủ kho sắp về.

*

*        *

Bữa ăn không ăn cũng no, nhìn nhau nhiều mà ăn ít, bữa ăn chỉ có cá khô nấu rau diếp ấy, hắn và Ngọc chưa thể nói chuyện gì với nhau được. Biết bao chuyện muốn nói. Bắt đầu từ đâu? Vả lại từ nay là sống bên nhau, còn nhiều thời gian. Không giống như mười lăm phút gặp mặt trong trại, trước sự hiện diện của ông quản giáo. Hắn chỉ kể hành trình của hắn từ trại về nhà. Hắn kể chuyện hắn ở Hà Nội hai ngày vừa qua, hắn kể chuyện buổi sáng hắn được ông Quân gọi ở lại. Hắn lấy ra bọc chè hắn mua, cái ca nhôm có cả nắp của Lỷ Xìn Cắm, bộ quần áo nâu và tút thuốc lá của anh chị Diệu. Hắn chẳng có quà gì cho lũ trẻ.

Ngọc đỡ tất cả từ tay hắn. Tới bộ quần áo xám, Ngọc giũ nó ra, lật phía trước phía sau nhìn ngắm, từ hàng chữ số viết bằng sơn cứng lại, chỗ bạc sau lưng áo, cái cổ áo ghét bẩn tới chỗ mốc lâm thâm đen ở ngực áo và hai ống quần. Nàng ấp bộ quần áo tù của chồng lên mặt, rồi cất vào tủ.

Vừa lúc ấy Bình đến. Bình chạy lên thang gác, nhảy hai bậc một. Chỉ nghe tiếng chạy rầm rầm, hắn cũng biết ngay là Bình. Chẳng ai có thể đến với hắn như thế. Bình ào vào nhà và đứng sững nhìn hắn:

Từ cõi chết anh trở về chói lọi (1) . Xem nào. Béo. Đen.

Ngọc ngờ ngợ:

– Anh ấy hơi sưng sưng. Em đang lo.

Bình nhìn lại bạn, cảm thấy Ngọc nói đúng. Bình và hắn ôm lấy nhau. Hắn vỗ vỗ vào lưng Bình như muốn nói: Tao đã về. Tao vẫn có một thằng bạn thân thiết là mày. Tao vẫn như xưa.

Hắn lại được trong vòng tay bè bạn. Bé Dương đứng lên, chạy đến, kéo áo Bình:

– Bố Tuấn đấy.

Bình xốc thằng bé lên. Anh nghiến ngấu thằng bé:

– Bố Tuấn đấy hử? Bố Tuấn về với Dương, với mẹ Ngọc đây hử?

Bé Dương nũng nịu:

– Chú Bình làm ngựa cơ.

Ngọc mắng yêu con:

– Dương, đừng nũng chú. Thương, bế em con, để chú nói chuyện.

Cái Thương bê mâm bát vào bếp, rồi trở ra đón em. Nhưng Bình đã phủ phục xuống sàn. Bé Dương đã cỡi trên lưng chú. Bình bò chầm chậm, rồi anh chồm những bước dài, lồng lên như ngựa phi. Thằng Dương vừa sợ, vừa thích. Nó túm chặt tóc Bình, cười khanh khách. Đã lâu lắm nó mới vui như vậy. Mới thấy cả nhà vui như vậy. Nó vừa cười vừa nhìn bố. Nó vẫn chưa quen có bố. Nhưng nó tin đây đúng là bố nó.

Nhìn hai chú cháu nô đùa, hắn hiểu rằng trong những ngày hắn đi vắng, những ngày hắn ở Hintơn theo cách nói của những người tù, Bình vẫn sang nhà hắn, động viên vợ hắn, nô đùa với các con hắn.

Đến bây giờ hắn mới biết cái tủ đứng mới đóng là kỳ công của Bình. Bình chỉ vào cái tủ:

– Tác phẩm đầu tay đấy.

(1) Tố Hữu : Từ cõi chết em trở về chói lọi.

Cái hòm xe Java 05, tủ sách của hắn, đi-văng của hắn, quan tài ba tấm dài hai tấm ngắn thiếu mất ván thiên của hắn đã biến thành cái tủ đứng sơn xanh. Bình đã thu nó lại thành bốn tấm dài, hai tấm ngắn, có chân, có cánh, mở ra mở vào được nhờ có bản lề, phía ngoài bào nhẫn cẩn thận. Tủ nom hệt chiếc quan tài dựng đứng. Bình bảo:

– Hết bốn ki-lô-gam đinh tất cả. Để đảm bảo mộng mẹo chắc chắn. Đóng hình quan tài nhằm mục đích lưỡng dụng vì đang B52. Rất có thể dùng vào việc khác.

Hắn pha trà. Cái ấm pha trà của hắn vẫn là cái ấm ấy, có chữ “Thương binh” vắt từ vòi sang quai ấm, nhưng sao hắn vẫn thấy ngờ ngợ. Lạ lẫm. Con Thương giơ tay bế em, nhưng bé Dương không chịu, bé tót lên lòng bố.

Ngọc lên cơ quan báo cáo xin phép nghỉ và đi chợ. Còn lại hắn và Bình. Lại ngồi trên cái ghế dựa này, bên cái bàn này. Một thời xa lắm rồi hai người cũng ngồi như vậy.

Hắn uống trà và ngạc nhiên. Phải mãi về sau hắn mới quen cách uống trà trước kia của hắn, cách uống trà của ngoài đời. Đó là sự chênh lệch về nhiệt độ. Thứ chè bọn hắn uống nóng bỏng mồm. Cho chè vào cái ca mỏng của già Đô, đun lên sôi đều rồi rót, uống. Uống xong dồn bã từ hôm trước tới hôm sau đem ninh lại. Cái ca đầy bã chè, sôi lim rim. Hắn thấy kiểu uống chè ở nhà phí quá. Món bã đổ đi ấy, làm như bọn hắn, cho ninh lại vẫn còn được nước, uống vẫn ngon.

Hắn cất bọc chè và lấy tút thuốc lá Tam Đảo ra. Hắn chưa bao giờ dám hút cả tút thuốc lá Tam Đảo một cách vô lo nghĩ như vậy. Bởi vì đấy là gần nửa tháng lương của loại cán bộ như hắn, tuy giá mậu dịch chỉ bốn đồng. Anh chị Diệu quả thật quan tâm đến hắn. Bình kể lại những điều Bình đã viết trong thư gửi lén vào cho hắn. Rất đơn giản. Thư viết bằng giấy pơ-luya, viết cả hai mặt bằng thứ chữ li ti để chứa được một lượng thông tin nhiều nhất, rồi gấp, cuộn lại cho thật nhỏ. Trong khi hắn nhận đồ tiếp tế thì đưa vào tay hắn cùng với gói vừng, gói bánh…

Đã nằm trong quân số Cục Lao cải, người ta không ngặt nghèo lắm trong chuyện thư từ như khi còn giam cứu. Tuy nhiên cũng phải hết sức cẩn thận. Bị lộ là kỷ luật. Không được nhận một thứ gì.

Bình ôn lại buổi chiều hôm trước khi hắn bị bắt. Bình sang nhà hắn dạy hắn lau xe đạp. Lau dầu cái xe thiếu nhi Liên Xô anh Chân mua hộ hắn theo giá cung cấp. Cả hai đều thực hiện đúng quy trình một ông thợ sửa xe đạp: Ngậm một điếu thuốc lá đã tắt lệch ở một bên mép. Và nói về cái xe đạp của một nhà nhiếp ảnh bạn họ. Xe tòng tọc “tất cả mọi bộ phận đều kêu, trừ có cái chuông” nhưng lại kẻ trên khung cả một cái mác dài như một dòng khẩu hiệu: Alfa de luxe Tubes Peugeot. Thế là cái xe của nhà nhiếp ảnh, thứ hàng thủ công chính hiệu của mấy ông thợ gò ấy luôn được nhắc đến với đầy đủ phẩm trật dài dòng như tên một nhà quý tộc Tây Ban Nha:

– Cho mình mượn cái Alfa de luxe Tubes Peugeot mình đi đằng này.

– Cái Alfa de luxe Tubes Peugeot tuột xích rồi!

Lau xong xe đạp, hai người quấy bột mỳ ăn. Độn tới năm mươi phần trăm bột mì. Đưa gia công bột mỳ thì hao, lại mất nhiều tiền. Đành phải ăn thôi. Có mỡ thì rán, nhưng mỡ đâu lắm thế. Đành cho nước vào quấy nấu cháo. Vợ con Bình cũng đi sơ tán. Hai người tiện đâu ăn đấy. Cả hai đặt cho món ăn khó nuốt này một cái tên khá hay: cháo Kasa. Đó là thứ cháo bọn hắn đọc trong các tiểu thuyết Nga.

– Trong tù tao đọc thư mày viết về những điều ấy, mày có biết tao cảm thấy thế nào không? Tao cảm thấy tao đã bị mày xúc phạm.

Bình tròn mắt không hiểu.

– Tao nghĩ mày vẫn còn hài hước được nghĩa là mày không hiểu tao. Mày không biết tao sống trong hoàn cảnh khủng khiếp như thế nào.

Ngừng một lát, hắn tiếp:

– Bây giờ tao sung sướng vì thấy mình vẫn còn hài hước được.

– Trong ấy tao không hiểu. Nhưng ở ngoài đời, mày phải hài hước. Hài hước mới sống nổi. Mà mày cũng đừng dại gì đánh mất cái khả năng quý báu ấy của mày.

Hắn hóm hỉnh:

– Cháo Kasa, xe Alfa de luxe Tubes Peugeot. Còn cây dương xỉ nữa.

Đó cũng là một loại cây bọn hắn gặp quá nhiều trong các truyện nước ngoài. Hắn đã chỉ vào cây phượng trên đường hỏi Bình: Cây gì đây? Bình đáp đầy tự tin về kiến thức uyên bác của mình: Cây dương xỉ.

Bình cười ầm lên như bắt quả tang hắn đang nghịch ngợm:

– Tao vẫn nói mày là thằng có trí nhớ tốt mà. Thôi, để yên tao nói. Mày có hình dung sáng hôm sau, tao đến cơ quan như thế nào không, tổng biên tập họp cơ quan thông báo: “Tên Tuấn đã bị bắt”. Tao rụng rời chân tay. Tất cả chúng nó đều nhìn tao.

– Lúc ấy khoảng mấy giờ?

– Tám giờ.

Lúc ấy hắn mới nghe tuyên bố bị bắt thôi, chứ chưa bị bắt. Lúc ấy đang khám nhà. Với tất cả sự thành thạo, cẩn thận, tỉ mỉ, lịch sự và tế nhị nữa. Phải đến hơn mười giờ sáng hắn mới vào xà lim 76. Hắn bị nhốt khoảng một tiếng đồng hồ thì có tiếng mở khóa cửa: Ra nhận suất cơm. Hắn nhìn suất cơm tù đầu tiên trong đời đã đặt dưới đất từ bao giờ. Một bát chậu men cơm ngô, một bát chậu men canh rau cải củ và một bô nước uống âm ấm. Cái bô han gỉ, nước trắng mà trông như nước vối. Hắn dần quen với thứ cơm để dưới đất ấy, thứ nước đựng trong bô sắt han ấy. Hắn vừa uống vừa soi gương. Cái bô han làm nước có màu sẫm, soi gương rất tốt. Râu tóc hắn cợp ra. Hắn trông thấy bóng mình mà kinh. Nhất là râu. Râu cằm, râu mép. Uống nước, nước đọng cả trên râu từng giọt. Hệt như cảnh những người tù râu ria bưng gáo nước to tướng lên miệng uống trong phim hắn đã xem.

– Mày bị bắt được nửa tháng, họ bắt đầu gọi tao.

Bình tiếp tục kể. Bây giờ hắn mới biết người ta đã tìm tài liệu về hắn ghê gớm như thế. Bình bị gọi hỏi liên tiếp (người ta thừa biết Bình là bạn thân của hắn). Cũng với những nội dung ấy: Sáng tác của hắn. Phát ngôn của hắn. Quan hệ bè bạn của hắn. Thái độ đối với các đồng chí đảng viên trong cơ quan của hắn. Họ tập trung khai thác hai bài viết của hắn: “Những tiếng động bị nhốt” và “Con dế trong căn buồng ông thuyền trưởng”.

Trong tù họ cũng đã hỏi hắn về hai sáng tác này. Hắn thất vọng nghĩ: Thật là bới lông tìm vết. Hắn đã lễ phép và chán ngán nói với ông Lan như nói với những người cố tình không chịu hiểu:

– Thưa ông. Tôi bây giờ cái tóc cái tội.

“Những tiếng động bị nhốt” là bài phóng sự in trong tạp chí văn nghệ của thành phố. Hắn viết về những người thợ cơ khí làm phuy xăng, phải chui vào trong phuy, hàn giữa khói hàn bị nhốt và tiếng nổ bị nhốt của que hàn chảy dưới hồ quang. Hắn ca ngợi những chiến sĩ thầm lặng, bình thường trong cuộc chiến tranh giao thông vận tải. Hắn đặt cái tên ấy cho hấp dẫn. Vậy mà người ta tìm cách lái cái tên ấy sang một nội dung khác: Những tài năng bị giam hãm, những tài năng bị thui chột.

Còn căn nguyên chuyện “Con dế trong căn buồng ông thuyền trưởng” là xúc cảm của hắn khi về quê thăm con ra. Đứng ở cửa mở khóa, hắn chợt nghe thấy tiếng dế kêu trong buồng hắn.

Tiếng dế cri cri, crang crang, to, vang, vui vẻ như đang ở trong tổ của nó, như nó là chủ căn buồng. Đó là tia chớp như Pauxtôpxki viết, để cơn mưa chữ của hắn xuất hiện về một chnyện trong chiến tranh. Hắn nghe dế ca và hơi phật ý về sự tự tin của dế. Con dế từ đâu đến. Nhà hắn trên gác, giữa thành phố. Làm sao dế đến được. Hắn hình dung: Bom Mỹ hất dế lên. Dế bay giữa những ngôi sao rơi, những viên đạn phòng không đỏ lừ. Dế đến căn buồng một ông thuyền trưởng đang chở hàng vào khu vực cán gáo. Những con gián chuyên sống trong bóng tối béo núc, hôi sì, xúm lại đánh dế… Dế đã sử dụng những cú đá tuyệt diệu, bắp chân khỏe mạnh, thân hình rắn như sừng của mình được tôi luyện trong sương đêm, trong nắng sớm để tự bảo vệ, dù dế nhỏ hơn.

Ông Lan cười nhạt bảo Bình:

– Có chuyện gì mà anh và anh Tuấn không nói với nhau. Anh Tuấn viết truyện ấy là viết xỏ xiên. Những con gián chuyên sống trong bóng tối, béo núc hôi sì là ai. Anh đừng tưởng chúng tôi không biết đâu.

Và ông cũng tỏ ra không lạ gì bọn hắn:

– Các anh nói với nhau: Viết thì phải lách mà!

Bình vẫn một mực giữ ý kiến của mình:

– Đây là một truyện hay, viết về đề tài chiến tranh. Còn những con gián

cũng có thể hiểu rộng ra là những gì trái với bản chất cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống Mỹ và chống lại những gì phi xã hội chủ nghĩa.

– Anh đừng bao che cho anh Tuấn. Vô ích. Vì chính anh Tuấn đã nhận với chúng tôi rồi. Những con gián ấy là ám chỉ những đảng viên ở cơ quan báo.

Bình vẫn từ tốn:

– Vâng. Nếu vậy thì đến bây giờ tôi mới biết cái dụng ý ấy của anh Tuấn.

Bình bảo hắn:

– Tao thừa biết là nó bịa, nhưng tranh luận làm gì.

– Tao thì phải tranh luận. Tao không có chỗ lùi nữa.

– Phía sau chúng ta là Mạc Tư Khoa.(1)

(1) Một câu nói nổi tiếng của các chiến sĩ Hồng Quân Liên Xô bảo vệ Mạc Tư Khoa trong đại chiến thế giới 2.

– Ngồi lấy cung, tao vẫn nhìn thấy tay ấy viết. Mày có biết nó viết thế nào không? Con rế trong căn buồng ông thuyền trưởng. Tao thực sự chán ngán. Lấy cung một người viết văn mà những chữ bình thường nhất cũng viết sai chính tả.

Tất cả những ai quen biết hắn đều bị gọi hỏi. Các cộng tác viên ở các cơ quan xí nghiệp, những người viết trẻ vốn yêu mến và có quan hệ với hắn. Ngoài việc viết lách là chuyện phát ngôn của hắn. Chuyện hắn kêu ca mậu dịch cửa quyền, móc ngoặc là nặng nhất. Rồi đến chuyện thái độ đối với một số đảng viên trong cơ quan. Phải nói rằng Bình đã chịu đựng rất nhiều. Mỗi khi có giấy của Sở Công an mời Bình, mọi người lại xầm xì bàn tán. Đang thì thào với nhau, thông thạo và hiểu biết về các sự kiện lớn ấy trong cơ quan, tất cả im lặng khi Bình đến.

Bách, bí thư chi bộ, biên ủy báo, một đại úy chuyển ngành, trực tiếp phụ trách khối công nghiệp, nghĩa là trực tiếp phụ trách Bình và hắn, mời Bình ngồi, lặng lẽ đưa giấy mời của Sở Công an cho Bình với vẻ mặt bị xúc phạm. Bách ngồi rung đùi chờ lời phát biểu của Bình, nhưng Bình xem giấy mời xong, cho vào túi áo sơ-mi và đứng lên. Bách ngơ ngác trước thái độ kỳ lạ ấy của Bình:

-Đồng chí Bình, ngồi lại tôi trao đổi.

Đã gọi nhau là đồng chí tức là căng rồi đây. Bình quay lại, giọng nói giữ đúng nguyên tắc để đáp lại giọng nói của Bách:

– Đồng chí bảo gì cơ ạ?

– Đồng chí ngồi xuống đã.

Bình ngồi lặng im, giữ cho mình vẻ khiêm tốn cần thiết.

– Đồng chí có ý kiến gì về giấy gọi này?

– Tôi không có ý kiến gì cả.

Bách nghiêm nét mặt:

– Đây là một việc gây tổn thất lớn đến uy tín của báo. Báo chúng ta là báo Đảng. Một phóng viên bị bắt. Một phóng viên khác bị công an gọi hỏi.

– Tao im lặng. Biết nói với nó cái gì. Nó nói có phần đúng của nó. Nhưng tao tởm nhất là nó nói với vẻ mặt đau khổ, vẻ mặt của người bị lăng nhục. Trong khi mình biết rõ rằng nó đang sung sướng. Nó đang hả hê vì nó thấy mày và tao bị khốn nạn. Cái mà chúng mình kỵ nhất là thói đạo đức giả.

– Ở đâu cũng có bọn ấy. Thói đạo đức giả càng tập trung ở những người đang làm hại người khác. Tao đã hiểu được điều đó.

Hắn nhớ lại có lần ông Lan nói với hắn: “Chúng tôi chỉ muốn giúp đỡ anh. Kéo anh ra khỏi con đường tội lỗi. Anh tưởng bắt anh chúng tôi vui lắm hay sao. Anh đã lầm. Chúng tôi đau đớn. Vì đó cũng là tổn thất chung. Trị bệnh cứu người. Đó là mục đích của chúng tôi”. Hắn đã hỏi lại ông Lan: “Nếu vậy, sao các ông không báo động, cảnh cáo tôi ngay khi tôi có những dấu hiệu đầu tiên của sự phạm tội. Có phải tôi không bị bắt không? Tôi bị bắt nghĩa là Đảng mất một cán bộ”. Ôi! Thật là ngây thơ. Đến mức ngây ngô nữa. Nhưng hắn thành thật. Rất thành thật.

Ông Lan không trả lời. Ông chỉ cười, vẫn là nụ cười của người lớn trước câu hỏi của trẻ con, không thể giải thích được ngoài câu: “Khi nào lớn lên con, cháu, hay em sẽ hiểu”. Lúc ấy trông ông rõ ràng già hơn hắn rất nhiều. Thế rồi, một hôm nghe ông Lan khoe mình đã thụ lý bao nhiêu án chung thân, án tử hình, hắn tự cười mình sao lại hỏi ông Lan câu hỏi ngây thơ ấy.

Trị bệnh cứu người. Hắn đang được cứu đây. Thật không thể chịu đựng nổi. Hắn nhìn ông Lan một lần nữa, rất nhanh. Và sửng sốt: Ông bỗng trẻ, rất trẻ, chỉ thuộc thế hệ đàn em hắn.

– Bách khuyên tao: Càng gặp khó khăn càng phải tích cực công tác. Không được tiêu cực. Tiêu cực chỉ có hại cho bản thân. Tao tin nó nói thật. Mày có biết tại sao tao hiểu nó nói thật không?

– Mày có máy phát hiện nói dối à? Trong xà lim tao cũng đã đề nghị đưa máy phát hiện nói dối đến để kiểm tra lời khai của tao.

– Tao biết nó nói thật vì tư dưng giọng nó trong veo. Lên cao đúng một ốc-ta .(1)

Hai người cười giàn giụa nước mắt. Đúng rồi. Bách có kiểu nói như vậy. Khi nào xúc động (thân thiết, giận dữ, vui vẻ, lo lắng…) tự nhiên Bách nói giọng nữ. Hắn bỗng nhớ ra đặc điểm ấy của người thủ trưởng trực tiếp cũ của mình.

– Nó bảo: Lãnh đạo yêu cầu đồng chí phát biểu trung thực với công an về anh Tuấn. Đó là trách nhiệm công dân của đồng chí.

– Nói sự thật về anh Tuấn là trách nhiệm công dân của tôi.

(1) Quãng tám trong âm nhạc. Trung Quốc gọi là bát bộ âm giai.

Bình biết khi Bách nói đến trách nhiệm công dân là nói đến nhiệm vụ của mỗi công dân phải tố giác bọn phản động. Nhưng Bình nói đến trách nhiệm công dân là nói đến trách nhiệm bảo việc thực thi pháp luật mà trong trường hợp này rõ ràng có sự nhầm lẫn.

– Chi bộ, biên ủy cũng sẽ có trách nhiệm của mình.

Không chịu được giọng nói nước đôi ấy lâu hơn nữa, Bình đứng lên lễ phép:

– Báo cáo đồng chí, tôi sẽ trung thực. Các đồng chí yên tâm.

Câu chuyện giữa hai người bạn bị ngắt quãng. Lại có tiếng guốc lên thang. Anh chị Thân đến muộn vì chị Thân nằm bệnh viện. Nhưng được tin hắn về, chị vẫn xin phép bệnh viện tới gặp hắn. Chị gầy gò, cổ cứng đơ, vẹo về một bên. Chị bị thần kinh tọa. Anh Thân cười vang, nụ cười của anh bao giờ cũng quyến rũ:

– Tôi đang chuẩn bị vào bệnh viện thăm bà ấy, thì cu Hiệp đến. Cứ đứng giữa nhà cười. Hỏi có việc gì cũng không nói. Tôi biết ngay: Bố về phải không? Nó vâng. Mừng quá, vội vào bệnh viện báo tin cho bà ấy.

Chị Thân nói rất khó khăn, nhưng chị vẫn cố gắng nói. Giọng chị yếu ngắt ra từng tiếng:

– Cả nhà chỉ có hai chú cháu đi xa. Chú đã về. Mừng quá. Còn thằng Hải nhà tôi, chẳng biết ra sao. Chẳng thấy thư từ tin tức gì.

Đôi mắt chị rầu rầu nhìn hắn.

Hắn biết thằng Hải đi B dài (1). Hắn không biết động viên chị Thân thế nào. Ở đó chiến sự luôn ác liệt. Nhiều người. Rất nhiều người không trở lại. Về sau này, hắn được nghe một câu nói của bố mà hắn cho là đúng: “Cũng là cái phúc cái phận cả thôi.”

*

*        *

Buổi tối.

Hắn ở nhà hắn buổi tối.

Bao nhiêu người tù đã mong ước được ở nhà mình buổi tối.

Hắn tự loại hắn ra để tưởng tượng được một buổi tối bình thường của vợ con hắn, khi hắn còn ở Hintơn.

Thằng Hiệp, cái Thương học bài. Bé Dương bắt mẹ kể chuyện cổ tích.

(1) Đi chiến đấu trong Nam, từ Bình Trị Thiên tới Nam Bộ.

Căn buồng êm ả. Ngọn điện sáng. Bức tranh Hemingway to treo trên tường của họa sĩ Thế Hùng vẽ tặng không còn nữa. Không, không thể nào loại được hắn ra khỏi gia đình hắn. Bởi vì hắn đã có mặt ở nhà. Dù hắn không nói một câu. Dù hắn nằm ở phía ngoài chiếc giường ba xà. Vợ hắn nằm trong. Bé Dương nằm giữa. Bé ôm lấy mẹ, nhưng thỉnh thoảng lại quay sang phía hắn, sờ lên mặt hắn. Hắn cầm bàn tay xinh xắn, bé bỏng xoa xoa lên mặt mình. Bé Dương cười. Bé bảo mẹ:

– Không. Ứ. Con nghe chuyện “Ba giọt máu đào” cơ.

Ngọc nhỏm lên nhìn hai bố con. Nàng cười:

– Ngày xưa ấy mà. Có hai mẹ con ấy mà.

Đó là cách kể chuyện của nàng. Mỗi câu lại thêm hai tiếng “ấy mà”. Nàng đã học cách kể chuyện của bé Dương khi bé kể lại chuyện cho mẹ, cho anh Hiệp, chị Thương nghe.

Hắn nhìn hai đứa con lớn. Chao! Chúng lớn quá rồi. Hắn nhẩm tính: Thằng Hiệp mười bốn. Con Thương mười hai. Tóc thằng Hiệp dày quá. Cả tóc con Thương nữa. Giống hệt tóc hắn. Khi hắn chưa đi tù tóc chúng mỏng và mềm như tơ. Hắn nhìn cái lưng thằng Hiệp quay lại phía hắn. Hắn nhớ đến giấc mơ của hắn khi còn trong xà lim, thằng Hiệp bị hắn đánh túi bụi, gào khóc trên đầm nước. Nó khác hẳn với những gì mình vẫn tưởng tượng về nó. Nó khác hẳn hôm mình mơ gặp nó, đánh nó. Và nó không hay biết tý gì về chuyện mình đã đánh nó, mình đã đau khổ, đã ân hận như thế nào. Nó lớn quá rồi. Nó đang lúi húi kẻ một hình gì đấy. Nó học rất tập trung tư tưởng. Ngọc bảo: Nó học rất giỏi. Thi học sinh giỏi thành phố. Hắn tự hào về điều đó. Hắn nghĩ: Ít nhất thằng bé cũng mang gien của hắn. Ngày trước hắn cũng học rất giỏi. Hắn bỗng nghĩ đến cái Tết tự do cuối cùng cách đây năm năm. Vợ chồng hắn, lũ con anh Chân thay nhau tát cái ao giữa vườn. Ao nhỏ, nhưng nhiều cá. Toàn cá thả. Bố mẹ hắn thả đủ loại: rô phi, trôi, chép…

Khi ao cạn, mặc dù trời rét, hắn vẫn cho thằng Hiệp lội bùn bắt cá. Ngọc cằn nhằn:

– Nó viêm họng mất thôi. Anh đến là chiều con.

Thằng Hiệp mặc quần đùi (dạo ấy nó đã biết xấu hổ) da hồng lên vì rét, bước xuống cầu rửa, rón rén lội xuống bùn. Và nó chạy. Nó chạy ra chỗ con cá chép đang phi trong một lạch nước nhỏ chạy dọc ao tới nong (1) . Nó ngã

(1) Chỗ trũng nhất dưới ao hay ruộng để tát nước.

xoài trên bùn, nhưng không vồ được con cá chép. Cả nhà đứng trên bờ nhìn thằng bé cười ầm ĩ.

Ngọc thét:

– Cẩn thận không cá nó đánh vào tay đấy.

Nó đã bắt được con cá đầu tiên: Một con trôi non nửa cân, nằm trơ trên bùn. Con cá quẫy, bùn bắn đầy mặt, cu cậu thích chí quẳng con cá vào giành và lội đi bắt con khác.

Chị Chân đang ở dưới lòng ao thét lên:

– Hiệp ơi! Lội vừa vừa thôi, để bác dồn tép lại đã. Tép lắm lắm.

Hai tay chị gợt gợt bùn hoa, dồn về phía lạch nước nhỏ giữa ao để tép xuôi về nong, ở đó chị đã chắn một cái rổ. Ở đó tép nhảy lao xao.

Chờ thằng Hiệp bắt được vài con cá, hắn gọi con lên. Sẵn nước nóng trên bếp lò, hai vợ chồng tắm gội cho thằng bé. Chỉ một loáng sau, cu cậu đã được mặc quần áo ấm và hắn đã bắt gặp mấy lần cu cậu ngồi ở giữa, hai con em gái hai bên, há hốc mồm nghe anh kể chuyện con cá chép nó giãy…

Hắn biết hắn đã đạt được ý định: Ngày hôm nay sẽ in đậm trong trí nhớ thằng Hiệp. Kỷ niệm tuổi thơ của nó sẽ phong phú hơn. Tâm hồn nó sẽ phong phú hơn.

Nhìn đứa con đã thành một thiếu niên say sưa học, đầu tóc bù xù cúi xuống quyển vở, hắn hiểu rằng con hắn đã thoát khỏi tầm tay của hắn rồi. Suốt thời gian nó lớn lên ấy, hắn không có ở bên. Hắn còn đang ở thế giới bên kia. Thì con hắn cứ lớn lên dù không có hắn ở bên…

Hắn thở dài, nhìn sang cái Thương. Hắn muốn được bế bổng con bé lên,

đặt nó nằm sấp trên ngực. Nghe tiếng con bé thỏ thẻ nỉ non:

– Con với bố là đôi bạn tí teo. Nhỉ! Bố nhỉ!

Hay:

– Con với bố kể chuyện đi.

– Kể chuyện chung nhau cơ.

– Vâng. Cũng được.

Thế là: Hắn: Ngày xưa

Con Thương: Có hai bà cháu

Hắn: Ở trên núi.

Con Thương: Một hôm bà ốm.

Hắn: Em bé quàng khăn đỏ.

Con Thương: Đi mua cho bà chiếc bánh a-tô.

Đó là truyện cổ Grim, nhưng hắn bịa thêm. Có cái chi tiết bánh ga-tô chỉ vì con bé gọi bánh ga-tô là bánh a-tô. Hắn cũng nói bánh a-tô như con gái.

Dạo chiến tranh bắn phá, thỉnh thoảng hắn lại đón con Thương ra ở với hắn. Đó là những khoảng thời gian ngừng bắn ngắn ngủi, hoặc là khi Mỹ tuyên bố xuống thang, chỉ hạn chế khu vực bắn phá ở khu 4. Hai bố con đi đâu cũng có nhau. Báo một suất cơm tập thể, ăn chung, luộc mỳ hòa nước mắm. Đi uống cà-phê đá. Con Thương uống loãng thôi. Và ngọt. Xin thêm thìa đường nhé. Vâng. Có đây. Thêm thìa đường cho con gái. Bà chủ quán cà-phê quen còn nói thêm: “Mắt hai bố con ông giống nhau quá. Có đuôi như đuôi lươn ấy”.

Con Thương giống hắn. Giống những nét đẹp của hắn. Nhất là cặp mắt. Những nét xấu, thô của hắn không có trên nét mặt con Thương. Thành ra con bé nom có chiều sâu, sau này lớn lên các cô cứ khen là có nét. Những tối chiến tranh buồn, hắn nằm xuống cho con Thương tẩm quất. Con bé ngồi trên lưng bố, đấm, băm, cò mổ, kiến bò. Hắn có máu buồn. Hắn cười rinh rích. Con Thương thích chí càng kiến bò nhiều. Và nó nhổ lưng. Hắn bí mật bẻ đốt ngón tay kêu đánh “cốp” đúng lúc con bé kéo lưng hắn.

Đứa con gái thích thú reo lên:

– Kêu nhỉ! Bố nhỉ!

Hắn thở dài đau đớn. Những năm tháng tươi đẹp nhất của hắn không còn nữa, đã bị giết chết rồi. Hắn muốn đánh đổi tất cả để lại có con Thương bé bỏng nằm sấp trên người hắn, ôm lấy hắn, kể chuyện chiếc bánh a-tô.

Hắn muốn lại được giặt quần áo cho nó, móc từ cái túi áo hoa bé tí xíu của nó, lấy ra những sợi len vụn nhiều màu, những mảnh giấy gấp vuông vắn, những mẩu lá khô, những mảnh vải cỏn con. Hắn đặt những thứ ướt đẫm nước ấy lên mặt bể, nhìn ngắm, cười một mình. Ôi. Con tôi. Những thiên thần. Thế giới của con kỳ diệu biết bao, thần tiên biết bao. Không một người lớn nào có thể xâm phạm tới. Những mảnh vụn của lá, của giấy, của vải không hồn trước mặt hắn sẽ có cuộc đời, có trò chuyện, có yêu ghét, giận hờn khi bàn tay xinh xinh của con hắn chạm tới. Hắn nhìn nghiêng con gái. Nó ngồi ở đầu bàn, nhường phần giữa bàn cho anh. Ngọc bảo hắn: Con Thương rất ngoan. Trông em, đi chợ, rửa bát, xếp hàng mậu dịch mua thực phẩm… Con Thương chịu thương chịu khó, nhường nhịn, quán xuyến mọi việc, giúp đỡ mẹ khi hắn vắng nhà.

Hắn muốn gọi con Thương ra giường, cầm tay nó, vuốt đôi vai non nớt của nó đã sớm phải gánh chịu. Và hắn hiểu rằng không thể nào có được quãng đời trước nữa rồi.

Hắn khẳng định được bằng thực tế mất mát mà hắn nghĩ đến trong tù. Những mất mát đối với người ngoài là không đáng kể, thậm chí khó hiểu hoặc rất bình thường, nhưng với hắn là nỗi đau không thể nào hàn gắn được. Đó là điều hắn đã nói ở nhà bố mẹ Phương: Kinh nhất là các con mình cứ lớn lên, cứ khác đi trong khi mình không ở bên cạnh chúng.

Có tiếng “tút, tút” từ chiếc loa công cộng ngoài Ngã Bảy vọng vào cắt ngang dòng suy nghĩ của hắn, kéo hắn tới một thế giới khác. Đã chín giờ. Hắn nghĩ tới trong ấy. Trong ấy bây giờ là giờ mắc màn đi ngủ.

Hắn trở về trong ấy. Hắn trở về những lòng chảo giữa rừng xa xôi, tối tăm, heo hút. Bốn tối trước hắn còn ở đấy. Bên cạnh là già Đô. Già Đô nằm, còm cõi, chòm râu bạc chĩa lên đình màn. Ai nằm vào chỗ hắn cạnh già? Hẳn già đang nghĩ đến hắn đã được tự do, đã về với gia đình. Lượng, Cân, Voòng Kỷ Mình và các anh em trong toán hẳn cũng đang nghĩ về hắn. Họ nghĩ về hắn là họ nghĩ về họ, về số phận của họ. Họ mong đợi có một ngày như hắn.

Giang thì chưa biết hắn được tha. Lúc này Giang có thể không nghĩ về hắn. Vì Giang còn ở lại trại Q.N. Hắn xa Giang đến nay đã gần một năm. Từ hôm tù số lẻ chuyển đi.

Hôm ấy trại như một đàn ong vỡ tổ. Vỡ tổ nhưng hoàn toàn im lặng. Im lặng hơn bất kỳ một sáng nào khác. Các buồng giam cánh tập trung hình sự, cánh tù án cửa đóng im ỉm. Chỉ có những buồng giam anh em tập trung chính trị được mở. Mọi người xếp hàng đôi định bước ra, nhưng ông quản giáo đứng chắn ở phía ngoài ra hiệu đứng lại. Không chỉ một ông Quân, mà những ba ông quản giáo. Cả ông Lâm, chánh giám thị. Các ông quản giáo tra danh sách, gọi tên từng người. Mang hết nội vụ ra. Ngơ ngác. Không phải tha rồi. Tha sao lại đông thế này? Đi. Đi đâu? Vì sao phải đi? Vì sao lại dồn đi đông thế? Và vì sao vẫn còn một số khá đông số lẻ ở lại? Cửa lại đóng. Lại khóa. Lại nhốt. Người ở ngoài, người bên trong nhìn nhau qua song cửa. Và vẫn im lặng. Im lặng đánh răng, rửa mặt. Im lặng đặt bát xuống đất chia mỳ bên đống nội vụ ngổn ngang. Im lặng ăn muôi mỳ nấu muối.

Ăn xong, rửa bát xong mà các cửa buồng vẫn đóng im ỉm. Anh em ở lại bu vào các cửa sổ sàn trên, sàn dưới nhìn ra như những đám ong bu vào lỗ hổng. Hắn nhìn sang buồng giam toán mộc tìm Giang. Kia rồi! Giang! Cặp mắt sắc và đôi môi mỏng của Giang nhìn hắn. Khi hắn ôm hòm, khoác chăn, xách túi (già Đô đã mang cho hắn rất nhiều thứ rồi đấy) xếp hàng ra cổng, nghe như có tiếng Giang gọi hắn. Hắn gật đầu chào Giang. Những cặp mắt gọi nhau trong im lặng. Người đi cũng như người ở lại, lo lắng, bồn chồn, héo nẫu.

Hắn bước xuống bậc cấp, qua cổng. Hắn đi hàng đôi bên cạnh già Đô. Trước mặt hắn là một đôi khác: Lê Bá Di và Dự, hai ô số tù đỏ in trên hai lưng áo gù gù bạc trắng. Đi đâu? Tù bao nhiêu năm rồi vẫn còn phải đi. Vậy đến bao giờ mới được về? Máy bay Mỹ còn bắn phá. Tình hình xã hội biết bao giờ ổn định. Hẳn còn rất gay go. Tuyệt vọng. Im lặng. Cam chịu đến lì lợm. Không cả một tiếng thở dài. Đi vì không thể đứng lại. Đi vì hàng trăm người trong đoàn cùng đi. Đi như định mệnh. Đi như số phận. Như cuộc đời mình là vậy. Cái bút của ông Quân dứ dứ. Đầu cúi, không nhìn thấy, mà chỉ cảm thấy thế. Tới chỗ ngoẹo suối. Tới sân cơ quan thì dừng. Những chiếc ô-tô tải bịt kín đã chờ sẵn. Vất nội vụ và nhảy lên xe. Khóa tay lách cách. Các ông công an thao tác rất gọn. Hai tù một khóa. Hắn tay phải. Già Đô tay trái. Chất thép lạnh ôm lấy cổ tay hắn tởm lợm. Hắn thấy già Đô nhăn mặt như người buồn nôn.

Thế là xa Giang từ đấy, nhưng vẫn tự an ủi: Còn có già Đô. May sao lên V.Q hắn với già Đô cùng về một toán.

Hắn về. Già Đô suy nghĩ nhiều. Già ăn với ai? Già tù bao lâu nữa. Bà Jeannette chắc lấy chồng lâu rồi. Già cũng nghĩ vậy. Già tự trách mình đã có lỗi với bà, với cô con gái. Chúc già luôn nằm mơ thấy Marseille, thấy vợ, thấy con.

“Đây là buổi phát thanh Quân đội nhân dân”.

Giọng người phát thanh viên đanh thép hào hùng. Đã chín giờ. Nhanh quá. Lần đầu tiên sau nhiều năm hắn thấy thời gian đi nhanh. Chín giờ. Đó là giờ sợ hãi nhất của một ngày. Mỗi người đều im lặng đơn độc chiến đấu với đêm dài. Như con người ta ai cũng phải im lặng, đơn độc chiến đấu với cái chết. Lại một đêm tới. Một đêm trong ngàn vạn đêm. Biết bao giờ chấm hết. Chín giờ. Ai về chỗ người ấy. Các nhóm sột sệt kết thúc. Cân đã cầu kinh xong, quay ra (tất nhiên Cân đọc kinh thầm trong óc. Cũng như Cân lần tràng hạt bằng cách xoay, bấm từng đốt chiếc nhẫn dóng trúc bằng bạc ở ngón tay).

Ngọn điện tối đi rồi lại sáng. Hai lần như vậy để báo hiệu. Người ra vào nhà mét tấp nập. Tiếng phản kênh bị giẫm lên. Người đu lên tầng trên. Người chui xuống tầng dưới.

Màn mắc. Phía trong buộc vào cái giá để nội vụ. Phía ngoài buộc vào cái sào nứa dùng để vắt khăn mặt.

Ngọn điện lóe lên một lần cuối cùng, rồi tắt hẳn. Chỉ còn ngọn đèn dầu không bóng đặt trên một cái giá gỗ phía trên cửa nhà mét. Khói tỏa ám lên tường, bên dưới nhỏ, phía trên xòe ra thành hình một bó hoa. Một bó hoa màu đen trên tường ngoài nhà mét. Tất cả đã vào màn. Nằm. Không ngủ. Im lặng. Mặc niệm tới gia đình. Những cái màn sóng nhau. Trong mỗi màn là một người nằm duỗi dài nhắm mắt như trong một chiếc quan tài.

Tất cả nằm, trừ Sơn.

Sơn đứng ở cửa nhà mét, hai tay khoanh trước ngực, mắt ngước lên nhìn ngọn đèn dầu, nhìn bó hoa màu đen. Sơn cứ đứng như vậy. Rất lâu. Miêng lẩm nhẩm không thành lời, không thành tiếng. Dạo mới vào tù, Sơn béo khỏe. Được ít lâu Sơn sọm đi. Sơn là kỹ sư ở cảng. Sơn dính vào vụ đánh quả béc vòi phun, anh-giếch-tơ gì đấy. Sơn bị ba năm. Sơn không chịu được những lời “chích” của cánh tập trung hình sự, đi đến choảng nhau. Sơn thân cô thế cô. Ngày nào cũng bị đòn. Thế là Sơn phải chuyển toán. Từ toán mộc, Sơn sang toán hắn. Toán hắn nhiều người già không hay gây gổ. Sơn đứng làm gì mà mắt cừ đăm đăm, thành kính ngước lên bó hoa đen ấy. Có lần hắn bảo Sơn khi hắn từ nhà mét đi ra:

– Thôi, đi ngủ đi. Muỗi nó khênh đấy.

Sơn nhìn hắn như nhìn một người lạ lẫm không quen biết. Rồi lại ngước nhìn đăm đăm bó hoa đen trên tường nhà mét.

Mãi về sau hắn mới biết Sơn là cháu một người hắn quen. Quen và có những kỷ niệm. Một phụ nữ rất yêu hắn. Thảo nào hắn thấy như đã gặp Sơn ở đâu rồi.

Có hôm Sơn đứng như vậy từ sớm. Những người lục tục trở dậy đi vào nhà mét đã thấy Sơn đứng đó. Họ tránh để khỏi chạm vào Sơn, để Sơn khỏi đứt dòng suy nghĩ. Họ tránh Sơn như tránh một cây cột mới trồng giữa lối đi.

Sơn nói gì? Nghĩ gì? Thần kinh? Tập luyện? Nào ai biết. Nhưng tất cả đều cho rằng Sơn hỏng mất rồi.

Thơ Nguyễn Phương Đình

Dấu chấm trắng

 

viết tặng Ngọc Quang

 

 

Tất cả những gì trong

thế gian đã là biến đổi, hư hoại, đều là vô thường.

 

Lời đức Phật dạy

 

 

vài trăm năm trước

con người đi trên mặt bằng trái đất

ai nói quả đất này tròn

dễ mấy có ai tin

 

hôm nay, anh nói với em yêu

đường thẳng chưa bao giờ hiện hữu

em cười, anh biết nói giỡn chơi

đố ai tin là sự thật

 

em tin trên trần gian

có đường thẳng tuyệt đối

như đường thẳng anh vẽ trên tấm bảng đen

như tình yêu em cho anh vậy

 

em con nhà gia giáo

tâm địa em thật thà

mà đời con người ngắn quá

cái vô thường trong em, có lẽ chưa vẽ rõ nét cong

 

anh tin tình em yêu anh là rất thật

như cái tương đối đời này, đường thẳng là có thật

như con ốc trong lòng đại dương đầy dông bão

vẫn tuyệt đối bình yên

 

mặt trời hãy còn quay

mặt trăng hãy còn quay

trái đất hãy còn quay

chiếc đồng hồ còn tích tắc

 

thời gian còn đếm được

còn quá khứ và tương lai

con người còn làm và viết nên lịch sử

anh và em còn thời gian để sống và để yêu

 

anh không muốn nghĩ đường thẳng tuyệt đối là có thật

vì khi đó vũ trụ chẳng còn quay

thời gian chưa bao giờ có thật

không lịch sử, không con người, tất cả là hư không

 

vô hình và trống không  của ban đầu

dấu chấm trắng.

 

 

 

 

con chó ngồi trên Tuckerbox

 

minh hoa tho Ng Ph ĐìnhTượng đài con chó trên tuckerbox (hộp đựng thực phẩm), dựng lên vào năm 1832, nằm khoảng năm dặm về phía bắc của thị trấn Gundagai, New South Wales, Úc.  Là một biểu tượng của quá khứ nước Úc, được huyền thoại qua câu chuyện xảy ra vào khoảng năm 1820.

 Một trong những vai trò của con chó trong thời gian tiên phong là con chó  bảo vệ tuckerbox của chủ nó và các tài sản khác. Câu chuyện về con chó ở lại để bảo vệ tuckerbox trong khi người chủ đi tìm kiếm sự giúp đỡ từ các đoàn người khác, về sự sa lầy của một con bò đực khi vượt sông. Buồn thay, người chủ không bao giờ trở lại. Nhưng con chó vẫn tiếp tục bảo vệ tuckerbox cho đến khi chết tại đó.

 

 

 

 

 

con chó ngồi trên Tuckerbox

chín dặm từ Gundagai.

 

từ ngày đầu lập nước Úc

một bài hát dân gian, về

chủ mày lười biếng

là kẻ xén lông cừu

tiền bạc tất cả – dành cho cờ bạc, rượu và gái điếm

chỉ một chút tốt lành hơn gã ăn mày

hết tiền lại lang thang, trên đường đến Gundagai.

 

chín dặm từ Gundagai

con chó ngồi trên tuckerbox

cơn mưa đá dữ tợn

dòng sông tàn bạo mùa nước lũ

con bò đực sa lầy

người chăn bò ngồi khóc

lòng đầy căng thẳng, buồn phiền

vượt đồi, đồng bằng tìm sự giúp đỡ.

 

chiều nay dừng xe ghé vào đây

uống ly café

nghe kể chuyện về…mày

con chó ngồi trên tuckerbox

chín dặm từ Gundagai

chụp một tấm hình với mày kỷ niệm

phục mày về lòng trung thành với con người

chê mày không đủ thông minh,

để hiểu, sự bội bạc của con người

họ hổ thẹn, dựng tượng vinh danh mày

con chó ngồi trên tuckerbox

chín dặm từ Gundagai

gần hai trăm năm – vẫn còn ngồi đây

mày ngồi đây bao lâu nữa?

mày nào đâu có biết

chủ mày thua bạc, treo cổ chết lâu rồi.

 

 

Tiếng thì thầm

 

biên giới hạ lào, đồi cỏ lau

trưa nay

có đoàn người đến hì hục đào bới

theo sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm

 

đêm nay sương lạnh

đồi khuya trăng mờ hư ảo

cỏ bông lau lao xao

trong gió nhẹ

có tiếng thầm thì…

 

“đêm nay cháu trọ lại ở Tchepone

bác về báo mộng, để cháu đem bác về

cháu từ Tiệp khắc về, đâu có nhiều thì giờ tìm kiếm.”

tiếng thầm thì…đáp lại

“năm ngoái, chiến hữu và con gái bác từ Mỹ về

muốn đem bác về, sao bác…”

như tiếng thở dài, thầm thì…

 “bác nhìn xem, mỗi đêm

trên nền trời ánh hỏa châu vẫn sáng

cánh dù thiên thần mũ đỏ

vẫn còn bay trên nền trời, như ngày nào đó

nhiều bạn bè không một người thân thuộc

còn nằm lại đồi này, về thế nào…”

thầm thì…

“về quê, chỉ bận lòng cho con cháu

lại tranh nhau xây lăng xây tẩm

mỗi năm thăm mộ, giỗ quảy phiền hà

đất quê hiền hòa, hồn ma vất vưởng

tội ngiệp con cháu đêm thấy ma trơi.”

 

tiếng côn trùng rả rích

âm hồn bay lửng lờ trong gió

có tiếng khóc than đâu đó

tiếng thầm thì…

 

“tôi với bác nằm chung hố bom nầy

bốn mươi lăm năm rồi đó bác!

trận hạ lào, anh em hai bên

nhiều người nằm lại đồi nầy

thôi tôi ở lại với bác.

 

mà buồn bác nhỉ!

gần nửa thế kỷ rồi, con cháu mình

vẫn cư xử với nhau như bên thắng bên thua.”

 

 

Tác giả gửi Văn Việt.

Trên tuyến đầu ở Biển Đông: Nhật ký của phóng viên Đông Nam Á Samantha Hawley

Samantha Hawley, ABC News, ngày 20/6/2014

Phạm Nguyên Trường dịch

Lời tòa soạn: Phóng viên Đông Nam Á của bản báo, Samantha Hawley, đã dành gần một tuần để đến gần giàn khoan dầu khổng lồ của Trung Quốc đặt giữa bờ biển Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa trong vùng Biển Đông đang có tranh chấp.

Đi trên con tàu cảnh sát biển của Việt Nam, Hawley đã đến khu vực chỉ cách giàn khoan của Trung Quốc tám hải lí. Giàn khoan này do China Oilfield Services Limited của Trung Quốc vận hành, nằm cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 30 km về phía Nam.

Chứng kiến trực tiếp những căng thẳng giữa hai nước giữa đại dương bao la, cuộc hành trình chắc chắn không phải là chuyến du ngoạn vui vẻ.

Xin đọc bản tường trình về chuyến đi.

Ngày thứ nhất

Khi tôi đến thành phố cảng Đà Nẵng của Việt Nam, tôi được một người do nhà nước phân công đón tiếp. Ông Quang đã tìm cách lấy thẻ nhà báo nước ngoài cho tôi – một việc khá khó khăn –  và ông ấy sẽ giúp đỡ khi tôi làm những công việc trên đất liền tại Việt Nam. Nhưng trên biển thì không. Ông ở lại khi tôi lên tàu cảnh sát biển mang số hiệu CSB 2016 của Việt Nam. Tôi là một trong số mấy nhà báo nước ngoài được Việt Nam, một nước thường có thái độ không cởi mở đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, chọn để đưa ra Biển Đông.

Chúng tôi sẽ là những người trực tiếp chứng kiến giàn khoan dầu của Trung Quốc trị giá một tỷ USD đặt gần quần đảo Hoàng Sa – đang tranh chấp – từ đầu tháng Năm.

 “Hãy gọi nó là Biển Đông”, Quang nói với tôi. “Gọi đó là biển Nam Trung Hoa tạo cho người ta ấn tượng là khu vực này thuộc về Trung Quốc.”

Trên đất liền, người Việt Nam đã thết chúng tôi một bữa tiệc gần giống như một bữa ăn khuya. Ông Quang nói với tôi là vùng đó sóng to. Ông hỏi tôi có mang thuốc theo không và tôi có biết bơi không, rồi ôm tôi, tạm biệt. Tất cả những việc đó làm cho tôi không còn quá tự tin nữa. Tôi sợ, không chỉ vì chúng tôi sẽ đi tới một trong số những vùng biển căng thẳng nhất trên thế giới, mà vì năm ngày trên biển trên một tàu biển Việt Nam với thông tin liên lạc hạn chế thì quả là có một chút đáng lo.

Một nhà báo của tờ Washington Times, không được lên tàu, nói với tôi: “Hãy viết câu chuyện của bạn, Sam, và trở về bình an”. Và thế là tôi ra khơi.

Ngày thứ hai

Chúng tôi đi suốt đêm. Tỉnh dậy sau một giấc ngủ bồn chồn, tôi đi lên trên boong tàu để xác thực rằng chúng tôi đang ở giữa đại dương mênh mông. Xung quanh là biển cả và chúng tôi chưa đến đích.

Một nhà quay phim của ABC không được lên con tàu này vì không đủ chỗ và tôi nhanh chóng nhận ra rằng cuộc hành trình này sẽ là thách thức lớn đến mức nào.

Thứ nhất, quay phim đối với tôi là công việc khó khăn, không chỉ vì tôi không làm chuyện đó thường xuyên mà còn bởi vì chúng tôi đang đi trong vùng biển có sóng to mà con tàu thì cứ lắc lư suốt.

Chinese ship follows Vietnamese coastguard in the South China Sea
Ảnh 1 Tàu Trung Quốc (bên phải) đang đuổi tàu cảnh sát biển Việt Nam gần khu vực giàn khoan. ABC News: Samantha Hawley

Một tay lúc nào cũng phải giữ chặt lan can còn tay kia thì cầm máy. Ngoài ra, không người nào không say sóng, thủy thủ đoàn cũng say sóng, tôi cũng thế. Tôi phải cố gắng hết để lờ nó đi.

Rồi người ta bảo chúng tôi lên sàn vì một tàu chiến Trung Quốc đang đi ngang qua. Thủy thủ đoàn tỏ ra cảnh giác nhưng họ muốn chúng tôi quay phim. Con tàu đi ngang qua chúng tôi mà không có sự cố nào. Chẳng bao lâu sau chúng tôi đến đến gần một tàu cảnh sát biển khác của Việt Nam, chúng tôi sẽ chuyển sang con tàu này.

Chúng tôi còn cách giàn khoan khoảng 20 km và con tàu này sẽ đưa chúng tôi tới gần hơn và bảo vệ chúng tôi tốt hơn trong khi chúng tôi tác nghiệp. Nhưng chúng tôi vừa tới nơi thì thời tiết xấu hẳn, sóng thậm chí còn lớn hơn và chúng tôi bị mắc kẹt.

Hầu như không thể đi lại trên con tàu mà chúng tôi đang ở, chưa nói đến chuyện chuyển sang con tàu kia. Đại dương gầm rú xung quanh, chúng tôi ở lại đấy suốt một đêm nữa.

Ngày thứ ba

Ban đêm, sóng lớn không ngờ. Chiếc tàu trọng tải 250 tấn của chúng tôi đối phó được, nhưng chúng tôi bị ném qua ném lại ở bên trong. Sáng ra, người ta bàn xem việc chuyển các nhà báo lên tàu cảnh sát biển mang số hiệu CG 8003, lớn hơn, có an toàn hay không.

Thời gian trôi qua, sóng biển giảm dần và người ta quyết định cho di chuyển. Thách thức tiếp theo tới ngay lập tức. Đi từ một chiếc chiếc tàu sang chiếc tàu khác khi sóng to là việc không dễ. Nhưng chúng tôi được đưa xuống một chiếc xuồng cao su bẩn thỉu, nó sẽ đưa chúng ta đến con tàu lớn hơn.

Journalists transfer to Vietnamese coastguard ship on South China Sea
Các nhà báo đang được chuyển sang tàu cảnh sát biển mang số hiệu CG 8003 (ảnh do Pham Duc Hanh cung cấp)

Nơi ăn nghỉ tốt hơn con tàu trước và ổn định hơn nhiều, trọng tải 1.600 tấn.

Chẳng bao lâu sau, chúng tôi đã được đưa lên để lần đầu tiên được nhìn gần hơn giàn khoan đang tranh chấp. Mặc dù chúng tôi có thể nhìn thấy nó trong khoảng cách này, nhưng chúng tôi vẫn còn cách nó khoảng 10 hải lý, và bất thình lình chúng tôi bị tàu cảnh sát biển của Trung Quốc bao vây. Thuyền trưởng Nguyễn Văn Hùng sau đó nói với tôi là 17 tàu Trung Quốc đã bao vây chúng tôi.

Căng thẳng trên biển giữa hai quốc gia Cộng sản là có thực. Một người Việt Nam dùng loa hạ lệnh cho các tàu thuyền rời khỏi khu vực, người này nói rằng những con tàu kia đang vi phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền của Việt Nam. Nhưng con tàu CG 8003 đã bị đuổi đi theo đúng nghĩa đen của từ này.

Những cột khói đen cuồn cuộn bốc lên từ ống khói khi những con tàu của Trung Quốc theo sát phía sau. Cả hai bên đều nói rằng tàu của họ đã bị đâm trên mặt biển. Các tàu Trung Quốc không đến gần tàu CG 8003.

Thuyền trưởng nói với chúng tôi rằng ông sẽ làm một chuyến hải hành tương tự vào buổi sáng. Kể từ ngày giàn khoan này được hạ đặt vào tháng năm, ngày nào ông cũng làm hai chuyến hải hành như thế để thông báo cho người Trung Quốc biết rằng họ không được chào đón trong khu vực mà ông nói là vùng biển của Việt Nam.

Filming onboard Vietnamese coastguard ship CG 8003

Ngày thứ tư

Sáng sớm hôm nay, thủy thủ đoàn mời chúng tôi dự lễ chào cờ và lòng yêu nước được thể hiện một cách đầy đủ. Không lâu sau, chúng tôi thực hiện chuyến hải hành thứ hai về phía giàn khoan. Một lần nữa, ngay sau khi chúng tôi còn cách giàn khoan tám hải lý, các tàu bảo vệ bờ biển của Trung Quốc liền xuất hiện nhằm bao vây tàu Việt Nam.

Lunch onboard Vietnamese coastguard ship
Ăn cơm trên tàu cảnh sát biển Việt Nam. Samantha Hawley (thứ 2 từ trái sang) đang ăn cơm với thuyền trưởng Nguyễn Văn Hùng (cực trái)

Đó là một kịch bản rất căng thẳng, người Việt Nam lại một lần nữa ra lệnh cho Trung Quốc rời khỏi vùng biển thuộc chủ quyền của họ, và sau đó màn rượt đuổi lại bắt đầu. Chẳng khác gì trò mèo vờn chuột với khả năng xảy ra hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều.

Nói chung, Việt Nam nói có 10 tàu Trung Quốc tham gia và lần này họ đến gần con tàu của Việt Nam hơn khi con tàu này chuyển sang hướng khác.

Việt Nam nói rằng họ tới với thông điệp hòa bình, và pháo và những vũ khí khác trên tàu được che đậy là biểu tượng của điều đó. Nhưng trong khi lúc này tình hình là tương đối hòa bình, khả năng xảy ra sai lầm trong tính toán hoặc thay đổi trong chiến thuật của một trong hai phía có thể đẩy hai quốc gia này vào một cuộc xung đột nghiêm trọng hơn nhiều.

Trong khi “chính sách bên miệng hố chiến tranh” đang diễn ra trên biển thì đã có những vụ va chạm nghiêm trọng. Hai bên đều đổ lỗi cho nhau. Một tàu đánh cá Việt Nam bị lật úp và chìm ở trong vùng biển tranh chấp, nơi tàu đánh cá của Trung Quốc và Việt Nam đi sát nhau. Một lần nữa hai bên lại đổ lỗi cho nhau.

Nhưng rõ ràng là Bắc Kinh có lợi thế hơn trong vụ tranh chấp này, không chỉ vì sức mạnh và nguồn lực của họ. Việt Nam nói có 119 tàu Trung Quốc ở vùng xung quanh giàn khoan, trong khi Việt Nam chỉ có 30 chiếc. Và sau khi được chứng kiến từ trên cao kịch bản đang được triển khai, rõ ràng Trung Quốc có lợi thế hơn.

Ngày thứ năm

Đây là ngày cuối cùng trước khi chúng tôi quay trở lại thành phố cảng Đà Nẵng. Chúng tôi chuyển sang một chiếc tàu cảnh sát biển nhỏ hơn, vì chiếc CG 8003 sẽ không quay về bờ. Nhiệm vụ trên Biển Đông của con tàu này còn lâu mới kết thúc. Buổi sáng, chúng tôi được đưa đến gần giàn khoan một lần cuối. Nhưng lần này, chúng tôi hầu như chưa đi thì đã bị bao vây rồi. Các tàu cảnh sát biển của Trung Quốc đứng thành nửa vòng tròn xung quanh con tàu của chúng tôi. Gần giống như một trận đấu bò; tàu Việt Nam ở một bên, tàu Trung Quốc ở phía bên kia.

Ngay sau khi con tàu CG 8003 vừa tiến lên được một chút thì bên cũng tiến lên. Khoảng 10 tàu Trung Quốc đứng xung quanh chúng tôi. Con tàu lớn của chúng tôi bỏ đi với thông điệp tuyên truyền phát đi từ cái loa, nhưng một tàu biên phòng của Việt Nam, nhỏ hơn, đi bên cạnh thì lại quá chậm.

Chúng tôi theo dõi và quay phim khi con tàu của Trung Quốc đến rất gần, đến mức có thể đâm vào con tàu của Việt Nam. Nhưng nó không đâm. Nó dừng lại vài phút rồi sau đó quay đi. Nhưng đó là tín hiệu chắc chắn gửi cho Việt Nam rằng Trung Quốc có đủ sức mạnh để giành chiến thắng trận chiến này.

Phải mất một thời gian thì mới hiểu kĩ được về Biển Đông và đấy là một cuộc hành trình không hề dễ dàng. Nhưng đấy là cuộc hành trình quan trọng, bởi vì những gì đang diễn ra trong các đại dương nằm ở phía Bắc Australia có thể có tác động nghiêm trọng tới khu vực và thế giới.

Crew of Vietnamese coastguard ship in the South China Sea

Dịch giả gửi Văn Việt.

THẢO LUẬN THOÁT TRUNG VỀ VĂN HOÁ (2): Nhận diện rõ hơn tính chất của chủ nghĩa bành trướng thời hiện đại

Nguyễn Vi Khải

Nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ

 

Muốn “Thoát Trung về Văn hoá”, cần nhận diện một điểm nổi bật nhất của thứ Văn hoá mà các nhà cầm quyền Trung Hoa dày công nhồi sọ cho người dân của họ: đó chính là “chủ nghĩa Bành trướng Đại Hán”.

1. Chủ nghĩa Bành trướng Đại Hán trong lịch sử

Nói đến “chủ nghĩa bành trướng” trong lịch sử thì hình ảnh liên tưởng nhanh nhất là chủ nghĩa bành trướng Đại Hán Trung Quốc. Ngay sau cụm từ “chủ nghĩa bành trướng” thì google hiện lên cụm từ “chủ nghĩa bành trướng Đại Hán “ với khoảng 166.000 kết quả.

Chủ nghĩa này có lịch sử lâu đời hàng ngàn năm.

Hình ảnh về một Trung Quốc bành trướng “xấu xí” trong tiềm thức của nhân loại:

Trong lịch sử, Trung Quốc được coi là một thế lực ham chiến trận, chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc, thể hiện trong các hoạt động quân sự và các chính sách ngoại giao, là một nỗi lo ngại đáng kể của các nước lân cận.

Triều đại đầu tiên là nhà Tần đã thống nhất Trung Quốc từ việc đánh tan và hợp nhất 6 quốc gia khác của thời Chiến Quốc cũng như các lãnh thổ sinh sống bởi những dân tộc không nói tiếng Trung,… cùng với sự mở rộng lãnh thổ Trung Quốc, nền văn minh Trung Hoa đã lan ra khắp các hướng, đặc biệt là về phía Nam. Trong lịch sử Trung Quốc, lãnh thổ của quốc gia này mở rộng hay thu hẹp là tùy theo sức mạnh của triều đại đương thời. Đỉnh cao là thời nhà Đường, khi lãnh thổ Trung Quốc phía Nam kéo tới nơi ngày nay là miền Bắc Việt Nam, phía Tây lan tới vùng Trung Á.[1]

Cái “sức mạnh của triều đại đương thời những năm 50 thế kỷ trước đã ghi nhận Trung Quốc từng xung đột với các nước láng giềng: Ấn Độ, Kazakhstan, Liên Xô, Tây Tạng, Hàn Quốc, v.v.

 Với Việt Nam, lịch sử “bành trướng, xấu xí” khẳng định:

Việt Nam từng bị Trung Quốc đô hộ trong 10 thế kỷ (từ thế kỉ 2 TCN đến năm 938), là nước luôn bị Trung Quốc nhòm ngó trong suốt thời kỳ phong kiến. Trong tất cả các triều đại/chính phủ của Trung Quốc từng kiểm soát lãnh thổ giáp ranh với Việt Nam (Tần, Triệu, Hán, Ngô, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Trung Hoa Dân quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), triều đại/chính phủ nào cũng đưa quân sang Việt Nam với ý định thôn tính lãnh thổ hoặc ít nhất là kiểm soát chính quyền. Các cuộc kháng chiến chống Trung Quốc được xem là một trong những chủ đề chính, nếu không muốn nói là chủ đề lớn nhất, của lịch sử Việt Nam…[2]

Chúng ta không coi sự bành trướng của các nước lớn như là điều khó hiểu, đó là điều khá phổ biến trên thế giới. Có điều sự bành trướng có hại cho các quốc gia láng giềng, làm rối tình hình bang giao hữu nghị giữa các quốc gia, làm phức tạp tình hình thế giới… thì phải lên án. Bởi vì sự bành trướng ấy là tạo mâu thuẫn, xung đột, đi ngược với nguyên tắc chung sống hòa bình của nhân loại.

2. Chủ nghĩa bành trướng trong thời hiện đại: Tiếp tục tồn tại với tính chất mới: Quyết liệt và trắng trợn bất chấp sự phản ứng của dư luận

Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949, những tưởng rằng sẽ chấm dứt cái chủ nghĩa bành trướng xấu xí thời Phong kiến xa xưa… Nhưng thực tế cho thấy ngược lại. Bên cạnh cuộc tranh giành quyền lực nội bộ khốc liệt (đỉnh cao là Cách mạng văn hóa), Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán Trung Quốc vẫn là mối đe dọa của khu vực với việc can thiệp vào cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của các nước Tiều Tiên, Việt Nam… Dưới vỏ bọc là “viện trợ”, “chuyên gia”… nhưng thực chất là muốn kiềm chế tiến trình phát triển của các nước. Sự “giúp đỡ” của Trung Quốc cho các nước yếu kém thực chất là chương trình “lồng ghép” các cuộc đấu tranh này trong mục tiêu vì của lợi ích của họ. Tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh đã thi hành chính sách kéo dài sự bất ổn của các nước láng giềng, thậm chí nô lệ hóa, bần cùng hóa láng giềng để dễ khống chế – biến các nước này thành “con bài” chính trị để mặc cả với các thế lực đế quốc về Đài Loan, Hồng Kông…

Bên lề kết quả hội nghị Giơ-ne-vơ 1954, Hội nghị Pa-ri 1973 cho thấy dã tâm xấu xa của chủ nghĩa bành trướng đã “đi đêm” với “chủ nghĩa đế quốc”, đàm phán “trên lưng” chúng ta để cầu lợi cho Trung Quốc rất trắng trợn. Cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua là một văn kiện quan trọng của Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (công bố ngày 4 tháng 10 năm 1979) đã nhằm vạch trần bộ mặt phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh đối với nước ta trong suốt một thời gian dài:

Ý đồ bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963:Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á. Cũng trong dịp này, chủ tịch Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở. Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: Chúng ta phải giành cho được Đông nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…[3]

Sự kiện đánh chiếm Hoàng Sa tháng 1 năm 1974 cách đây 40 năm là một trong chuỗi sự kiện nằm trong toan tính của Chủ nghĩa bành trướng hiện đại:

Trước khi chết hai năm, năm 1974, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông đã là người trực tiếp can dự cuộc cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam – ngày 17-1-1974 “Chủ tịch Mao Trạch Đông đã phê vào bản báo cáo của Thủ tướng Chu Ân Lai và Nguyên soái Diệp Kiếm Anh hai chữ Đồng ý, đồng thời giao cho Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy quân đội Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa[4].

Không dừng lại ở đây, tháng 2 năm 1979, thế lực phản động Trung Quốc đã phản bội nhân dân hai nước đưa 60 vạn quân đổ bộ các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam tàn sát dân lành, phá hoại công cuộc tái thiết của Việt Nam làm cho nền kinh tế sau chiến tranh của chúng ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng (mất hơn 10 năm khắc phục).

Tháng 3 năm 1988, hải quân của trung Quốc lại gây tội ác ở Trường Sa, chiếm Đảo Gạc Ma…

Lịch sử cho thấy suốt 40 năm qua, từ sự kiện Hoàng Sa năm 1974 đến nay, phía Trung Quốc không ngừng “quậy phá” ở Biển Đông.

Hệ thống lại quá trình bành trướng kể từ khi thống nhất được Trung Hoa lục địa (hơn 60 năm), nhà cầm quyền Trung Quốc đã đẩy chủ nghĩa bành trướng Đại Hán sang một nấc thang mới với tính chất ngày càng trắng trợn, quyết liệt, bất chấp phản ứng của láng giềng của quốc tế.

3. Hành động của chủ nghĩa bành trướng hiện đại: Tấn công, gây rối liên tục, cấp tập, cường độ ngày càng quyết liệt, phức tạp

Thời kỳ các thế lực phong kiến chỉ có 15, 20 năm xảy ra 01 tình huống, sự kiện tranh chấp.

Thời kỳ tồn tại hai nhà nước xã hội chủ nghĩa, cùng một thể chế chính trị, cùng “chung một Biển Đông” nhưng lại là hai cách hành xử rất khác nhau về chủ quyền trên Biển Đông nói chung và Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng.

Thời gian này tần số xảy ra trung bình 10 năm có tới 15, 17 sự kiện.

  • Trung Quốc ra sách trắng hai lần liên tục trong 2 năm: 30/7/1979, và 1980 Việt Nam công bố sách trắng một lần (tháng/9/1979).
  • Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang trực tiếp thị sát Hoàng Sa năm 1987.
  • Trung Quốc đặt tên, đặt bia mốc chủ quyền trên các đảo đã chiếm năm 1989
  • 1990 đến 1999 14 lần Trung Quốc cho thăm dò khai thác dầu khí, ký kết các hợp đồng khai thác với các nhà thầu Bắc Mỹ Tây Âu, đưa giàn khoan Nam Hải – 02 vào Vịnh Bắc Bộ…
  • 2007 – 2008 Trung Quốc thành lập Thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa – xây dựng căn cứ tàu ngầm lớn – khởi đầu biểu tình phản đối Trung Quốc ở Việt Nam.
  • 2009 Trung Quốc gây sức ép, vấn đề Biển Đông không được thảo luận tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN (Cha-am – Thái Lan).

Thời gian gần đây, trong 3 năm 2010 đến 2013 liên tục gây ra nhiều cuộc đụng độ với các nước trong khu vực tại Biển Đông (trừ Campuchia), nhiều sự kiện xảy ra ở Biển Đông làm “nổi sóng” khu vực và thế giới lên tiếng mạnh mẽ… Nhưng Trung Quốc vẫn lấn tới.

Riêng trong một năm 2012 đã xảy ra 52 sự kiện do phía Trung Quốc gây ratrung bình một tuần một sự cố làm mất ổn định trầm trọng trong khu vực và thế giới lo ngại. Phải chăng điều dự cảm của Napoleon trước đây 3 thế kỷ là hiện thực: “Con sư tử thức dậy nó sẽ vẽ lại bản đồ thế giới”?

  • Xây cầu tàu sức chứa 300-500 tàu (3,3 km2).
  • In “hình lưỡi bò” trên hộ chiếu.
  • Tăng ngân sách quốc phòng 11,2 %, đạt 106,41 tỷ USD.
  • Chiến lược phát triển Du lịch Biển đảo, xây dựng nhà máy lọc nước biển.
  • Xây 11 căn cứ máy bay không người lai, tăng cường các đội tàu Hải giám, tàu khu trục, tàu tiếp tế, tàu đánh cá… Bàn giao nhiệm vụ cho tàu sân bay “Liêu Ninh”…
  • Gần đây Trung Quốc vẽ đường “nhận diện phòng không” (ADIZ) và “Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông|” của Trung Quốc là cực kỳ vô lý đã bị nhiều nước phản đối, lên án … nhưng những phản ứng đó không làm chùn bước hệ tư tưởng bành trướng nước lớn.
  • Đến việc cho Giàn khoan Hải Dương 981 xâm chiếm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền Việt Nam, lại tiếp tục đưa thêm các giàn khoan mới tiến vào vùng tranh chấp với Việt Nam, Philippines… trên Biển Đông, thì chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đương thời đã lộ diện toàn bộ và hết sức trắng trợn.

KẾT LUẬN

Hệ thống lại chuỗi sự kiện, chúng ta thấy bản chất của Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán trong lịch sử là không thay đổi – mặc dù là đã thay đổi chế độ chính trị – từ nhà nước phong kiến sang nhà nước dân chủ nhân dân?

Không những thế, tư tưởng nước lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của nhóm người cầm quyền Bắc Kinh đã đẩy sự bành trướng tới cực đoan: bất chấp các luật lệ quốc tế, chà đạp lên dư luận tiến bộ của nhân loại. Đây là biểu hiện của thế yếu: tự Trung Quốc làm mất đồng minh trở nên cô độc: thêm thù – bớt bạn. Đó là ngõ cụt, là hạ sách trong thế kỷ XXI – thế kỷ của HÒA BÌNH, HỢP TÁC và PHÁT TRIỂN.

Bọn bành trướng Bắc Kinh nếu không sớm rút ra những kết luận cần thiết từ sự thất bại của chính sách chống Việt Nam vừa qua, thì nhất định sẽ chuốc lấy những thất bại mới nặng nề hơn. Trong thời đại ngày nay, các nước lớn nhỏ đều là bộ phận của một tổng thể duy nhất của xã hội loài người. Bọn bành trướng Bắc Kinh không thể đụng đến Việt Nam mà không khiêu khích cả loài người… Nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các nước độc lập dân tộc và nhân dân yêu chuộng hoà bình và chính nghĩa trên thế giới đã và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam.

Sự thật quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua

 

Hơn lúc nào hết, đây là thời cơ, vận hội đại đoàn kết tập hợp lực lượng trong và ngoài nước để xây dựng đất nước, bảo vệ chủ quyền Biển đảo hợp pháp của dân tộc Việt Nam.

Lịch sử hàng ngàn năm bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc Việt cho thấy: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước…

Lời tuyên bố ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quốc dân Đại hội Tân Trào (tháng 8 năm 1945) giục giã nhân dân cả nước ta đồng lòng dốc sức tăng cường sức mạnh quốc gia, đấu tranh kiên cường gìn giữ non sông biển đảo của đất nước.

 

Tác giả gửi Văn Việt.

           

 



[1] Từ điển Wikipedia.

[2] Như trên.

[3] Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam: “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua”, NXB Sự Thật, 1979.

[4] Petro Times 24-12-2013

Về tự kiểm duyệt

Ngải Vị Vị,On Self-Censorship“, Huffington Post 19/6/2014

Hoài Phi dịch

Kiểm duyệt ở Trung Quốc bị áp đặt 24 giờ một ngày, và hoạt động trên mọi kênh giao tiếp. Ảnh hưởng của kiểm duyệt có mặt trong mọi hình thức thể hiện cá nhân liên quan đến công chúng, dù là dưới hình thức xuất bản, trình diễn nghệ thuật, hay một trang web. Trong hơn 60 năm qua, các chính sách về kiểm duyệt thâm nhập khắp xã hội trên toàn quốc.

Trong vòng một tháng, người ta đã loại tên tôi khỏi hai cuộc triển lãm ở Trung Quốc. Gần đây nhất, Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Ullens (Ullens Center for Contemporary Art – UCCA) ở Bắc Kinh đã trưng bày ba tác phẩm của tôi trong một cuộc triển lãm tưởng niệm một người bạn cũ và đồng nghiệp, nhưng họ sợ không dám đả động đến tên tôi, cũng như không dám đả động đến mối quan hệ giữa tôi và cái trung tâm mà bạn tôi và tôi đã cùng xây dựng – viện nghệ thuật đương đại Trung Quốc đầu tiên.

Khi những sự cố này được xem xét như một phần trong một bức tranh lớn hơn, ta có thể thấy rõ sự nghiêm trọng của vấn đề. Việc kiểm duyệt ngặt nghèo về thông tin và thể hiện này không chỉ ảnh hưởng tới riêng tôi, mà còn tới cả cộng đồng nghệ sĩ và toàn xã hội. Vì nhiều lý do khác nhau, các cơ quan tự kiểm duyệt để có thể tồn tại, một số thậm chí còn gặt hái lợi ích.

Trong cuộc trò chuyện, giám đốc trung tâm UCCA là Philip Tinari có đề cập đến “những mối đe dọa” từ trên xuống đã dẫn đến việc họ bỏ tên tôi ra khỏi triển lãm. Ở Trung Quốc, chính sách của Đảng có thể không ảnh hưởng tới cá nhân bạn, nhưng lại ảnh hưởng thông qua tổ chức, chủ nhà, họ hàng và đồng nghiệp của bạn. Thậm chí ngay cả khi bạn hoạt động độc lập thì quyền lực vẫn tác động đến những người xung quanh bạn.

Đe dọa là công cụ hữu hiệu nhất của những kẻ nắm quyền lực nhằm tước đoạt ý thức độc lập của người dân. Không những họ có thể thành công trong việc xóa bỏ tư tưởng khỏi khu vực công và thanh trừng những người dám thể hiện tư tưởng và thái độ đó, mà họ còn có thể tẩy não những ai chỉ muốn hoạt động như một bộ phận của xã hội. Để có thể giành được an ninh cá nhân và tài chính, người ta phải uốn mình theo các tiêu chuẩn hành xử mà không đặt ra bất kỳ câu hỏi nào hay cố gắng phân biệt giữa đúng và sai. Kiểm duyệt là một hệ thống tạo ra quyền lực tuyệt đối và làm tê liệt xã hội, tước đi sự dũng cảm của con người trong việc đưa ra những đánh giá hoặc chịu trách nhiệm xã hội.

Kiểm duyệt và tự kiểm duyệt cùng hoạt động trong xã hội này để bảo đảm rằng suy nghĩ và sáng tạo độc lập không thể tồn tại được mà không cúi đầu trước nhà cầm quyền. Nhiều khi, tự kiểm duyệt và cái được gọi là mối đe dọa liên quan đến nó, chỉ dựa vào ký ức hay cảm giác mơ hồ về sự nguy hiểm, và chưa chắc là do sự chỉ đạo trực tiếp từ quan chức cao cấp. Thành ngữ tiếng Trung sát kê hách hầu tóm tắt súc tích: giết gà dọa khỉ. Trừng phạt một cá nhân để làm ví dụ cho những người khác lại khuyến khích chính sách đe dọa, một chính sách có thể âm vọng suốt đời và thậm chí qua vài thế hệ.

Không giống phần lớn những nơi khác trên thế giới, internet ở Trung Quốc dựa vào mạng cục bộ (local area networks), nhưng thậm chí dòng chảy thông tin hạn chế như vậy cũng đủ khiến nhà cầm quyền cảm thấy vô cùng bất an. Không những việc kiểm duyệt trên mạng đi ngược lại bản chất cơ bản của Internet, nó cũng đã dẫn tới việc bắt giữ và kết án nhiều người trong cuộc đàn áp tự do ngôn luận. Kết quả là việc tự kiểm duyệt ngày càng gia tăng, trong khi đòi hỏi về tự do cũng phát triển với tốc độ nhanh không kém. Đây là những thách thức song hành mà ta phải đối mặt trong thế giới vật chất ta đang sống hôm nay.

__________

Ý tưởng nghệ thuật gần đây nhất của Ngải Vị Vị, “Leg Gun” (Vũ khí chân), đang gây sốt trên mạng. Xem Instagram và bài trên Washington Post.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn: http://www.procontra.asia/?p=4580

 

Nguyễn-Xuân Hoàng trên con dốc tử sinh

Ngô Thế Vinh

Thứ Hai, ngày 16 tháng 6 năm 2014
 
 
Gửi Nguyễn Xuân Hoàng cùng với
Chị Trương Gia Vy và Các Cháu 
 
Nếu bảo qua tuổi 70 xưa nay là hiếm, thì Nguyễn-Xuân Hoàng cũng đã bước qua tuổi 74, đó là ý niệm tuổi tác của thế kỷ trước. Sang đến thế kỷ 21, với tiến bộ của y khoa, qua tuổi 80 nay cũng không còn là hiếm. Quen được Nguyễn-Xuân Hoàng trong hoàn cảnh nào thì tôi không nhớ, nhưng đó là một tình bạn khá lâu năm. Khoảng giữa thập niên 1960-1970 Nguyễn-Xuân Hoàng đã cùng với Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Đình Toàn, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật và Nguyễn Quốc Trụ chủ trương nhà xuất bản Đêm Trắng. Họ đều ở lứa tuổi trên dưới 30, với sức sáng tác đang sung mãn với phong cách riêng mỗi người, được coi như là nhóm “Tiểu Thuyết Mới”, với quán La Pagode như một điểm hẹn sinh hoạt. Và tên tuổi mỗi người trong nhóm, sau này đều trở thành nhân dáng những nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn-Xuân Hoàng.
Giữa những năm giông bão của cuộc chiến tranh lúc đó, thỉnh thoảng tôi được đọc và cả quen biết họ trong những giai đoạn và các hoàn cảnh khác nhau, do rất khác về môi trường sinh hoạt và tôi thì cũng ít có thời gian ở Sài Gòn. Ra tới hải ngoại, hai người trong nhóm Đêm Trắng mà tôi còn giữ được mối liên lạc là Nguyễn-Xuân Hoàng và Nguyễn Đình Toàn.
Mấy dòng viết vội và muộn màng này chỉ là những hồi tưởng đứt đoạn để gửi tới một người bạn là Nguyễn-Xuân Hoàng. Xong bậc trung học 1959, khởi đầu Hoàng có ý định học Y khoa, là sinh viên PCB Đại học Khoa học Sài Gòn một năm, thấy ngành học không thích hợp, Hoàng chuyển sang học ban Triết, Đại học Đà Lạt, sau Hoàng Ngọc Biên một năm. Tốt nghiệp 1962, là giáo sư Triết trung học Ngô QuyềnBiên Hoà một niên khoá và rồi được thuyên chuyển về trường Petrus Ký Sài Gòn cho tới 1975. Nhưng Nguyễn- Xuân Hoàng lại được biết tới nhiều hơn như một nhà văn một nhà báo tên tuổi từ những năm 1970. Hoàng là tổng thư ký tạp chí Văn Sài Gòn từ 1972, tiếp nối Trần Phong Giao, cùng với những tác phẩm đã xuất bản gồm tuyển tập truyện ngắn: Mù Sương, Sinh Nhật; tuỳ bút: Bất Cứ Lúc Nào Bất Cứ Ở Đâu; tạp ghi: Ý Nghĩ Trên Cỏ; và hai truyện dài: Khu Rừng Hực Lửa, Kẻ Tà Đạo…
Sau 1975, bị kẹt lại và như mọi người, Hoàng cũng trải qua những năm tháng thăng trầm theo vận nước, nhưng rồi cuối cùng 10 năm sau, Hoàng và gia đình cũng tới được đất nước Mỹ 1985. Không còn là nhà giáo, Hoàng sinh hoạt toàn thời gian trong lãnh vực báo chí và văn học: tổng thư ký hai tờ nhật báo Người Việt California (1986-1997) và tạp chí Thế Kỷ21 (1989-1994), trong ban chủ biên tạp chí Văn Học cùng với nhà văn Nguyễn Mộng Giác, sau đó kiêm thêm chủ bút tạp chí Văn chuyển tay từ nhà văn Mai Thảo 1996. Tưởng cũng nên nói thêm tờ báo Văn này đã khiến vợ chồng Nguyễn Xuân Hoàng mang món nợ không nhỏ với cơ sở in báo Văn,  mà mãi lâu mới trang trải hết. Tác phẩm Nguyễn-Xuân Hoàng do anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, giám đốc nhà Văn Nghệ xuất bản ở hải ngoại gồm các tập truyện và tuỳ bút: Căn Nhà Ngói Đỏ, và hai truyện dài trong bộ trường thiên ba tập [trilogy]: Người Đi Trên Mây, Bụi và Rác…
Năm 1996, di chuyển theo công việc mới, San Jose thung lũng hoa vàng là chặng định cư cuối cùng của hai vợ chồng Hoàng. Nguyễn-Xuân Hoàng vẫn sinh hoạt báo chí toàn thời gian, ban đầu với chức vụ tổng thư ký tuần báo Việt Mercury thuộc San Jose Mercury News và sau đó là chủ bút tờ tuần báo Việt Tribune như một “family show” của hai vợ chồng Nguyễn-Xuân Hoàng – Trương Gia Vy cho tới nay. Quen biết thân thiết với vợ chồng Peter Zinoman Nguyệt Cầm, dịch giả Số Đỏ / Dumb Luckcủa Vũ Trọng Phụng; Hoàng được mời làm lecturer thỉnh giảng cho môn Văn học Việt Nam đương đại tại UCBerkeley.
 
Nguyễn-Xuân Hoàng và Ngô Thế Vinh tại toà soạn Việt Tribune 2008; photo by Trương Gia Vy
 
Nguyễn-Xuân Hoàng rất quảng giao, mặc dù anh luôn than là ít bạn. Cũng vì vậy mà các bạn thân đặt tên cho anh là Nguyễn Đông Hoàng. Và khi biết bạn mình ngã bệnh, đã có rất nhiều học trò cũ và bằng hữu đến thăm và cả viết về Nguyễn-Xuân Hoàng, một số bài đã được Phùng Nguyễn cho phổ biến trên Da Màu trong nhiều tuần lễ, số trang viết ấy đủ cho chiều dày của một cuốn sách.
Từ ngày Trịnh Y Thư báo tin cho biết căn bệnh của Nguyễn-Xuân Hoàng, vậy mà cũng đã gần 12 tháng. Các tin tức về sức khoẻ và bệnh tình của Hoàng tôi được biết hoặc trực tiếp từ Nguyễn-Xuân Hoàng hoặc qua hai người bạn Phùng Nguyễn và Trịnh Y Thư.
Trước đó, cũng khoảng 3 năm, Nguyễn-Xuân Hoàng thường kêu  đau lưng, đối với người bệnh ở lứa tuổi ngoài 70 như Hoàng thì một chẩn đoán thông thường của bác sĩ gia đình làđ au lưng do “thoái hoá cột sống”. Tới một giai đoạn đau nhiều hơn, bác sĩ cho chụp lại hình quang tuyến cột sống, cũng vẫn với chẩn đoán như trên. Nhưng vì lần này bác sĩ quang tuyến thấy có những đốm trắng như miểng kim loại quanh cột sống nên đã hỏi là Hoàng có bị thương do miểng đạn ngoài chiến trận khi còn ở Việt Nam hay không, Hoàng xác nhận là không.
Tới một giai đoạn mà các thuốc chống viêm giảm đau kể cả opiates cũng không còn mấy hiệu quả thì Hoàng được gửi vào một bệnh viện, để qua một loạt các thử nghiệm và cuối cùng với chẩn đoán là Hoàng bị một căn bệnh khá hiếm: sarcoma ở sống lưng; sarcoma là loại bướu ung thư mô liên kết/ connective tissue như xương, sụn, mô mỡ, bắp thịt, mạch máu…
Có lẽ đây là một chẩn đoán “không sớm” nếu không muốn nói là khá trễ, và cũng từ đây Hoàng được chuyển sang một bệnh viện chuyên khoa thuộc Đại học Stanford. Không được tiếp cận với hồ sơ bệnh lý của Hoàng, nhưng được biết Hoàng cũng đã trải qua các giai đoạn trị liệu như hoá trị / chemotherapy, xạ trị/ radiation therapy và nhưng hình như Hoàng không còn ở giai đoạn sớm để được điều trị phẫu thuật/ surgery. Nguyễn-Xuân Hoàng rất can đảm đi hết “đoạn đường chiến binh” đã đi tới bước cuối cùng của các phương thức điều trị, dĩ nhiên với không ít những chịu đựng do các tác dụng phụ/ side-effects.
Trong suốt thời gian ngã bệnh, và cả mới đây thôi, trong giai đoạn 6 tuần được chuyển sang khu phục hồi của bệnh viện, Nguyễn-Xuân Hoàng vẫn không ngừng làm việc với laptop và cell phone. Hoàng không chỉ lo cho tờ báo Việt Tribune vẫn ra hàng tuần, báo chí đã như một cái nghiệp và cũng là nguồn sinh kế của gia đình. Cũng trong giai đoạn này, Nguyễn-Xuân Hoàng còn phối hợp với Đinh Quang Anh Thái báo Người Việt trong việc hiệu đính và layout hai cuốn sách: Người Đi Trên Mây [đã đăng hết từng kỳ trên nhật báo Người Việt], Bụi và Rác [đang đăng tới kỳ thứ 100 cũng trên Người Việt]. Cũng từ trong bệnh viện, chính Hoàng là người quyết định chọn bài viết của Nguyên Sa và Phạm Công Thiện, cho phần trích dẫn bìa lưng của hai cuốn sách.

Mẫu bìa hai cuốn sách xuất bản sau cùng của Nguyễn-Xuân Hoàng

Khi tìm hình tác giả NXH cho bìa lưng, Hoàng đã chọn tấm hình đang cầm điếu thuốc hút, có lẽ nơi một góc phố nào đó trên “con đường báo chí” Phạm Ngũ Lão khoảng năm 1980, và cũng do “méo mó nghề nghiệp” tôi bảo đùa là đó là một chọn lựa không đúng /potitically incorrect, tạo gương xấu cho đám trẻ sẽ bắt chước hút thuốc để được trở thành nhà văn nổi tiếng như Nguyễn-Xuân Hoàng. Hoàng thì không xem đó là câu nói đùa nên đã trả lời rất nghiêm túc rằng đó là bức hình thời còn trẻ mà Hoàng rất thích, và thời tuổi trẻ ấy ai mà không hút thuốc, và nó cũng rất phù hợp với bối cảnh của cuốn sách. Mặc dầu được Hoàng eMail “mình giao phó hết cho NTVinh quyết định thay NX Hoàng” nhưng thực ra mọi sự đều làm theo ý Nguyễn- Xuân Hoàng. Tôi nhắc nhở Đinh Quang Anh Thái là anh Nguyễn-Xuân Hoàng còn nguyên sự minh mẫn nên mọi chuyện liên quan tới hai cuốn sách nên hỏi thẳng anh Hoàng. Không làm thay những gì người bệnh vẫn còn làm được, đây là cũng là nguyên tắc tôi học được trong ngành y khoa phục hồi; và phương cách cách điều trị occupational therapy hay nhất là làm cho Hoàng luôn luôn bận rộn. Và cả trên giường bệnh Nguyễn-Xuân Hoàng cũng đã vui với sự bận rộn ấy. Hoàng còn cho biết là sau khi đăng hết Bụi và Rác, Hoàng sẽ viết tiếp bộ trường thiên Trilogy, Tome III sẽ có một tên sách rất ngắn gọn một chữ là “Lửa” cảm xúc từ những cơn bão lửa cháy rừng của bang California và rồi cũng sẽ cho đăng tiếp từng kỳ trên nhật báo Người Việt. 
Riêng tôi và các bạn của Hoàng không dấu được niềm vui khi biết bạn mình, giữa những cơn đau hành hạ của bạo bệnh mà vẫn cứ nuôi dưỡng những dự định cùng hướng về tương lai.
 Trong suốt gần một năm trời, Nguyễn-Xuân Hoàng ra vào bệnh viện Stanford gần như thường xuyên, khi dài ngày khi ngắn hạn. Niềm đau ung thư là nỗi thống khổ ròng rã nhất của người bệnh Nguyễn-Xuân Hoàng.
_ Sáng ngày 1 tháng 6, 2014 Nguyễn-Xuân Hoàng từ nhà phone cho tôi, nói một vài câu rất ngắn và rất yếu: “Vinh ơi, mình đau quá và chỉ muốn chết”. Lúc đó, bỗng thoáng hiện trong đầu óc tôi một thuật ngữ y khoa euthanasia / painless death với Jack Kevorkian, phương pháp giúp người bệnh nan y quá đau đớn được chết yên thấm. Kervorkian được báo chính mệnh danh là Doctor Death thì đã bị kết án tội sát nhân bậc hai / second degree murder, phải ngồi tù 8 năm trước khi được tại ngoại. Physician-assisted suicide cho đến nay vẫn bị coi là phạm pháp. Chọn lựa một cách chết ra sao là do quan niệm và niềm tin của mỗi người. Và rồi tôi cũng chỉ có thể khuyên Hoàng là nên vào lại Stanford để được chăm sóc điều trị giảm đau. Cùng ngày, chiều hôm đó chị Trương Gia Vy đưa Hoàng vào bệnh viện. Khi phone thăm, Hoàng cho biết đã phần nào bớt đau nhưng lúc nào cũng chỉ muốn được về nhà.
Rồi cũng buổi tối hôm đó, qua internet tôi gửi cho Nguyễn-Xuân Hoàng bài điểm sách mới của anh Dohamide về cuốn Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng, từ nhiều năm tôi thì vẫn gửi bài viết cho Việt Tribune của Nguyễn-Xuân Hoàng, và không ngờ rất mau chóng, Hoàng eMail ngay cho tôi:
“Cám ơn Ngô Thế Vinh, mình xin phép Vinh cho đăng trên VOA và Việt  Tribune. Việt Tribune thì không có vấn đề gì nhưng bên VOA thì bài chưa đăng ở đâu hay chưa post ở đâu mới được. Vinh cho mình biết trước khi mình gửi cho VOA nhé.” Nxh Sent from my iPhone.  Tôi trả lời ngay là bài non-exclusive, đã được Phùng Nguyễn mới post trên Da màu và anh Nguyên Giác Phan Tấn Hải đăng trên Việt Báo. Hoàng hồi âm: “Tiếc quá! Vậy thì mình chỉ có thể đi bài trên Việt Tribune thôi.” NxhSent from my iPhone.
Để rồi tôi cũng được biết thêm một điều là trong bấy lâu, không phải chỉ có tờ tuần báo Việt Tribune đều đặn ra hàng tuần, Nguyễn-Xuân Hoàng vẫn còn duy trì cả sinh hoạt Blog’s NXH trên VOA.
_ Sáng ngày 7 tháng 6, 2014 Hoàng phone cho tôi và Phùng Nguyễn báo tin: toán bác sĩ điều trị Stanford đã gặp chị Vy và các con Hoàng, báo tin cho biết họ đã “give up”không có thể làm thêm gì được nữa và sẽ cho Hoàng xuất viện về nhà. Hoàng nói: “Mình biết sẽ phải như vậy, nhưng Vy thì khóc quá”. Không khóc sao được khi biết người bạn đời của mình đang gian nan trên dốc tử sinh và cạn dần sự sống từng ngày. Và bạn bè ai cũng biết là sức khoẻ của chị Vy bấy lâu cũng không khá gì, bị suy thận mãn tính ESRD / End Stage Renal Disease từ nhiều năm, chị vẫn phải tự làm công việc lọc máu qua màng ruột / peritoneal dialysis tại nhà mỗi đêm thay vì tuần ba lần tới lọc máu tại các trung tâm thận nhân tạo / hemodialysis.
_ Phan Nhật Nam thì nghĩ rằng tôi chưa được biết tin, nên buổi tối đã khá khuya, Nam phone báo tin cho biết tình trạng ở giai đoạn cuối của Nguyễn-Xuân Hoàng, khi toán bác sĩ ở Stanford quyết định cho xuất viện. Tôi hiểu rằng thay vì chuyển tới khu hospice chăm sóc người bệnh cận tử, Hoàng đã chọn về nhà, sống với gia đình bao giờ cũng dễ chịu hơn. 
_ Sáng ngày 10 tháng 6, 2014 tôi gọi thăm Hoàng qua cell phone, và được biết Hoàng đang trên xe với chị Vy đi vào Stanford. Tôi khựng lại và hỏi Hoàng là họ lại có quyết định điều trị tiếp hay sao, thì Hoàng nói không, chỉ vào bệnh viện cho mấy buổi “xạ trị giảm đau / palliative radiation”. Tôi hiểu rằng đây chỉ là bước “điều trị xoa dịu / palliative treatment” cho người bệnh nan y. Cho dù không thể chữa khỏi nhưng “điều trị xoa dịu” với ứng dụng kỹ thuật cao / high tech, có khả năng giúp người bệnh sống những ngày tháng ngắn ngủi còn lại với phẩm giá, làm sao cho bớt đau đớn và cả phần nào thanh thản cho tới phút lâm chung.
_  Sáng ngày 12 tháng 6, 2014 phone thăm bạn, Hoàng cho biết sau 5 vòng xạ trị, đã bớt đau và buổi tối thì ngủ được. Như từ bao giờ, tôi vẫn tránh tối đa những câu hỏi về bệnh tình của Hoàng – điều sẽ làm cho người bệnh rất mệt, hai người bạn chỉ lãng đãng nói chuyện văn chương, nói về Nxb Đêm Trắng và nhóm Tiểu Thuyết Mới. Nouveau Roman là một khuynh hướng văn học có khởi đầu từ Pháp vào giữa thập niên 1950’s với các tên tuổi như Alain Roble-Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor, Claude Simon. Theo Nguyễn-Xuân Hoàng, thì ý kiến khởi đầu lập Nxb Đêm Trắng là từ Huỳnh Phan Anh, để chỉ xuất bản các sáng tác của nhóm. Nhóm 6 người ấy đa số xuất thân nhà giáo, trừ Nguyễn Đình Toàn và Nguyễn Quốc Trụ.
Từ 1954, trong vòng 20 năm của Miền Nam, các phong trào văn học được tự do nở rộ. Tự Lực Văn Đoàn tiếp nối với Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, Nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo Thanh Tâm Tuyền phủ nhận nền văn học tiền chiến với nỗ lực làm mới văn chương, rồi tới nhóm tự nhận là Tiểu Thuyết Mới nhưng theo Nguyễn-Xuân Hoàng thì Hoàng Ngọc Biên tuy không trong nhóm Đêm Trắng nhưng chính Biên mới thực sự là người khởi đầu nghiên cứu về phong trào Nouveau Roman của Pháp, dịch một số tác phẩm của Alain Roble-Grillet và cũng thể hiện quan niệm tiểu thuyết mới ấy qua tập truyện Đêm Ngủ ở Tỉnh do Cảo Thơm xuất bản Saigon, 1970. Cũng theo Hoàng Ngọc Biên, thì ngoài danh xưng, những năm trước 1975 thực sự đã không có một phong trào Tiểu Thuyết Mới tại Sài Gòn.
 
 
Hoàng Ngọc Biên & NTV
 
_ Kỹ thuật y khoa ngày nay thì có thể đã tiến xa, nhưng quan niệm thì không mới; vì từ xa xưa người sinh viên khi mới vào học trường y đã được dậy dỗ đức khiêm cung trong y thuật: “chữa khỏi đôi khi; xoa dịu thường xuyên; và luôn luôn an ủi / La médecine c’est guérir parfois, soulager souvent, consoler toujours.” Ambroise Paré, bác sĩ phẫu thuật Pháp thế kỷ 16 đã là người đầu tiên nhắc tới câu nói ấy nhưng nguồn gốc thì có lẽ đã có từ một nền y khoa cổ đại xa xưa hơn rất nhiều. Bản thân người viết, cũng hơn 45 năm đã và đang hành nghề y khoa với những hoàn cảnh khác nhau trong cũng như ngoài nước, với cái chết của mỗi người bệnh, cho dù đã biết trước, thì cảm giác vẫn hụt hẫng như một phần mất mát của cuộc sống.
Sự mất mát ấy càng thấm thía hơn khi đó là chính là mấy người bạn thân của mình. Phải chứng kiến một Nghiêu Đề, người bạn tấm cám với những cơn đau ung thư tuỵ tạng vật vã đến xanh xao; một Cao Xuân Huy Tháng Ba Gẫy Súng can trường ngần ấy cũng đã oằn người vì những cơn đau di căn từ ung thư mắt hành hạ. Nay tới một Nguyễn Xuân Hoàng cũng đang khắc khoải với những trận đau bướng bỉnh và rất quái quỷ như vậy. Cũng để thấy cái bể khổ của sinh lão bệnh tử và nhận ra rằng khả năng y khoa hiện nay còn giới hạn tới dường nào. Bể khổ thì mênh mông, nhìn lại chẳng thấy đâu là bờ. Cảm xúc đọc lại mấy câu thơ của Vô Ngã Phạm Khắc Hàm, không phải Nguyễn-Xuân Hoàng mà chính tôi cũng tìm được nguồn an ủi.
Ta tụng ngàn năm Quán Thế Âm,
Chúng sinh ta khóc nỗi mê lầm
Ngàn năm quỳnh nở trong đêm vắng
Rung động ba ngàn cõi viễn thâm.
… Người thích câu rùa đọc Lạc thư
     Vớt con cá nhỏ thấy chân như
     Ta nâng trang sách nghìn thu đọng
     Trời đất rưng rưng giữa mịt mù
… Từ đấy ngàn năm vách lắng tai
     Lời kinh vi diệu thấm linh đài
     Tình thương từng giọt rơi trên đá…
Buổi trưa hôm ấy, trong giờ lunch break bên ngoài bệnh viện, tôi và ba bác sĩ khác: một gốc Do Thái, một Trung Đông, một Ấn Độ ăn trường chay, bốn người ngồi chung bàn với nhau, nhân sau cái chết mới mẻ của một đồng nghiệp bị ung thư với những ngày cuối cùng thống khổ ra sao, họ bàn là liệu nếu có thể lựa chọn cho mình một cách chết. Ba khả năng thông thường nhất đưa tới cái chết ở thời đại hiện nay: cơn truỵ tim chết ngay, cơn tai biến mạch máu não có thể đưa tới tàn phế, và căn bệnh ung thư ác tính… và mọi người đã có cùng một chọn lựa cho một cái chết nhanh nhất là bệnh tim. Và rồi cũng trong ngẫu hứng, trưa hôm đó họ đã order các món ăn không thiếu chất mỡ động vật và dĩ nhiên là không theo tiêu chuẩn của dinh dưỡng của Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ.
Thực ra không ai có thể chọn lựa một căn bệnh để được chết theo ý mình, ngoại trừ thứ tự do chọn lựa rất bạo động là tự sát cũng thường thấy ở các nhà văn như: Ernest Hemingway Ngư Ông và Biển Cả bằng súng (1961), Yukio Mishima Đền Vàng bằng gươm (1970), Yasunari Kawabata Ngàn Cánh Hạc bằng hơi ngạt (1972), Nhất Linh Đoạn Tuyệt bằng thạch tín (1963), Tam Ích Nghệ Thuật và Nhân Sinh treo cổ (1972)… 
Hoàng thì đã và đang sống một cuộc sống tràn đầy, nên tôi cũng hiểu rằng “bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu”, bạn tôi cũng đã sẵn sàng chuẩn bị cho dặm cuối của một chặng đường cheo leo trên con dốc tử sinh. Mark Twain thì bao giờ cũng với một cái nhìn rất nhẹ nhàng về cái chết: “A man who lives fully is prepared to die at any time.” Và rồi ra, đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó chắc Nguyễn-Xuân Hoàng cũng sẽ ngoảnh lại rồi mỉm cười mà nhắn với bằng hữu rằng: “Tường thuật về cái chết của tôi có phần quá đáng/ The report of my death was an exaggeration. Mark Twain”.
Vẫn cứ chúc Bạn Ta những ngày tháng còn lại an lành. 
NGÔ THẾ VINH

Long Beach 15/06/2014

Nguồn: http://www.diendantheky.net/2014/06/ngo-vinh-nguyen-xuan-hoang-tren-con-doc.html

Lời xưng tội lúc nửa đêm

Truyện ngắn của Vũ Thư Hiên

Khi linh mục già dò dẫm từng bước qua được những bậc thềm khấp khểnh của nhà kẻ liệt thì trời đã khuya lắm. Mấy vệt sáng vàng vọt của đèn dầu lọt qua khe cửa làm cho nó chìm thêm trong bóng tối mịt mùng. Trong đêm tối ông chỉ có thể cảm chứ không thấy được rằng nơi ông tới là một thôn nhỏ đìu hiu với những mái tranh thấp thoáng dưới tán lá rừng rậm rạp.

Linh mục vươn người vặn mình cho đỡ mỏi, mấy đốt sống kêu lục cục. Chủ nhà dựng chiếc Honda dưới thềm, bước vội lên đỡ ông:

– Trình cha, xin cha cẩn thận chỗ bậu cửa.

Linh mục ừ hữ gật đầu. Ông mệt lử sau hai chục cây số ngồi ôm eo vượt con đường hết đèo lại suối lổn nhổn đá và rễ cây. Không hiểu sao người ta lại cứ phải tìm ông, trong khi cách đây vài thôn có một xứ đạo khác, tuy không lớn, với một linh mục trẻ?

Linh mục có quyền khước từ cuộc viếng kẻ liệt mà không bị ai trách cứ. Ông đã quá già. “Cha lẫn rồi”, cả xứ đạo ồn lên sau một lần ông đứng trên toà giảng lẩm bẩm hồi lâu những câu không ai hiểu, mặc cho đàn chiên ngẩn ngơ phía dưới. Cha bận thông công với Đức Chúa Giê-su, bõ già giải thích, nhưng chẳng ai tin. Bõ cũng già, có dễ còn già hơn cả cha. Bề trên vội cử một linh mục khác về thay chân ông. Cha trẻ này mới được truyền chức. Mọi việc bây giờ cha phó làm hết. Nói theo cách thế tục, Toà giám cho cha xứ về hưu.

Sau tiếng mở then hấp tấp, một người đàn bà rũ rượi, cây tọa đăng giơ cao trên đầu, hiện ra trong khung cửa.

– Con xin phép lạy cha.

Bà ta lùi lại một bước và lễ độ khuỵu một chân xuống khi nhìn thấy mái tóc bạc phơ, gương mặt đầy nếp nhăn hằn sâu như những nét khắc trên gỗ và đôi mắt mờ đục của cha xứ.

“Lạy Chúa tôi, liệu một cha già thế kia có còn làm được phép xức dầu cho kẻ chết nữa không?”, cái nhìn của bà ta nói.

Sau lưng bà ta là mấy đứa trẻ mới lớn cao lộc ngộc. Chúng giương mắt nhìn linh mục, lí nhí chào ông . Chủ nhà kéo một cái ghế ba nan xiêu vẹo ra khỏi cái bàn đen đủi không cùng bộ với nó.

– Xin cha ngồi ngơi…

Linh mục để mặc cho chủ nhà đỡ ông ngồi xuống.

– Thưa cha dùng gì ạ? Trà hay cà phê?

– Vẽ, – ông xua tay – Ta nghỉ một lát rồi làm việc. Ta không khát.

– Xin cha cứ tự nhiên ạ. Đường thì xa, lại xóc nữa. – ông chủ nhà phàn nàn – Đến con đây còn mệt nữa là…

Linh mục nhìn quanh. Bóng tối che khuất số đồ đạc hiếm hoi trong gian phòng nhỏ. Không khí có mùi ẩm mốc, mùi của cái nghèo.

– Việc sửa soạn cho kẻ liệt dọn mình về với Chúa là quan trọng. – linh mục nói – Chớ chia trí cho việc khác.

Chủ nhà đưa mắt cho vợ. Người vợ bối rối nhìn lại chồng. Họ có vẻ băn khoăn.

– Đội ơn cha đã hạ cố đến với chúng con. – chủ nhà cúi mặt nói – E hèm…, chúng con sở dĩ phiền đến cha tuổi cao sức yếu, phải đi lại đêm hôm cực nhọc thế này là vì…, hèm…

Linh mục bảo:

– Có chuyện gì khó ông cứ cho ta hay. Đừng ngại.

Người vợ đỡ lời chồng, thẽ thọt:

– Chẳng giấu gì cha, chả là thế vầy: con có ông chú ruột…

– Người sắp sinh thì… – người chồng tiếp – Dạ, trình cha, người cứ một hai đòi gặp cha…

– Hừm.

– Có điều chú con… – người vợ nói – Người trước kia cũng là con chiên bổn đạo ta đấy ạ. Quê chúng con chả toàn tòng, thưa cha.

– Tức là?

– Thưa cha, – người chồng cúi mặt – hiềm nỗi chú con… người trót nghe theo kẻ ngoại đạo vô thần nên đã bỏ đạo…

Linh mục nhắm mắt lại. Cả ba nín lặng.

– Chuyện ấy thường thôi. – linh mục thấy cần phải nói một điều gì đó để phá đi bầu không khí nặng nề, và để an ủi hai vợ chồng chủ nhà – Thời Lucifer mà, người bỏ đạo không ít… Ông ấy còn tỉnh trí chứ?

Không thể làm lễ xức dầu cho kẻ ngoại đạo, cha xứ nghĩ. Oái oăm quá. Nếu người liệt đã hôn mê, ta có thể ban phước lành cho ông ta, cái đó thì được, Chúa lòng lành không hẹp với ai.

Người vợ thấy cha xứ hiền, không quở trách, trở nên bạo dạn hơn:

– Trình cha, còn, người còn tỉnh trí ạ. – bà ta nhanh nhảu đáp với nụ cười như mếu – Ơn trên soi sáng, người đã nghe chúng con, nay người xin giở lại đạo rồi…

Linh mục nói:

– Cũng lại chuyện thường thôi. Người bỏ vẫn bỏ. Người theo vẫn theo. Người giở lại đạo vẫn giở lại… Ông ấy đâu?

Ông nhìn quanh.

Người vợ bối rối:

– Trình cha, chúng con chưa kịp thưa với cha: chú con quên ráo kinh bổn rồi. Nói ra thật xấu hổ, cơ mà chúng con cứ trình thật thế vậy…

– Chuyện ấy có gì quan trọng. – linh mục chống tay đứng lên – Hãy đưa ta đến với ông ấy. Ta biết phải làm gì.

Chủ nhà cầm cây tọa đăng, đi trước. Linh mục theo sau. Họ đi qua gian trong, nơi mấy đứa con trai đã nằm lại chỗ của chúng. Cánh cửa kêu kèn kẹt mở ra một khoảng trời tối với những ngôi sao bất động.

Trong ánh đèn linh mục nhìn thấy mấy quả cà tím loáng sáng trên những luống rau. Hai bên lối đi nhiều cỏ may đến nỗi ông phải cẩn thận vén áo chùng lên tận đầu gối. Có mùi lá tre mục, mùi sương đêm tinh khiết. Mùa thu mát, nhưng ẩm ướt. Thời tiết trước khi vào đông bao giờ cũng vậy. Mình ở vùng này đã bao lâu rồi? – ông bâng khuâng tự hỏi – dễ đến ba mươi năm chứ không kém.

– Chú con không chịu ở trên nhà với chúng con, người kêu ồn – chủ nhà phân trần – Người đòi nằm một mình cho tĩnh. Chứ chúng con không muốn thế…

– Người già thường khó tính. – linh mục nói

Mình cũng thế, ông nghĩ. Ông biết gần đây chính ông cũng trở nên khó tính khó nết. Ông khảnh ăn, không chịu được mùi hôi và mọi sự bề bộn, động một tí là bẳn gắt. Hẳn ông cũng làm phiền các thầy hầu cận và bõ già không ít. Có điều họ chẳng nói ra thôi. Đôi lúc tỉnh ra, ông thấy mình hành mọi người một cách thậm vô lý, nhưng đáp lại họ chỉ nhẫn nhục im lặng. Những lúc tỉnh ra ấy ông giận mình lắm. Ông tự hỏi: họ buộc phải chịu đựng ông vì trách nhiệm được giao phó? Hay chỉ vì lòng tôn kính với bảy chức thánh của ông, vì lòng biết ơn sự tận tụy nhiều năm của ông ở xứ đạo của họ?

Chủ nhà đẩy cửa vào ngôi nhà nhỏ cô độc ở cuối vườn. Gọi nó là lều thì đúng hơn, bởi vì nó rất hẹp và tuềnh toàng. Ánh toạ đăng soi tỏ cái giường tre, trên đó một thân hình còm nhom nhô lên dưới tấm chăn dạ rách, của còn lại từ một thời chinh chiến.

Linh mục tưởng người nằm đấy chết rồi, bởi vì dưới ánh đèn vàng vọt trên gương mặt xương xẩu, khắc khổ của ông ta hầu như không còn dấu hiệu của sự sống.

Chủ nhà cúi xuống nghe ngóng rồi quay mặt lại:

– Người ngủ. Để con đánh thức.

Ông ta nắm lấy vai người bệnh, lay khẽ:

– Chú ơi, chú! Cha đến đấy.

Linh mục chắp hai tay trước bụng, kiên nhẫn đợi.

Trong yên lặng, một con tắc kè bỗng kêu to ở đầu hồi làm ông giật mình.

Người bệnh khẽ rên một tiếng. Ông ta gượng mở mắt:

– Cha hử?

– Vâng, thưa chú, người đã đến ạ.                                  

Linh mục đặt tay lên vai chủ nhà:

– Ông cứ lên đi, mặc chúng tôi với nhau.

– Nước! – người bệnh thều thào.

Chủ nhà cầm lấy phích nước trên cái bàn làm bằng một mảnh ván mộc kê trên đôi mễ xiên xẹo, rót chầm chậm vào cái chén sứt sẹo. Đoạn, mang đến bên giường, nâng đầu người bệnh, cho ông ta uống từng ngụm nhỏ. Mái tóc thưa và bơ phờ của người bệnh run rẩy khe khẽ cùng với nhịp chuyển động của yết hầu.

Linh mục chăm chú nhìn người bệnh và ân hận đã không đem theo một cậu giúp việc để đỡ đần ông trong trường hợp này. Nhưng ông sực nhớ rằng cái xe Honda ọp ẹp của chủ nhà chỉ có thể chở hai người.

Chủ nhà lễ phép đi giật lùi ra khỏi lều, khép cửa lại.

Người bệnh khó nhọc rút một tay ra khỏi chăn. Những ngón tay gầy, cong queo vẫy linh mục lại gần hơn.

Linh mục đến bên giường, chăm chú nhìn vào khuôn mặt vàng nhợt và cứng đơ như được nặn bằng sáp. Cất giọng trịnh trọng, như ông vẫn thường làm trong nhưng trường hợp tương tự, ông nói câu thuộc lòng:

– Ta đã đến với con, hỡi con chiên lạc bầy muốn trở về trong lòng Chúa!

Linh mục bỗng giật mình. Ông nhận thấy giọng ông vang vang trong túp lều yên lặng hoàn toàn không có hồn, như thể nó phát ra từ máy ghi âm. Tự nhiên ông đâm ra bối rối. Vì tia sáng phát ra từ mắt người bệnh, cái tia sáng đi cùng với nụ cười thoảng qua, hóm hình, hay bởi chính giọng không hồn của mình?

– Con hãy nhận lấy tên thánh của con trước khi dọn mình xưng tội cùng Chúa. Nhân danh Chúa trên Lời… ta đặt tên thánh cho con là Đôminicô để ghi lại giờ khắc con giở lại đạo trên đất đai của dòng Đa Minh.

Trong khi linh mục cố tập trung tư tưởng để làm phận sự trước cái nhìn chòng chọc của người bệnh thì người ấy lại vẫy ông:

– Này, linh mục…

Linh mục cúi xuống, lắng nghe tiếng thều thào từ đôi môi khô héo:

– Con muốn nói gì? Ta nghe đây.

– Xin cảm ơn ông đã đến với tôi – người bệnh nói – Cảm ơn.

Linh mục sững người thấy người bệnh không gọi ông bằng “cha” xưng “con” như thói thường. Người bệnh hiểu tâm trạng của linh mục.

– Ông đừng bực mình. Cách xưng hô không làm nên con người, cũng như cái áo không làm nên thầy tu…

– Hừ. Không sao, tôi không câu nệ…

– Cảm ơn ông. Ông đã đến với tôi, thế là tốt lắm rồi. Ông khỏi cần làm lễ.

– Hử?

– Vâng, ông không cần làm lễ. Nó vô ích. Tôi có tin ở Chúa của ông đâu.

Người bệnh cố diễn đạt ý mình cho mạch lạc, với giọng khao khao của thanh quản bị tổn thương.

– Vậy ông cho mời tôi đến đây làm gì? – linh mục hỏi.

Người bệnh nhìn quanh rồi đặt ngón tay trỏ lên miệng.

– Cái gì vậy? – linh mục lo lắng nhìn quanh.

– Ông chớ nói to. Các cháu tôi nghe tiếng. Tôi không muốn chúng nghe câu chuyện giữa chúng ta.

– À! Tôi hiểu. – linh mục tự nhiên vào giọng với người bệnh, như một đồng loã, ông thì thào – Được, tôi sẽ nói khẽ.

Người bệnh động đậy mấy ngón tay.

– Phiền ông đỡ tôi ngồi lên.

Linh mục vòng tay ra sau gáy người bệnh, đặt ông ta dựa lưng vào vách. Làm xong việc đó, ông thở dốc.

– Thế. Tốt rồi. Khi ngồi tôi dễ thở hơn, nói cũng dễ hơn.

– Không cần làm lễ hử? Thật vậy sao: không cần? – linh mục thì thào.

Người bệnh nhìn ông, vẻ ái ngại:

– Ông cũng già quá rồi đấy, linh mục ạ. Ông ngồi xuống đây với tôi.

Linh mục ngồi ghé xuống mép phản.

– Sang năm tôi vừa đúng tám mươi hai.

– Nhiều quá rồi. – người bệnh thở dài – Linh mục đừng giận, nhưng sau lưng các cháu tôi, tôi phải nói thẳng với ông điều tôi nghĩ. Tôi không quen dối trá.

– Hừm… Tôi hiểu. – linh mục nói, giọng nhẹ nhàng, thậm chí vui vẻ, cố chứng tỏ ông không phật ý – Ông muốn chiều lòng các cháu?

– Đúng thế. Các cháu tôi tin ở Chúa. Tôi thì không. Chúng sốt sắng muốn tôi giở lại đạo.

– Họ cũng nói với tôi như vậy.

– Tôi chiều các cháu, tôi mới bảo chúng: tôi chỉ chịu xưng tội chịu lễ với cha ít nhất cũng phải ngang tuổi tôi. Hì hì…, tôi biết trong vùng này chỉ có một mình cha…

– Ông muốn chính tôi đến với ông?

– Cái đó có nguyên uỷ của nó, linh mục ạ, tôi sẽ nói vì sao. Tôi chỉ e ông không đến được. Tôi chờ ông đến. Nghe nói ông không còn làm công việc mục vụ nữa.

– Nhưng tôi đã đến.

– Cảm ơn ông. Tôi muốn trước khi chết tôi có dịp tâm sự với người cùng một thế hệ. Các cháu tôi yêu tôi, nhưng chúng không hiểu tôi bao nhiêu. Tôi rất muốn được nói chuyện với người ít nhất cũng đã sống trên trái đất này bằng số năm mà tôi đã sống. Chỉ người đó mới hiểu được những lời tâm sự của tôi, kẻ sắp qua đời…

– Vậy là ông đã có người mà ông cần để đóng vở kịch của ông. Còn để tâm sự, tôi e rằng ông chọn lầm người. Một linh mục thì có gì để tâm sự với một người thế tục cơ chứ?

Linh mục nhắp chân, toan đứng dậy. Người bệnh nắm lấy tay ông, giữ lại. Nắm chắc. Như một cái kìm.

– Nghe tôi đây này, thật mà, ông lầm người rồi. – linh mục cố gỡ ra, nhưng không được – Việc của linh mục là giảng đạo Chúa, nghe con chiên xưng tội và nhân danh Chúa giải tội cho họ. Còn tâm sự thì không. Việc đó không phải của linh mục.

– Tại sao lại như thế? – người bệnh chống tay muốn ngồi dây, gân cổ lên khao khao phản bác – Nghe lời tâm sự của kẻ sắp chết để hiểu người thế gian cũng là một việc nên làm lắm chứ…

Linh mục thở dài:

– Được, nếu ông muốn thế thì tôi sẽ ngồi đây với ông thêm một lát.

Trên đôi môi khô héo nhếch một nụ cười:

– Cảm ơn ông.

– Có gì mà ơn với huệ. – linh mục phẩy tay – Tôi cho phép ông nói dối các cháu ông rằng ông đã được làm lễ xức dầu. Chúa cũng sẽ tha cho ông tội nói dối ấy, bởi vì nó vô hại… Xong, ông để tôi đi.

– Ông đừng đi. – người bệnh vật nài – Ông sẽ ở lại với tôi cho đến lúc tôi đi khỏi đây nhá? Đi khỏi thế gian ấy mà. Ông gật đầu? Tôi biết: ông là người tốt. Một linh mục chân chính thì phải ở lại trước lời thỉnh cầu trước giờ lâm tử của một kẻ ngoại đạo, cho dù kẻ đó là tín đồ của Mahomet, của Thích Ca Mâu Ni, của chư thần Ấn giáo. Hoặc là kẻ vô thần chẳng tin ở cái gì hết.

– Ông tự tin quá đấy, nhưng trong chuyện này, ông có lý – linh mục nói – Tôi sẽ ở lại. Bao lâu cũng được. Tôi đã hết bận công kia việc nọ rồi.

Trên đôi môi khô héo của người bệnh nở một nụ cười rất hiền.

– Cảm ơn ông. “Điểu chi tương tử kỳ thanh tắc ai, nhân chi tương tử kỳ ngôn tắc thiện”, con chim gần chết thì tiếng kêu ai oán, người ta gần chết thì nói lành, ông có nhớ câu ấy không? Chẳng lẽ lúc này tôi lại nói với ông những điều xấu xa hay ác độc?

Ông ta nói phải, linh mục nghĩ. Ai rồi cũng sẽ qua cái cầu ấy. Không biết rồi mình có sẽ cần gặp ai đó trong giờ lâm tử để trút bầu tâm sự không? Có lẽ mình cũng cần đấy, nhưng mình sẽ không nói ra, nói cho đúng, mình không dám nói ra. Xấu hổ lắm. Chẳng ai muốn bày ra chỗ yếu đuối của mình.

Như đọc được ý nghĩ của linh mục, bàn tay xương xẩu của người bệnh bóp nhẹ cổ tay ông. Linh mục mỉm cười. Ông thấy trong lòng vui vui. Ông nhớ đến một người bạn trong thời thơ ấu, với cái bóp tay đồng loã khi hai đứa trèo vào vườn người ta hái trộm khế ngọt.

– Ông sẵn sàng nghe tôi nói chứ, linh mục?

– Ông cứ nói đi, tôi đã ở lại thì tôi sẽ nghe ông.

Người bệnh im lặng một lát, có vẻ ông ta muốn sắp xếp lại những ý nghĩ lộn xộn trong đầu trước khi nói ra. Đêm yên tĩnh lạ thường. Nghe rõ những giọt sương nặng từ mái lá rơi xuống lộp độp.

– Tôi xin lỗi đã làm ông buồn.

– Không, tôi không buồn. Có gì mà buồn?

– Tôi không tin có Chúa, bởi vì nếu có Chúa thì tại sao trái đất của chúng ta lại như thế này? Chúa có quyền lực vô biên mà. Tại sao Chúa lại sinh ra đau khổ bên cạnh hạnh phúc? Người nghèo bên cạnh người giàu? Người xấu bên cạnh người tồt? Và sự đểu cáng làm đau đớn những tâm hồn thánh thiện?

– Chúa đặt ra những thử thách cho con người để nó khẳng định mình, tự hoàn thiện mình – ông nói – Chỉ có một nơi ngự trị toàn sự tốt lành, ấy là Thiên đàng, nước Chúa.

– Nhưng nó ở xa lắm. Mãi đời sau kia – người bệnh cười méo mó – Đạo Phật cũng có một cái tương tự là Niết bàn – Nirvana. Linh mục có bao giờ nghĩ về sự vô lý này không? Với quyền lực vô biên, tại sao Chúa không dựng nước thiên đàng ở ngay đây, trên mặt đất nhầy nhụa mà chúng ta đang sống? Phải, tại nơi mà hàng triệu sinh mạng chết trong những cuộc chiến tranh chẳng có ích lợi gì cho họ, hoặc sống quằn quại dưới gót sắt của những bạo chúa, hoặc đi ra pháp trường bởi những lời xúi giục của đám chính trị gia lưu manh? Tại nơi có những giống nòi tự xưng thượng đẳng để đẩy những giống nòi khác vào chỗ diệt vong, nơi có hằng hà sa số nhà tù để giam đến chết những con người lương thiện thích sống bằng suy nghĩ chứ không thích sống để nghe lệnh?

Linh mục thấy mỏi mệt. Chẳng lẽ con người này lại dùng những phút cuối cùng của đời mình vào cái việc bàn luận chính trị chán ngắt?

Như đoán được linh mục nghĩ gì, người bệnh lắc đầu:

– Tôi hiểu, ông chán. Ông chẳng lạ gì điều tôi vừa nói. Ông biết quá đi ấy chứ. Nhưng tôi dám chắc chẳng bao giờ ông trả lời được câu hỏi đó, bởi vì ở các chủng viện người ta cũng chẳng bao giờ dám động đến nó. Các ông, những linh mục, các ông chỉ là những ông thủ từ, làm việc canh đền. Trong đầu các ông chỉ có kiến thức của những con vẹt. Trước những câu hỏi như thế các ông thủ từ của mọi thứ đền lập tức chạy vội đến chỗ ẩn náu tiện lợi gọi là đức tin, và thế là xong. Tin và đừng bàn cãi. Amen!

– Lạy Chúa tôi lòng lành chẳng cùng! Trước khi chết ông muốn phỉ báng đạo Chúa hử? Có phải vì ý muốn đó mà ông mời tôi tới đây? – linh mục tuyệt vọng kêu lên – Ông nghĩ tôi là ai? Kẻ thù của ông chăng? Kẻ gây ra đau khổ cho ông chăng?

Đến lượt người bệnh thở dài. Đó là tiếng thở dài chán ngán. Nó giống như luồng hơi cuối cùng trong bễ lò rèn trôi ra khi người phụ rèn dừng tay.

– Linh mục ạ, vậy mà nhìn ông tôi nghĩ học vấn và tuổi đời đã làm cho ông tỉnh táo nhiều hơn cơ đấy, và ông sẽ là người đối thoại tốt trong đêm chót của cuộc đời tôi. Tại sao ông lại lảng tránh những câu hỏi tự chúng nảy ra trong đầu chúng ta, chứ không phải chỉ trong cái đầu tôi? Sau bằng ấy năm ta sống? Chao ôi, linh mục ơi linh mục! Tôi chẳng còn dịp nào khác đâu. Tôi cũng chẳng còn ai để nói ra những gì chất chứa trong lòng. Tôi đâu có định gây sự với ông. Bây giờ tôi chỉ còn có ông để mà tâm sự thôi. Tôi xin thề rằng tôi không hề có thù riêng với Chúa của ông.

– Thế thì ông báng bổ đạo Chúa mà làm gì? – linh mục bực bội, nhưng ông lại nghe thấy giọng mình rền rĩ – Sự xúc phạm tới Chúa của tôi chính là sự xúc phạm tới tôi, bởi vì tôi, phần xác cùng là phần hồn, đều thuộc về Chúa.

Ông phản bác người bệnh, nhưng lại cảm thấy những lời phản bác ấy là để cho chính ông. Cứ mỗi phút trôi qua ông lại thấy gần hơn với con người khốn khổ sắp lìa bỏ cõi đời. Ông tự phân tích tình cảm của mình và hiểu rằng cái làm ông không thể chối bỏ cuộc gặp gỡ này, bây giờ đã trở thành cuộc đối thoại, chính là vì ngay từ phút đầu tiên ông đã cảm thấy rằng con người này thực sự cởi mở cõi lòng với ông, một người hoàn toàn xa lạ, nhưng tin cậy ông trước khi ông tin cậy ông ta. Ngay cả những con chiên ngoan đạo khi xưng tội với ông cũng không có sự cởi mở thực tâm từ đáy lòng như thế.

Người bệnh lẩm bẩm điều gì, linh mục nghe không rõ. Để nghe rõ hơn ông phải ghé sát vào mặt ông ta.

– Cuộc đời bao giờ cũng rối rắm hơn ta tưởng. – người bệnh nói khẽ, đôi môi mấp máy, rõ ràng không chỉ để nói với linh mục – Hình như để cho cuộc sống dễ chịu hơn, hoặc để giải thích cuộc đời một cách giản đơn hơn, con người nào cũng cần đến Chúa…

– Giê-su, lạy Chúa tôi, ông lại báng bổ nữa rồi, chẳng lẽ ông chỉ nhìn thấy nơi Chúa một vật dụng tiện lợi?

Linh mục kêu lên.

– Không phải Chúa Trời hay Chúa Giê-su đâu, linh mục. – người bệnh nói, linh mục nghe trong giọng nói của ông ta có tiếng cười – Tôi nói về một Chúa nói chung cơ, Chúa với tư cách niềm tin ấy, Chúa không phải của riêng đạo nào, với tư cách Đấng tối cao ở khắp mọi nơi, thông biết mọi sự. Nếu Chúa không có sẵn thì chính con người cần có Chúa sẽ tự mình tạo ra Chúa, cho nhu cầu của nó. Khi đã có Chúa trong tay, bất kể là Chúa nào – Chúa tìm thấy, Chúa tạo ra, Chúa vay mượn, Chúa mua sắm, Chúa nhập cảng…, tức thì nó lấy ngay Chúa mà nó sở hữu, Chúa của riêng nó, của phe phái nó tròng vào cổ đồng loại, coi đó là ưu thế của nó trên đồng loại, để được cảm thấy mình cao sang hơn đồng loại, chung cuộc là để thống trị đồng loại…

Linh mục không nói gì. Ông biết nói gì với những lời lảm nhảm ấy. Điều làm ông ngạc nhiên là bên trong những lời có vẻ báng bổ của người bệnh, có cái gì đó hữu lý, có thể cảm giác đó là do tính chất chân thành của lời nói gây nên.

– Linh mục, ông vẫn còn ngồi bên tôi đấy chứ? – người bệnh lặng đi một lát, bỗng kêu lên, thảng thốt.

– Tôi đây, – linh mục vội vã nói khi người bệnh làm một cử chỉ cố gắng để chồm dậy – tôi vẫn ngồi ngay bên cạnh ông đây mà.

Người bệnh thở ra một hơi dài.

– Vậy mà tôi thấy ông bị trôi ra xa đến nỗi tôi muốn với tới mà không được.

Linh mục đụng mấy ngón tay lên mí mắt nhắm nghiền của người bệnh. Cặp mắt mở ra, nhìn mà không thấy. Linh mục nghĩ có lẽ ông ta đang bước vào giai đoạn hấp hối. Nhưng người bệnh lại bừng tỉnh, cặp mắt lại trở nên có thần.

– Linh mục có gặp một người chết sống lại bao giờ không?

– Không, ông ạ.

– Tôi đã gặp hai người rồi đấy, họ chết hẳn rồi, cũng tin chắc như thế, nhưng rồi họ sống lại. Tôi hỏi họ thấy gì ở phút họ qua đởi thì họ nói….

– Họ nói sao?

– Họ kể rằng lúc họ trút hơi thở cuối cùng, họ biết. Lúc đó, trí óc họ minh mẫn lạ thường, như thể chưa bao giờ họ minh mẫn như thế.

– Rất có thể.

– Họ còn kể rằng người họ nhẹ như một sợi bông vậy, và họ rơi vào một bầu trời xanh kỳ lạ, màu xanh trong cuộc đời họ chưa từng gặp. Cả hai người hỏi mà tôi hỏi đều kể giống nhau.

– Người Thiên Chúa giáo chẳng tin điều đó. – linh mục nói, bất giác rùng mình – từ trái đất mà đi chỉ có hai con đường: một là bị quỷ dữ kéo xuống địa ngục, hai là được các thánh thiên thần rước lên thiên đàng.

– Ông lại nói như sách rồi, linh mục ơi. – đôi môi khô héo của người bệnh đụng đậy, như thế ông ta cười – Ông chớ tin hoàn toàn ở Kinh Thánh. Đến cả Chúa Ki-Tô không phải bao giờ cũng thực thà. Trong Kinh tuần giảng bảy ngày có kể chuyện để hạ nhục bọn lái buôn thành Giê-ru-sa-lem, Chúa đã giả vờ không rửa tay trước khi ngồi vào bàn tiệc để cho chúng có cớ cười nhạo ông, để rồi sau đó có dịp mắng chúng về chuyện sơn hào hải vị bày ra trên bàn tiệc chẳng phải do chúng làm ra, bằng chính những bàn tay sạch sẽ đã được rửa trước khi ăn. Giả vờ, thưa Linh mục, cũng là một dạng dối trá, tuy có nhẹ hơn. Xin Linh mục đừng giả vờ bác tôi, khi trong lòng ông, ông lắng nghe tôi, bởi vì ông hiểu tôi đang nói thật và điều tôi nói đáng để nghe.

Linh mục giật mình. Người bệnh như nhìn thấy ông trần truồng đứng trước ông ta và ông cảm thấy hổ thẹn.

– Ông cũng đã nhìn thấy màu xanh ấy rồi chăng?

– Đúng, tôi đã thấy nó. Mới vài phút trước đây thôi. Đó là một màu xanh hết sức lạ lùng, màu xanh trời, thiên thanh, chứ không phải xanh nước biển, trong vắt và sâu vô cùng tận, cái nhìn của ta không thể xuyên thấu. Nó đẹp một cách vô cùng quyến rũ, đẹp đến nỗi không sao dứt ra nổi, tưởng chừng cứ nhìn thêm vào nó một lát thôi là ta sẽ trôi tuột vào trong đó, vào cõi mà vô thức bảo ta rằng chính đó là cõi vĩnh hằng.

Linh mục bối rối im lặng:

– Ông nằm yên một lát chăng? Nói nhiều, ông mệt đấy.

– Ồ không, không sao, tôi đã mệt cả cuộc đời rồi, có mệt thêm một chút cũng chẳng hại gì… – người bệnh khẽ lắc đầu, hoặc linh mục cảm thấy thế – tôi mệt vì bị dối trá, tôi mệt vì tôi dối trá người khác… Tôi còn mệt cả vì tôi tự dối mình nữa, linh mục ạ. Con người nào mà không giăng cho mình sợi tơ nhện dối trá để cho chính mình sa vào? Sự dối trá êm ái ấy mấy ai thoát khỏi? Êm ái và tiện lợi.

– Cuộc sống nào chẳng do Chúa cho ta…

– Một sợi tóc rơi xuống cũng không ngoài ý Chúa, phải thế không? Như vậy thì, thưa linh mục, ta tồn tại làm gì? Tồn tại không phải để làm cái gì khác ngoài sự thực hiện ý Chúa hay sao? Nếu chỉ để làm như thế thì Chúa của ta thật trái tính trái nết. Và cái sự thực hiện mù quáng của ta mới vô duyên làm sao!

Linh mục cảm thấy sức lực rời bỏ ông. Tại tuổi già, tại chuyến đi xa mệt nhọc, hay tại chính những lời lảm nhảm này. Tranh luận để làm gì khi mỗi con người nhìn chân lý từ một phía, như những anh mù sờ con voi, anh nói giống cái cột, anh nói giống cái quạt?

Hai người im lặng một lúc lâu.

Linh mục nghe rõ tiếng khò khè trong cuống họng của người bệnh và tiếng đập đôi lúc đứt quãng trong huyết quản mình. Trái tim ông sắp hết hạn làm việc mà Chúa ban cho nó rồi. Khoảng hai năm nay nó bắt đầu làm việc ì ạch, đập năm bảy nhịp rồi ngừng một nhịp, sau đó lại tiếp tục đập. Bao giờ nó sẽ ngừng hẳn không đập nữa? Và trong phút đó ta có nhìn thấy màu xanh ma quái mà người này vừa nói tới không?

Con tắc kè đầu hồi lại lên tiếng rất gần. Nó kêu lúc đầu dõng dạc, từng tiếng phân minh, rồi nhanh dần và nhỏ dần như ngán ngẩm không buồn kêu nữa.

– Ông ngủ đấy ư? – linh mục hỏi.

– Không, tôi suy nghĩ.

– Ông nghĩ gì?

Người bệnh mỉm cười, mắt nhắm nghiền.

– Tôi nghĩ không biết có nên xưng tội với linh mục không?

Linh mục vuốt ve bàn tay khô xác của người bệnh.

– Đừng cưỡng bức mình làm cái việc mà mình không muốn. Cái đó chẳng có lợi cho ai.

– Nhưng nếu tôi lại rất muốn?

– Tôi sẵn sàng nghe ông, bởi vì tôi đã ở lại đây, bên cạnh ông, như ông đòi hỏi.

Đầu người bệnh gục xuống ngực, không cất lên nữa. Mái tóc bạc xõa xuống che lấp cả vẻ ủ rũ ấy làm động lòng linh mục. Ý nghĩ về cái chết tràn ngập tâm hồn ông.

– Tôi đã sống trên tám mươi năm trên thế gian. Tôi đã phạm phải vô vàn tội lỗi và hằng hà sa số sai lầm. Nhưng điều tôi muốn nói với linh mục lại liên quan tới một con chiên của Chúa, do đó tôi mới muốn xưng tội với ông, hay là với Chúa của ông thì cũng thế, bởi vì tôi coi mình đã làm thiệt hại cho Chúa mặc dầu theo thuyết tiền định của chính đạo Chúa thì mọi việc xảy ra đều do một ý Chúa. Tôi thấy ân hận vì việc mình làm, có nghĩa là trong việc đó tôi có tội…

Linh mục đặt tay lên đầu người bệnh:

– Tôi xin nghe ông, ông bạn già ạ.

– Sao linh mục lại gọi tôi như thế?

– Ông không phải con chiên của Chúa, nhưng ông là một con người thật thà.

– Cảm ơn linh mục.

– Nào, ông nói đi, nói đi cho nhẹ lòng.

Người bệnh tử từ ngẩng đầu lên. Linh mục nhìn thấy trước mắt mình đôi mắt không có hồn đang rõi ra xa.

– Khoảng năm chục năm trước – khi tôi còn trẻ, tôi đã giết một người.

– Giết người, đối với bất cứ tôn giáo nào cũng đều là trọng tội.

– Nói cho đúng, trong cuộc đời tôi, tôi đã giết nhiều người, nhưng tôi không thấy ân hận bởi vì nếu tôi không giết họ nhanh hơn họ giết tôi thì tôi cũng chẳng còn. Nhưng người mà tôi nói lại là người khác hẳn.

Người bệnh ngừng nói để lấy hơi. Mà cũng có thể ông ta chọn lời.

– Hồi đó tôi chỉ huy một trung đội trinh sát. Chúng tôi đi qua một làng mà năm trước giáo dân vừa nổi loạn. Họ đã giết một số bộ đội. Giết một cách dã man, bằng cách trói họ trong tư thế quỳ trong đám sú vẹt ven biển để cho họ phải chết từ từ trong nước triều dâng lên chậm chạp.

– Lạy Chúa tôi! – linh mục kêu lên, làm dấu thánh.

– Đám nổi loạn mà tôi nói tới đã bị dẹp, tình hình đã bình ổn, một năm rồi mà. Tôi nghĩ rằng đi qua đó chẳng có gì đáng lo ngại. Đến giữa làng mới biết là mình nhầm. Chuông nhà thờ bỗng nổi lên lanh lảnh, trống thúc dồn dập, tiếng người hò la dậy đất, rồi hàng loạt giáo dân xông ra. Một số trong bọn họ nổ súng vào chúng tôi. Thế là chúng tôi nổ súng bắn trả…

– Giê-su!

– Tôi bỡ ngỡ, tôi bàng hoàng, nhưng tôi còn đủ tỉnh táo để hạ lệnh cho bộ đội chúc nòng xuống mà bắn. Tôi không muốn gây ra chết chóc…

– Có phải ở Nam Định không?

– Vâng, ở đấy. Trên đường truy kích những tên cầm súng bắn chúng tôi – tôi gặp một thanh niên nằm ngửa, mắt mở to. Anh ta đã chết, đạn xuyên qua bụng phá ra hông thành một lỗ toác hoác.

Linh mục nín thở theo dõi câu chuyện.

– Tôi dừng lại, vuốt mắt cho anh ta. Tại sao tôi lại làm như thế, tôi không hiểu. Tôi đã dự nhiều trận đánh, đã thấy nhiều xác chết trong đủ mọi kiểu chết…

Người bệnh dừng lại như để hồi tưởng.

– Tôi dừng lại vì vẻ thánh thiện trên gương mặt trong sáng của người chết. Anh ta đẹp quá. Mà cái đẹp sinh ra để làm gì nếu không phải để tạo ra niềm vui, để dành cho tình yêu? Lẽ ra anh ta phải sống, để ôm ấp trong tay một người con gái đẹp, xứng đáng với anh ta. Để rồi cô gái sẽ sinh cho anh nhưng đứa trẻ đẹp như bố mẹ chúng. Vậy mà anh ta đã chết…

Linh mục nuốt nước bọt. Họng ông bỗng khô khốc.

– Ông đã có ý nghĩ của Chúa. – linh mục nói – Người có ý nghĩ của Chúa là người có lòng lành.

– Có thể chính tôi đã giết anh ta. Trong chiến trận nói chung chẳng ai biết kẻ nào phía bên kia đã chết vì viên đạn của mình… Khi những người sẵn sàng tử vì đạo kia xông lại, tôi đã bắn, và không phải chỉ một băng đạn. Họ hung hăng quá, tôi nghĩ họ đã nốc rượu vào khi xung trận…

Người bệnh lặng đi trong cơn xúc động, cái đầu nặng nề lại gục xuống, mái tóc bơ phờ lại che khuất gương mặt mà linh mục rất muốn được thấy trong lúc này.

Linh mục bối rối, ông muốn nói điều gì, nhưng không cất nổi lời.

Người chết ngẩng mặt lên. Nhưng đôi mắt đã đục chẳng còn thấy gì ở phía trước.

Hai người im lặng một lúc lâu.

– Rồi sau thì sao? – linh mục run run hỏi.

Người bệnh thở dài:

– Đoạn kết ông đã biết nó thế nào.                                                              

Linh mục rùng mình.

– Vâng, tôi biết. – ông xúc động nói – Ông đã nhận ra tôi.

– Vâng, đến vùng này tôi đã gặp ông, đã nhận ra ông.

– Ông đã giết em tôi?

– Tôi không dám nói chắc. Tôi chỉ nói rằng rất có thể chính tôi đã giết anh ấy. Xác chết nằm trên đường đi của những viên đạn chúng tôi bắn ra. Cũng có thể anh ấy chết vì viên đạn của người khác, nhưng tôi thì cứ đinh ninh chính tôi đã làm điều đó…

– Sao hôm ấy ông lại ngăn không cho những người lính của ông bắn chết tôi khi tôi vác dao lăn xả vào chém ông? Vết thương ở vai chắc còn đấy. Tôi nhớ, máu chảy ra xối xả, vọt đẫm mặt tôi…

– Còn cái sẹo, linh mục ạ. Nó đây.

Người bệnh đưa tay lên để vạch áo, nhưng cánh tay vừa giơ lên đã rơi thõng xuống. Linh mục nhích lại gần giúp ông ta. Khi linh mục trật vai áo của người bệnh ra ông nhìn thấy một vết sẹo thâm xì sâu hoắm.

Người bệnh nhìn ra phía trước, xuyên qua linh mục xuyên qua bức vách, tới một nơi nào rất xa.

– Bây giờ thì tôi hiểu vì sao ông không mời linh mục nào khác mà cứ đòi gặp chính tôi. – linh mục buồn bã nói, kéo cổ áo cho người bệnh để che đi vết sẹo – Ông muốn biết tôi bây giờ thế nào…

– Cái quả đã xứng với cái cây. – người bệnh nói – Tôi chẳng than phiền.

– Hạt thiện gieo xuống đâu thì cây thiện mọc lên ở đó. Tôi hằng cầu nguyện cho ông. Nếu không có ông gạt nòng súng ra thì viên đạn của người lính đã kết liễu đời tôi…

– Tôi không nghĩ tới làm ơn. Bản năng thiện trong tôi đã làm việc đó.

Linh mục đặt tay lên vai người bệnh:

– Ông không có vợ con sao? Ở đây tôi chỉ thấy những người cháu.

– Có chứ. Rồi tôi cũng có một gia đình. Tôi có vợ, có hai đứa con. Nhưng chiến tranh đã xoá sạch dấu vết cái gia đình ấy. Như thể bằng một nhát chổi…

Con tắc kè lại kêu lên một hồi, tiếng của nó vang động trong rừng đêm.

– Mấy giờ rồi, thưa linh mục?

– Có lẽ đã gần hai giờ sáng. Tôi không mang đồng hồ. Từ lâu, thời giờ đối với tôi chẳng còn ý nghĩa.

– Ông ở lại với tôi đến cùng nhé?

– Tôi sẽ ở lại.

Người bệnh ngẩng đầu lên, hướng cái nhìn mà không thấy vào mặt linh mục. Linh mục bối rối đảo mắt qua nơi khác.

– Tôi đã xưng tội. Bây giờ ông hãy nhân danh Chúa của ông mà tha tội cho tôi đi.

Linh mục ngập ngừng, rồi làm dấu thánh trên đầu người bệnh.

– Chúng ta đều có tội trong điều răn thứ nhất…

– Chớ giết người! – người bệnh nói.

– Tôi cũng có tội. Như ông. Hôm đó tôi đã bắn về phía các ông. Tôi nhìn thấy một người lính ngã xuống trước họng súng của tôi. – linh mục nói – Viên đạn bắn trúng anh ta có thể không phải là của tôi, tôi không dám nói chắc, nhưng cũng như ông tôi nghĩ viên đạn là của tôi. Lúc đó tôi còn trẻ. Có lẽ trẻ hơn ông. Lúc đó chúng tôi nhìn các ông như kẻ thù không đội trời chung. Chúng tôi đã quên lời dạy của Chúa: “Hãy thương yêu người ta như mình vậy”. Chính tôi là một trong những người được bề trên sai trói chín anh bộ đội vào đám sú vẹt năm trước đó. Trong số chín người ấy có một anh bộ đội rất trẻ. Khi tôi trói anh ta, anh ta nhìn tôi và thật ngạc nhiên, tôi không thấy trong đôi mắt ấy có một chút oán giận, một chút căm thù. Chỉ có sự ngỡ ngàng, bối rối, như trước một điều khó hiểu. Tôi đứng gần đấy cho đến khi nước triều lên chậm chạp, bắt đầu vượt qua đầu gối họ, lên tới bụng họ, rồi tới ngực họ. Cả chín người đều im lặng. Tôi chờ anh thanh niên kia van xin tha chết, nhưng anh ta im lặng. Tôi không chịu nổi cái nhìn ấy hơn nữa, tôi không còn sức để chịu đựng hơn nữa, tôi hấp tấp bỏ đi vài phút trước khi nước lên tới cằm họ…

Linh mục quỳ xuống trong một dáng điệu trịnh trọng.

– Tôi cũng xưng tội ấy với ông. Chính việc làm của ông đã làm bản năng thiện trong tôi bừng tỉnh. Ông đã cắt đứt sợi dây của cái ác luân phiên. Từ đó tôi nguyện suốt đời làm tôi tớ Chúa, ghé vai vác cây thập ác nặng nề của ý Chúa cứu rỗi loài người…

Người bệnh ngồi im lặng như nhập định.

Linh mục ngước mắt lên, hai tay chắp trước ngực.

– Nhân danh Cha và con, và thánh thần, kẻ tôi tớ Chúa xin Chúa lòng lành tha mọi tội lỗi cho những đứa con dốc lòng chừa cải…

– A-men!

Cầu nguyện xong, linh mục ngồi lên giường, đối diện với người bệnh, nắm lấy hai bàn tay lạnh giá của ông ta. Người bệnh hiểu cái nắm bàn tay gần gũi và thân thiết ấy:

– Xin vĩnh biệt linh mục. Ông có thể đi được rồi đấy. Ý nguyện của tôi đã được thực hiện. Từ khi biết linh mục ở đây, tôi rất mong được gặp lại…

– Chúng ta đã gặp nhau. – linh mục bóp mạnh bàn tay khô xác – Tôi mừng gặp lại ông, ân nhân của tôi.

– Ân nhân gì? Đó là ý Chúa. Vĩnh biệt!

– Khoan hãy vĩnh biệt. – linh mục thảng thốt kêu lên – Bây giờ tôi không muốn đi đâu hết. Tôi muốn ngồi lại với ông.

– Chúng ta còn có chuyện gì để nói nữa đâu? Những gì cần nói, thì tôi đã nói hết rồi.

Linh mục một lần nữa bóp chặt hai bàn tay người bệnh.

– Bây giờ đến lượt tôi muốn hỏi ông. – ông nói, hổn hển vì quyết định của mình – Chúa của ông là ai?

– Tôi không có Chúa.

– Ông có Chúa của ông. Như chúng tôi có Chúa của chúng tôi.

– Không, tôi không có Chúa. Nói cách khác, tôi từng có một thứ như thế…

– Ông đã là người cộng sản, phải không?

– Ông muốn nói một đảng viên cộng sản?

– Vâng.

– Trong ý nghĩa ấy thì không. Bây giờ thì không.

Người bệnh cười to theo cách của ông ta, há miệng không thành tiếng và đôi vai gầy rung rung.

Khi hai vợ chồng người cháu hé tấm liếp nhìn vào căn lều, họ thấy linh mục và người sắp chết ngồi ôm nhau trên giường, người nọ gục vào vai người kia, hai đôi vai gầy thỉnh thoảng giật lên khe khẽ trong ánh sáng nhợt nhạt của cây tọa đăng đã cạn dầu.

 

1988-2004

Tác giả gửi Văn Việt.

Trả dạy đọc Văn về đúng bản chất của hoạt động đọc

Văn Việt: Việc dạy-học Văn trong nhà trường có tác động vô cùng lớn đối với sự phát triển của học sinh về nhiều mặt, không chỉ về kiến thức văn chương, và cũng là cái gốc sâu quyết định chất lượng sáng tạo văn học của các cây bút tương lai. Cách dạy-học “chính trị hoá”, “đạo đức hoá” môn Văn theo “định hướng” quan liêu áp đặt của người soạn sách giáo khoa lâu nay đã giết chết tình yêu văn chương “bản nhiên” của các em nhỏ và làm thui chột nhiều mầm mống sáng tạo văn học của đất nước. Thay đổi bản chất việc dạy-học Văn trong nhà trường phổ thông là yêu cầu bức bách khách quan mà ngành Giáo dục không thể bỏ qua trong “trận đánh lớn” đổi mới toàn diện đang được tuyên truyền rầm rộ.

 

Trả dạy đọc Văn về đúng bản chất của hoạt động đọc

TS Dương Thị Hồng Hiếu (Trường ĐHSP Tp HCM) cho rằng: Dù đã có nhiều thay đổi nhưng việc dạy học văn bản văn học ở trường phổ thông hiện nay vẫn chủ yếu“đọc để lấy thông tin”, chú trọng việc học văn học và giúp học sinh tích lũy kiến thức về văn học.

Văn bản văn học chưa được coi là nguồn tài nguyên và giáo viên chưa quan tâm đến việc giúp học sinh học những kiến thức văn học để giúp học sinh phát triển khả năng cảm thụ, tự ý thức và hiểu hơn về thế giới xung quanh.

Trong lớp học, dù đã có nhiều sự trao đổi, thảo luận sinh động nhưng giáo viên vẫn là trung tâm, là người quyết định tất cả. Học sinh vẫn chỉ hoạt động một cách “tích cực” theo yêu cầu của giáo viên.

Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay, để đổi mới việc dạy học văn nhằm đáp ứng nhu cầu thời đại, theo TS Dương Thị Hồng Hiếu, phải thay đổi đồng bộ từ quan niệm về mục tiêu môn học, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học và cách thức kiểm tra đánh giá.

Đứng từ góc độ bản chất của hoạt động đọc văn, TS Dương Thị Hồng Hiếu đề xuất:

Về quan niệm dạy đọc văn bản văn học: Hiểu “đọc” là kiến tạo nghĩa thì việc dạy đọc văn trong nhà trường chính là quá trình tương tác giữa cá nhân học sinh với chính mình, với văn bản và với xung quanh, bao gồm giáo viên, các học sinh khác và những người khác (hiện diện thông qua các ý kiến của họ được trình bày trong các kênh thông tin khác nhau).

Thông qua quá trình này, học sinh dựa trên kiến thức nền tự kiến tạo nghĩa cho tác phẩm. Qua đó, học sinh phát triển năng lực cảm thụ, giao tiếp, tự ý thức và hiểu hơn về thế giới xung quanh.

Ngoài ra, qua quá trình dạy đọc Văn, giáo viên còn cần giúp học sinh yêu thích đọc tác phẩm văn học hơn và biết dùng những kinh nghiệm có từ việc đọc này để giúp cho cuộc sống của chính học sinh trở nên tốt hơn.

Chương trình học phải có độ mở nhất định lấy kĩ năng chứ không phải nội dung kiến thức làm chính. Nên có nhiều bộ sách giáo khoa hoặc có một bộ gồm những văn bản bắt buộc, phần còn lại để giáo viên và học sinh tự chọn.

Về phương pháp giảng dạy: Giáo viên cần hiểu vai trò của mình không phải là người truyền đạt kiến thức mà là giúp tạo ra một môi trường thân thiện phù hợp để học sinh cảm thấy thoải mái tự do kiến tạo nghĩa cho văn bản.

Do vậy, giáo viên cần quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động nhằm khơi gợi, tạo hứng thú đọc cho học sinh. Giáo viên cần giúp cho học sinh cảm thấy tự tin về khả năng “đọc” của mình để học sinh có thể tự nhiên phát biểu những suy nghĩ về văn bản.

Học sinh phải hiểu được rằng việc hiểu không đúng hay mắc lỗi khi đọc cũng như việc có nhiều ý kiến trái ngược hoặc khác nhau về cùng một văn bản là điều hoàn toàn tự nhiên.

Ý kiến của giáo viên chỉ là ý kiến của một bạn đọc có kinh nghiệm hơn và không tồn tại cái gọi là “hiểu đúng”.

Việc học văn bản trong nhà trường chỉ là những khơi gợi đầu tiên và học sinh cũng như những người khác vẫn có thể tiếp tục suy nghĩ và có những khám phá tiếp theo về văn bản. Giáo viên có thể sử dụng bất cứ phương pháp giảng dạy nào miễn là đáp ứng những yêu cầu nêu trên.

Về kiểm tra đánh giá: Cần phải chú ý cả đánh giá tổng kết và đánh giá quá trình. Người ra đề thi có thể chọn bất cứ văn bản nào để ra đề, không nhất thiết phải là văn bản học sinh đã được học. Đề thi không nên chú trọng kiểm tra ghi nhớ kiến thức mà cần phải đánh giá được năng lực đọc văn của học sinh.

TS Dương Thị Hồng Hiếu cho rằng, những thay đổi này nếu được thực hiện sẽ trả việc dạy đọc văn về đúng với bản chất của hoạt động đọc, giúp học sinh thấy được ý nghĩa của việc đọc văn, từ đó yêu văn học và đồng thời giúp học sinh thực sự biết dùng những điều đã học để làm cho cuộc sống của họ trở nên tốt đẹp hơn.

Hải Bình (ghi)

Nguồn: http://giaoducthoidai.vn/trao-doi/tra-day-doc-van-ve-dung-ban-chat-cua-hoat-dong-doc-109899-v.html

THẢO LUẬN VỀ DỊCH THUẬT (5): Đôi điều về dịch thuật

(tài liệu tham khảo)

Trịnh Y Thư
 
1.
Trước khi nói đến dịch thuật, bạn hãy cho phép tôi đưa ra một nhận định hết sức cơ bản và sơ đẳng như sau: Giữa bất kì hai ngôn ngữ dân tộc nào không hề hiện hữu sự đồng dạng cùng chia sẻ một hệ thống phối ngữ biến những kí hiệu ngôn từ hữu cơ thành những biểu hiệu có ý nghĩa. Nếu bạn chấp nhận đó là định đề hay nguyên lí đã được chứng minh thì tôi có thể rút ra một hệ luận dùng làm nguyên tắc chỉ đạo cơ bản cho công việc dịch thuật, đó là, nội dung một dịch phẩm ít nhiều có thể bị thêm, bớt, hoặc sai lệch với nguyên tác. Hầu hết các thể loại dịch thuật đều bị chi phối bởi nguyên tắc này, ít hơn ở sách giáo khoa, khoa học thường thức và nhiều hơn ở bình diện văn học. Nếu bạn đồng ý như thế, tôi có thể bảo dịch thuật văn học là sự tái tạo, hoặc sáng tác lại, một tác phẩm văn học để cho nó một đời sống mới.
 
Rất có khả năng nó sẽ tái hiện ở một “đời sống mới”. Bốn thành tố quyết định đời sống của tác phẩm là thời đại, nhà văn, tác phẩm và người đọc; một dịch phẩm hiển nhiên phải có riêng nó một đời sống mới bởi nếu dịch phẩm thành công thì chí ít năm mươi phần trăm những thành tố trên là mới. Đời sống mới này đôi khi còn rực rỡ, trường tồn hơn đời sống “cũ” của nguyên tác như trường hợp bản dịch Chinh Phụ Ngâm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm; và, nhìn ở góc độ nào đó, Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du cũng là tác phẩm dịch.
 
Trên các diễn đàn văn học đã có khá nhiều những nhận định sâu sắc và giá trị về dịch thuật văn học. Tựu trung, có hai xu hướng: hoặc trung thành với văn bản của nguyên tác; hoặc đặt trọng tâm vào yêu cầu tiếp nhận của ngôn ngữ dịch. Theo tôi, ở thời đại của chúng ta, quan niệm đúng đắn phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai xu hướng. Mặc dù những tôn chỉ chung chung như tín-đạt-nhã kềm chế người dịch, không cho hắn sa đà, nhưng người dịch không còn là kẻ “tra từ điển chuyên nghiệp” nữa. Có khoảng đất trống chừa cho hắn để hắn phô diễn nét tài hoa trong sáng tạo của mình. Câu hỏi được đặt ra là khoảng đất trống đó rộng rãi thong dong lắm không và có giới hạn nào không? Nếu bạn là Bùi Giáng thì không giới hạn nào có thể ngăn trở bạn được. Bạn có thể “tương” vào cả chục câu lục bát rất ư là Bùi Giáng ngay giữa mạch truyện của nguyên tác. Sự can thiệp tới hạn của người dịch như thế hiển nhiên có thể làm nhiều vị học giả nghiêm túc cau mày khó chịu. Riêng tôi, tôi thấy thú vị bởi tôi đang thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải một cuốn sách y học. Nhưng tôi không thể làm như Bùi Giáng, lẽ dễ hiểu bởi tôi không có văn tài độc đáo như ông. Nói như thế, dịch phẩm sẽ mang diện mạo của người dịch và điều đó góp phần không ít vào việc tiếp nhận của người đọc. Tôi không phủ nhận giá trị những dịch phẩm nghiêm chỉnh tuân thủ từng câu, từng chữ, từng dấu chấm dấu phết trong nguyên bản, nhưng tính Dionysian trong nghệ thuật bao giờ cũng hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn và tôi sẵn sàng hi sinh cái chân lí tuyệt đối (đôi khi rất vô tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn.

2.
Song bạn có thể hỏi ngược lại tôi: “Đọc Mùi Hương Xuân Sắc, tôi đâu muốn đọc Bùi Giáng, tôi muốn đọc Sylvie của Gérard de Nerval cơ mà. Chỗ nào cũng thấy Bùi Giáng ‘lai rai phiêu hốt’ còn tác giả ra sao, văn phong như thế nào thì chẳng thấy đâu.”
 
Văn phong hay phong cách trong văn học là đề tài lớn, chúng ta từng nghe nhiều nhà phê bình nói đến. Tôi vốn dị ứng với lí thuyết văn học nên không dám nói gì ở đây ngoại trừ định nghĩa cơ bản của cụm từ “phong cách văn học.” Theo tôi, phong cách trong văn học giản dị là phương thức biểu đạt nghệ thuật, nó tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của nhà văn.  Nó chính là nghệ thuật của sáng tạo. Nhìn rộng hơn, các nghệ sĩ lớn qua mọi thời đại đều có riêng cho mình cái phong cách đặc trưng này và nó có yếu tính như một dấu ấn khắc họa chân dung nhà nghệ sĩ. Claude Debussy và Maurice Ravel sinh cùng thời, đều là người Pháp, cùng sáng tác dưới luồng sáng của nhạc phái Ấn tượng, nhưng nhạc của hai ông khác nhau lắm, người nghe không thể nào lẫn lộn được. Đó là nhờ mỗi ông đều thành công trong việc tự tạo cho mình cái dấu ấn đặc trưng. Đôi lúc tôi nghĩ nghệ thuật phải chăng chỉ có thế, kẻ thành công lưu danh muôn thuở chẳng qua chỉ là kẻ có cái tài năng vượt trội biết sáng tạo nên cái khác thường, độc đáo, mà sau khi công bố người đời nhìn vào đều phải bật ngửa, ngẩn ngơ thốt lên, “Ủa, có dzậy thôi mà hồi nào đến giờ mình hổng thấy cà?”
 
Phong cách trong văn học định đoạt tiềm năng nghệ thuật của tác phẩm. Gustave Flaubert bỏ ra năm năm trời để viết cuốn Madame Bovary. Tác phẩm ra đời đánh dấu khúc quành quan trọng trong văn học Pháp tiền bán thế kỉ XIX. Ngoài sự kiện nó là cuốn tiểu thuyết “tâm lí” đầu tiên, chính phong cách nghệ thuật của nó, nội dung cũng như hình thức, đã khiến nó được công chúng nồng nhiệt đón nhận. Baudelaire bảo sau Balzac chính Flaubert là người bứt phá, đập tan cái trì trệ của văn học Pháp lúc đó.
 
Nghệ thuật nằm ở cái “thần” của tác phẩm. Nắm bắt cái “thần” đó trong nghệ thuật rồi tái tạo nó ở một tính thể khác, theo tôi, không phải là chuyện bất khả nhưng nó đòi hỏi tài năng và sức làm việc khủng khiếp lắm. Tôi đang nghĩ đến tác phẩm tiểu thuyết Lolita của văn hào Vladimir Nabokov. Trong tác phẩm tiểu thuyết này Nabokov thuật một câu chuyện vô luân bằng thứ ngôn từ phải nói là linh diệu. Cú pháp và thủ pháp sử dụng Anh ngữ của ông kể như vào hàng cao thủ thượng thừa, chí ít cũng mười hai thành công lực. Tiếng Việt của tôi cũng phải linh diệu như tiếng Anh của Nabokov để dịch tác phẩm này, nếu không, tôi sẽ giết Nabokov mất vì tôi biến tác phẩm nghệ thuật của ông thành chuyện dâm ô! Nhưng cái vi tế trong mỗi từ tiếng Anh, liệu tôi có thể tìm thấy nét tương đương trong tiếng Việt không? Căn cứ vào định đề đặt ra ở phần vào nhập của bài viết, câu trả lời là không và có lẽ tôi sẽ không công bằng với Nabokov chút nào. Văn phong của Nabokov chính là cái linh diệu của ngôn từ ông sử dụng trong ứng tác nghệ thuật. Thế nhưng nếu chỉ với bút pháp dịch thuật linh diệu thôi thì đã đủ để lột tả phong cách văn học (nghệ thuật) của Nabokov chưa? Tôi không biết bạn ạ, bởi nó thuộc về cái bất khả tư nghì mất rồi, tôi phải dùng trực giác để định đoạt thôi và chưa chắc tôi đã thành công. Chữ nghĩa nằm nơi tầng thứ nhất của tác phẩm, tầng thấp nhất, dễ tiếp cận nhất và cũng dễ chuyển dịch nhất; sang tầng thứ hai, tầng chứa đựng cảm xúc, nếu khéo léo và với nỗ lực tối đa, có thể tôi nắm bắt được; nhưng đến tầng thứ ba, tầng cao nhất, nơi cái “thần” của tác phẩm ẩn nấp, của cái bất khả tư nghì thì tôi chỉ có cách dùng trực giác mình để “tùy cơ ứng biến” mà thôi.
 
3.
Traduttore, traditore—dịch là phản. Dĩ nhiên, giữa hai nền văn hoá bao giờ cũng hiện hữu những giá trị tương phản gần như nghịch lí, nhưng càng ngày, do sự toàn cầu hoá cộng thêm sự bùng nổ của Internet, tính tương phản ấy càng thu nhỏ. Hơn nữa, từ lâu tôi đã không xem ý nghĩa của nó là chân lí. Ngược lại là đằng khác, bởi nó có tính thời thượng. Với tôi, nó chỉ có tác dụng cảnh báo người dịch phải cẩn trọng tối đa bởi muôn vàn cạm bẫy cùng hầm hố lúc nào cũng túc trực chờ đón người dịch để chôn vùi hắn nếu hắn cẩu thả, không chịu khó tìm hiểu thấu đáo văn bản nguyên tác trước khi hạ bút. Tín-đạt-nhã. Ba tôn chỉ người Trung quốc đặt ra cho công việc dịch thuật, tưởng đơn giản nhưng quả thật không dễ dàng và con đường người dịch chọn lựa cho mình đi không rộng rãi bằng phẳng chút nào.
 
Cách đây ít lâu tôi bạo gan dịch và xuất bản cuốn tiểu thuyết The Unbearable Lightness of Being của nhà văn Tiệp Khắc Milan Kundera. Thoạt nhìn vào nhan đề cuốn sách, hiển nhiên vấn đề quan trọng và gay go nhất cho người dịch là làm thế nào để dịch từ “being” cho chuẩn và hay. Tôi đã mất khá nhiều thời gian suy nghĩ tìm kiếm một từ tiếng Việt thích hợp cho nhan đề của bản dịch. Khi tác phẩm khởi đăng nhiều kì trên tạp chí Hợp Lưu, tôi chọn nhan đề “Nhẹ Kiếp Nhân Sinh” vì tôi thấy cụm từ “kiếp nhân sinh” có vẻ “ăn khách vì hợp thời trang triết học hiện sinh” lắm. Trong đám bạn bè có người thích nhan đề này. Tuy vậy tôi vẫn thấy có cái gì không ổn và tôi nhíu mày bảo anh, “Nhưng nhan đề thiếu chữ Unbearable vốn quan trọng không kém và Kundera sẽ không vui nếu ông ta biết tớ bỏ một chữ của ông ấy, làm sao bây giờ? Hay là cậu cho tớ thêm chữ Khôn Kham vào thành Khôn Kham Nhẹ Kiếp Nhân Sinh nhá. Nghe như câu lục của bài thơ lục bát ấy. Được không?” “Xì, tựa sách gì mà dài như chợ Đệu, chẳng ma nào thèm mua đọc đâu.” Anh bạn tôi trề môi lắc đầu. Thế là sách có nhan đề mới “Đời Nhẹ Khôn Kham” như bạn thấy. Từ “nhân sinh” biến thành “đời” và Kundera, nếu biết, chắc chắn sẽ không vui bởi “being” với ông không phải là “đời sống”! Ngay cả “nhân sinh” hoặc “hiện tính”, “hiện hữu”, “hữu thể”, “thể tính”, “con người”, “thể chất”, “bản chất” và cả chục từ khác tôi tìm thấy trong các từ điển Anh-Việt cũng không thể nào phù hợp một cách xác thực với ý nghĩa Kundera muốn nói đến trong từ ngữ. Ông nói như sau về ý nghĩa của từ “being” dưới nhãn quan siêu hình của ông: “… Nếu sau khi chết chúng ta vẫn tiếp tục mơ, sau cái chết vẫn còn có cái gì đó thì cái chết không thể nào giải thoát chúng ta ra khỏi nỗi kinh khiếp của cái being.” Đúng ra, ông mượn câu độc thoại của Hamlet “To be or not to be” trong bi kịch Hamlet của Shakespeare.  “… Hamlet đưa ra vấn nạn về cái being chứ không phải đời sống. Sự kinh khiếp của being là: Cái chết có hai mặt. Một mặt là cái non-being, mặt kia là sự hiện hữu vật thể ghê sợ của cái thây ma.”
 
Phải chi tôi được quyền dịch là “Khôn Kham Nhẹ Cái Bi-ing”! thì đỡ khổ cho tôi biết mấy. Thôi, tôi đành phụ lòng Kundera vậy. Nếu người dịch là kẻ bắc cầu giữa hai nền văn hóa thì cây cầu của tôi là cây cầu khỉ lắc la lắc lẻo băng qua đại dương đầy sóng dữ.

4.
Bạn hỏi tôi tại sao chọn con đường dịch thuật. Không, tôi đâu có chọn nó. Nó chọn tôi đấy chứ. Dịch mệt lắm. Dịch còn có nghĩa là sai khiến. Với tôi, nó đồng nghĩa với “dịch vật”. Từ điển Hán-Việt của cụ Đào Duy Anh định nghĩa “dịch vật” là “Sai khiến mọi vật, như dùng trâu cày dùng ngựa cỡi.” Đôi khi người dịch chẳng qua chỉ là con trâu kéo cày, bảo gì làm nấy, đổ mồ hôi, sôi nước mắt.
 
Và “dịch vật” nhất là dịch thơ.
 
Dịch một bài thơ có lẽ nhanh chóng hơn dịch một cuốn tiểu thuyết nhưng chưa chắc đã dễ dàng hơn. Tôi không tin tưởng vào việc dịch thơ lắm mặc dù trước đây tôi có lai rai dịch một số thơ của Yevgeny Yevtushenko, Boris Pasternak, Czeslaw Milosz, Robert Frost . . . sang Việt ngữ, phần lớn là những bài tương đối dễ dịch, dễ hiểu, không đòi hỏi chữ nghĩa ẩn mật hoặc tư duy siêu hình. Có nhiều lập luận chống đối việc dịch thơ, phần lớn là của các nhà thơ. Họ bảo bản dịch không bao giờ lột tả được trọn vẹn cái phong phú và ẩn mật của chữ nghĩa trong nguyên tác. Quả tình tôi không rõ lắm, hoang mang là đằng khác, và mỗi lần dịch thơ, tôi đều cảm thấy có cái gì bất ổn.
 
Nghệ thuật thơ là phương thức phối từ trong câu thơ khiến cho ý thơ trở nên phong phú, tạo phong cách nghệ thuật, gây thú vị nơi người đọc. Mỗi từ đứng riêng một cõi xem tầm thường vô vị nhưng khi kết hợp nhau nhờ cây đũa thần của nhà thơ bỗng như mang sức mạnh truyền tải cảm xúc mạnh mẽ. Giở ra một bài thơ nổi tiếng của một thi hào lớn nào đó, tôi thấy các từ ngữ ăn nằm với nhau như các gam màu trên bức tranh tuyệt hảo và hồ như chúng chỉ có tác dụng ở ngôn ngữ của nguyên tác thôi, khi chuyển sang ngôn ngữ khác, hiệu ứng đó mất sạch. Tôi không rõ lắm, chỉ mơ hồ nhận biết như vậy. Nhưng bạn cứ để tôi tiếp tục dịch bài thơ. Rồi nhạc tính trong thơ. Tôi phải cải biên tính nhạc của bài thơ như thế nào để khúc giao hưởng hoành tráng tuyệt vời đừng biến thành giai điệu tưng từng tứng tưng từng vô vị, gượng ép. Rồi cảm xúc của bài thơ—nếu bạn theo tôi trèo lên tầng thứ hai của thi phẩm—sẽ ra sao nếu chúng ta cho nó cái đời sống mới mà chúng ta o ép gán lên nó? Ngoại trừ những thể thơ cố tình chối từ cảm xúc (mà từ lâu tôi ngưng theo dõi vì quá ngán ngẩm), phần lớn thi ca của nhân loại đều mang nặng tính trữ tình. Ở đó, trĩu nặng đằng sau mỗi từ ngữ, mỗi con chữ, là cả một khung trời, một mảnh đất, một dòng sông, một con phố, một dung nhan, một tình yêu, một cành cây, một phiến đá, một ngôi nhà, một thành quách, một đền đài, một kỉ niệm, một quãng đời, một lịch sử, một thời đại đặc trưng mà khi chuyển ngữ chúng như bị lưu đày sang mảnh đất hoàn toàn khác lạ. Những con chữ thốt nhiên hoảng loạn; chúng li tán, ngơ ngác, loạn xạ; lai lịch chúng biến đâu mất, bản lai diện mục chúng không còn mà còn lại chỉ là những xác chữ vô hồn. Bài thơ trở nên vô cảm. Tôi nhìn những từ ngữ đường bệ hạnh phúc nằm bên nhau trong bài thơ nguyên tác bỗng thấy tội nghiệp cho chữ nghĩa của tôi nhếch nhác buồn thảm như những khuôn mặt đám lưu dân vô tổ quốc bên bài thơ dịch và tôi vò nát trang giấy rồi ném nó vào sọt rác.
 
Có lẽ tôi sẽ vẫn dịch thơ nhưng quả thật đó chỉ là công việc của người học trò tập tành làm thơ.
 
5.
Các nền văn học dân tộc trên thế giới hầu hết đều có truyền thống dịch thuật lâu dài. Nhiếu chứng tích thư tịch cổ cho thấy loài người đã dịch từ khi có ngôn ngữ viết. Sự trưởng thành của nền văn học dân tộc nào cũng kèm theo sự trưởng thành của các cao trào dịch thuật. Riêng ở Mĩ, xứ sở tôi đang sinh sống, gần như không có tác phẩm nghệ thuật quan trọng nào không được dịch sang Anh ngữ, từ Homer đến Đường thi, Hài cú. Thậm chí Tôn Tử Binh Pháp của Tôn Tử viết từ thời Chiến Quốc bên Trung Hoa cũng có chí ít hai ba bản dịch khác nhau. Tác phẩm của những nhà văn quan trọng ngoài dòng văn học những quốc gia nói tiếng Anh đều có bản dịch bày bán cho công chúng. Đó là thành tựu to tát xây đắp bởi nhiều thế hệ. Tri thức của nhân loại mấy ngàn năm bạn có thể đọc hết chỉ cần bạn thông thạo Anh ngữ (và có thời gian).
 
Đó là những điều tôi chứng kiến, bởi thế tôi rất ngạc nhiên khi bạn bảo tôi “… nước Mĩ, vì ít bị áp bức trong vấn đề tự do ngôn luận, nên đã không có một truyền thống mạnh về dịch thuật.” Tôi không đồng ý chút nào về lập luận này. Đúng hơn, dịch giả Mĩ là những người thầm lặng bị lãng quên. Tên tuổi họ không ai biết đến. Họ là chuyên gia, mà chuyên gia thì xoàng quá, ai cũng có thể làm được, chỉ cần chịu khó học hành và lao động. Đa phần người ta nghĩ như thế. Lại tủ sách lấy xuống cuốn One Hundred Years of Solitude của Gabriel García Márquez, tìm mãi tôi mới thấy tên dịch giả Gregory Rabassa nhỏ xíu nằm khiêm nhường ở trang trong. Họ cũng ít ồn ào. Chẳng bao giờ bạn nghe tin một dịch giả bị công an chính quyền độc tài bỏ tù vì những gì ông ta dịch. Bạn cũng chẳng bao giờ thấy dịch giả đi diễn thuyết trước công chúng nói về những điều trong dịch phẩm của ông. Ê, nếu tôi muốn biết tường tận về tác phẩm X thì tôi tìm đến nghe tác giả nó nói chuyện chứ việc gì tôi phải nghe một người second-hand như ông! Hơn nữa, văn học Mĩ quá phong phú và đa dạng, độc giả Mĩ không có nhiều nhu cầu tìm đọc các tác phẩm nước ngoài. Dịch phẩm đa phần được chiếu cố bởi giới trí thức, kinh viện ngoại trừ những tác phẩm nổi tiếng được công chúng biết đến qua báo chí, truyền thông vì nó dính líu đến khía cạnh chính trị.
 
Phần lớn dịch giả cũng là học giả, giáo sư Đại học, chuyên gia văn học so sánh, nghiên cứu sinh về ngôn ngữ và văn hóa thế giới. Họ làm việc với tinh thần nghiên cứu và dịch thuật luôn luôn là một chuyên đề cho họ bàn thảo. Dịch giả Mĩ hồ như là chuyên gia nhiều hơn là nhà văn, có lẽ tệ hơn thế, một người cạo giấy, một anh thợ thủ công nghệ.

6.
Dịch. Lao động thì như “dịch vật” lại còn bị người đời xem như anh thợ thủ công nghệ. Có thể tôi đang tô son trát phấn, trang điểm lộng lẫy cho cô Chung Vô Diệm chăng? Nghề văn vốn dĩ đã bạc bẽo, nghề dịch có lẽ còn bi thảm hơn.
 
Một hôm chiều thứ Sáu vợ tôi gọi dây nói trong lúc tôi đang làm việc ở cơ quan, “Anh ơi, tối nay về sớm anh pha bột cho em làm bánh nhé. Recipe em để sẵn trong bếp.” “Được rồi, chuyện nhỏ, em yên trí.” Tôi trả lời. Tôi về nhà đọc recipe của vợ và sắn tay áo pha bột làm bánh sinh nhật cho thằng con. Trong recipe có câu “Then pour in 5 cups of water.” Ồ, dễ quá, 5 “tách” nước đổ vào tô bột rồi cho máy đánh vào quậy. Quậy bột nên hồ. Tôi vừa làm vừa ư ử trong cổ một điệu nhạc quen thuộc. Phen này vợ tôi phải phục tài nội trợ của tôi sát đất mất thôi. Tôi làm xong bỏ đi tắm, chờ cô về nướng cái bánh tuyệt hảo.
 
“Giời ơi! Anh làm gì mà bột nhão như cháo loãng thế này!” Tiếng vợ tôi kêu lên thảng thốt. Mặt tôi đang hí hửng bỗng xịu xuống như mèo mắc mưa. “Ơ … thì anh làm đúng theo recipe của em đấy thôi.” Tôi chống chế. “Đây này, đổ vào 5 cup nước.” Vừa nói tôi vừa đưa cô xem cái tách cà phê tôi vẫn dùng uống cà phê mỗi sáng trước khi đi làm.
 
“Giời ơi là giời! Cup là cái này đây, ông ơi là ông!” Cô mở tủ bếp lấy ra một cái “cup” thủy tinh trên có những đường chỉ màu xanh vạch ngang, trên mỗi đường chỉ lại có thêm hàng chữ 1 cup, 2 cups, 3 cups chỉ định dung lượng của chất lỏng bên trong. Hiển nhiên một “tách” cà phê của tôi tương đương với 2 cups của cô! Thật là tai hại! Và sự nghiệp làm đầu bếp của tôi chấm dứt từ hôm đó.
 
Lost in translation. I rest my case.

Chuyện kể năm 2000 (kỳ 8) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

*

*        *

Hắn lại bước vào Trần Phú. Lần thứ hai hắn bước vào Trần Phú. Những tưởng không bao giờ quay lại.

Cánh cửa sắt mở ra cho hắn bước vào và khép lại nuốt chửng hắn. Những ngày mới bị bắt năm nào chàm vào mặt hắn. Nhưng không giống lần trước bỡ ngỡ, hoảng loạn và tuyệt vọng, lần này hắn như một người trở về chốn cũ. Hơn nữa lần này trở về đây lòng hắn phập phồng hy vọng. Anh Chân, anh cả hắn đã vào trại QN thăm hắn, báo cho hắn biết: Anh đã gặp ông Trần, giám đốc Sở Công an P. , trình bày đề nghị… Ông Trần có nói với anh là chỉ giữ hắn ít ngày nữa cho hắn bớt chủ quan đi thôi, trong năm nay sẽ cho

(1) Tuỳ bút của Phạm Văn Hạnh

hắn về. Ít ngày nữa là nửa năm tù rồi còn gì, từ ngày ông Trần nói với anh Chân. Với lại đến giờ cũng là hết năm rồi.

Ông Trần và anh Chân trước đây cùng công tác với nhau. Ông Trần là bí thư huyện ủy, thì anh Chân là huyện ủy viên, trưởng ban quân sự huyện. Hai người đã cùng nhau lặn lội xông pha tổ chức nhân dân, xây dựng cơ sở, đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, diệt ác trừ gian… Tên hai người đều nằm ở những dòng đầu tiên trong sổ đen của Pháp.

Hắn được gặp anh Chân ở phòng khách của cán bộ, không có công an ngồi cùng. Chỉ hai anh em với nhau. Anh Chân nói những vất vả của anh trong khi tìm gặp ông Trần. Nhiều lần, người thường trực đều bảo ông Trần đi vắng. Đón ở nhà. Không gặp. Cứ ngồi ở cửa suốt trưa nắng.

Anh còn ghé sát tai hắn:

– Lâm, chánh giám thị ở đây hứa với tao sẽ cho chú gặp mặt hai bốn tiếng. – Anh nói khẽ hơn. – Tao mới xin cho nó một cái phiếu xe Favorit.

Hắn với anh Chân rất thông cảm, yêu quý nhau. Ngoài tình anh em, còn có một lý do riêng nữa. Anh Chân cũng bị ta bắt tù oan mười tám tháng. Anh cùng mấy chục cán bộ đảng viên khác bị bắt vào cuối những năm chống Pháp trong một vụ nhầm lẫn đau xót. Một tỉnh ủy viên (có quen bố hắn và hay lại nhà hắn) tự tử. Anh Chân bị cùm cả hai chân giữa rừng, dưới một cái mái che. Mỗi người một mái che. Riêng biệt, xa nhau. Đó là xà lim dã chiến. Mỗi người được một nắm cơm to bằng quả trứng, có dùi lỗ cho muối vào. Cứ thế bẻ ăn, không có đũa. Sợ tù lấy đũa đóng vào lỗ tai tự tử. Anh bảo: “Rất ấu trĩ vì ở rừng thiếu gì cành cây. Muốn tự tử lúc nào chẳng được”. Điều kinh khủng nhất là một buổi chiều anh thấy có tiếng chân người đi tới. Rồi tiếng nói khe khẽ với người lính gác sau một lùm cây: “Đêm nay có tin Tây nhảy dù xuống đây cứu bọn gián điệp. Lệnh trên: Nếu vậy thủ tiêu”. “Nghe đúng là tiếng thằng Thuấn bên Doãn Khê”. Hắn cũng biết Thuấn. Một thanh niên rất hăng hái, tham gia cách mạng cùng với anh Chân và rất quý anh Chân. Cả hai cùng vào chiến khu Đông Triều một đợt, cùng về cướp chính quyền ở Thanh Nguyên. Thuấn và anh không tư thù gì nhau. Thuấn chỉ truyền đạt lệnh trên với tất cả lòng căm thù anh, căm thù bọn đã làm tay sai cho giặc, phản bội Đảng, phản bội Tổ quốc. (Nhưng thật buồn cười, chỉ ít ngày sau Thuấn cũng lại bị bắt, bị cùm ở một lán xà lim ngay cạnh lán xà lim của anh, anh nghe rõ tiếng Thuấn bị đánh kêu oai oái).

Khi Thuấn đã đi, anh bị người lính gác trói chặt. Dù vẫn bị cùm. Trói hai chân. Trói hai tay. Lại trói chân giằng lên tay. Anh đã vào sinh ra tử, bị Pháp bắt, tra tấn, anh đã chui theo đường cống, trốn từ căng Máy Chai ra… nhưng chưa bao giờ anh sợ như vậy. Tiếng gió ngàn từ xa làm anh toát mồ hôi: Anh tưởng như tiếng máy bay địch. Một ánh đèn pin của đội tuần tra cũng làm anh nghĩ là ám hiệu đón máy bay nhảy dù. Anh không tin được rằng mình sẽ sống đến sáng hôm sau. Tóc anh bạc từ đêm ấy.

Những chuyện đó hắn nghe lâu lắm rồi. Hắn nghe, thích thú như một người viết văn có một chi tiết hay. Vậy thôi. Hắn nghe và bỏ qua. Lúc ấy lòng hắn đang phới phới. Anh Chân bị bắt ở chiến khu Đông Bắc thì hắn đang ở Việt Bắc. Hắn đi thanh niên xung phong. Hắn vào tiếp quản Hà Nội, hát ở đường đôi bên Hồ Hoàn Kiếm. Rồi hắn đi làm báo. Hắn đi viết văn. Hắn về nông trường đầu tiên của đất nước: Nông trường bông Gia Lâm. Hắn dự lễ thông xe tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn mà không biết rằng anh Chân đập đá ở công trường Chẹ…

Trong tù, hắn nhớ lại những điều anh Chân kể và trách mình vô tình. Hắn nhớ lại chuyện con tò vò của anh. Cùm hai chân, anh rình con tò vò làm tổ trên mái. Nó bay đi rồi nó tha về một ít đất. Nó nhào luyện đất xây tổ. Anh chờ đến ba ngày. Cái tổ đã gần xong. Anh ưỡn người về phía sau, xoài tay ra để đạt tầm với xa nhất, bẻ một cành cây nhỏ. Anh lấy răng tách cành làm hai, thành một cái kẹp. Anh chờ con tò vò chui vào tổ thò ra cái đít mòng mọng. Anh chỉ đợi có vậy. Anh đưa cái cành nhỏ kẹp đít con tò vò. Anh ăn sống nó.

Trải qua những điều như vậy, hẳn anh hiểu tình cảnh hắn đang chịu. Hơn hai người anh khác của hắn.

Anh đã vất vả vì hắn. Vào tận trại thăm hắn. Những điều anh nói với hắn đang thành sự thật.

Hắn sẽ được tha vì hắn đã được về Trần Phú.

Hắn không nhớ được một người nào trong cái bê hắn ở. Đông. Rất đông. Mà không nhớ được một tên người, một nét mặt.

Lại những gì gợi nhớ đến bê dê, bê hắn ở cũ. Cái bể đựng nước uống ở đầu hồi phía cửa ra vào, xây sát tường. Phía trên là nộí quy. Kẻ hẳn vào tường. Nằm ở gần đó, chỗ sạch nhất là nhóm trung tâm (1). Giữa nền xi-măng là một rãnh nước chảy suốt xuống cuối nhà, phía ấy có nhà mét. Anh em nằm trên

(1) Mỗi buồng có một nhóm trung tâm gồm: B trưởng, B phó, thư ký do giám thị chỉ định.

các ván lim hai bên. Ở đây mọi người đều mặc quần áo đời thường vì chưa thành án, còn giam cứu, hoặc đã xử nhưng chưa được chuyển đi.

Gần trăm con người nhìn hắn bước vào. Với hòm xiểng, cặp lồng, bi-đông, chăn, ca, điếu và nhất là với bộ quần áo số. Tất cả đều kính nể vị tiền bối. Vị đàn anh, người đã dày dạn tù đày, người đã trải qua tất cả. Người đã biết nhiều điều. Ngày ấy cũng đã có cảnh trùm chăn đánh táp-lô(1). Cảnh ngầm dúi đồ tắc tế cho nhóm trung tâm để đút lót. Nhưng hắn hiểu rằng hắn được kính trọng. Vì sau lưng hắn là rừng. Là các trại trung ương. Là sự từng trải. Là những điều anh em ở đây tò mò muốn biết và lo sợ phải tiếp nhận. Hắn được nằm ngay cạnh nhóm trung tâm và trả lời câu hỏi của anh em về trại trung ương bằng một câu. Câu ấy hắn đã được nghe khi hắn chuyển từ xà lim sang bê dê cách mấy năm về trước. Câu ấy làm hắn khi đó lớ ngớ – ớn xương sống:

– Trần Phú là thiên đường của nhà tù.

Thế mà đúng như vậy.

Không trại nào có thể so sánh được với 75 Trần Phú. Trước tiên đây là một trại tạm giam. Vẻ mặt con người chưa bị mài nhẵn bởi đau tê. Vẫn quần ka-ki, áo sơ- mi. Cả quần xi-mi-li pha ni-lông nữa (loại quần sang nhất hồi đó mà người ta chỉ cần đổi lấy một gói bánh bích-quy). Nước máy. Chất bột thì cũng chỉ một thỏi hai gạt (2) đấy. Nhưng không có cân, không phải dùng cân. Đã đành ở đây có những chiếc bánh mỳ vét bao một nửa là mọt, bửa cái bánh mỳ ra đỏ hồng màu hoa đào, do con mọt thôi ra. Nhưng ở Q.N thì cũng có những bát mỳ xăng người lái đầy những con sâu mỳ béo núc nổi váng. Rau thì không đâu có thể bì với Trần (3) được. Rau của Trần là rau mậu dịch. Mùa nào thức ấy. Giáp vụ cũng chỉ ít thôi chứ rau ở Q.N thì quá thể. Rau ở Q.N trông mong vào trại (nghĩa là trông mong vào toán của hắn). Lúc giáp vụ rau, cơm chỉ có muối. Cuối xuân phá bắp cải, su hào, trồng rau muống là chết. Rau muống lên xanh chưa được ăn, còn phải để nhân giống sang ruộng khác. Rồi đến mùa thu rau muống ra hoa, lại phá rau muống trồng cải thìa, cải xanh. Lại chết đợt nữa. Mỗi đợt gần hai tháng thèm rau. Gần hai tháng đói. Trông mong vào mấy lát bí xanh, mấy lát bí đỏ chìm nghỉm trong bát nước, “phải thuê thợ lặn mò”. Nếu được bữa khoai sọ, tỉnh đến hôm sau. Mà chính giữa vụ rau cũng kém đây xa. Thứ rau muống Trung Quốc già nhai toàn xơ, nhưng cứ

(1) Đánh đòn hội chợ

(2) Một chiếc bánh mỳ, hai miệng bát cơm.

(3) Tiếng gọi tắt nhà tù (Trần Phú) ở P.

nuốt cả xơ cho đầy bụng. Theo sách khoa học, còn chống táo bón nữa cơ đấy. Thứ rau cải bắp già để cả cây, không rửa, cả lá già, lá xanh vứt vào bể. Bể cao hơn đầu, kín một gian kho, phải vài chục khối. Leo vào bể lấy dưa cân cho nhà bếp, dòi leo lên đến tận bẹn. Dòi trắng thành bể, tụ lại thành vầng ở góc bể.

Ở Trần rau lại có mỡ. Dù là mỡ hóa học bám vào bát mất một nửa. Ở Trần lại có cả khoai tây bi (1) để cả vỏ nấu muối làm thức ăn rất chắc dạ.
Ở Trần có nước máy, có điện. Ở Trần không phải đi làm. Không phải gánh khoán một ngày bốn tạ phân từ chuồng bò về vườn ngoài, vườn trong, qua bốn suối, leo bảy dốc, xuống bảy dốc, chân chạy huỳnh huỵch, dội lên mang tai. Qua suối là khốn nạn nhất. Phải chạy qua những tảng đá cuội lớn rải rác ngang lòng suối. Họ gánh khỏe, họ gánh quen, họ lướt băng băng. Hắn chỉ cố được sáu mươi cân, vắt được một chân vào tảng đá giữa suối rồi, nhưng không sao bước nốt chân kia sang được. Hắn cứ choạng hai chân giữa hai tảng đá. Bên dưới nước chảy xiết. Lẽ ra phải lấy đà ngay, nhún người bước tiếp ngay, nhưng đã thở ra mang tai rồi. Đầu gối đã run lập cập rồi. Ngã xuống suối không sợ, nhưng tiếc gánh phân. Đã đi được nửa đường. Nếu không có Lê Bá Di đã sang trước bên kia suối, đặt gánh phân quay lại kéo, không biết hắn còn đứng đến bao giờ.

Di cũng chỉ khỏe hơn hắn một tý thôi, chứ không thể bằng những người khác, nên Di vẫn đi tụt lại.

Qua được suối, hắn thở. Chỉ vì cố thêm chục cân. Hơi quá sức. Sức hắn, năm mươi cân là vừa. Là dẻo vai. Nhưng như thế phải tám chuyến. Hết cả thời gian đi kiếm. Xuống ruộng khoai, lên nương lạc đã dỡ, lấy đòn gánh đào đào bới bới, nhặt củ lạc, mẩu khoai dỡ sót. Hay ngược lên những nhánh suối cạn tìm ráy. Thật không ngờ củ ráy ăn cũng ngon. Thứ củ hồi bé, hắn vẫn giã ra với cua đồng, để cho thối, ném xuống ao làm mồi nhử cá rô, cá trê. Ném được một lúc, tăm cá cứ ngầu lên. Ăn ráy ngứa, cu cậu đớp lung tung. Thả lưỡi câu xỏ mồi tép đúng chỗ ấy, cái phao cứ chổng ngược lừ lừ. Giật cá trê sướng lắm, eng ẻng, eng ẻng, kéo mãi mới lên. Vào tù hắn mới biết củ ráy sột sệt rất hay. Củ ráy sống thì ngứa, chứ luộc chín ăn gần như khoai sọ. Không ngứa lắm đâu. Chả thế mà các cụ vẫn gọi “củ khoai, củ ráy”. Bọn Thuận Sứt, Hỉn Sán được đi gánh phân là mừng. Họ gánh những chín mươi cân, một tạ. Nghĩa là

(1) Khoai tây củ nhỏ như viên bi.

buổi sáng ba chuyến, buổi chiều đủng đỉnh một chuyến nữa thôi. Tha hồ đi xa, lang thang kiếm sắn, kiếm củ mài, những thứ cao cấp.

Hắn cố gánh sáu mươi cân, để giành lấy một hai tiếng đồng hồ cầu may ở gần gần thôi. Vì quanh đây nghe chừng ít có thứ nuôi sống được người. Ngay củ ráy cũng khó.

Hắn rủ Lê Bá Di nghỉ hút thuốc lào. Di vốn rất thích thuốc lào của hắn. Thuốc lào trồng vùng đất chua nó đượm, nó ngọt khói. Hai người không nói một câu, xuống suối rửa phân bò ở chân. Hắn cởi cái điếu vẫn treo một bên đầu đòn gánh, lấy thuốc lào mời Di. Tiện tay hắn véo cho Di một véo. Hai người ngồi im lặng nhả khói, nhìn rừng. Rồi Di nhìn hắn. Hắn cũng nhìn lại Di. Bốn con mắt tù gặp nhau. Cùng cảnh ngộ, thương nhau, nhưng không ai dám cởi mở cùng ai. Hắn chờ đợi Di nói một điều gì đó. Vừa chờ vừa sợ hãi. Bởi vì nếu trong lúc hai người ngồi hút thuốc lào bên hai gánh phân giữa rừng này mà Di bộc bạch, mà Di tâm sự, mà Di than thở, thì hắn biết rằng hắn không thể nào giữ được. Hắn cũng sẽ bộc bạch, tâm sự, than thở cùng Di. Như vậy thật không nên chút nào. Nguy hiểm cho hắn. Nguy hiểm cho cả Di nữa. Di như cũng chờ hắn nói một điều gì đó và cũng sợ hắn nói. Rồi bằng một động tác dứt khoát, Di móc cái điếu vào một đầu đòn gánh, đứng lên:

– Đi hè!

Hắn cũng đứng lên. Cả hai đều đã thắng được cái ý định muốn nói, muốn nghe. Mỗi người vẫn giữ được mình nguyên vẹn là một vòng tròn kép kín, không san sẻ giãi bày.

Lại huỳnh huỵch, huỳnh huỵch. Đòn gánh lẳn vào vai. Lại leo dốc. Lại qua suối. Lại xuống dốc. Ngón chân choãi ra bấm vào một đoạn đường trơn bên suối. Đã tới được cái dốc dài ven trại. Chỉ còn cố lên đỉnh dốc, rồi xuống một cái dốc thoai thoải, một bên sát hàng rào cao vút, một bên sát vực sâu suối thẳm, băng qua chiếc cầu gỗ, quành qua đầu sân trại, khu cán bộ làm việc, qua một cầu bê-tông, rồi leo một dốc không đáng kể là tới vườn ngoài. Đến đó là chỗ cân phân. Khi tới gần đỉnh dốc sát hàng rào trại ấy, thì trời ơi, hắn không tin ở mắt mình nữa. Một bãi phân trâu mới tinh ở giữa đường. Sao bọn Hỉn Sán đi trước không thấy. Chắc là con trâu kéo gỗ nào mới đi qua đây ỉa một bãi. Đúng rồi. Vết cây gỗ miết xuống đất còn bóng đen lên đây này. Nhưng Lê Bá Di đi trước rồi. Lê Bá Di đã đỗ lại. Lê Bá Di sẽ hót bãi phân ấy. Bãi phân mới đẹp làm sao. Tròn. To. Không khô, không ướt. Thật không chê vào đâu được. Hẳn là cứt của một con trâu khỏe. Kìa, Lê Bá Di vẫn đứng. Lê Bá Di chống đòn gánh chờ hắn. Hắn mồ hôi đầy mặt, mồ hôi dán áo vì chạy gằn. Tiếng huỳnh huỵch dội từ gan bàn chân lên óc. Tới chỗ Di, Di bảo:

– A Tuấn hót đi.

Đó là món quà tặng tuyệt vời. Hào phóng tuyệt vời. Lòng tốt tuyệt vời.

Hắn cúi xuống bốc bãi phân trâu. Ấm cả tay. Nở cả ruột. Đống phân to, dễ đến năm cân. Năm cân chỉ phải gánh một phần tư đường đất. Hắn vét kiệt. Vét tới những hòn sỏi con. Thế này bố thằng Thuận Sứt cũng chẳng làm gì được. Nó đã làm như vô tình lấy đầu đòn gánh bẩy bẩy gánh phân của Hỉn Sán vừa cân xong, đổ sụp xuống nhà phân và bới ra một hòn đá phải đến ba cân. Nó thấy mình gánh nặng hơn bình thường là nó sẽ bới của mình ra cho mà xem. Tha hồ mày bới, chỉ có ít cát và sỏi dính vào phân thôi, con ạ.

Hắn quệt tay vào cỏ, gánh phân đi tiếp.

Ở Trần không có những cảnh ấy. Ở Trần lại còn gần gia đình. Tháng tháng nhận tắc. Được gặp mặt. Những người không có gia đình cũng vẫn hơn. Chẳng nói gì cao xa. Ngay món nước mắm thôi, trại trung ương bao giờ có. Ở đây, nếu ăn bánh mỳ nước mắm, mỗi người được những mấy thìa. Loại nước mắm tám hào mậu dịch nguyên chất. Dồn nước mắm thừa được hàng bát chậu giả nhà bếp. Chả bù cho ở Q.N toàn rau nấu muối. Hôm nào nhà bếp lỡ tay nấu canh mặn đắng thì lại rất vui. Chung nhau dồn dịch vào cặp lồng, chưng lên lấy muối cho vào ni-lông để dành sột sệt.

Một ưu việt dễ thấy nữa của Trần Phú là ma túy, tức là chất khói. Thuốc lá cũng khan, nhưng không đến nỗi. Còn thuốc lào thì thoải mái. Chỗ nào cũng thuốc lào.

Thật đúng thiên đường!

*

*        *

Về lại Trần Phú lần ấy, hắn nhớ tới cái bê dê của hắn. Nó ở phía đằng kia cơ. Cách một cái nhà nữa, một cái bê nữa.

Hắn nhìn những người trong BA này lạ hoắc, chắc ở BD cũng vậy. Đã bao nhiêu lớp tù rồi. Chẳng thể nào tìm được một khuôn mặt quen. Hắn nhớ tới Giang, tới Triều Phỉ, tới già Gọi, già Đô. Lớp ấy đã trở thành kỳ cựu ở Q.N. Hắn nhớ tới hai ông Minh trong B. Một ông Minh là máy trưởng, ông Minh máy trưởng về nông thôn chữa máy bơm thuê. Ông lấy tiền nhôm ra đúc piston. Một ông Minh khác là thợ thủ công lấy nhôm lá dập thành xu. Cả hai ông đều phạm pháp. Một ông phá hoại tiền tệ, một ông làm tiền giả. Hai ông gặp nhau ở BD. Giá hai ông gặp nhau trước thì đâu đến nỗi.

Ông Minh máy trưởng mê hắn lắm. Vì những buổi kể chuyện của hắn. Nghe chuyện Cây phong non trùm khăn đỏ (1) ông xuýt xoa:

– Trời ơi! Cái chỗ chị vợ đánh rơi bó củi, hay quá.

Và:

– Đúng. Những rơ-moóc sau này có lắp phanh đấy.

Cứ lúc sắp đi ngủ là hắn kể chuyện cho anh em nghe. Cả B im phăng phắc. Hắn kể Lôi vũ (2). Hắn kể Người thầy đầu tiên (1). Dạo ấy hắn còn nhớ. Hắn kể cả câu đối thoại.

Những chuyện kể của hắn làm anh em thích lắm. Không một tiếng ho. Hút thuốc lào cũng khe khẽ thôi.

Nhưng hắn chỉ kể được mấy chuyện thì bị cấm. Không biết vì sao. Có lẽ người ta không muốn hắn gây ảnh hưởng trong tù. Người ta không muốn phạm nhân quên mất việc phải suy nghĩ về tội lỗi, quên mất sự đau khổ, dù chỉ chốc lát. Chắc ông Minh máy trưởng được ra rồi. Tội của ông chỉ bị nhiều lắm là sáu tháng.

Ở BD hắn đã quen Giang.

Trong tù hoặc là tin tuyệt đối, hoặc là không tin. Và không được nhầm lẫn. Hắn tin Giang ngay, thân Giang ngay. Hắn đã không nhầm lẫn.

Giang cũng yêu hắn, quý hắn. Có thể xả thân vì hắn. Mới mười tám tuổi, Giang đã bị tù lần này là lần thứ hai. Giang là con liệt sĩ. Bố Giang, ông Giang Văn Khoát bước vào cách mạng hồn nhiên như cả lớp thanh niên hồi đó. Cách mạng đúng là một ngày hội. Là cuộc biểu dương ý chí, biểu dương lực lượng. Là những cuộc mít-tinh với hàng trăm, hàng nghìn lá cờ đỏ sao vàng to nhỏ cùng vẫy phất trước cửa Nhà hát Lớn. Là những nắm tay giơ lên hướng về Nam Bộ. Là những bài hát cách mạng đến phố nào, ngõ nào cũng thấy bay lên. Là khát vọng đổi đời đã được thực hiện. Là tiêu diệt bọn thực dân, phát-xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp, kinh hoàng, chấm dứt cảnh chết đói vàng bủng, khô quắt, còng queo ở các vỉa hè, các chợ, các ngã tư…

Nhưng khi bọn Pháp trở lại, cách mạng là cầm súng bảo vệ đất nước, bảo vệ chính quyền. Cách mạng là đổ máu.

(1) Của Aimatov (Liên Xô)

(2) Của Tào Ngu (Trung Quốc)

Anh thanh niên Giang Văn Khoát cầm súng bảo vệ cách mạng cũng hồn nhiên như khi anh tham gia cách mạng. Từ biệt vợ con, anh vào tự vệ và sau này về một đại đội độc lập hoạt động ở ngoại thành. Vợ anh bỏ gánh hàng rong trên vai xuống, từ thành phố dắt con trở về làng, sống với đồng ruộng. “Mẹ con cố nuôi nhau. Nó có hỏi, bảo tôi ở lại phố làm ăn. Độc lập tôi về”.

Nhưng không phải mãi tới độc lập anh mới về thăm vợ và con gái (khi ấy anh chỉ có một đứa con gái). Làng anh ở vùng giáp ranh, thỉnh thoảng anh lại có dịp về nhà. Trong một trận chống càn, đơn vị anh đã tham gia bảo vệ huyện ủy. Anh là một trong những người chốt giữ lối đi độc đạo vào làng. Anh cùng một số đồng chí nổ súng, giật mìn, ném lựu đạn, chặn bước tiến của quân Pháp để các đồng chí khác cùng huyện ủy rút an toàn sang bên kia sông. Anh đã ngã xuống và không trở về nữa. Không trở về đơn vị. Không trở về với con gái, với người vợ đang chửa đứa con thứ hai. Lúc đó là đầu những năm năm mươi. Cuộc chiến đang bước vào giai đoạn ác liệt nhất.

– Đẻ em thì bố em chết rồi. Em không biết mặt bố.

– Không có bố em thì các ông to chết rồi. Các ông ấy hay đến nhà em lắm. Tết nào cũng lại thắp hương ở bàn thờ bố em.

Trong BD, Giang đã thì thầm với hắn như vậy. Giang không biết mặt bố. Chị Hiên thì biết. Biết và nhớ. Chị Hiên hơn Giang mười tuổi. Ngành họ Giang Văn ở thôn Đại Hòa còn lại mỗi bố Giang. Ông nội Giang cũng chỉ sinh được hai con: Một giai, một gái. Cô Miên và bố Giang. Giống như bố mẹ Giang chỉ sinh được hai con: Chị Hiên và Giang. Có điều khác là cô Miên chỉ hơn bố Giang hai tuổi. Giang là người nối dõi tông đường duy nhất của dòng họ Giang Văn. Bởi vậy thuở nhỏ Giang được gọi bằng cái tên xấu xí: Cứt. Lên năm vẫn gọi là Cứt. Sau mới nghĩ đến chuyện đặt tên cho Cứt. Tên gì? Cô Miên bảo: Thôi thì gọi nó là thằng Giang. Lấy tên họ Giang mà đặt cho nó. Nó là thằng họ Giang cuối cùng còn lại. Từ đấy đứa con trai độc nhất của liệt sĩ Giang Văn Khoát có tên Giang. Giang Văn Giang. Giang Văn Giang được quý, được chiều. Mẹ chiều. Chị Hiên chiều. Cô Miên càng chiều hơn. Giang lớn lên. Giang đi học. Và Giang bỏ nhà ra đi. Vì mẹ lấy chồng. Giang không chịu được sự có mặt của người bố dượng. Mẹ Giang quấn quít với hạnh phúc mới. Nhưng vẫn đi tìm Giang. Chị Hiên cũng đi tìm.

Giang về nhà ít hôm rồi lại đi. Cuộc sống lang thang đường phố thích hợp với Giang. Đám bạn bè khu phố Bờ Sông thích hợp với Giang. Những cuộc ấu đả của bọn trẻ lêu lổng như nam châm hút Giang tới. Cuộc sống lưu manh đường phố nhận thêm một đứa trẻ vào lòng. Giang không kể Giang đã đi móc túi như thế nào. Nhưng hắn biết Giang đã đi móc túi vì Giang dặn:

– Anh cứ để tiền ở túi phía đùi ấy. Ở đấy rất khó đá. Để ở túi quần sau, túi ngực là mất ngay đấy.

Giang giảng cho hắn cách đánh hị (1). Đồng hồ đeo ở cổ tay mà mất đấy. Lấy đồng hồ đeo tay cũng không khó lắm. Đi một đứa lấy cũng được, nhưng tốt nhất là đi hai đứa. Còn đánh nghẽo (2) thì phải đánh lúc người ta mới dựng xe, khi còn biết rõ chủ xe. Xe dựng lâu không biết chủ xe đâu là không dám đánh. Đừng tin ổ khóa. Khóa ăn thua gì. Bọn đánh nghẽo mở khóa xe anh còn nhanh hơn anh mở. Bọn lính mổ, lính đá cũng phân chia khu vực đấy. Xâm phạm vào khu vực của nhau là chiến tranh. Bởi thế nên mới có chuyện băng Yên Dương đánh nhau với băng Cầu Đỏ ầm ĩ cả thành phố. “Tức là bọn chúng em đánh nhau với bọn Tùng Cốc đấy”.

Giang oán gia đình, oán xã hội, oán hờn số phận. Giang oán cả mẹ. Giá mẹ Giang không đi bước nữa thì có lẽ Giang không đến nỗi. Cô Miên càng suy nghĩ như vậy. Cô Miên cũng góa. Nhưng cô ở vậy nuôi con. Giang bảo:

– Mẹ em cao số lắm. Lấy ông này mấy năm thì ông ấy bị uốn ván chết.

Khi ông bố dượng chết, Giang hay về nhà hơn. Ngủ. Xúc gạo, mỳ đem bán. Lấy trộm tiền của chị Hiên lúc đó đã đi buôn chuyến.

Cả nhà buồn. Mẹ khóc, chị Hiên khóc. Cô Miên khóc. Một hôm, ông huyện ủy đã được bố Giang cứu sống thời kháng chiến đến chơi nhà. Ông là cốp. Cốp nặng. Ông thắp hương trước bàn thờ bố Giang, thì thầm khấn vái, nói chuyện với cả nhà lâu lắm. Ông hứa với vong hồn bố Giang, quyết giúp đỡ mẹ Giang, cứu Giang, để Giang khỏi trở thành một thiếu niên hư hỏng. Đó là trách nhiệm của ông với người đồng chí đã mất, lòng biết ơn của ông đối với người đã cứu sống ông. Bằng uy tín và ảnh hưởng của ông, ông đã gửi được Giang vào học tập ở trại cải tạo trẻ em. Cả nhà cảm ơn ông. Thôi, nhà không dạy được thì gửi nó vào đấy. Nhờ Nhà Nước dạy. Ở đó vừa dạy văn hóa, vừa dạy nghề. Mấy năm sau nó sẽ thành một thanh niên khác.

Năm ấy Giang mới mười bốn tuổi. Ở đó Giang đã được học thêm văn hóa. Giang biết giồng rau, vun luống khoai. Giang được biết con người sống bằng lao động, sống phải lao động. Mọi của cải trên đời đều do lao động làm

(1) Ăn cắp đồng hồ

(2) Ăn cắp xe đạp

ra. Ở đó Giang được đưa vào khuôn phép. Nhưng ở đó, Giang từ chỗ chỉ quen biết một số bạn phố Bờ Sông, nay đã quen hầu hết bọn thiếu niên hư trong thành phố. Giang còn học được nhiều điều khác. Có chuyện gì lũ trẻ choai choai hư hỏng không nói cho nhau nghe trong những lúc rảnh rỗi, nhớ nhà, buồn chán. Trong những ngày nghỉ, những đêm buông màn đi ngủ. Những ngón đá. Những thành tích. Những chiến công. Trong câu chuyện được thêu dệt thêm, huyền ảo, anh hùng, lấp lánh, kích thích. Cả những đề tài của người lớn, nhưng nhiều đứa đã trải qua, luôn luôn hấp dẫn và mê hoặc: Đàn bà.

Một điều nữa Giang học được là: Phải biết trả giá. Tự mình khẳng định mình trước tụi bạn. Nhất là đối với những người nhỏ con như Giang, mà chúng tưởng nuốt được một cách ngon lành. Cần thì trả giá bằng tính mạng mình.

Giang nổi tiếng là lì, là liều. Bọn trại viên Kim Đồng lớn hơn cũng phải kiêng nể, không dám bắt nạt Giang.

Bọn chúng càng nể Giang khi thấy Giang nhất định không ra gặp mặt, không nhận tiếp tế. Nhà đến thăm, Giang không ra. “Ông cốp nặng” đến xem cháu tiến bộ đến đâu. Giang không ra. Ông đi cả xe com-măng-ca, chở không biết bao nhiêu quà tới. Ông gửi quà lại nhờ ông giám thị chuyển cho Giang, Giang không nhận. Giang căm thù ông, căm thù tất cả.

Hai năm sau Giang ra khỏi trại. Giang càng ít về nhà hơn. Vì Giang đã có thêm nhiều bạn. Băng nào cũng thích Giang. Giang nhanh. Hào phóng. Bất cần. Giang biết cư xử. Giang đánh rất liều.

Giang bảo hắn:

– Em biết là chúng em hư. Nhưng xã hội phải chịu trách nhiệm một phần. Một phần lớn. Chúng em cũng như Tám Bính trong Bỉ vỏ.

Thì ra Giang đã đọc Bỉ vỏ. Đã đọc Những ngày thơ ấu. Giang rất yêu nhà văn Nguyên Hồng, ao ước được gặp nhà văn. Với Giang, Ngnyên Hồng là nhà văn của Giang, của những người như Giang. Hắn chân thành nói với Giang:

– Không, em ạ. Đứng về mặt xã hội là như vậy. Nhưng ở góc độ em, em phải thấy trách nhiệm của mình là lớn, là quyết định.

Giang có cả một lý luận bào chữa cho việc mình đi ăn cắp: Xã hội bất công. Người giàu kẻ nghèo. Người sang kẻ hèn. Những người giàu do buôn bán, mua rẻ bán đắt, những người giàu do móc ngoặc, do ăn cắp được của Nhà nước, do có một ngành nghề tốt như lái xe, mậu dịch viên v. v… Lấy của những người đó chút ít chả sao. Họ vẫn cứ tiếp tục giàu. Họ vẫn sống đàng hoàng hơn mọi người. Đối với họ giá đột vòm lấy hết cũng đáng. Chẳng việc gì phải cắn rứt lương tâm. Bọn Giang chỉ làm giảm bớt sự bất công sẵn có.

Hắn nhìn thân hình còm cõi, nhỏ bé của Giang, khuôn mặt già trước tuổi, xương xẩu của Giang, cảm thấy xót xa. Một tình cảm giống như tình cảm cha con bỗng trỗi dậy trong lòng hắn. Giang cũng vậy. Giang quấn quít lấy hắn, tẩm quất cho hắn, nhổ tóc sâu cho hắn…

Hắn nói với Giang những bất công mà cuộc đời bao giờ cũng có (hắn thú thật giờ đây mới hiểu sâu sắc). Hắn nói con người phải có một ý tưởng để mà theo đuổi. Hắn cho Giang biết Nguyên Hồng là người bạn vong niên của hắn. Nguyên Hồng rất thân với hắn, hay ăn ngủ ở nhà hắn. Thật là một bất ngờ với Giang. Hắn kể chuyện Nguyên Hồng mua vé xổ số, Nguyên Hồng mua miếng nầm chó về nhà hắn, giội nước phích, bắt hắn ăn và đánh thức cả vợ hắn đang ngủ phải dậy ăn như thế nào. Giang cười rinh rích khi hắn bảo hai vợ chồng hắn không biết ăn thịt chó, nhưng nể nhà văn cứ cho vào mồm nhai trệu trạo rồi nuốt. Giang bảo:

– Khi nào ra, em đến nhà anh thế nào cũng gặp ông Nguyên Hồng đấy nhỉ.

Vẻ háo hức trong câu nói của Giang khiến Giang lại đúng là một cậu bé ngây thơ. Hai anh em quý nhau, nhưng cũng phải cẩn thận lắm. Muốn dặn nhau cái gì phải đưa mắt ra hiệu cùng vào nhà mét, nói thầm trong ấy. Rồi người ra trước, người ra sau. Mặt tỉnh khô. Đừng để lộ ra thân thiết với một ai. Người ta sẽ chuyển một trong hai người đi B khác ngay.

Hồi ở BD, một hôm Giang bị gọi ra với nhiều người. Khi về tất cả đều đen nhẻm mười đầu ngón tay và mười đầu ngón chân. Hắn hỏi Giang đi đâu về. Giang bảo đi chụp ảnh lăn tay. Triều Phỉ cao lớn múa các ngón tay đen sì nhịp nhàng như gõ vào phím đàn:

Đánh pi-a-nô (1) rồi!

Thế là biết rằng số anh em đó sẽ chuyển. Mấy tối sau, người ta trả tiền lưu ký. Thế nghĩa là hồ sơ, thủ tục đã hoàn tất. Thế nghĩa là sáng mai sẽ đi. Đi đâu? Trại nào?

Tối hôm ấy, hắn và Giang không còn giữ ý gì nữa. Đằng nào mai Giang

(1) Lăn tay

cũng đi rồi. Giang sang hẳn chỗ hắn ngồi. Hai anh em ăn bánh quy, pha nước cam. Giang ôm lấy cổ hắn.

Sáng hôm sau, Giang đi. Không ngờ hai anh em lại gặp nhau ở Q.N. Khi xe ô-tô đưa bọn hắn đến Q.N, trông thấy Giang đang làm ở sân trại, hắn xuýt reo lên… Lúc đó Giang còn làm linh tinh bên ngoài. Về sau Giang về toán quản chế. Toán mộc.

Còn ai ở BD nữa nhỉ? Lê. Lê với hai va-li quần áo ăn cắp. Lê với bài phát biểu thao thao bất tuyệt. Lê bóp cổ Voòng Kỷ Mình. Lê đã được ra rồi. Và già Gọi. Già Gọi vào trại trong dịp trước Tết. Bình thường nhà giam chỉ mở cửa ba lần trong một ngày. Sáng hai lần (một lần đi vệ sinh, một lần đi lấy cơm), chiều một lần đi lấy cơm và lấy quần áo phơi ngoài sân. Gần Tết, cửa mở liên tục. Cả ngày. Cả đêm. Gióng sắt xoang xoảng. Cửa sắt rầm rầm. Nghe mà ghê người. Những người mới vào ngơ ngác. Những người mới vào bình thản. Những người mới vào bê bết máu. Máu khô trên tóc, máu khô trên áo. Đó là những lính mổ bị bắt và bị đánh. Dịp Tết, lính mổ hoạt động mạnh. Những người mới vào còn hoa mắt chưa nhận ra ai giữa cái đám đông ngồi trong buồng giam mênh mông này. Những những người trong buồng nhận ra ngay người cùng hội. Chờ cho bạn bình tĩnh, họ mới đến gặp. Thì thầm hỏi thăm tin tức gia đình, hỏi thăm tin bè bạn. Nhìn lên mái buồng giam cao vút suy nghĩ.

Trong cái đám tứ chiếng giang hồ bị bắt vào dịp Tết ấy có gíà Gọi. Đầu cắt bốc, râu lởm chởm, mặt vuông, răng hơi hô, phúc hậu và quê mùa. Vẻ quê mùa chân chất hiện trên nét mặt, hiện trong cử chỉ, trong cách nói.

Bọn tù trẻ xúm lại trêu già.

– Bố làm sao vào đây? Cứ nói mà, không sợ gì cả. Rồi con bảo giám thị tha cho bố.

– Con gái bố đẹp không? Con làm con rể bố nhé.

– Bố có biết Triều Phỉ là ai không? Chính hắn đang đứng trước mặt bố đấy.

– Triều Phỉ ăn thịt người đấy, bố ạ.

– Mắc tội gì, bố thành khẩn khai đi. Không giấu được đâu. Tội gì người ta cũng tìm ra được. Khai thì được khoan hồng.

Cả bọn đang nhâu nhâu như vậy, bỗng già hỏi:

– Thế tôi hỏi các chú: Khoan hồng là gì, các chú có biết không đã?

Tất cả ớ ra.

– Chịu chưa?

– Chịu. Khoan hồng là gì, bố nói chúng con nghe nào.

Già nghiêm trang:

– Khoan là thong thả. Hồng là máu. Khoan hồng là thong thả rồi hãy giết.

Tất cả cười ồ. Phục già là bậc “Cao thủ võ lâm”.

Già Gọi giải chiếu mắc màn dưới gầm sàn, ngay trên nền xi-măng lúc nào cũng chảy nước vì trời nồm.

Nhiều người phải nằm như già. Đông quá. Cũng may, con già đã kịp gửi vào cho già mảnh nilông. Với lại chỉ đến khi kẻng cấm, mắc màn đi ngủ mới phải chui xuống gầm sàn, còn vẫn được ngồi ké vào một chỗ bên trên. Già rất ít nói. Chỉ bó gối ngồi trầm ngâm và cười hồn hậu trước những lời trêu chọc của cánh trẻ thành phố.

Nhưng khi lên đến trại Q.N, hắn mới hiểu già. Chỉ một mình già dám đứng lên giữa hội trường, đối thoại với ông Lâm, chánh giám thị. Già nói oang oang:

– Thưa ông giám thị. Tôi mắc tội gì? Tôi không mắc tội gì mà phải vào đây. Đề nghị ông giám thị cho xem xét lại. Nếu tôi có tội, tôi xin ông đem tôi lên rừng cho hổ báo ăn thịt. Hay vứt tôi xuống nước để tôi trầm hà đáy biển.

Già nói rành rọt, lễ độ và già ngồi xuống. Tất cả đều kính nể già, vì ông Lâm là người ghê gớm. Da sát xương. Răng trắng nhỏ, khi nói cứ rin rít. Tù chỉ mong có ngày mưa để nghỉ. Lúc sắp đi làm, thấy nổi cơn cớ, ai cũng mong mưa ập xuống. Nhưng đến khi đi làm rồi mới mưa. Toán mộc, toán may… làm trong nhà vẫn phải làm việc.

Bọn hắn được về trại vì làm ngoài trời. Về đến nơi, tưởng được nghỉ, nhưng có lệnh ra hội trường học tập. Ông Lâm đã cho đặt cái đài Orionton chạy pin và mắc loa xuống phía dưới. Ông tận dụng thời gian, không cho tù được nghỉ.

Ông đứng giảng bài rất có duyên. Ông “cù” phạm cười rinh rích. Vừa chửi vừa “cù”. Hơi rẻ tiền nhưng hợp với trình độ chung.

– Các anh phải suy nghĩ nhiều hơn nữa về tội lỗi của bản thân mình. Phải nghiêm khắc với bản thân mình. Ăn cắp thì nói ăn cắp. Lại đi nói: Thưa ông tôi, tôi, tôi mắc bệnh tham ô ạ. Hiếp dâm thì nói là tôi mắc bệnh tò mò!

Phạm nhân thoải mái cười. Bỗng ông nghiêm mặt:

– Chúng tôi không đánh các anh như bọn đế quốc. Có anh nào vào đây bị đánh không? Giơ tay lên xem nào. Có thì cứ phát biểu. Ông nhìn bao quát rồi tiếp – Không ai bị đánh, phải không? Chúng tôi không đánh như bọn Pháp. Nó đánh chỉ đau một lúc thôi. Chúng tôi có cách đánh của chúng tôi. Nó êm êm mà đau. Nó ngấm lâu. Ngấm đến cả đời.

Ông nói mà không cười. Ông có khuôn mặt lạnh lùng, khinh khỉnh. Ông tận tụy với công việc. Ông tin ở công việc ông làm. Thế mà trong lúc ông đang giảng say sưa hào hứng như vậy, già Gọi đứng lên xin được “trầm hà đáy biển nếu như có tội”. Già vững tin ở già như ông giám thị tin ở ông giám thị.

*

*        *

Buổi chiều định mệnh đã đến khi hắn được gọi ra gặp mặt. Giá như không có buổi chiều hôm ấy, không có buổi gặp mặt chiều hôm ấy, hắn đã được tha từ đầu năm 1972 rồi. Có nó, nên các ông ấy đã bàn lại, cân nhắc lại và thấy rằng không thể tha hắn được. Các ông ấy đã định tha, nhưng các ông ấy đã nghĩ lại. Hắn phải tù thêm mười bốn tháng nữa. Mười bốn tháng chẳng là bao so với một đời người. Nhưng mười bốn tháng tù là đáng kể. Một ngày tù dài bằng mười thế kỷ ở ngoài đời. Hơn bốn trăm ngày nào ít ỏi gì đâu. Hơn bốn trăm ngày, nhưng lại có hai cái Tết tù, bốn cái bánh chưng con và sáu lạng thịt trâu kho ăn Tết.

Vả lại nào có biết đâu khi bị giải trở lại Q.N để đi tù tiếp, mình chỉ tù tăng hai này có mười bốn tháng. Mười bốn tháng ghê sợ thật, nhưng còn ghê sợ gấp vạn lần là ý nghĩ tuyệt vọng, lần này đi là không có ngày về. Tù không án, các ông ấy đã tốt, đã định tha, thế rồi mình không kìm giữ được, vẫn cứ nghĩ sao nói vậy, khiến các ông ấy thấy nếu cho mình ra, mình vẫn chủ quan, mình làm đơn từ kêu khiếu cửa này cửa khác, phiền đến các ông ấy. Dù cái sự phiền hoàn toàn không đáng kể, không thể là mối đe dọa tới uy tín của các ông. Vì hắn làm sao chống lại được cả Sở Công an và nhất là chống lại một ông Thường Vụ Thành Uỷ lãnh đạo toàn bộ khối nội chính bao gồm cả ba ngành công an, viện kiểm sát, tòa án, với bề dày thành tích như một huyền thoại, với quyền sinh quyền sát trong tay. Nó chỉ có thể là một mối bận tâm nhỏ nhoi. Nhưng ngay mối bận tâm nhỏ nhoi ấy, một chút gợn lên ấy cũng không thể có. Bởi thế nên lại từ Trần Phú ra đi làm sao dám nghĩ đến ngày về. Ôi! Chút lòng trung thực từ sau xin chừa (1). Đã bao lần tự nhủ thế rồi mà cái tật nghĩ sao nói vậy vẫn không sửa được.

Lẽ ra không có tăng hai, không đi coi vườn, không lên V.Q, không gặp Lượng, Cân, Phổ. Lẽ ra không phải chịu mười bốn tháng khổ đau, không nhìn A Thềnh chết, không thấy chiếc xe công nông nổ bành bạch chở xác anh Mán ra rừng. Sau này khi nỗi đau đã dịu, nhìn về quá khứ mười bốn tháng ấy (chỉ bó gọn trong mười bốn tháng tù thêm ấy thôi) như người ngoài cuộc đứng nhìn vào cuộc đời ai đó, hắn tự bảo: Chẳng nên ân hận làm gì. Số phận đã bắt nếm chén đắng cay thì đành cạn chén. Khi đã là vật thể nghiệm, hãy thể nghiệm hết mình. Nhưng rồi nghĩ tới bố mẹ giờ đây khuất núi, nghĩ tới Ngọc, tới các con, những người ruột thịt vì hắn mà phải chịu thêm mười bốn tháng khổ đau, hắn lại thấy vết thương đã lành dấu rồi bỗng dưng rỏ máu. Cõi mù mịt ấy của số phận lẽ ra đừng nên có. Cõi tuyệt vọng ấy đừng nên có đối với những người thân.

Và nó bắt đầu từ buổi gặp mặt ở Trần. Chao! Một khi cứ nghĩ rằng sau buổi gặp mặt ấy là được về với Ngọc. Dù đã tập cho quen với thất vọng, luôn xác định rằng đời mình là một chuỗi những khốn nạn liên tiếp nối nhau mà sao khi xảy ra vẫn không thể nào chịu nổi, vẫn là quá sức chịu đựng của một con người.

Đang kể chuyện các trại trung ương cho anh em trong B nghe, hắn vội theo ông quản giáo đi ra.

Lúc ấy đã tan tầm. Chỉ một mình hắn được ra gặp mặt, không một phạm nhân nào khác nữa. Rõ ràng đây là một cuộc gặp mặt đặc biệt dành cho hắn. Phòng gặp mặt cũng là một phòng làm việc nào đó của cán bộ. Ông Lan, anh Thân (anh thứ hai của hắn) và Ngọc. Hắn biết tan tầm vì Ngọc nói: “Vừa tan tầm là em đến đây ngay”. Ngọc mới nhận được tin hắn về sáng nay. (Trước đó trong những cuộc họp cán bộ toàn thành phố, anh Thân đã được nhiều người kín kín hở hở rỉ tai là đã có chủ trương cho hắn được về). Ngọc và anh Thân được mời lên Sở Công an, người ta thông báo hắn đã được chuyển về Trần Phú. Sở Công an yêu cầu gia đình và anh Thân giúp đỡ bên an ninh để hắn trở thành người công dân tốt. Và chiều nay, lúc tan tầm hai người có thể vào thăm hắn. Ngọc mua vội mấy gói kẹo mang vào cho hắn. Nhìn nét mặt Ngọc, hắn

(1) Nguyễn Du: Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa

hiểu Ngọc hy vọng như thế nào. Ngọc gầy guộc, cam chịu, ít nói, nhưng hắn đọc trong mắt Ngọc niềm hy vọng lớn lao. Bên cạnh niềm hy vọng ấy, hắn còn cảm thấy nỗi lo sợ bị thất vọng. Anh Thân vẫn như vậy. Vào tuổi anh ít có thay đổi.

Và ông Lan. Gặp ông, hắn bàng hoàng. Hắn lại nhìn thấy ông, nhìn thấy định mệnh. Định mệnh của hắn hiện thân thành một con người. Mắt sắc lạnh, mặt dài hơi gẫy, môi mỏng dính. Hắn đã quên hẳn ông rồi. Đi trại trung ương hắn không nhớ tới ông nữa. Hắn chỉ nhớ tới bố mẹ, vợ con. Hắn chỉ nghĩ tới củ khoai, mẩu sắn nhặt được ở dọc đường. Bởi hắn đói. Hắn phải làm khổ sai. Hắn phải tồn tại.

Về Trần hắn chỉ nghĩ tới việc được tha. Ở đây, đêm nằm nghe vọng tiếng còi ô-tô tải, nghe chương trình nhạc tập thể dục buổi sáng, hắn cảm thấy bằng tất cả các giác quan hơi thở và nhịp điệu của thành phố. Thành phố hắn đã yêu đến từng viên đá lát vỉa hè, từng làn khói nhà máy. Thành phố lúc nào cũng mang mùi gió biển. Thành phố quê hương hắn đã về làm việc và sinh sống. Hắn đã rời Hà Nội về đây, nghe theo tiếng gọi của Đảng, nghe theo lời khuyên của các nhà văn đàn anh, mơ ước và tin tưởng đầy lòng, chắt chiu tích cóp từng chi tiết cuộc sống với khát vọng sẽ khái quát một giai đoạn mới của thành phố đã sang trang. Tác phẩm của hắn sẽ đầy ánh nắng là tiếp theo những trang đen tối của đời thợ trong Bỉ vỏ, Sóng gầm .

Nằm ở Trần Phú lần này hắn thấy gần nhà lắm rồi. Từ đây về nhà hắn chỉ mười lăm, hai mươi phút xe đạp. Dọc bờ sông Trà thẳng đến nhà băng, quành về Ngã Bảy. Hắn hình dung rõ từng ngọn cây, những dòng người đi xe đạp ngược xuôi. Hắn hình dung ra căn buồng của hắn, vợ con hắn.

Hắn vẫn nằm ở đây mà nhà hắn chỉ cách có một đoạn đường. Hắn thức trắng đêm. Hắn nghĩ ngợi. Hắn nằm im, mắt mở chong chong. Chờ đêm qua. Chờ trời sáng. Chặng đường hắn đã đi… Dài. Đen tối. Sắp tới nơi rồi. Trời sắp sáng rồi.

Hắn chỉ nghĩ vậy. Hắn đâu có nghĩ đến ông Lan.

Nhìn thấy ông, hắn bàng hoàng. Thì ra số mệnh hắn gắn chặt với ông. Thì ra trên đời vẫn còn có con người này. Thì ra ngồi ở đây, nhưng ông vẫn không rời mắt khỏi hắn suốt chuỗi ngày dài vô tận ấy, ngay cả khi hắn biệt xứ trong rừng sâu trại trung ương.

Ông Lan ngồi đó như một cái hố sâu chắn ngang con đường hắn trở về.

Như bức tường đá cao vút, kiên cố, bên trên có hàng rào dây thép gai chạy điện của trại giam này mà hắn không thể nào vượt qua. Ông Lan ngồi đó, mặc áo bông xanh cười nói với anh Thân (rõ ràng trông ông già hơn hắn), như một tai ương được báo trước. Như một tiền kiếp nào đó đang nói về những bước đường hắn phải trải qua, không thể nào tránh được.

Ông Lan ngồi đó chập chờn như một ảo ảnh nói chuyện với vợ hắn (lúc này trông ông trẻ hơn hắn) là hiện thân cho toàn bộ sức mạnh của cỗ máy khổng lồ nghiền nát đời hắn, đời vợ con hắn.

Nhưng ông Trần đã quyết định. Ông Trần là giám đốc, là Thường Vụ. Một quyết định của ông Trần không ai được bàn cãi. Ông Trần đã nói với anh Chân. Cả ông Trần, cả ông Lan đều không thù hằn gì hắn. Ông Lan có thể đã dính líu quá sâu vào vụ này, chứ ông Trần thì không. Một ông Thường Vụ vào sinh ra tử, toàn thành phố nhìn vào, nhất định sẽ công tâm. Hắn tin như vậy. Hắn tin hắn sẽ được tha, bởi ông Trần đại diện cho công bằng và nhân ái, bởi hắn không có tội.

Ngọc nói: “Anh đã về gần. Mừng lắm. Cả nhà mong anh về”. Bao giờ nhìn Ngọc hắn cũng cảm thấy vừa gần gũi, vừa xa vời. Ngọc đấy, cách hắn một cái bàn con, nhưng là hai thế giới. Ngọc đâu có phải đi từ nhà đến đây. Em đi suốt nghìn đêm thương nhớ lại. Hắn đã có một câu thơ như vậy sau buổi gặp Ngọc ở Q.N. Hắn cũng không phải đi từ buồng giam ra gặp Ngọc. Anh giết dần từng giây địa ngục đợi chờ em.

Anh Thân vẫn với vẻ xã giao mềm mỏng như bản chất của anh:

– Các anh bên công an nói với tôi sẽ giải quyết cho chú về, nhưng chú phải xác định…

Hắn đưa mắt nhìn anh Thân như chính anh đang lăng mạ hắn. Anh Thân bỏ dở câu nói. Ông Lan hướng cặp mắt quyền uy vào một thính giả vô hình :

– Đúng. Trước hết anh phải xác định được những sai lầm của mình. Phải nhận thức được thiếu sót của bản thân. Chúng tôi giam giữ anh không ngoài mục đích ấy.

Còn gì trắng trợn hơn. Gian dối hơn. Đạo đức giả hơn. Đểu hơn. Hắn bình tĩnh:

– Thưa ông. Cho đến bây giờ tôi chưa được biết tội của tôi. Chưa ai nói cho tôi biết tôi có tội gì.

Ông Lan cười nhạt, quay về phía Ngọc như thanh minh: “Đấy. Anh ấy cứ thế. ”

Sau này hắn tự giày vò, nguyền rủa mình vì đã nói ra câu ấy. Giá hắn đừng thấy nghẹn nơi cổ. Giá hắn đừng nói. Bình tĩnh trước những lời giả dối. Dùng cái giả dối để ứng xử với sự giả dối như bao người đã làm thì đâu đến nỗi.

Hắn lại phải trở lại Q.N như số mệnh đã hẹn trước. Như mũi tên đã lắp lên dây cung căng sẵn. Cứ thế lao đi, vào cõi mịt mù của số phận.

Tết đó hắn ở Trần Phú. Đó là cái Tết thứ tư trong tù. Sau Tết mấy ngày, hắn bị đưa đi. Tinh mơ, ông già B trưởng đã kể chuyện giấc mơ của ông ta. Ông mơ thấy ô-tô đến đón người trong B ra đi. Hắn chẳng nghĩ ngợi gì. Dạo ấy hắn không tin mộng triệu. Hắn vẫn chờ được trở về. Điều hắn nói với ông Lan có gì mới đâu. Hắn đã nói với ông Lan nhiều lần. Ở Q.N hắn đã làm nhiều đơn kêu oan. Đến lúc anh em lục tục trở dậy, gấp gọn nội vụ xếp ngay ngắn sát tường thì có tiếng mở khóa buồng giam.

– Anh Tuấn mang hết nội vụ ra ngoài.

Hắn ra đi, còn nghe thấy tiếng ông B trưởng nói khe khẽ:

– Tôi mơ thấy có xe ô-tô đến đón mà.

Cho đến lúc ấy hắn vẫn nghĩ rằng hắn có thể được về. Nhưng khi đã đặt hòm xiểng, chăn màn, cặp lồng, túi và ngồi trên chiếc xe com-măng-ca Rumani đít vuông thì hắn hiểu cái gì đang chờ hắn. Hắn hiểu hắn lại tới chốn nào. Sau này khi đã được tha, đọc lại những bức thư viết cho vợ thời gian đó, hắn sống lại nỗi đau ngày ấy.

Em của anh vô cùng thương và yêu quý!

Anh đã hai lần viết thư cho em. Hẳn em không nhận được. Anh đã nhắn nhiều tin về cho em. Anh trở lại Q.N như định mệnh bắt phải về. Thôi thì cho là chúng ta không có cuộc đời nữa. Khi mà họ cố tình. Van xin thế là đủ. Giờ phải đấu tranh. Anh đã xin gặp ban giám thị trại, nhưng các ông ấy không cho gặp. Vì có lẽ cũng ngoài sức giải quyết của các ông ấy. Sức khỏe anh ngày càng yếu. Anh chỉ mong em đừng do dự. Và khi nguồn thành phố đã tắt thì phải mở bằng được con đường Hà Nội. Gửi đơn đi các nơi. Và phải dùng biện pháp tích cực nhất: Trực tiếp gặp các lãnh tụ.

Trong những chuyện này em phải có nghị lực. Đừng nghe lời bàn tán hoài nghi của thầy mẹ, các anh. Anh tin rằng trực tiếp gặp các lãnh tụ sẽ giải quyết được tất cả. Đảng bao giờ cũng sáng suốt. Hẳn em cũng tin chồng em hoàn toàn vô tội. Anh đã chứng minh rằng anh theo Đảng, chứ không chống Đảng. Họ không bác bỏ anh khi có mặt anh. Sao bây giờ họ lại nói tội của anh với em, với các anh một cách vắng mặt anh như vậy. Và không nhận tội thì không được về. Nhưng nhận tội gì đây. Không nhận tội thì tù đến bao giờ. Phải có lòng tin rằng sự thật sẽ thắng. Đảng rất quan tâm đến con người em ạ. Để có quyết tâm và không tuyệt vọng.

Trở lại Q.N anh mới nhận được thư em viết trước Tết kể chuyện em đón con Thương ra chơi ngày Nôen. Anh không dám đọc nữa. Đến bây giờ sắp 1-5 rồi, anh vẫn không dám đọc lại bức thư em. Ôi! Lẽ ra anh đã được về rồi. Không còn ở trại Q.N này để nhận nó, đọc nó. Anh không dám cầm đến nó. Và vẫn chưa đọc hết nó. Thư em gửi Giang đã nhận được.

Chúng ta hy vọng gì ở tương lai. Anh chỉ nghĩ đến nấm mồ chờ anh và chờ tất cả mọi người. Bởi vì bất kỳ ai rồi cũng đều phải từ biệt thế giới này. Cuộc sống thật là một điều kinh khủng. Ngày gần đây anh còn hy vọng được trở về trông thấy bố mẹ già. Giờ đây hy vọng ấy cũng tắt rồi. Anh phải tiêu diệt nó ngay từ bây giờ, để sau này, khi anh trở về mà bố mẹ không còn, hoặc khi anh chết không về gặp được bố mẹ nữa thì cũng quen được với điều đau đớn ấy.

Em! Thương em vô cùng. Thương các con quá. Bao giờ tôi được ôm ấp, vuốt ve các con tôi. Bốn năm rồi tôi không trông thấy chúng. Chúng đã lớn, nhưng với anh chúng vẫn bé bỏng như những ngày anh mới bị vào tù. Vẫn những tiếng nỉ non, những trò chơi bốn năm trước – Và lẽ ra giờ đây anh đang chơi đùa với chúng.

Em của anh! Em đã chịu tất cả những đắng cay mà một người có thể chịu. Bao giờ gặp lại em. Gặp lại tình yêu của anh, niềm hy vọng của anh mà nhờ có nó anh đã sống qua được những ngày này.

Nếu em không làm được việc kêu oan cho anh, thì anh không có ngày về. Sự thật là như vậy. Đừng lên thăm anh làm gì. Vất vả quá. Khổ thân em. Anh đã quen chịu đựng…

Bức thư khá dài này không phải chuyển theo đường chính thức của trại (mỗi tháng trại cho gửi một lần). Bức thư kể lể khổ đau và dặn biện pháp đấu tranh này chắc chắn nhờ một bạn tù được tha giấu mang về cho vợ hắn. Nhưng hắn không nhớ được người hắn gửi. Đã lâu quá rồi. Hắn chỉ nhớ cái xe com-măng-ca đít vuông đã chở hắn đi. Hắn nhớ vì cái sản phẩm Ru-ma-ni ấy được cải tiến mà hắn không tưởng tượng nổi. Nhìn bề ngoài nó hoàn toàn là một cái xe bình thường. Nhưng bên trong được ngăn thành bốn ô. Bằng sắt và tôn lá. Bốn cái xà lim lưu động.

Chỉ có một mình hắn trong một ô cuối. Hắn dán mắt vào miếng kính to bằng bàn tay ở đuôi xe, nhìn con đường từ phía sau. Rồi hắn ngồi xuống ghế. Nhắm mắt, hắn cũng biết xe đi về đâu. Con đường này hắn đã đạp xe ít nhất mỗi tuần hai lượt. Lượt về. Lượt đi. Thuộc từng cái dốc, từng ổ gà. Mấy chục năm nay.

Xe qua phà được khoảng hai mươi phút. Hắn đoán đã đến chỗ rẽ. Rẽ phải. Nhưng xe lại quẹo trái. Xe đi lối tắt rồi. Nghĩa là về đúng qua đầu làng hắn. Đang ngồi hắn nhổm lên nhìn qua ô kính tí xíu. Không nhìn ra được phía trước để thấy quê hương từ xa chạy lại gần mình. Hắn nhìn về phía sau. Kia rồi. Đã qua cái lò gạch. Nghĩa là sắp đến lối rẽ vào làng. Con đường này, vợ chồng hắn đã đèo nhau trên chiếc xe Thống Nhất vợ hắn được phân phối. Những chiều thứ bảy đạp xe về. Tắm rửa, giặt giũ cho các con. Cởi hết quần áo của chúng, rồi ôm lấy những thân hình nhỏ nhoi, trần truồng, thơm tho, giẫy giụa ấy mà kỳ cọ. Dù chúng có nô nghịch, bẩn thỉu, đất cát, mồ hôi mồ kê cũng vẫn là thơm tho. Rồi dọn mâm chõng ra sân ăn cơm với bố mẹ. Vừa ăn vừa nhìn trời chiều xanh trên đầu, trời chiều xanh bốn chung quanh. Những chiều chủ nhật đạp xe đi. Các con líu ríu ra cổng tiễn. Bố mẹ dặn dò phải cẩn thận bom đạn. Hẹn với bố mẹ, hẹn với các con chiều thứ bảy tới lại về.

Lại đèo nhau trên chiếc xe đạp phân phối. Không thấy ngại. Không thấy mệt. Có những hôm phà chết máy, những hôm giờ cao điểm, tắc nghẽn, ghi-đông xe đạp cứng ngắc ở cửa bến, tiến không được, lùi không được. Những hôm máy bay bắn phá phải vòng lên đi lối Bến Kiền, nhá nhem rồi còn vác xe lội bãi lên đò, phù sa trơn nhẫy, hai vợ chồng bị bọc kéo nhau suýt nhào cả xuống sông. Qua đò là tối mịt. Có tiếng bà mẹ khóc con hy sinh trong B thảm thiết từ một xóm vọng ra. Tối như bưng. Càng tối vì hai bên đường những cây phi lao cao vút. Chợt tất cả như cô đặc đen kịt lại. Hoảng hồn phanh vội. Cho cả chân xuống đất mà phanh. Thấy hai đứa đã chui vào gầm một xe chở tên lửa đỗ ven đường. Tám chín giờ tối mới về đến đây. Đến đây là coi như hết mệt nhọc. Là sắp sửa tới nhà.

Đây rồi. Con đường rẽ vào làng. Con đường đất núi đỏ au. Hai hàng bạch đàn sóng nhau chạy từ đường cái qua cầu vào đến đầu thôn Nội. Đi giữa hai bờ tre rợp bóng tới một khúc ngoẹo là về thôn Ngoại. Chỗ đó là ruộng lúa. Hai vợ chồng hắn đã để sổng con vịt mua phiếu ở đó. Nó tuột dây trói chân, nhảy xuống ruộng. Hắn vội để ngả xe đạp ở bờ đường, lội xuống ruộng. Ngọc cũng xắn quần lội. Hai người lừa, dồn nó vào chỗ đặt ngả xe đạp. Hắn túm được con vịt khi nó đang leo dốc lên đường cái.

Con vịt. Con đường làng. Con đường quành ra đầu trạm xá, đi qua chợ đến một đầm nước mênh mông. Con đường dẫn đến nhà hắn. Cái cổng tre. Vườn. Sân… Bố mẹ hắn đang ở đấy. Con hắn đang ở đấy. Ngọc đang ở đâu? Còn ở đây hay đã sang phố đi làm rồi, em ơi!

Bây giờ vẫn còn là Tết. Kìa một làn khói lên. Lúa xanh. Tre xanh. Xa rồi. Mất hút rồi. Hắn vẫn dán mắt vào cửa kính. Đã thấy một thị trấn nhỏ. Đến làng Thanh Lãng rồi! Đu. Một gốc đu. Đông người. Một em nhỏ, ba người đàn ông có tuổi ăn mặc đẹp đi trên đường. Chắc là đi chúc Tết.

Qua làng rồi! Hết rồi! Hắn ngồi phịch xuống ghế, nhìn bốn bức tường thép hẹp xung quanh.

Ngọc ơi! Có biết anh đi rồi không?

Ngày về không có đâu em ạ.

Xe qua một ổ gà. Hắn bị xóc, đầu đập vào tường thép.

Chiếc xà lim đi động hẹp. Rất hẹp. Vẫn lăn đi.

Thơ Lê Hoài Nguyên

le hoai nguyen
Lê Hoài Nguyên

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 Con đường ra biển                                       

Năm lên mười tuổi

Mạc Đăng Dung lên thuyền theo cha vượt cửa sông Văn Úc

Lần đầu tiên biết thế nào là sóng biển

Khi ngọn sóng cao như mái đình trùm lên con thuyền

cuốn cậu ra xa

Từ dưới sâu cậu bé vùng vẫy chống lại sóng dữ bám được mạn thuyền trước khi người cha túm cậu kéo lên

 

Từ cái lần đầu tiên ấy

Cậu không còn sợ biển

Cậu bỏ lại trên bờ nỗi sợ truyền đời

Những cơn sóng kinh hồn giữa trùng khơi

Chuyện thần biển bắt người, bắt cả ai dám cứu người trả nợ

 

Năm mười lăm tuổi

Cậu đã cứu được người bám cột buồm sắp chết.

 

Mười sáu tuổi, cậu nhìn thấy những chiếc thuyền buôn vĩ đại của những người da trắng

Trên những chiếc thuyền ấy chàng thanh niên thầm khâm phục họ

Đêm trở về căn nhà mái rạ nền đất nhà mình cậu thao thức mơ bay đến những chân trời xa lạ, những xứ sở giàu có tiền bạc và sức mạnh

Nơi những chàng trai như cậu có thể đi khắp trái đất với những con tàu vĩ đại, những kiện hàng to lớn, với những tráp đầy tiền, vàng bạc.

 

Cậu nhìn hai bàn tay mình

Hai bàn tay to, đầy chai sạn không khác gì bàn tay của những người thủy thủ da trắng. Cậu cũng kéo nổi mỏ neo, cũng nâng lên vai, vác đi những kiện hàng to.

Với những thứ đồ gốm, xấp tơ lụa trên thuyền cậu cũng đổi được vải vóc, đồ trang sức, đồ kim khí, thuốc men…

Cậu hỏi người cha: Cha ơi, để có những con thuyền to lớn đi ra được đại dương thì phải làm gì?

Cha cậu trả lời: Con phải có sức mạnh. Con phải làm cho đất nước giàu có. Biển cả sẽ giúp con.

Mạc Đăng Dung nhìn hai bàn tay mình. Thật lạ trong đó có cả sóng đại dương đang vỗ dào dạt, cậu đang lái một con thuyền to lớn đi về phía mặt trời lên mỗi sớm.

 

Hai mươi hai tuổi, trong trận tỷ thí đánh gục hai mươi đối thủ bước lên võ đài đô lực sĩ, trong hai bàn tay chàng đánh cá lại cồn lên những cơn sóng biển.

 

Những cơn sóng biển không bao giờ buông tha chàng cả khi cầm dù che đầu vua ở đội quân túc vệ.

 

Hai mươi chín tuổi, chàng có thanh bảo đao sức lực người thường không mang nổi. Trên mình ngựa đánh Đông dẹp Bắc lạ thay thanh bảo đao mỗi khi khua trên đầu binh địch phát ra những đợt sóng ầm ào cuốn tan tất cả các đạo quân cùng thành lũy.

 

Bốn mươi tư tuổi chàng đánh cá trở thành Hoàng đế.

Người vẫn không bao giờ nguôi nhớ tiếng sóng biển.

Vẫn mơ những con thuyền buôn vĩ đại, những xứ sở giàu đẹp bên kia bờ đại dương.

 

Mỗi buổi sáng

Hoàng đế – Người đánh cá nhìn lại hai bàn tay mình, tiếng sóng biển lại nhắc lời người cha ngày trước:

Biển cả sẽ giúp con.

 

Tháng 11 -2012                

 

 

 

Lặng lẽ

 

Họ đã rời cuộc chơi

Sau một cú vấp ngã

 

Có thể

vì nhân cách của người nghệ sĩ

vì tài năng

vì lòng tự trọng

vì sự trung thực với cuộc đời

vì sự phản bội của những người bạn

vì sự ghen ghét

vì những cú đánh hôi

 

Họ từng có một cái tên

Vang lên một thời.

 

Họ đã biến mất

Khỏi các kỷ yếu

Khỏi lịch sử ngành đương đại

Khỏi trang sách hồi ký

Khỏi mặt báo

Đời sống đã quên không còn họ.

 

Tôi đi tìm dấu tích cuộc đời những cái tên đó

Đánh vật với những trang giấy cũ nát

Đánh vật với các trang web

Chỉ gặp lại những cái tên đơn giản không hồn

 

Nửa thế kỷ

Họ đã sống trên đời

Họ đã sống không dấu vết.

 

Đầu năm 2011

 

 

Galilê

 

Người ta không tin bởi người ta cảm thấy

Trái đất đứng yên

Còn mặt trời thì quay quanh trái đất

Và Côpecnich

Bị ném lên giàn lửa.

 

Người ta không thấy khi người ta hoảng sợ

Nhìn chiếc kính viễn vọng chín trăm lần

Kinh sáng thế bỗng trở thành huyền hoặc

Và Galilê bị tống vào trong ngục.

 

Người ta giả bộ thờ ơ

Mặc Kẻ Dị Giáo kia thét lên sau song sắt

Nhưng mà nó vẫn quay!

 

Sau ba trăm năm mươi chín năm

Giáo hoàng mới phục hồi danh dự cho ông

Người phát minh vĩ đại nhất của thế kỷ Khai Sáng.

 

1993

 

 

Thương thương Chế Lan Viên

 

Thương cho người đang đói lòng

Biết là bánh vẽ thế mà vẫn phải ăn

Ăn rồi lại phải khen ngon

Không thì chết đói, chết cả nhà vợ con.

 

Chết rồi bản thảo mới đưa ra

Chết rồi chúng nó làm gì được ông

Thương thương cho cái lưng còng

Suốt đời bánh vẽ dằn lòng để ăn.

 

Nhưng anh đã dám viết rằng

Vì anh đã có nhiều người theo ăn

Đau đời biết bấy nhiêu năm

Vẫn còn hơn khối kẻ ăn mà ngậm tăm.

 

Bây giờ thế hệ chúng tôi

Thấy mùi bánh vẽ là quăng đi liền.

Thương thương Chế Lan Viên…

 

2008

 

 

Tác giả gửi Văn Việt.

THẢO LUẬN THOÁT TRUNG VỀ VĂN HOÁ (1): Giã từ nền văn hoá quỳ lạy

Lê Phú Khải

 

Có lần, Hán Cao Tổ Lưu Bang (202 trước Công nguyên) nói với Lục Giả: “Ta ngồi trên lưng ngựa mà có được thiên hạ thì cần gì phải học Thi, Thư…”. Nhưng rồi Hán Cao Tổ cũng nghe lời khuyên của Lục Giả trọng dụng kẻ sĩ, đề cao Nho giáo để củng cố ngai vàng. Đến đời Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) thì đạo Nho trở thành quốc giáo. Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên, thọ 73 tuổi), người được xem là sáng lập ra Nho giáo được tôn lên bực thánh, trở thành Vạn thế sư biểu (người thầy của muôn đời).

Điều cốt lõi của Khổng giáo là lý thuyết về người quân tử, tức kẻ cai trị đất nước (quân là cai trị, quân tử là người cai trị). Theo Khổng Tử thì người quân tử phải biết tu thân, phải có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc… Tu thân rồi, người quân tử phải dấn thân hành động: tề gia, trị quốc, bình thiên hạ! Người quân tử phải chính danh để cai trị đất nước. Các triều đại phong kiến sau này đều triệt để khai thác Khổng giáo, họ biến đổi, “gia cố” Nho giáo thành một triết thuyết cực đoan có lợi cho giai cấp thống trị. Chữ đạo của Khổng Tử là những mối quan hệ phải có trong xã hội thời đó như đạo vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn hữu… sau này chỉ còn ba quan hệ vua-tôi, cha-con, chồng-vợ với cái logic phản động và phản dân chủ nhất: quân sử thần tử, thần bất tử bất trung (vua bảo chết, thần không chết là bất trung); phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu (cha bảo con chết, con không chết là bất hiếu); với phụ nữ thì: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (ở nhà thì phải theo cha, lấy chồng thì phải theo chồng, chồng chết phải theo con).

Trong chế độ phong kiến, nhân dân đã tiếp thu những “đạo lý” đó như người khát nước uống thuốc độc để giải khát. Chế độ phong kiến tàn bạo và thối nát ở Trung Quốc đã nhờ triết thuyết của Khổng giáo mà tồn tại và kéo dài cho đến cách mạng Tân Hợi 1911.

Vì thế, nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện (1913-1997) đã phê phán Nho giáo một cách triệt để: “Trên phương diện chính trị, Nho giáo chủ yếu là bảo thủ. Nó bỏ qua vấn đề pháp luật và thiết chế, từ chối mọi cải cách… Bảo vệ lễ nghi của các triều đại xưa là mối quan tâm hàng đầu của Khổng Tử. Trong chữ lễ, vương triều Trung Hoa cũng như Việt Nam đã tìm thấy biện pháp tốt nhất để duy trì sự ổn định của ngai vàng (Bàn về đạo Nho – nguyên văn tiếng Pháp đăng trên tạp chí La Pensée số 10-1962 với đề là Confucianisme et Marxisme au Vietnam. Dịch sang tiếng Việt, in trong Bàn về Đạo Nho – 1993).

Với Khổng giáo, vua là Thiên tử (con Trời), thay Trời cai trị muôn dân. Vua với nước là một. Yêu nước là trung với Vua (trung quân ái quốc).

Điều nguy hiểm nhất của triết thuyết Khổng Tử là: Người quân tử nhờ tu thân mà có vai trò cai trị, nhưng khi quân tử – tức kẻ cai trị – không tu thân, trở thành những hôn quân bạo chúa thì dân chúng vẫn phải cam chịu, không được làm cách mạng lật đổ chúng. Vì thế Nguyễn Khắc Viện mới viết: Khổng Tử từ chối mọi cải cách!

Trong xã hội Khổng giáo mấy ngàn năm ở Trung Quốc, kẻ sĩ đi học là mong được làm quan. Làm quan để được quỳ lạy dưới ngai vàng. Cái văn hoá quỳ lạy ấy đã kìm hãm nước Trung Hoa trong vòng tăm tối mấy ngàn năm. Trong nền văn hoá quỳ lạy ấy, chỉ có kẻ trên đúng. Chỉ có vua đúng. Vua bảo chết là phải chết. Cha bảo chết thì con phải chết. Tóm lại là không có chân lý. Hay nói khác đi, không ai đi tìm chân lý cả. Chân lý đã có sẵn ở kẻ bề trên, ở triều đại chính thống, bất kể nó thế nào!

Điều trớ trêu là văn hoá quỳ lạy ấy còn tồn tại đến hôm nay ở nước Trung Hoa cộng sản. Tướng Lưu Á Châu, một nhà bình luận nổi tiếng ở Trung Quốc hiện nay kể rằng, khi ông đi học một lớp chính trị trong quân đội, thấy thầy giảng chướng quá, ông đứng lên thắc mắc. Ông thầy liền nói: Tại sao anh dám cãi lại tôi? Tướng Lưu Á Châu thất vọng, vì thầy đã không dám hỏi: “Vì sao anh lại nói như thế?”, rồi tranh luận để tìm ra chân lý. Thầy chỉ phán: “Vì sao anh dám cãi lại tôi?!”. Thầy luôn đúng. Trò không được cãi.

Nước Trung Hoa cộng sản hôm nay vẫn nguyên hình là một xã hội Khổng Mạnh trá hình mà thôi!

Trong khi đó thì ở phương Tây, cùng thời với Khổng Tử, Aristote (384-332 trước CN) đã tuyên bố: “Platon là thầy tôi, nhưng chân lý còn quý hơn thầy!”. Cái văn hoá chân lý quý hơn thầy ấy đã dẫn dắt phương Tây trở thành một xã hội dân chủ và văn minh đến ngày hôm nay.

Việt Nam chúng ta từng một ngàn năm Bắc thuộc, lại luôn chịu ảnh hưởng của người láng giềng hủ bại Trung Hoa, nên tầng lớp có học của nước ta thấm đẫm thứ văn hoá quỳ lạy của Trung Hoa. Trí thức nước ta trong mấy ngàn năm lịch sử chỉ lo dùi mài kinh sử để mong đỗ đạt làm quan, để được quỳ lạy trước sân rồng. Có người già rồi còn đi thi, suốt đời ăn bám vợ con. Việc làm ra của cải vật chất đều do người phụ nữ và những người ít chữ gánh vác. Trí thức Việt Nam trong quá khứ không ai học để làm cách mạng, để thay đổi đất nước. Hình ảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau còn tồn tại đến hôm nay ở nông thôn miền Bắc là kết quả của tư duy làm quan, tư duy quỳ lạy. Báo chí của Việt Nam hôm nay hay ca ngợi một bà mẹ đi bán hàng rong mà nuôi được bốn năm người con học đại học. Học để mong kiếm một mảnh bằng vênh vang với làng xóm! Học để mong kiếm một cái chân trong cơ quan nhà nước, để trở thành một anh công chức, một anh nha lại, trên bảo dưới phải nghe.

Khi bàn về việc trọng dụng đội ngũ trí thức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần nói, đại ý, xung quanh thủ tướng toàn là những người có bằng cấp cao, thạc sĩ, tiến sĩ… toàn là trí thức!

Thực ra các vị đó chỉ là những công chức, không phải trí thức. Mà đã là công chức thì trên bảo gì dưới phải nghe theo. Nếu không nghe thì “văng” ra khỏi bộ máy quyền lực ngay lập tức. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện lúc bình sinh có nói với người viết bài này: “Tư bản Pháp chỉ tuyển chọn vào bộ máy những người đỗ đạt cao. Vì thế, khi vào một cơ quan công quyền, người ta biết rõ những người ngồi đó đều là người tài giỏi, vì thế, họ vừa có quyền, lại vừa có uy. Thế mới gọi là uy quyền. Nhưng quyền uy mấy thì cũng là công chức. Nhân dân Pháp chỉ kính trọng những trí thức tự do, vì họ dám phản biện xã hội, bảo vệ lẽ phải. Nước Pháp có hàng trăm nghìn hội đoàn độc lập. Đó là một lực lượng dân chủ hùng mạnh để cân bằng với chính quyền của giai cấp tư bản.

Buồn thay, bộ máy công quyền của Việt Nam hôm nay chỉ tuyển chọn những người “dễ bảo” hoặc biết “mua bán”. Vì thế nó ngày càng xuống cấp. Có lần, trong một cuộc gặp gỡ có nguyên Bộ trưởng L.H.N., phó giáo sư tiến sĩ V.T.K. và người viết bài này, trong lúc vui vẻ, phó giáo sư V.T.K. than phiền với Bộ trưởng L.H.N.: Mấy tay vụ trưởng đi theo anh chuyến này vô Nam, qua nói chuyện tôi thấy các vị đó dốt quá! Nguyên Bộ trưởng L.H.N. nói: Ngày xưa dốt là từ cấp thứ trưởng trở lên, cấp vụ nó giỏi lắm, nay nó dốt xuống đến cấp vụ rồi!!!

Từ nền văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy, đã hình thành một tâm lý xin-cho trong xã hội. Khi nhóm Cánh Buồm của nhà giáo Phạm Toàn soạn thảo bộ sách Học tiếng Việt cho học sinh lớp 1 theo hướng cải cách giáo dục, tôi đến chơi một người bạn cũ từng là một quan chức cao cấp, từng ở nước ngoài nhiều năm, có học thức cao… và tặng ông một trong các cuốn sách Học tiếng Việt đó. Cầm sách trong tay, ông nói ngay: Họ không cho lưu hành đâu anh ạ! Thì ra cái tâm lý xin-cho đã ngấm vào xương tuỷ giới trí thức nước ta. Trên phải cho thì dưới mới được làm! Dù chưa ai cấm đoán bao giờ!

Ít lâu sau, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có ý kiến phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa cho học sinh phổ thông học. Thế là tôi viết giới thiệu bài tập đọc “Lễ thả thuyền ra Hoàng Sa…” đã có trong sách Tiếng Việt lớp 1 của nhóm Cánh Buồm. Báo Người Lao động TP HCM đã đăng ngay bài đó trong tháng 1-2014 (vì… Thủ tướng đã… cho… nói về Hoàng Sa và Trường Sa!!!).

Ngày nay nước ta đã manh nha kinh tế thị trường, có bao nhiêu điều kiện và cơ hội để học làm người tự do, làm khoa học, làm chuyên môn, làm nghề… làm ra của cải cho một đất nước “đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên) thì trí thức nước ta cần mau chóng giã từ nền văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy có cội nguồn từ văn hoá Khổng Mạnh Trung Hoa để canh tân đất nước.

Để kết thúc bài viết này, tôi xin kể một câu chuyện về giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, ông sinh năm 1941 tại xã Điện Thắng Bắc huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Hiện ông là một Việt kiều ở Bỉ, hoạt động trong lĩnh vực khoa học không gian. Ông là một nhà khoa học rất nổi tiếng, là “một trong 10 người làm thay đổi nước Bỉ” như cách nói của chính phủ Bỉ. Ông giảng dạy ở bậc đại học đã nhiều năm, từng là trưởng Khoa Cơ học phá huỷ thuộc Khoa Kỹ thuật không gian Đại học Liège. Một ngày kia, đồng nghiệp của ông “phát hiện” ra ông chỉ có bằng kỹ sư, chưa có bằng tiến sĩ như bao đồng nghiệp khác đang làm việc cùng ông. Người ta đề nghị giáo sư Nguyễn Đăng Hưng làm hồ sơ để thi tiến sĩ. Khi giáo sư Hưng tập hợp các công trình mình đã làm và đã được ứng dụng trong sản xuất để trình Hội đồng, chuẩn bị cho luận án tiến sĩ sẽ làm, thì Hội đồng nhất trí cao rằng ông xứng đáng là tiến sĩ từ lâu rồi, khỏi cần thi! Tại một quán càfê ở đường Phạm Ngọc Thạch Quận 1 TP HCM cuối năm 2013 vừa qua, giáo sư Hưng tâm sự với chúng tôi: Mãi làm việc quá nên tôi… quên làm tiến sĩ.

Bao giờ cái văn hoá học để làm việc thay thế được văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy trong giới tinh hoa ở nước ta, thì Việt Nam mới mở mày mở mặt được.

 

Tháng 6-2014

L. P. K.

Tác giả gửi Văn Việt.

MỜI THAM GIA THẢO LUẬN CHỦ ĐỀ “THOÁT TRUNG VỀ VĂN HOÁ”

Hưởng ứng cuộc toạ đàm “Thoát Trung” do Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh tổ chức, trang mạng Văn Việt của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam xin mời các nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu thuộc mọi lĩnh vực liên quan, và bạn đọc tham gia thảo luận chủ đề “Thoát Trung về Văn hoá”.

Văn hoá xin được hiểu theo nghĩa bao gồm các giá trị tinh thần như ý thức tư tưởng, triết lý, đạo đức, tâm linh, lối sống,… Như thế, Văn hoá chính là nền tảng sâu xa và lâu bền của sức mạnh dân tộc. Không thể “thoát Trung” về kinh tế, an ninh, chính trị… nếu không xuất phát từ “thoát Trung về Văn hoá”.

Xung quanh chủ đề này, có những câu hỏi cần giải đáp:

– Thoát Trung về Văn hoá là thoát cái gì? Cốt lõi của Văn hoá Trung Hoa mà ta cần “thoát” là cái gì, đặc biệt là cốt lõi Văn hoá Trung Hoa đương thời? Vai trò của Nho giáo? Chủ nghĩa Mác-Lê-Mao? Các thuyết Đặng – Hồ – Tập?

– Thoát Trung để đi về hướng nào? Văn hoá Mỹ? Văn hoá Nhật? Bắc Âu? Đông Nam Á? Văn hoá “thuần Việt”?

– Thoát bằng cách nào? Cải tổ các thiết chế văn hoá? Vai trò của Giáo dục? Các hình thức xã hội dân sự?

Và nhiều vấn đề cụ thể mà các nhà văn, nhà nghiên cứu, bạn đọc có thể đặt ra.

Các bài viết sẽ được đăng tải dần trên Văn Việt, và gửi đến cuộc toạ đàm “Thoát Trung về Văn hoá” do Quỹ Phan Châu Trinh tổ chức.

Trân trọng đón chào các bài tham gia thảo luận của quý nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu và bạn đọc.

Bài tham gia thảo luận xin gửi về địa chỉ: vanviet.vdhn@gmail.com

 

Văn Việt

1984 của George Orwell

Đinh Bá Anh

1984-by-opallynn-d4lnuoh Độc giả của Nhà xuất bản Giấy Vụn đã có dịp biết đến George Orwell qua tác phẩm Trại súc vật, bản tiếng Việt ấn hành năm 2008. Lần này, chúng tôi lại hân hạnh được giới thiệu một kiệt tác nữa của ông, 1984, tác phẩm bất hủ đã trở thành huyền thoại rùng rợn về nhà nước toàn trị, qua bản dịch xuất sắc của Phạm Minh Ngọc.

Nếu ở Trại súc vật, chủ đề trung tâm là sự hình thành nhà nước toàn trị qua cuộc Cách mạng Vô sản, thì 1984 đi sâu miêu tả cơ chế hoạt động của nhà nước này sau khi Cách mạng đã thành công và bộ máy hành chính quan liêu đã được xây dựng hoàn chỉnh.

George Orwell viết cuốn tiểu thuyết này trong hai năm 1946 – 1948. Tên tác phẩm, 1984 (đảo ngược của 1948), là ẩn dụ cho một mốc thời gian rất xa trong tương lai theo hình dung của độc giả thời đó. Winston Smith, nhân vật chính, là một đảng viên làm việc trong Ban Lịch sử của “Bộ Sự thật” (Bộ Tuyên truyền). Công việc chính của anh là xóa hoặc cắt xén tất cả những sự kiện có thể gây bất lợi và biên tập chúng sao cho có lợi cho đường lối của Đảng. Bằng cách đó, anh đã góp phần vào việc thủ tiêu lịch sử theo nghĩa là lịch sử của sự thật và thay vào đó là một lịch sử của sự dối trá. Nhưng không chỉ có thế: do đường lối của Đảng cứ thay đổi xoành xoạch, nên có những sự kiện và những con số cứ phải sửa đi sửa lại, đến nỗi không chỉ có một lịch sử mà là vô số lịch sử của sự dối trá. Rốt cuộc, trong cả nước không còn ai biết được cái gì là thật, cái gì là giả nữa, và ngay cả những đảng viên làm việc trong Ban Lịch sử cũng không thể nhớ nổi sự kiện nào đã được ngụy tạo đến lần thứ bao nhiêu, bởi vì cứ sau mỗi lần ngụy tạo, dữ liệu gốc lại bị hủy ngay lập tức.

Trong thâm tâm, từ lâu Winston Smith đã chán ghét Đảng. Song anh không thể để lộ suy nghĩ của mình, bởi vì khắp nơi đều có công an tư tưởng (an ninh văn hóa) theo dõi. Chỉ một chút sơ hở, anh sẽ bị khép vào “tội tư tưởng” và sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình. Tuy nhiên, khao khát tìm hiểu sự thật, nhất là khao khát tìm hiểu bằng cách nào Đảng có thể xây dựng nên một xã hội quái đản như vậy, đã từng bước đưa Winston Smith trở về quá khứ, giúp anh dần nhận ra quá trình thâu tóm quyền lực và cơ chế vận hành của Đảng. Nhưng hành trình nhận thức sự thật của anh cũng là hành trình đưa anh tới cái chết, một kết cục không thể tránh khỏi của tất cả những con người còn chút lương tri và lòng tử tế trong chế độ toàn trị.

Ở thời điểm George Orwell viết tác phẩm này (1948), thế giới vừa trải qua chế độ toàn trị kiểu phát-xít, còn chế độ toàn trị kiểu xô-viết vẫn còn đang cực thịnh. Ngay cả ở Anh và Mỹ, việc nhà nước kiểm soát hoặc can thiệp vào đời sống (trong đó có đời sống tư tưởng) của công dân cũng đang là một khuynh hướng đáng lo ngại, đến nỗi nhiều học giả bi quan cho rằng, nhà nước toàn trị là một khuynh hướng phát triển không thể tránh khỏi của xã hội loài người. Tuy nhiên, những gì đã diễn ra trên phạm vi thế giới hơn sáu mươi năm qua cho thấy, nhà nước toàn trị không phải là một khuynh hướng tất yếu, mà nó đơn giản là một sai lầm về tư tưởng. Người ta có thể tránh sai lầm này, và người ta cũng có thể sửa nó khi đã mắc phải. Nhiều quốc gia, trong đó có một số nước Tây Âu và Anh-Mỹ đã tránh được, còn những nước như Nga và Đông Âu đã nhận ra và sửa sai lầm đó. Trung Quốc và Việt Nam đi con đường riêng, con đường tiệm tiến, nhưng chúng ta có quyền tin rằng, đến một ngày nào đó, hai quốc gia này cũng phải đi đến nhận thức rằng: Con người sinh ra có quyền tự do!

1984 của George Orwell miêu tả một xã hội đen tối cùng cực, nhưng nó giúp ta nhận diện sâu sắc chế độ toàn trị, để chúng ta có thể thấu hiểu và tránh lặp lại nó, cũng như giúp ta sửa chữa những sai lầm còn tồn đọng mà ta không thể hoặc không dám nhìn thấy. Hiểu theo nghĩa đó, cuốn tiểu thuyết gây ớn lạnh của George Orwell chính là một thông điệp của hy vọng.

 

Các bạn có thể tìm đọc 1984 tại:

http://phamnguyentruong.blogspot.com/2011/06/george-orwell-1984-ki-1.html

 

Vụ Nhã Thuyên

Hồ sơ – Tư liệu

Văn Việt: Vụ luận văn Đỗ Thị Thoan đã nhanh chóng đi vào lịch sử văn hoá-giáo dục Việt Nam với tên gọi tắt là “Vụ Nhã Thuyên”. Nhằm phục vụ cho các nhà nghiên cứu tương lai,  mạng Viet-Studies đã công phu sưu tập thành một “hồ sơ – tư liệu”, riêng tập I đã 663 trang A4.  Sau đây là danh mục các bài viết về “vụ” này trong hai năm 2013 – 2014 tính đến thời điểm hiện nay. Bạn đọc có nhu cầu lưu toàn bộ tư liệu xin tải xuống từ trang http://www.viet-studies.info/HoSo_NhaThuyen_I.pdf

Tập 1

Năm  2013

  1. Chu Giang – Có giải thiêng lịch sử được không? (1)
  2. Chu Giang – Một luận văn kích động sự phản kháng và chống đối (6)
  3. Chu Giang – VĂN SƯ TỬ VÀ VĂN CẦY CÁO (11)
  4. Chu Giang – Không có thầy đố mày làm nên (17)
  5. Minh Tâm – Luận văn thạc sĩ “Vị trí của kẻ bên lề…” (21)
  6. Cẩm Khê – Nhân danh nghiên cứu để ca ngợi thứ “thơ” rác rưởi (26)
  7. Tuyên Hóa – Một “góc nhìn” phản văn hóa và phi chính trị (29)
  8. Phạm Thị HoàiCú giãy cuối cùng của nền phê bình chỉnh huấn (33)
  9. Bà Đầm xòeXin đừng uống máu nhân văn (35)
  10. Trần Đình Sử – Hai con chim, hai thời đại (37)
  11. Đoàn Ánh Dương – Về Nhã Thuyên (39)
  12. Giang Nam lãng tử – Đôi lời bàn góp về bài viết của Phạm Thị Hoài (42)
  13. Nhị Linh (Cao Việt Dũng) – Lịch sử của một cảm tình (43)
  14. Báo Văn nghệ – Một luận văn mơ hồ và sai lầm (45)
  15. Nguyễn Văn Dân – Văn học nhìn từ lý thuyết trung tâm – ngoại vi (51)
  16. Nhã Thuyên phỏng vấn Lý Đợi và Bùi Chát (56)
  17. Trần Đình SửPhê bình kiểm dịch (70)
  18. Nhã Thuyên – Về Những tiếng nói ngầm (73)
  19. Văn Chinh – TỰ DO, VỚI MỘT SỐ NGƯỜI LÀ BI KỊCH (76)
  20. Vũ Hạnh – Thấy gì từ một luận văn sai lạc?(80)
  21. Mặc Lâm, biên tập viên RFA – Nhóm “Mở Miệng”: lịch sử văn học đẫm máu sắp lập lại? (82)
  22. Hương Huyền (tổng hợp) – Một luận văn phản văn hóa và phản động (87)
  23. Đỗ Ngọc Yên – Thực chất vấn đề đằng sau cái gọi là “Vị trí của kẻ bên lề…” (92)
  24. Vũ Thị Phương Anh – Viết nhanh nhân vụ luận văn của Đỗ Thị Thoan, hay Chúa đã bỏ loài người… (96)
  25. Đỗ Quyên – MỞ MIỆNG (99)
  26. Đào Trung Đạo – Khả năng thành công/thất bại của ‘Vụ Xử’ Nhã Thuyên (102)
  27. Chu Mộng LongMỞ MIỆNG VÀ… BỊT MIỆNG (105)
  28. Nguyễn Ngọc Thiện – Từ một công trình ngụy khoa học, lệch lạc về tư tưởng học thuật… (108)
  29. Phạm Tuấn Kiệt – Sự lệch chuẩn của một luận văn (114)
  30. Nguyễn Vạn Phú – Hận cá, chém thớt (115)
  31. Trần Đình Sử – Cuộc phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan hay là sự xung đột về khung tri thức và thế hệ (117)
  32. Chu Mộng Long – Đã “phi chính trị” thì nguy hiểm chỗ nào? (120)
  33. Lê Chính Duật – Ai phản đối thạc sĩ Đỗ Thị Thoan? (121)
  34. Mặc Lâm, biên tập viên RFA – “Giải thiêng”, thuật ngữ của sự phá hoại? (122)
  35. Nguyễn Thị Từ Huy – Thư gửi Giáo sư Phong Lê (126)
  36. Lại Nguyên Ân – Trở lại vấn đề trung tâm – ngoại vi (127)
  37. Phạm Xuân Nguyên – Từ một bản luận văn (131)
  38. Nhị Linh – Về vụ Nhã Thuyên và rộng hơn vụ Nhã Thuyên một chút (132)
  39. Nguyễn Hoàng Văn – Lịch sử của bệnh dịch (134)
  40. Đông La – NHÃ THUYÊN NGỤP LẶN TRONG MIỆNG… HỐ RÁC (136)
  41. Nguyên Ngọc – TRƯỜNG PHÁI MỚI PHẢI XUẤT HIỆN TỪ BÊN LỀ (141)
  42. Phạm Xuân Nguyên – Phê bình chỉ điểm (142)
  43. Cao Việt Dũng – Nghiên cứu-phê bình văn học hiện nay: vấn đề lý thuyết và vấn đề đối tượng (146)
  44. Lê Tuấn Huy – Thẩm định Luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thị Thoan: tính pháp lý và sự hợp lý (148)
  45. Nguyễn Quốc Trụ – NT vs VC (152)
  46. Nguyễn Hưng Quốc – Vụ án Nhã Thuyên (153)
  47. Diên Vỹ – Những Tiếng Nói Ngầm và một thái độ nghiên cứu, phê bình cần được trân trọng (155)
  48. Chu Giang – “VĂN – SỬ BẤT… YÊN” (159)
  49. Inrasara – VÀI NHẬN ĐỊNH về NHÓM MỞ MIỆNG & NHÀ XUẤT BẢN GIẤY VỤN (168)
  50. Nhã Thuyên – VỚI VŨ THỊ PHƯƠNG ANH VỀ LUẬN VĂN “VỊ TRÍ CỦA KẺ BÊN LỀ” (171)
  51. Nhã Thuyên – “CÓ NGƯỜI BẢO NÓ CAN ĐẢM, CÓ NGƯỜI BẢO NÓ CHẬP CHENG…” (172)
  52. Bà Đầm Xòe Phạm Thành – Đôi dòng ngỏ đến ông Chu Giang Nguyễn Văn Lưu (179)
  53. Mai Anh Tuấn – “KHÔNG BAO GIỜ TRÍCH DẪN NHỮNG LỜI LẼ MÀ PHÊ BÌNH CHỈNH HUẤN ĐANG DÙNG” (183)
  54. Hồ Thơm – Hãy đeo súng vào trước khi phê bình! (186)
  55. Văn Chinh – Khoa học không có tính thế hệ và khung tri thức (187)
  56. Vũ Thị Phương Anh VỀ NGUYỄN VẠN PHÚ TRONG VỤ LUẬN VĂN NHÃ THUYÊN (188)
  57. Vũ Thị Phương Anh – “VỀ NHÓM MỞ MIỆNG VÀ CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI” (POSTMODERNISM) (192)
  58. Đông La – NGUYÊN ĐẦU… (BỘI) BẠC (196)
  59. Nhị Linh – Sách tháng Bảy 2013 (199)
  60. Mặc Lâm, biên tập viên RFA – Văn học trung tâm: động cơ của phê bình chỉ điểm? (200)
  61. Nhã Thuyên – Hầm bà lần (203)
  62. Đặng Phú Phong – PHỎNG VẤN NHÃ THUYÊN: MỖI TÁC PHẨM LÀ MỘT SỰ VONG THÂN…? (205)
  63. Anhbasam – Điểm Tin Chủ Nhật, 04-08-2013 (211)
  64. Hồng Thanh – Cần tiếp tục khẳng định “văn nghệ sĩ là chiến sĩ” (212)
  65. Vọng Thanh – Nhã Thuyên – “Một tài năng lỡ tàu” (214)
  66. Bích An – XÂY VÀ CHỐNG (217)
  67. Hoàng Thụy Lâm – MƯỢN “GÓC NHÌN VĂN HÓA” ĐỂ CỔ XÚY CHO NHỮNG NGƯỜI “ĐỨNG BÊN LỀ” (218)

Năm 2014

  1. Tư liệu: Công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương (3)
  2. Nguyễn Thị Từ HuyThư gửi cộng đồng đại học và cộng đồng nghiên cứu Việt Nam (4)
  3. Vũ Thị Phương Anh – TÁM CÂU HỎI VỀ VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ CỦA NHÃ THUYÊN (5)
  4. Mặc Lâm – Nhã Thuyên, nạn nhân của nền chính trị hướng dẫn văn học (8)
  5. Vũ Thị Phương Anh – Viết nhanh nhân vụ luận văn của Đỗ Thị Thoan, hay “Chúa đã bỏ loài người…” (11)
  6. NHÃ THUYÊN –  THƯ CUỐI NĂM (14)
  7. Vũ Thị Phương Anh – Nghĩ vụn về những gã đàn ông và một cô gái nhỏ (18)
  8. AFR Dân Nguyễn – Ai trong chúng ta, những gã đàn ông cảm thấy bị chạm nọc? (19)
  9. Đi tìm sự thật về nỗi hàm oan của PGS.TS Nhà giáo ưu tú Nguyễn Thị Bình: Từ lá đơn kêu cứu (21)
  10. GIANG NAM LÃNG TỬ – VỀ HỘI ĐỒNG BÍ MẬT CHẤM LẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ NHàTHUYÊN (25)
  11. BBC: BẤT THƯỜNG QUANH MỘT LUẬN VĂN (30)
  12. Nguyễn Ngọc Dương – Chuyện buồn cười (34)
  13. LMHT – Khi cán bộ chính trị kiềm tỏa người trí thức (36)
  14. Lê Tuấn HuyTừ vụ tước bằng của Thạc sỹ Đỗ Thị Thoan (38)
  15. Nhã Thuyên – Giấy mời và buổi làm việc sáng 27 Mar (41)
  16. Văn Giá – Luận văn, phê bình luận văn và… (43)
  17. Phạm Lộc – Người ta cũng chẳng buồn ái ngại với hai chữ “lịch sử” (45)
  18. Tễu – BLOG – Vụ Nhã Thuyên: PGS.TS NGÔ VĂN GIÁ LÊN TIẾNG
  19. Phan NguyễnGửi các bạn đã có ý kiến qua bài viết của anh Văn Giá (47)
  20. Nguyễn Văn TuấnQua sự việc Nhã Thuyên nghĩ về tự do học thuật (48)
  21. Nhã Thuyên – Hồ sơ bảo vệ luận văn 2010 (51)
  22. Chu Mộng Long- Viết gì nữa về vụ Nhã Thuyên??? (58)
  23. Thư Hiên – Kỳ án Nhã Thuyên (59)
  24. Chép Sử Việt – Lời khuyên vụ Nhã Thuyên: bớt cãi cọ, hãy kiện cáo! (64)
  25. Đặng Ngữ – Nhã Thuyên, Lê Thăng Long & những người “Trotsky”… (66)
  26. Vũ Thị Phương Anh – Thư ngỏ gửi Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (69)
  27. David PerlmanPháp quyền Mỹ đã xử tội một tác phẩm “dâm ô, bẩn thỉu” như thế nào? (71)
  28. Nhà văn Thùy LinhVị trí của kẻ ngoài rìa (80)
  29. Phan NguyễnNghĩ tiếp xung quanh luận văn của Đỗ Thị Thoan (81)
  30. Nguyễn Vĩnh Nguyên – Từ câu chuyện một luận văn (83)
  31. Hà Nhân – Sư phạm Đại học, Ngữ Văn Khoa tạp phú (86)
  32. Nguyễn Hoàng Đức – Ngô Văn Giá đệ nhất anh hùng của “hội đồng chuột” (89)
  33. Học Thế Nào – Nói thêm về “Vụ Nhã Thuyên” (92)
  34. Đông La – VĂN GIÁ VÀ ĐỊNH GIÁ VĂN GIÁ (94)
  35. Tuyên bố Sinaia về tự do học thuật và tự chủ đại học (Romania 1992) (97)
  36. Quách Hạo Nhiên – Lan man từ vụ Nhã Thuyên (99)
  37. Văn ViệtPhản hồi của bạn đọc về “Vụ Nhã Thuyên” (101)
  38. Nguyễn  Hiếu Quân thực hiện – Luận văn Nhã Thuyên: tiếng nói của một số người trong cuộc (108)
  39. Vũ Cao Đàm – Cần sớm xóa bỏ tư tưởng nô lệ trong chính sách khoa học và giáo dục ở nước ta (116)
  40. Nhã Thuyên – Hồ sơ bảo vệ luận văn 2010 (bổ sung) (119)
  41. Phùng Thanh HàPhân biệt nghiên cứu khoa học và nghiên cứu nhân văn (120)
  42. Nguyễn Thế DuyênThử bàn thêm về tính đại chúng trong văn học (133)
  43. Nhã Thuyên – Đơn đề nghị & Phản hồi (139)
  44. Thư ngỏ: Vi phạm Tự do học thuật trong vụ thu hồi bằng thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan (143)
  45. Trần Việt Quang – Hồ Ngọc Thắng – Họ đâu cần quan tâm tới khoa học… (149)
  46. Nguyễn Ngọc Dương – Làm bàn “đá vào lưới nhà”? (152)
  47. Chép sử Việt – Vụ luận văn Nhã Thuyên: báo Nhân dân đã “thách đấu” về pháp lý – học thuật (154)
  48. Nhã Thuyên – Samizdat và hơn thế nữa (154)
  49. Hà Huy Sơn – Ý kiến về bài báo trên Báo Nhân dân điện tử ngày 15/04/2014 (156)
  50. Vũ Thị Phương Anh – Trao đổi ngắn với hai tác giả Trần Việt Quang và Hồ Ngọc Thắng (báo Nhân Dân) về vụ Nhã Thuyên (158)
  51. Phan Trọng ThưởngĐể hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn (160)
  52. BẢN PHẢN ĐỐI VÀ YÊU CẦU (167)
  53. Thư ngỏ: Về sự vi phạm Tự do học thuật trong vụ thu hồi bằng thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan (bản hoàn chỉnh) (167)
  54. Nhã Thuyên – Cần minh bạch: Vấn đề “nhận tiền nước ngoài” và dự án Những tiếng nói ngầm (175)
  55. Nguyễn Xuân Đức – Luận văn Đỗ Thị Thoan và những lời bàn (179)
  56. Nguyễn Thị Từ HuyNhững câu hỏi chưa được trả lời (187)
  57. Ngô Bảo Châu, Hồ Tú Bảo, Trần Văn Thọ, Cao Huy Thuần – Thư gửi ông Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội (189)
  58. Đặng Thái Minh – Thẩm định bài thẩm định của Phan Trọng Thưởng (191)
  59. Dump Truck – Chùm bài ngắn về vụ Nhã Thuyên (194)
  60. Vũ Thị Phương AnhĐọc bản nhận xét phản biện LV Nhã Thuyên của PGS Phan Trọng Thưởng (201)
  61. Hà Nhân – Nghịch lý văn chương và thông điệp đẫm máu (216)
  62. Nguyễn Hiếu Quân thực hiện – Luận văn Nhã Thuyên: Ai mới không cần khoa học? (221)
  63. Nguyễn Hoài An – Lề phải ơi! (231)
  64. Đào Dục Tú – An ninh tư tưởng và an ninh học thuật (233)
  65. Nguyễn Thị Từ Huy – Một bản nhận xét không có tính khoa học (235)
  66. Đỗ Trường – Hiện tượng cả vú lấp miệng em của ông Pgs-Ts Phan Trọng Thưởng (240)
  67. Đặng Thái Minh – Chưa chắc đã đúng về quy trình, nhưng chắc chắn sai với lương tri (243)
  68. Lược sử kỳ án Nhã Thuyên (245)
  69. Đông La – VỤ NHÃ THUYÊN- “BẢN PHẢN ĐỐI VÀ YÊU CẦU”, AI PHẠM PHÁP? (251)
  70. Chu Giang – Đội lốt văn chương tính đường gì thế? (260)
  71. Phạm Xuân Yêm – Tự do học thuật qua vụ Đỗ Thị Thoan (263)
  72. ĐẾN ĐH SƯ PHẠM HN CHUYỂN THƯ TỚI ÔNG HIỆU TRƯỞNG VỀ “VỤ NHÃ THUYÊN” (268)
  73. Dump Truck – Nhân đọc bản Lược Sử Kỳ Án Nhã Thuyên của Dương Tư (283)
  74. Nguyễn Hưng Quốc – Trận chiến Nhã Thuyên (287)
  75. Đỗ Ngọc Yên – Thực chất vấn đề đằng sau cái gọi là  VỊ TRÍ CỦA KẺ BÊN LỀ (289)
  76. Nguyễn Thị Từ Huy – Mồng một tháng năm: gửi Nhã Thuyên và những người lao động bị tước đoạt quyền lao động (295)
  77. Dump Truck – Bản sắc văn hóa Việt Nam trong những lời bàn của Nguyễn Xuân Đức (296)
  78. Âu Dương Thệ – TBT Nguyễn Phú Trọng châm ngòi như thế nào cho vụ hủy Luận văn và tước bằng Thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan? (297)
  79. Tin nóng: Thư phản đối của các nhà khoa học quốc tế gửi Trường ĐHSP Hà Nội và Bộ Giáo dục (vụ Nhã Thuyên) (307)
  80. Inrasara – Vụ án Nhã Thuyên: đính chính tư liệu & quan điểm học thuật (310)
  81. Việt Quang – Hình thức tồn tại không thay thế bản chất của samizdat (316)
  82. Lê Xuân – Đừng để thứ luận văn rác rưởi tiêm nhiễm vào giáo viên và học sinh (319)
  83. Quách Hạo NhiênTừ “Vụ Nhã Thuyên” nghĩ về việc đổi mới tư duy trong dạy và học môn văn ở phổ thông (322)
  84. Chu Mộng LongBan Tuyên giáo Trung Ương nói chuyện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam (326)

 

101 bức thư gởi Thủ tướng

Yann Martel

Người dịch: Nguyễn Đức Tùng

Lời dẫn

Trong khoảng thời gian gần bốn năm, từ ngày 16 tháng 4 năm 2007 đến ngày 28 tháng 2 năm 2011, đều đặn hai tuần một lần, nhà văn Yann Marte đã gởi tặng Thủ tướng Canada Stephen Harper món quà đặc biệt của ông, đó là những cuốn sách, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ, và, không hề mệt mỏi, kèm theo chúng, những bức thư văn học. Yann Martel là tác giả của tiểu thuyết “Cuộc đời của Pi” lừng danh, đã dựng thành phim, một trong những nhà văn tài năng và sôi nổi nhất hiện nay của Canada. Vấn đề mà những bức thư đặt ra thật lớn: Tác phẩm văn học ảnh hưởng đến người đọc và các thế hệ như thế nào? Chúng ta muốn những nhà lãnh đạo đọc sách gì? Những tác phẩm ấy có làm họ thay đổi không? Và có làm lịch sử thay đổi? Chúng ta muốn con cháu trong tương lai có tư tưởng và tình cảm ra sao?

Thư trả lời đầu tiên từ văn phòng Thủ tướng Canada đến rất sớm, ba tuần từ khi cuốn sách được gởi đi, sau đó im lặng suốt gần hai năm, rồi dồn dập nhiều thư khác, nhưng không đều. Trước sau nhà văn nhận được bảy bức thư.

Đây là thư đầu tiên:

Ngày 8 tháng 5, 2007

Nhà văn Martel kính mến,

Thay mặt Thủ tướng chính phủ, tôi xin chân thành cám ơn ông về bức thư mới đây và cuốn sách của Tolstoy “Cái chết của Ivan Ilych”. Chúng tôi rất cảm kích những nhận xét và đề nghị của ông liên quan đến cuốn tiểu thuyết.

Một lần nữa cám ơn nhà văn đã dành thì giờ viết thư cho chúng tôi.

Trân trọng,

Susan I. Ross

Phụ tá của Thủ tướng

Yann Martel rõ ràng đã thất vọng, nhưng không hề bỏ cuộc, vẫn tiếp tục viết những bức thư xếp vào sau trang bìa trước của những cuốn sách mà ông đều đặn gởi đi hai tuần một lần, bằng tiền túi của mình. Khi cuối cùng chúng được công bố, những bức thư này của Martel đã mau chóng nổi tiếng ở Canada, và sau đó ngoài biên giới của nó, không những vì tính chất văn học thú vị của các bức thư, mà còn vì những quan tâm về chính trị và xã hội của chúng, được viết bằng một văn phong dễ đọc, quyến rũ, bởi một người viết có kiến thức sâu rộng, lối suy nghĩ sắc bén và độc đáo.

Mỗi người đến với tác phẩm văn học một cách khác nhau, nhưng hầu như đều ít nhiều gắn liền với những kinh nghiệm đọc riêng tư của mình trước đó. Khi lần đầu cầm lên cuốn sách của Yann Martel, chính bức thư thứ nhất nói về Cái chết của Ivan Ilych, một truyện vừa của Leo Tolstoy, đã hấp dẫn tôi. Năm học Đệ Thất, mười một tuổi, ở miền Nam, tôi đã may mắn đọc truyện này trên tạp chí Văn hóa ngày nay của Nhất Linh, trang bìa vẽ hình phong lan, những năm 1960 trước đó, nhưng không nhớ tên dịch giả. Hình như đến nay đây vẫn là bản dịch tiếng Việt duy nhất.

Xin giới thiệu các bức thư này với quý độc giả.

Người dịch

 

1.      Cái chết của Ivan Ilych

Ngày 16 tháng 4 năm 2007

Leo Tolstoy, bản dịch Anh văn từ tiếng Nga của Aylmer Maude

Kính gởi Thủ tướng Stephen Harper,

Từ một nhà văn Canada,

Với lòng kính mến,

Yann Martel

Thưa Thủ tướng S. Harper,

Cái chết của Ivan Ilych, tác phẩm của Leo Tolstoy, là cuốn sách đầu tiên mà tôi gởi đến ông. Thoạt đầu tôi nghĩ nên gởi một tác phẩm Canada – một biểu tượng thích hợp vì cả hai chúng ta đều là người Canada – nhưng tôi lại không muốn để mình bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị, theo bất kỳ cách nào và, quan trọng hơn, tôi không nghĩ ra được một cuốn nào khác ngắn gọn, chỉ gần sáu mươi trang, lại chứng tỏ được một cách thuyết phục sức mạnh và chiều sâu của một tác phẩm văn học lớn. Ivan Ilych hẳn nhiên là tác phẩm lớn. Không có gì màu mè ở đây, không có sự yếu đuối, không vờ vĩnh, không giả dối, không có chi tiết nào thừa thãi, không một giây phút tù mù, nhưng vẫn không phải là thứ cốt truyện kể vội vàng cho xong. Đó là một câu chuyện, giản dị, hấp dẫn, về một người đàn ông và kết cục tầm thường của ông ta.

Cái nhìn của Tolstoy vào sâu chi tiết, thể chất và tâm lý, là chính xác. Hãy xem Schwartz. Anh ta đang ngồi ở nhà của Ivan Ilych quá cố, trò chuyện với góa phụ, nhưng trong bụng chỉ nghĩ tới những ván bài sẽ chơi vào tối hôm ấy. Hay Peter Ivanovich, xoay xở với cái nệm có những lò xo hỏng hóc một cách khổ sở trong khi cố gắng điều khiển cuộc trò chuyện kỳ quặc với người vợ góa của Ivan. Hay chính bà Praskovya Fedorovna, đang khóc chồng mới chết, rên rỉ trước mắt chúng ta, vẫn không bao giờ xao nhãng những quyền lợi thiết thân của mình, những chi tiết về món tiền hưu trí của ông chồng quan tòa, với hy vọng nặn thêm được tiền từ chính phủ, càng nhiều càng tốt. Hoặc hãy xem cái cách mà Ivan Ilych điều đình với ông bác sỹ đầu tiên, người khám bệnh cho ông ta, như chính Ivan nhận xét, với vẻ khệnh khạng và niềm lãnh đạm sâu xa bên trong, theo đúng cái cách mà Ivan cũng có khi ông ta còn ngồi làm việc ở tòa án, trước một bị cáo được dẫn tới. Hoặc hãy nhìn phác họa tinh tế về mối liên hệ giữa Ivan và vợ ông ta – đơn thuần là thứ hôn nhân địa ngục – hay với bạn bè và đồng sự, những người, tất cả bọn họ, đối xử với ông như thể bọn chúng đang đứng bên bờ sông trên nền đá rắn vững vàng, trong khi ông ta thì ngu ngốc và dại dột tự mình gieo xuống dòng nước chảy xiết. Hay là, cuối cùng hãy nhìn xem Ivan Ilych và cuộc vật lộn của ông ta, thật cô đơn, buồn bã.

Tình cảnh của chúng ta, lối sống của chúng ta hiện nay, chai đá và tuyệt vọng, đã được mô tả rõ ràng và chính xác làm sao. Nhẹ như không, Tolstoy khám xét vẻ ngoài nông cạn của cuộc đời, cũng như những động cơ bên trong. Thế mà hoạt cảnh của những thói điên rồ và sự khôn ngoan muộn màng kia không hề xuất hiện như bài giảng luân lý đáng chán, mà với sức nặng, sự chiếu sáng ngời ngời và vẻ tươi tắn của đời. Chúng ta nhìn rõ những lầm lỗi của Ivan Ilych – ồ, chúng hiện ra rõ ràng trước mắt, nhưng chúng ta không thể nào, không bao giờ phạm những sai lầm kiểu ấy – cho đến một ngày, bắt đầu nhận ra có một người nào đó đang đưa mắt nhìn mình, như thể chúng ta mới chính là những nhân vật trong cuốn tiểu thuyết ấy.

Đó là sự vĩ đại của văn học, và nghịch lý của nó, rằng trong khi đọc về những nhân vật tưởng tượng, cuối cùng thì chúng ta cũng đọc về mình. Đôi khi sự phát hiện vô tình này khiến người đọc mỉm cười trước nhận thức mới, nhưng vào lúc khác, như trong trường hợp cuốn sách này, nó có thể tạo ra ở người đọc phản ứng lo âu và phủ nhận. Bất cứ cách nào, sau một cuốn sách, người đọc đều trở nên khôn ngoan hơn, và sự tồn tại của họ trở nên có ý nghĩa hơn.

Một phẩm chất mà chắc chắn ông sẽ nhận ra, đó là bất chấp khoảng thời gian từ khi cuốn sách được viết, năm 1882, cho đến hôm nay, và bất chấp khoảng cách văn hoá rất xa giữa một nước Nga tỉnh lẻ thời Sa hoàng và xã hội Canada hiện đại, câu chuyện này đến với người đọc hôm nay không hề bị trắc trở. Tôi không nghĩ ra được một tác phẩm nào khác trong khi mô tả một thời kỳ cụ thể, hết sức Nga, vô cùng Nga, thì lại có khả năng vượt qua tính chất địa phương để đạt đến tầm phổ quát như thế. Một nông dân ở Trung Hoa, một công nhân di cư làm việc ở Kuwait, một linh mục châu Phi, một kỹ sư ở Florida, một Thủ tướng ở Ottawa – tôi có thể hình dung họ đang ngồi đọc Cái chết của Ivan Ilych và lẩm nhẩm gật đầu.

Trên hết, tôi muốn giới thiệu với ông nhân vật Gerasim.Tôi nghĩ đó là nhân vật chúng ta ít thấy giống với mình nhất, nhưng lại là kẻ mà chúng ta ao ước biết bao được trở thành. Chúng ta hi vọng một ngày kia, khi ngày đó tới, sẽ có một người giống hệt Gerasim xuất hiện giữa chúng ta, bên cạnh chúng ta đây.

Tôi biết ông rất bận, thưa Thủ tướng Harper. Tất cả chúng ta đều bận tối mặt. Những tu sĩ ngồi thiền trong tịnh xá của họ cũng bận. Đó là đời sống của người lớn, tràn ngập việc phải làm. (Hầu như chỉ trẻ con và người già là không sợ thiếu thời gian – để ý xem họ thích đọc sách ra sao, thích nhìn ngắm ra sao.) Nhưng mỗi người đều có khoảng không gian nhỏ trước giấc ngủ, có thể là một manh chiếu rách trải bên vệ đường hay cái bàn xinh xắn đầu giường ngủ. Trong khoảng không gian ấy, lúc về đêm, một cuốn sách có thể chiếu sáng lấp lánh.

Và giây lát tỉnh thức dễ bảo ấy, khi chúng ta bắt đầu từ biệt một ngày, là thời gian tuyệt hảo để cầm cuốn sách lên, trở thành người khác, sống một nơi khác, trong vài phút ngắn ngủi, một vài trang sách thôi, trước khi chúng ta rơi chìm vào giấc ngủ. Và rồi những khả thể bất tận. Sherwood Anderson, một nhà văn Hoa Kỳ nổi tiếng với tuyển tập truyện ngắn Winesburg Ohio, đã viết những truyện đầu tiên của mình khi ông ngồi trên xe lửa đến nơi làm việc. Stephen King không bao giờ tới dự các cuộc tranh tài bóng chày mà không có một cuốn sách trên tay để đọc lúc nghỉ giải lao. Chỉ là vấn đề chọn lựa.

Và tôi đề nghị ông chọn lựa, vài phút mỗi ngày, đọc hết cuốn Cái chết của Ivan Ilych.

Trân trọng,

Yann Martel

 

Dịch giả gửi Văn Việt.

“Dân ủng hộ nếu Quốc hội ra tuyên bố về biển Đông”

Ngày 19-6, mặc dù nghị trình của Quốc hội là thảo luận về dự án Luật căn cước công dân, nhưng đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã “xin lỗi Quốc hội” để phát biểu về một điều mà ông nghĩ rằng nhân dân đang trông đợi.

Tàu hộ vệ tên lửa của Trung Quốc xuất hiện khu vực vùng biển phía nam đông nam giàn khoan ngày 3-6 – Ảnh: Tuổi Trẻ

“Nếu Quốc hội lần này không có tuyên bố hay nghị quyết chính thức gì cả về biển Đông, tôi tin rằng nhân dân ta sẽ rất thất vọng, thậm chí hoang mang. Đại biểu Quốc hội chắc chắn sẽ nghẹn lời trước những ý kiến chất vấn của cử tri. Còn phía dư luận thế giới chắc sẽ bình luận rằng: Một hành vi xâm phạm và đe dọa chủ quyền của Việt Nam trắng trợn đến thế mà Quốc hội nước này không có phản ứng chính thức gì thì việc gì mà nghị sĩ và nhân dân các nước khác phải lên tiếng. Và đây có thể là một cái cớ để phía Trung Quốc tiến hành những việc làm hiếu chiến và nguy hiểm hơn nữa” – ông Nghĩa nói. Ông bày tỏ mong muốn lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Nhà nước xem xét, chấp thuận kiến nghị này. “Nếu cần, xin lấy ý kiến của các đại biểu, nếu đa số ủng hộ thì ta làm. Tôi rất mong các đại biểu Quốc hội chia sẻ sự băn khoăn và ủng hộ kiến nghị của tôi” – ông Nghĩa tha thiết.

Trả lời phỏng vấn báo chí sau khi phát biểu tại hội trường, đại biểu Nghĩa khẳng định: “Không chỉ riêng tôi, rất nhiều cử tri, rất nhiều các tầng lớp đồng bào, từ những người dân bình thường cho đến cán bộ lão thành đều có ý kiến là Quốc hội không thể không có một động thái nào chính thức”.

* Theo ông, tuyên bố của Quốc hội cần thể hiện những nội dung gì?

Ông Trương Trọng Nghĩa –

Ảnh: Việt Dũng

 

– Như tôi đã phát biểu, Quốc hội phải nhân danh nhân dân Việt Nam có một nghị quyết tuyên bố với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới lập trường chính nghĩa của mình, lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, vạch trần âm mưu “vừa đấm vừa xoa”, “vừa đánh vừa đàm”, “vừa ăn cướp vừa la làng” của Trung Quốc. Đồng thời nghị quyết giao cho các cơ quan nhà nước Việt Nam, các lực lượng vũ trang Việt Nam tiến hành mọi biện pháp bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, trong đó có biện pháp khởi kiện Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực ra các tổ chức tài phán quốc tế.

Tuyên bố cần khẳng định rõ, Quốc hội Việt Nam nói rõ chúng ta có lập trường chính nghĩa về chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi vì vừa rồi Trung Quốc tung ra thế giới, kể cả lên Liên Hiệp Quốc, những luận điệu sai trái về cái gọi là chủ quyền của họ với Hoàng Sa, Trường Sa. Do đó, chúng ta phải có sự đáp lại một cách chính thức. Trung Quốc đã đi ngược lại tất cả những gì họ cam kết và thỏa thuận với Việt Nam cũng như với các nước ASEAN. Họ thể hiện rằng họ không từ bỏ âm mưu thực hiện đường lưỡi bò phi lý, âm mưu độc chiếm biển Đông. Vấn đề không chỉ là một cái giàn khoan, không chỉ là dầu khí, mà Trung Quốc muốn âm mưu độc chiếm, kiểm soát biển Đông, cũng như đòi kiểm soát tự do hàng hải của cả vùng châu Á – Thái Bình Dương. Việc kéo giàn khoan là bước đi có tính toán để thực hiện âm mưu đó.

Chúng ta làm những việc như vậy để nhân dân ta và nhân dân thế giới không bị đánh lừa bởi Trung Quốc. Họ kéo giàn khoan ra biển Đông hai tháng nay nhưng họ lại cử người sang Việt Nam nói rằng đảng và nhà nước Trung Quốc coi trọng giữ gìn đại cục… Tức là họ nói những điều mà trước khi kéo giàn khoan ra họ cũng đã nói. Sau khi có giàn khoan họ cũng nói như là không có giàn khoan đang nằm ở đó. Chúng ta không thể chấp nhận kiểu lập luận như vậy. Điều này càng chứng minh rằng Trung Quốc nói một đằng làm một nẻo, nói thì tốt nhưng làm thì xấu.

* Đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về khởi kiện Trung Quốc, cá nhân ông nghĩ thế nào?

– Khởi kiện là một biện pháp đấu tranh pháp lý. Và trong bối cảnh phức tạp như thế, điều kiện phức tạp như thế và ở trong tổ chức tài phán quốc tế thì không bao giờ dễ dàng, thậm chí có những điều không thuận lợi. Chúng ta nhận thức rằng có những thuận lợi và có những khó khăn, đặc biệt trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền thì có điểm yếu và điểm mạnh. Tuy nhiên, các chuyên gia trong nước và quốc tế cũng đã nghiên cứu chúng ta có những điểm mạnh và đạt được nhiều mục tiêu. Nói tóm lại, khởi kiện Trung Quốc thì có lợi hơn là bất lợi.

LÊ KIÊN ghi

Đó là mong muốn của cử tri, nhân dân“Tôi ủng hộ kiến nghị của đại biểu Trương Trọng Nghĩa. Tôi nghĩ rằng Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần xem xét nghiêm túc kiến nghị này. Tôi biết rằng nhiều đại biểu Quốc hội cũng có ý kiến, mong muốn giống như của đại biểu Nghĩa, bởi đó là ý kiến, nguyện vọng, mong muốn của cử tri, của nhân dân ta. Lúc đại biểu Nghĩa phát biểu, tôi nghĩ rằng đã có nhiều đại biểu ủng hộ” – đại biểu Lê Nam (Thanh Hóa) bày tỏ khi phóng viên Tuổi Trẻ hỏi.Đại biểu Bùi Thị An (Hà Nội) cũng cho biết tại phiên thảo luận ở tổ về tình hình kinh tế – xã hội, bà đã đưa ra kiến nghị tương tự như đại biểu Trương Trọng Nghĩa. Cũng đồng tình với quan điểm của ông Nghĩa, đại biểu Đặng Ngọc Tùng (Đồng Nai) đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần xem xét nghiêm túc. “Nhân dân sẽ ủng hộ và hoan nghênh nếu Quốc hội ra tuyên bố” – ông Tùng nói.Còn đại biểu Dương Trung Quốc (Đồng Nai) bày tỏ: “Theo tôi, nên cân nhắc có thể có một nghị quyết riêng hoặc ít nhất có một nội dung trong nghị quyết chung. Tôi cho rằng nếu nghị quyết của Quốc hội, công việc cuối cùng của kỳ họp, mà không đề cập tới (việc Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam tại biển Đông – PV) thì sẽ tác động làm người dân cảm thấy không hài lòng”.LÊ KIÊN – QUỐC THANH ghi

Nguồn: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/613711/dan-ung-ho%C2%A0neu-quoc-hoi-ra-tuyen-bo-ve-bien-dong-%C2%A0.html

Mấy suy nghĩ về việc nghiên cứu Bakhtin

(Nhân bài báo của Ngô Tự Lập Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin – câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bợm và một cơn mê sảng tập thể” của Jean – Paul Bronckart và Cristian Bota,  (Thụy Sĩ, 2011, 630 trang)

 Trần Đình Sử – Lã Nguyên

Trong bài báo giới thiệu cuốn sách của hai tác giả người Thụy Sĩ  Jean – Paul Bronckart và Cristian Bota, Ngô Tự Lập gọi cuốn sách ấy “là một quả bom đối với giới nghiên cứu”[1]. Có lẽ đó là cảm nhận riêng của Ngô Tự Lập và những người thiếu thông tin do chưa có dịp tiếp xúc nhiều với di sản của M. Bakhtin (1895 – 1975) và lịch sử nghiên cứu di sản của ông trên phạm vi toàn thế giới. Quả vậy, ai cũng biết, ngay từ khi Bakhtin vừa xuất hiện, tác phẩm của ông đã làm xôn xao dư luận, người tán thành ông đã nhiều, mà người chống lại ông cũng lắm. Cho đến nay, ở Nga và trên thế giới vẫn tồn tại nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều, trong việc tiếp nhận di sản của Bakhtin. Trong tiểu luận Thi pháp học của M.M. Bakhtin và sự tiếp nhận trước tác của ông thời nay [2]vừa công bố cách đây không lâu, Natan Tamarchenco (1940 – 2011) cho biết: hiện có 4 luồng ý kiến như vậy. Luồng thứ nhất coi ông là nhà triết học, chứ không phải nhà nghiên cứu văn học. V. Kozihnov, M. Gasparov đại diện cho xu hướng này[3]Luồng thứ hai , (tiêu biểu là N. Bonheskaja và I. Eshaulov) coi các công trình của ông không phải là công trình khoa học, bởi vì ông viết theo ngôn ngữ ẩn dụ. Dựa vào nhận xét trên, luồng thứ ba cho rằng các sách Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học của P. Medvedev (1891 – 1938) và sách Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ của V. Voloshinov (1896 – 1934) được viết bằng ngôn ngữ khoa học, do đó, chúng không phải là của Bakhtin. Luồng thứ tư phủ nhận mối liên hệ giữa các khái niệm, thuật ngữ trong trước tác của Bakhtin, cho rằng ông chỉ viết được các bài nhỏ, các phiến đoạn rời rạc, không viết ra được các công trình hoàn chỉnh.

Sở dĩ có tình hình trên là do tư liệu về cuộc đời của Bakhtin hiện rất thiếu thốn. Hồ sơ học phổ thông cũng như đại học của ông đều không đầy đủ. Cũng có thể do bệnh viêm tủy mạn tính của ông. Đầu thế kỉ XX, ông là một nhân vật ngoài lề, không có việc làm ổn định. Ông thường sinh hoạt trong các nhóm nghiên cứu. Đó là những năm tháng biến loạn, mà Bakhtin lại không quan tâm đến chuyện giấy tờ có tính pháp lí, hồ sơ cá nhân cũng có chỗ mâu thuẫn, nhầm lẫn, không nhất quán, đến ngày sinh của ông cũng có hai dị bản. Trong hoàn cảnh bị đày ải, bài viết của Bakhtin ít có cơ hội được công bố. Đã thế, do chế độ kiểm duyệt gắt gao, ông phải giấu kín các tư tưởng sâu sắc của mình đằng sau lớp ngôn ngữ ẩn dụ. Lại thêm tập quán in sách đội tên người khác cũng dễ gây hiểu lầm. Có người nói sau cuốn sách Những vấn đề sáng tác của Dostooievski và bị bắt năm 1929 vì tội “phản cách mạng”, Bakhtin coi như đã chết, do nghĩ rằng vĩnh viễn ông không còn cơ hội xuất bản. Đó cũng là lí do vì sao nhiều tác phẩm của ông dở dang, chưa hoàn thành. Thực tế đó dã gây nên các suy đoán khác nhau, đặc biệt là trước một Bakhtin nổi tiếng lừng lẫy[4]. Điều đó là dễ hiểu.

Tuy vậy, bên cạnh luồng ý kiến hoài nghi chỗ này chỗ khác trong tác phẩm của Bakhtin, cho rằng Bakhtin chịu ảnh hưởng của hai tác giả Voloshinov và Medvedev, vẫn luôn tồn tại một khuynh hướng khẳng định mạnh mẽ những đóng góp xuất sắc của Bakhtin cho nghiên cứu văn học và văn hóa hiện đại. Mà xu hướng khẳng định này lại gắn với những tên tuổi lớn rất quen thuộc với giới nghiên cứu Việt Nam như J. Kristeva, Tz. Todorrov, R. Barthes… Ở Mĩ Bakhtin được giới thiệu rất kĩ. Ở Nga Bakhtin được coi như nhân vật của thế kỉ XX, di sản của ông được làm nền tảng cho thi pháp học hiện đại. Ở Nhật Bản, Trung Quốc tác phẩm của ông được nghiên cứu sâu rộng. Sự tiếp nhận ông trên thế giới rất là phức điệu[5].

Trong bài báo nói trên và trong chuyên luận mà chúng tôi đang có trong tay, Natan Tamarchenco đã phân tích rất kĩ ý kiến của cả xu hướng khẳng định, lẫn xu hướng phủ định di sản của M. Bakhtin[6].

Cuốn sách của hai tác giả Thụy Sĩ rõ ràng không đặt ra mục đích nghiên cứu khách quan, mà chỉ chăm chăm phủ định, phỉ báng, thậm chí bôi nhọ Bakhtin không chỉ học thuật mà cả nhân cách, nhằm gây một sự kiện giật gân. Nhan đề cuốn sách của hai ông ấy tự nó đã nói lên điều đó.  Bài báo của Ngô Tự Lập cho thấy ông đứng trên lập trường của hai tác giả này để tổng thuật quan điểm của họ. Ông gọi cuốn sách ấy là “quả bom”. Ông quả quyết, nghe tiếng nổ của quả bom này dứt khoát nhiều người sẽ “giật mình”. Thiết nghĩ, cuốn sách của hai tác giả Thụy Sĩ nếu có làm người thiếu chín chắn, yếu bóng vía phải “giật mình”, thì sau cú giật mình này, người ta sẽ bình tĩnh hơn, ít giật mình hơn. Thực ra ở nước ta, việc lột mặt nạ của ai đó có gì mới đâu! Chúng ta đã từng lột mặt nạ của Phan Khôi, của Trương Tửu và nhiều nhà văn khác, nhưng rồi mặt nạ ai người ấy đeo, vì ai mà chẳng có mặt nạ?

Nhưng vấn đề cuốn sách nêu ra rất lớn, muốn phán xét nó thì phải đọc kĩ cuốn sách ấy, nghiên cứu lại toàn bộ di sản M. Bakhtin và tiểu sử của ông  một cách chi tiết, mà điều đó đối với chúng tôi bây giờ là bất khả. Cũng có một cách làm khác, ấy là đem dịch các tài liệu phản bác của Nga, của Pháp và tài liệu của một số nhà Slavơ học người Mĩ mà chúng tôi biết, nhưng quỹ thời gian của chúng tôi cũng không cho phép. Ở đây chúng tôi chỉ phát biểu một số cảm nghĩ của mình về khuynh hướng nhận định của hai tác giả mà chúng tôi thấy chưa đủ sức thuyết phục.

Thứ nhất, dựa theo những điều chúng tôi biết được, về nhân thân M. Bakhtin, đúng là hiện không có hồ sơ ông là sinh viên, không có bằng tốt nghiệp đại học, nhưng ông có nói là đã dự giờ các giáo sư nổi tiếng ở đại học. Đây là chuyện khó hiểu trong tiểu sử của ông. Nhưng hoàn toàn có tư liệu để chứng minh, sau chuyến bị đày, tháng 8 năm 1945, Bộ Giáo dục Liên bang Nga công nhận ông đạt chuẩn Phó giáo sư, và tháng 7 năm sau Đại học Sư phạm Saransk bổ nhiệm chức danh Phó giáo sư cho ông, ông làm Chủ nghiệm bộ môn Văn học đại cương ĐHSP Saransk, Mondova. Cũng có hồ sơ đầy đủ để chứng minh, ông lại đã bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Viện văn học thế giới tháng 11 năm 1946. Thế tức là ông có lí lịch đủ rõ ràng, không bịa đặt. Lại nữa, ông phải tốt nghiệp đại học thì mới có tư cách bảo vệ luận án. Ông có bằng cấp hay được đặc cách? Bakhtin muốn bảo vệ luận án Tiến sĩ, nhưng vì bị dính vào “tiền án tiền sự” (ông bị bắt giam vì tội phản cách mạng”), nên ông chỉ được nhận học vị Phó tiến sĩ. Vì thế rất khó tin cái nhận định bảo rằng, ông là người chưa tốt nghiệp đại học. Nên nhớ thời ấy, khi Stalin còn sống, chế độ thẩm định nhân thân hết sức chặt chẽ và khắt khe, không đùa được.  Nhưng phong PGS trước khi bảo vệ PTS, cũng là một sự lạ. Nói chung các thông tin này người ta đã biết từ lâu. Các cuốn sách của Todorov Bakhtin và chủ nghĩa đối thoại in năm 1981,  Phê bình phê bình in năm 1984 đều đã đề cập đến. Trong cuốn sách sau Todorov còn dựa vào Bakhtin đề xuất lối phê bình đối thoại.

Thứ hai, chi tiết nói ông khai man xuất thân quý tộc. Đúng là có việc ông đã kể nguồn gốc xuất thân quý tộc lâu đời của mình trong đoạn đầu cuộc trò chuyện với Duvakin (gồm 18 giờ ghi âm vào năm 1973), nhưng trong tài liệu lưu trữ của thành phố thì ghi ông là con của thương nhân, thị dân. Về việc này ông V. I. Laptun, người soạn biên niên các sự kiện cuộc đời của Bakhtin cho rằng, nên “coi đó như là một ý kiến, chưa coi là kết luận cuối cùng”[7]. Cho nên, việc hai tác giả Thụy Sĩ dựa vào đấy để kết luận khái quát, cho rằng Bakhtin là người dối trá, tác quyền cũng nói dối, tức là biến một chuyện còn hồ nghi thành kết luận chắc như đinh đóng cột, là việc làm không nghiêm túc, thiếu tinh thần khoa học. Nghiên cứu như vậy thì dễ quá! Người ta có cảm tưởng rằng hai tác giả Thụy Sĩ không có tài liệu nào mới. Hai ông chỉ xào nấu lại và ngả về một phía, nếu trước đây có người  quy hết công lao cho Bakhtin, bỏ quên hại ông bạn, thì nay hai ông Thụy Sĩ lại phủ nhận sạch trơn tư tưởng của Bakhtin, quy công cho hai ông bạn của ông. Có thể coi cách làm đó là khoa học chăng?

Thứ ba, cho rằng bài báo quan trọng của Bakhtin Vấn đề nội dung, chất liệu, hình thức trong sáng tạo tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, trong đó lần đầu tiên nêu vấn đề phê phán chủ nghĩa hình thức Nga, viết năm 1924, trước công trình của P. Medvedev những bốn năm, được một số người cố ý lùi thời điểm viết của nó đến năm 1927, sát nút với cuốn sách Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học in năm 1928, để chứng minh rằng vào đầu những năm 20 Bakhtin chưa có ý tưởng khoa học về các vấn đề đó và ông chịu ảnh hưởng của Medvedev. Chúng tôi thấy nghi ngờ về việc xác định lại thời điểm như thế. Về việc này, xin cung cấp cho độc giả một nguồn tư liệu đáng tin cậy: tập Bài giảng và phát biểu của Bakhtin giai đoạn 1924 – 1925 trong sổ ghi chép của L.V. Pupianski. Pupianski (1894 – 1940) là người trong “nhóm” Bakhtin. Ông này đã nghe bài giảng của Bakhtin từ hồi ấy và ghi chép lại. Nội dung các bài giảng đều bàn về triết học, nghệ thuật, văn học, nhân vật và ngôn từ. Cho nên bài báo quan trọng trên viết vào năm 1924 là có cơ sở. Bài này theo chú thích của Toàn tập Bakhtin, bản tiếng Trung thì ghi chú là được viết theo yêu cầu của tạp chí “Người Nga hiện đại”, Gorki là một trong những người phụ trách, nhưng viết xong thì tờ tạp chí bị đình bản, nên chưa in được. Tài liệu của Laptun thì ghi là nó được viết do yêu cầu của tạp chí “Người đương thời văn chương”[8].

Thứ tư, M. Bakhtin không phải chỉ có quan hệ với Voloshinov và Medvedev trong nội bộ “nhóm Bakhtin”. Về uy tín của ông còn có nhiều người khác, tài năng và nổi tiếng hơn chứng kiến. Đó là M. I. Kagan, Pupiamski. Ông được các tác giả nổi tiếng như A. Lunacharski, N. Berkovski và năm người nữa đều đã viết bình luận cho sách Những vấn đề sáng tác của Dostoievski trong năm 1929. Uy tín của Bakhtin đã được M. Gorki biết tới, và nhờ sự che chở của Gorki mà Bakhtin không bị tù, chỉ bị đi đày. Nên nhớ, nhờ uy tín của Bakhtin mà mấy cuốn sách ghi tên Voloshinov và Medvedev được chú ý tìm đọc, chứ không phải ngược lại. Cho đến khi Bakhtin nổi tiếng ở phương Tây người ta không biết hai ông ấy là ai. Người ta  thấy rằng, ngoài cuốn sách Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học ra, Pavel Medvedev còn viết nhiều công trình khác nữa, nhưng lại theo đuổi các đề tài khác, như tâm lí học nghệ thuật, phòng thí nghiệm của nhà văn, lịch sử sáng tạo tác phẩm, chứ không theo hướng lí thuyết. Các cuốn sách này để lại dấu ấn của chủ nghĩa duy vật dung tục, máy móc rõ rệt, chẳng ai quan tâm. Năm 1934 Medvedev cho xuất bản sách Chủ nghĩa hình thức và các nhà hình thức chủ nghĩa, lặp lại cuốn sách đã in năm 1928, nhưng sơ lược hơn, không gây được chú ý. Như vậy, hạ bệ Bakhtin bằng cách cho rằng ông kém hơn hai người bạn, phải lấy ý tưởng của bạn, ấy là cách làm không đủ sức thuyết phục.

Thứ năm, về bản quyền mấy cuốn sách gây tranh cãi, nếu đọc kĩ bức thư Bakhtin gửi cho nhóm Koginov thì sẽ thấy, Bakhtin không phủ nhận tác quyền của Medvedev và Voloshinov, mà chỉ có ý thừa nhận mình là đồng tác giả. Ông nói trong quá trinh viết mấy tác phẩm đó, “chúng tôi đã cộng tác chặt chẽ với nhau”, “có một quan niệm chung về ngôn ngữ và tác phẩm ngon từ”. Đồng thời Bakhtin nói rõ, về các sách khác của Medvedev và Voloshinov, ông “không tham gia”. Có nghĩa là ông chỉ tham gia hai cuốn này, vì có quan niệm chung. Như thế Bakhtin cũng không tước đoạt quyền tác giả của bạn, cũng không phủ nhận mình có dính líu tới hai cuốn sách đó như là đồng tác giả. Về  vấn đề này viện sĩ X. X. Averinsev cho rằng hiện nay không có tư liệu để giải quyết vấn đề tác quyền hơn thế.  Chỉ nên coi đó là vấn đề bỏ ngỏ. Có người đã nghiên cứu phong cách học của các tác phẩm ấy để tìm cách phân biệt, nhưng kết quả chưa thuyết phục. Những ai đã đọc Những vấn đề thi pháp Dostoievski, chuyên luận về Rabelais và các bài khác, không thể nói là văn phong của ông thiếu chặt chẽ, mạch lạc, thiếu khoa học. Chỉ thiếu khoa học đối với những ai chỉ xem Bakhtin là nhà triết học, không phải nhà nghiên cứu văn học.

Thứ sáu, có người nói rằng trong bài báo của X. Bocharov có viết “trước khi chết Bakhtin từ chối kí vào tờ giấy xác nhận bản quyền” là chi tiết không đáng tin. Bởi Tamarchenco đã đối chiếu cẩn thận và kết quả là trong tài liệu của Bochrov, ở trang 79, không thấy có chi tiết nào như vậy, mà chỉ thấy nói “Bakhin những ngày cuối cùng trong các cuộc trò chuyện thừa nhận tác quyền của mình, nhưng không muốn xác nhận nó về mặt pháp lí”[9].  Điều này theo chúng tôi là hợp lí, vì Bakhtin không thể một mình xác định bản quyền của sách đồng tác giả khi các bạn của ông đã mất. Nhân đây chúng tôi xin nói lại, việc tôi nói Bakhtin lập di chúc về tác quyền là thiếu chính xác, do tài liệu sử dụng không chính xác, nay xin đính chính lại. Như vậy việc cuối đời hay khi sắp mất Bakhtin trăng trối thế nào về tác quyền, có rất nhiều dị bản, các nhân chứng nói rất khác nhau, vì thế, ý kiến mà hai tác giả Thụy Sĩ đã nhắc đến rằng, khi sắp mất Bakhtin nói: “Điều này, sau tất cả, là tội lỗi của tôi, và tôi phải thú nhận” chưa chắc đã là có thật. Một kẻ tầm thường thì khó có thể có tư tưởng lớn, mà người có tư tưởng lớn thì nhân cách không thể tầm thường. Câu chuyện sách người này đội tên người khác trong “nhóm Bakhtin” có người giải thích là một trò chơi cacnaval về tinh thần, có người hiểu là một cách đối phó với việc xuất bản dưới thời Stalin, có người giải thích là một cách để Bakhtin có nguồn phương tiện đảm bảo đời sống, một người không có chỗ làm trong các trường viện. Những điều ấy đều có thể, song không xác quyết được. Tác quyền hiện là chỗ mờ tối nhất trong tiểu sử Bakhtin để cho người ta khai thác với nhiều mục đích khác nhau. Nếu đem so sánh ba tác phẩm với nhau sẽ thấy có cái chung trong quan niệm, những vẫn có cái khác trong quan niệm.

Vì thế chúng tôi cho rằng các kết luận  đao to búa lớn, có tính chất công kích, phỉ báng, như M. Bakhtin là kẻ lừa dối, huyền thoại về Bakhtin là chuyện bịp bợm, một cơn mê sảng…, tuy gây được scandal, nhưng rõ ràng là chưa đủ cơ sở thuyết phục. Chắc chắn trong sách của mình, hai tác giả Thụy Sĩ còn đưa ra nhiều bằng chứng nữa mà tác giả Ngô Tự Lập còn chưa giới thiệu, vì khuôn khổ bài báo, và ông cũng còn giành để đáp lại những ai phản ứng với các kết luận của hai tác giả Thụy Sĩ mà ông bày tỏ đồng tình. Tuy vậy, nếu sử dụng cứ liệu của hai ông ấy sẽ không có giá trị gì thêm, vì cũng chỉ là ý kiến một nhón tác giả.

Theo chúng tôi, cần phân biệt các bằng chứng lịch sử và các giả thiết, các suy luận. Ví dụ như giả thiết rằng vì Bakhtin bị đi tù cho nên Medvedev viết thay Bakhtin và giúp đưa in cuốn sách hoặc các suy luận khác… Các giả thiết vẫn cần đưa ra nhưng đó chỉ là các khả năng trừu tượng, không ai bảo đảm có thật, không nên kết luận như đinh đóng cột. Ngay các hồi kí, hồi tưởng cũng thường có nhầm lẫn, nhớ nhầm, khi hồi tưởng lại còn có khi thêm thắt mà không tự biết. Cho nên, các vấn đề về tác quyền của Bakhtin, trong điều kiện tư liệu gốc còn thiếu thốn vẫn nên để mở, không thể khép lại theo bất cứ chiều nào. Nhận định của hai giả Thụy Sĩ chỉ là một ý kiến trong các khuynh hướng tiếp nhận, chứ không phải là duy nhất. Cái ý định muốn giải quyết dứt điểm vấn đề tác quyền của Bakhtin trong điều kiện thiếu tư liệu bản thân nó đã là không thuyết phục. Nó không phải là kết luận áp đảo, lật ngược mọi nhận định về Bakhtin từ trước đến nay.

Đề cao Bakhtin hay hoài nghi, thậm chí hạ bệ Bakhtin đều nằm trong các xu hướng tiếp nhận khác nhau di sản Bakhtin. Việc ông được đón nhận nhiệt tình trên thế giới, được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng, nghiên cứu, tiếp biến đã chứng minh tính hợp thời, tính mới mẻ của tư tưởng của ông trong thời đại ngày nay. Các học giả các nước như Tz. Todorov, Ju. Kristeva  và nhiều người khác nữa không phải là những kẻ tầm thường. Họ đã tiếp nhận và phát triển tư tưởng của Bakhtin. Không thể cho họ là một lũ bất tài, nhăng nhít, chạy theo một cơn mê sảng tập thể. Các công trình kí tên Bakhtin, các cuốn chuyên khảo về Dostoievski, về Rabelais, về mĩ học sáng tạo ngôn từ, về sử thi và tiểu thuyết, về các hình thức thời gian và chronotov, về thi pháp học lịch sử, về tiểu thuyết giáo dục, về thể loại lời nói, về quan hệ tác giả và nhân vật, về nội dung, hình thức và chất liệu trong sáng tạo tác phẩm nghệ thuật ngôn từ cùng mấy tác phẩm đồng tác giả vẫn là một thực thể của mĩ học ngôn từ độc đáo của M. Bakhtin không ai có thể phủ nhận. Nghiên cứu tác quyền vẫn cứ tiếp tục, nhưng không vì lí do nào mà không tiếp tục nghiên cứu di sản lí thuyết của Bakhtin. Và đó mới là điều quan trọng. Mọi cuộc tranh luận về tác quyền đều không đụng chạm được tới thực chất của bản thân lí thuyết.

Hà Nội, 19 – 6 – 2014, bổ sung ngày 23- 6 – 2014

[1] Xem: Ngô Tự Lập.- Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin – câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bợm và một cơn mê sảng tập thể”.- Nguồn:http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=12635

[2] N.D. Tamarchenco.- Thi pháp học của M.M. Bakhtin và sự tiếp nhận trước tác của ông thời nay // “Những vấn đề văn học”, số 1, năm 2011 (tiếng Nga).

[3] Xem: M.L. Gasparov.- Lịch sử như là sáng tác và nghiên cứu// “Nghiên cứu văn học”, số 12/2005, tr. 91-100 (bản dịch tiếng Việt của La Khắc Hoà).

[4] Về những khó khăn trong việc nghiên cứu tiểu sử M. Bakhtin do hoàn cảnh gây ra, xin xem: Tz. Todorov.- Di sản Bakhtin// “Nghiên cứu văn học”, số 7/2006, tr.54 – 62 (bản dịch tiếng Việt của Lã Nguyên).

[5] Muốn hiểu phần nào tính phức điệu của sự tiếp nhận di sản M. Bakhtin, xin đọc: M.M. Bakhtin: Pro và Contra. T.1 (551 trang) – Nxb. Viện nhân văn Kitô giáo Nga, Sainkt-Peteburg, 2001 và M.M. Bakhtin: Pro và Contra. T.2 (771 trang) – Nxb. Viện Nhân văn Kitô giáo Nga, Sainkt-Peteburg, 2002 (tiếng Nga).

[6] Xem: N.D. Tamarchenco.- Mĩ học sáng tạo ngôn từ của Bakhtin và truyền thống triết học, ngữ văn học Nga. Moskva, 2011 (tiếng Nga).

[7] Xem: M.M. Bakhtin: Pro và Contra. T.1 (551 trang) – Nxb. Viện nhân văn Kitô giáo Nga, Sainkt-Peteburg, 2001, tr. 536.

[8] Bài giảng và phát biểu của Bakhtin giai đoạn 1924 – 1925 trong sổ ghi chép của L.V. Pupianski //Trong sách: M.M. Bakhtin: Pro và Contra. T.1. Nxb. Viện nhân văn Kitô giáo Nga, Sainkt-Peteburg, 2001, tr. 47- 84.

[9] Xem: N.D. Tamarchenco.- Thi pháp học của M.M. Bakhtin và sự tiếp nhận trước tác của ông thời nay // “Những vấn đề văn học”, số 1, năm 2011 (tiếng Nga).

Các tác giả gửi Văn Việt.

Chuyện kể năm 2000 (kỳ 7) – tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn

*

*        *

Hắn thở dài.

Hắn thở dài trong căn buồng vắng vẻ.

Sau hai ngày đầy ắp các sự kiện, căng thẳng vừa qua hắn muốn được yên tĩnh. Và hắn đã được yên tĩnh.

Lúc anh chị Diệu xuống thang là lúc hắn đi tắm. Mùi xà-phòng Thiên Lý làm hắn ngỡ ngàng. Sau này hắn còn được dùng nhiều loại xà-phòng thơm sang trọng, đắt tiền như Camay, Lux, Fa, Zest, nhưng sẽ chẳng có một thứ xà-phòng thơm nào tạo một cảm giác lâng lâng, dễ chịu, quí phái như bánh xà-phòng Thiên Lý ấy. Đó chỉ là một loại xà-phòng nội hóa, sản xuất ở Hà Nội, đã biến mất tự bao giờ khi hàng ngoại tràn vào. Năm năm hắn chỉ dùng vài bánh xà phòng giặt Liên Xô 72%. Nước suối trại Q.N vốn dĩ rất tốt. Khăn mặt hắn không xà-phòng cũng trắng bong. Quần áo tù sạch như tẩy, rõ từng sợi vải. Mồ hôi dầu cũng đi hết. Đó là thứ nước suối kỳ lạ.

Trại tù nào chẳng nằm trong một lòng chảo. Bốn chung quanh là núi cao rừng rậm.

Trưa hè hầm hập lửa. Không một phe phẩy gió. Mặt trời đốt vai hắn. Trong lồng ngực hắn lửa đốt. Bàn chân giẫm lên đất bỏng giẫy. Hắn cố gánh hết 70 gánh nước từ suối chạy lên tưới dọc các luống rau. Đó là tiêu chuẩn buổi sáng (buổi chiều 50 gánh). Hắn nghĩ đến Ngọc để trời đất dịu lại. Vừa run rẩy leo dốc, hắn vừa gọi Ngọc để lò lửa trong người hắn dịu lại.

Từ nơi này anh sẽ gọi tên em

Ơi dòng suối mát trái tim bốc lửa

Anh lại bay tung ước mơ suy nghĩ

In chân trời trên mỗi vòng xiềng.

Làm thơ, đối thoại với Ngọc, hắn nghĩ được về tương lai. Hắn quên được vất vả. Nhưng rồi thực tại vẫn như bốc lửa. Người hắn như bốc lửa. Khi tiếng còi của ông vũ trang báo hiệu hết giờ, hắn cùng mọi người xuống suối tắm giặt để về trại. Lúc đó các toán quản chế làm việc trong khu hàng rào quây kín cũng được dong ra suối.

Mệt nhọc, đầm đìa mồ hôi, cái đói cắn vào bụng, hắn ngồi phịch xuống một tảng đá cuội, ngâm chân giữa suối. Mát dịu tới phổi, mát tới óc. Mặc anh em tắm. Hắn ngồi thở và nhìn những thân thể trần truồng rải dọc lòng suối cạn. Người nằm cho nước chảy từ đầu đến chân. Người ngồi bệt cho nước vòng qua sườn. Người ghẻ cùng mình. Những bắp tay xăm trổ. Những bắp đùi, những bộ ngực trổ. Vĩnh biệt. Hận đời. Ngày tận thế. Mỏ neo. Trái tim rỏ máu có mũi tên xuyên qua. Rắn thè lưỡi. Đàn bà khỏa thân. Có người còn trổ cả trên lưng một bức tranh sơn thủy có núi có sông, có thuyền buồm, có lũy tre, hàng cau, có đàn cò vẫy cánh. Một anh dùi cả vào “chim” và đeo vào đó một cái pơ-lắc bằng nhôm lõng thõng. Cả bọn xúm lại cúi nâng cái pơ-lắc lên đọc: Vĩnh biệt em yêu.

Hắn vẫn có tính tiểu tư sản. Chỉ riêng mình hắn không tắm truồng. Hắn vận quần lót. Hắn thấy xót xa khi nhìn hàng ki-lô-mét dài dưới suối, những thân hình trần truồng kỳ cọ, giặt giũ, người nọ tắm nước bẩn của người kia. Hắn ngồi nghỉ một lúc, rồi mới tắm. Nước suối chỉ chảy qua một tý dưới chân thôi, cơn nóng đã dịu hẳn. Ngồi lâu là không muốn tắm nữa. Cái thứ suối kỳ lạ. Khác hẳn với suối V.Q, suối Q.N trong vắt. Chảy nhanh. Tù xuống tắm, vẩn đục lên nhưng lại trong ngay. Và lạnh. Về mùa hè cũng buốt.

Một lần đi chặt nứa, hắn đã ngược mãi lên phía trên dòng suối tìm vả. Nghe anh em bên toán lâm sản nói trên ấy có vả. Vả hay mọc bên suối. Hắn ngược lên. Cứ ven suối mà đi. Rừng im phăng phắc. Cây lá héo nẫu. Mồ hôi dính áo. Hắn không tìm thấy vả chín. Chỉ có vài quả còn xanh.

Nhưng bù lại, hắn thấy một vùng nước rộng. Vẫn là con suối, nhưng ở đây lòng suối tràn ra. Nước trong. Rõ cát. Rõ từng con cá nhỏ bơi trên cát. Chung quanh những thân cây ngả ra, rể cây ngâm dưới nước.

Im lặng. Không một tiếng chim.

Mặc dù đang ở tù, hắn vẫn xúc động. Cái vốn thẩm mỹ vẫn còn trong người hắn. Cái thói quen cảm thụ thiên nhiên vẫn chưa chết hẳn trong người hắn. Hắn bỗng nhớ đến đảo Long Châu, khi hắn xuống xuồng lách vào vụng. Cũng nước trong vắt. Cũng cát trắng và những con cá nhiều màu. Hắn cởi bỏ hết quần áo. Lội xuống. Nước lạnh làm hắn rướn người lên. Rồi òa bơi. Lâu lắm mới bơi. Hắn lội vào trú nắng dưới một gốc cây và bỗng đứng trước một phát hiện: một lối nhỏ phía sau cây. Hắn bơí theo lối ấy. Nước vẫn trong và cát vẫn trắng dưới chân.

Một mình hắn với thiên nhiên. Hắn quên trong phút chốc thân phận tù đày. Hắn đứng trước một cửa hang ngập nước. Hắn lội vào. Những rễ cây từ trần hang xòa ra dưới nước, trắng xóa như vôi. Con tôm nhỏ dập dờn trước mặt hắn cũng trắng xóa như vôi. Mình trắng, râu cũng trắng cong vút. Hắn đuổi con tôm. Nó búng mình nhởn nhơ giữa một thế giới trắng xóa trong làn nước trong vắt và mát lạnh. Nếu bắt được, hắn sẽ ăn sống. Hắn nô giỡn với con tôm và bỗng thấy lạnh run người.

Hắn bơi vội ra, mặc quần áo và vác bó nứa về trại.

Con suối Q.N là thế. Dòng nước Q.N là như thế.

Suối V.Q chảy chậm, nước đục và không mát. Mồ hôi dầu, mồ hôi muối, không có xà-phòng giặt không thể sạch. Một năm trên ấy hắn không có xà-phòng.

Khái niệm xà-phòng thơm bỗng đến. Nó gây sốc. Nó làm sống lại cả một quãng đời.

Năm năm rồi, hắn mới tắm trong buồng tắm, dù chỉ là một buồng tắm hẹp tối om, sát gần nhà xí, một buồng tắm chung cho cả khu nhà. Hai xô, một thau. Thế là đủ. Hắn kỳ cọ cho hết cái mùi tù bám vào hắn. Năm năm mới được tắm kỹ càng, kỳ cọ kỹ càng. Muốn tắm đến bao giờ thì tắm. Không vội vàng, lúc nào cũng chờ đợi tiếng quát “thôi”, “lên!” của ông quản giáo hay ông vũ trang. Tắm ở Trần Phú có cái sướng: nước nhiều, nhưng thời gian căng hơn. Phải hợp lý hóa đến mức cao nhất. Vứt quần áo bẩn dưới chân. Múc nước giội vào người, nước sẽ chảy xuống quần áo, làm ướt quần áo. Hai tay kỳ khắp người trong lúc hai chân giẫm giẫm lên đống quần áo ướt, người cứ nhảy như con choi choi. Rồi tìm một trụ vuông, dựa lưng vào cạnh trụ, mài lưng vào đó (động tác kỳ lưng đấy). Mài lưng, nhưng vẫn nhảy nhảy đạp chân lên đống quần áo ướt để vò quần áo. Người kỳ xong, quần áo cũng vò xong. Rồi tráng cho người, tráng cho quần áo. Cầm quần áo, giội xuôi vài gáo. Thế là sạch, thế là xong.

Chậu còn không có, nói gì đến xà-phòng.

Tự do là như vậy.

Tự do là không phải khỏa thân trước mặt người khác. Không phải tắm trước sự canh gác tò mò của người khác (lúc đó hắn thấy mình như súc vật).

Tự do là được múc nước từ xô giội vào người trong nhà tắm đóng kín, không có ai đứng nhìn mình với con mắt thù địch và sốt ruột. Tự do là được thoải mái kỳ cọ. Là bọt Thiên Lý ngầu trên tóc, khắp mình mùi thơm nhẹ nhàng dễ chịu lâng lâng.

Hắn tắm và ý thức rất rõ lại có được thân thể mình. Từ nay thân thể hắn là của hắn, thuộc về hắn. Hắn vuốt ve hai cánh tay, xoa lên ngực, đưa tay xuống bụng xuống đùi, quành tay ra sau lưng, đưa tay xuống dưới, cảm thấy hài lòng với thân hình mình vẫn còn đang độ tráng niên. Bỗng sống lại tình yêu thân thể, một tình yêu tưởng đã quên đi, một tình yêu tưởng đã không còn.

Hắn lại kỳ một lần nữa, lại xoa lên mọi chỗ một lần nữa. Hắn khám phá người hắn từng xen-ti-mét. Và mỗi tế bào trên thân hình hắn đều ứng với một tế bào một thân hình khác: Thân hình vợ hắn. Hắn vuốt ve người hắn và nghĩ tới những chỗ ấy trên người nàng.

Thế rồi người hắn không chỉ là người hắn nữa. Hắn đang vuốt ve vợ hắn. Dù nhà tắm tối, hắn vẫn nhắm mắt lại. Nàng. Nàng đang khỏa thân trước mặt hắn. Hắn hình dung rất rõ thân hình vợ. Kể cả những nhược điểm, như cái núm vú bên phải hơi bị thụt vào bầu vú khi còn con gái, chỉ tới lúc nuôi con mọn mới trở lại bình thường như núm vú bên kia; và dù đã sinh con, hai núm vú vẫn đỏ hồng. Nốt ruồi đen chỗ này, bên ngực trái. Nốt ruồi đỏ, nốt ruồi son chênh chếch phía trên chỗ ấy… Hắn đã chiêm ngưỡng nàng từng xen-ti-mét một. Chỉ sau khi đã yêu nhau nhiều lần, nàng mới cho hắn nhìn nàng khỏa thân. Lần đầu tiên được nhìn nàng khỏa thân không phải ở đây, nhà anh chị Diệu, mà là ở khu tập thể cơ quan. Lần yêu nhau đầu tiên cũng tại đấy. Đúng tối mùng 3 tháng 7, ngày sinh nhật hắn. Mọi người đi chơi hết. Hắn ở nhà chờ Ngọc. Hắn và Ngọc ngồi trên cái giường cá nhân kê sát tường trong một căn buồng trên tầng hai phố Bà Triệu, vừa là nhà ở vừa là nhà làm việc. Hắn kéo Ngọc cùng nằm xuống. Cảm giác có một người con gái nằm sát cạnh mình song song từ đầu đến chân mới lạ lùng và cảm động không thể nào tin được. Không nén được cảm xúc đang tràn ứ, hắn nằm nghiêng ôm lấy Ngọc và rồi ấp lên người Ngọc. Lần yêu nhau đầu tiên bắt đầu như thế. Là cái sự bán khỏa thân của cả hai lúc nào không biết. (Hay có biết mà làm như không biết. Kể cả Ngọc. Bởi vì lúc ấy Ngọc hơi nhấc người lên cơ mà). Không hẳn là sung sướng. Mà bàng hoàng. Và đau. Và chảy máu. Không chỉ nàng chảy máu. Cả hắn. Hắn cũng chảy máu. Hắn cố nhìn khuôn mặt nàng lúc ấy để biết những gì đã đến với nàng mà không được. Hắn cố nhìn xuống phía dưới mà không được. Nàng không cho hắn nhìn. Nàng ghì đầu hắn xuống chiếu, vít đầu hắn xuống sát tai nàng, không cho hắn ngẩng đầu lên. Mà hắn muốn nhìn biết bao.

Yêu nhau xong hai người đạp xe đèo nhau đi phố. Không muốn bị bắt chợt chỉ có hai người trong nhà. Không xấu hổ, không sợ bị phê bình, mà là không muốn nghe những lời bỡn cợt chế giễu, dù rất xa xôi bóng gió cũng vẫn là dung tục việc làm thiêng liêng của họ. Với lại phải đi để chia sẻ niềm vui với đường phố, với người, với cây. Phải đến với khoảng không thoáng đãng để nói với trời đất rằng họ đã thực sự là người lớn, đã thực sự là đàn ông là đàn bà, họ đã đi tới chốn tận cùng ấy của thế giới này, họ đã gắn bó cùng nhau từ nay và mãi mãi.

Hai vợ chồng (có thể gọi là hai vợ chồng từ đấy) đạp xe xuống Lò Đúc, qua Phà Đen, ngồi trên bãi cỏ Vĩnh Tuy đón gió sông Hồng. Nàng để hắn thoải mái khám phá nàng. Tin cậy. Trao thân. Run rẩy đón nhận với bao khát khao sung sướng. Qua bàn tay, hắn nhận biết người nàng còn rõ ràng hơn nửa tiếng đồng hồ trước đó trong căn buồng phố Bà Triệu. Chỉ đến khi trở về, rủ nhau ăn phở, dưới bóng điện sáng trưng treo trước quầy phở vỉa hè, nàng mới phát hiện ra vạt áo sơ-mi trắng của hắn có những vết máu đỏ tươi. Hắn vội ngồi sát vào quầy để không ai nhìn thấy. Hai người cười với nhau, nụ cười thông đồng và ngời ngời hạnh phúc.

Khi ăn phở xong, nàng lại phát hiện ra cái đồng hồ ở cổ tay nàng đã rơi mất từ bao giờ. Thế là lại đèo nhau trở lại Vĩnh Tuy. Xác định ngay chỗ hai đứa vừa ngồi. Cả hai cùng cúi tìm. Dưới trời sao, sáng lên ánh mạ của chiếc Nikles (1) trên bãi cỏ.

(1) Tên một loại đồng hồ

Ngày mùng 3 tháng 7 năm ấy là một ngày như vậy của hai vợ chồng hắn. Hắn đã tìm trên các báo những sự kiện lớn trên thế giới xảy ra trong ngày mùng 3 tháng 7 năm ấy, cắt những tin ấy ra dán vào nhật ký, quyển nhật ký đã bị Sở Công an thu. Hình như Tổng thống Pháp tuyên bố một câu gì đó. Mỹ thử bom nguyên tử, cả tin về Adenauer (1) nữa… Những mẩu tin đó dán bên cạnh tờ lịch mùng 3 tháng 7, trang sau cài món tóc của Ngọc cắt tặng… Chao. Giá hắn nhớ được những mẩu tin ngày ấy.

Hắn chậm rãi lau khô người, mặc vào mình bộ quần áo anh Diệu cho, xách chậu, xô bước lên thang gác. Cảm giác sạch sẽ, mát mẻ, tỉnh táo, mùi xà- phòng thơm của thế giới xa lạ mà quen thuộc tỏa ra từ người hắn làm hắn cảm thấy phút chốc mình bỗng trở thành người quyền quý.

Và phải được đối thoại với nàng. Ngay lúc này. Ngay lúc này, không chậm trễ. Phải được có nàng ngay bên cạnh để mà ôm ấp, trìu mến, để kéo nàng vào lòng, để bế nàng đứng lên, để đặt nàng nằm xuống, để khỏa thân cùng nhau, hoàn toàn không có chút ngăn cách nào dù chỉ một lượt vải mỏng.

Bàn anh Diệu có sẵn giấy bút.

Hắn viết. Hắn viết trong yên lặng hoàn toàn.

Em!

Anh đã từ địa ngục trở về. Hai ngày rồi, anh đã được tự do. 48 tiếng, đúng hơn cho đến giờ phút này anh mới đuợc tự do 36 tiếng đồng hồ. Còn một đêm nay nữa và ngày mai anh sẽ về với em. Chỉ chậm lắm là trưa mai thôi, em ạ. Nghĩa là còn khoảng 16 tiếng xa nhau nữa thôi, em ơi. Anh sẽ lại bên em như em viết: chúng ta tưởng như không thể xa nhau quá một tuần.

Thế mà đã năm năm. Thật khủng khiếp khi nhìn lại cái ngày bắt đầu. Cái ngày thứ sáu 8- 11- 1968 ấy.

Em buồn, đau đớn và nhục nhã lắm, phải không em. Không, đừng nhục nhã. Anh đã nói nhiều lần với họ rằng: Tôi sống theo phương châm: Sống sao có thể nhìn thẳng vào mắt mọi người mà không xấu hổ.

Chúng ta không có gì để phải nhục nhã, Ngọc của anh ạ. Anh tự hào vì em. Anh tự hào vì những gì anh đã chịu đựng, đã vượt qua. Và anh sắp về với em. Anh sắp được ôm em vào lòng. Chao ơi! Bao giờ được như vậy. Ngồi ở nhà anh chị Dịệu, anh viết những dòng này với em, mà nhớ em cồn cào bứt rút đến tận đầu ngón tay anh. Khổ thân em. Em vẫn chưa biết anh đã được tự

(1) Thủ tướng Cộng hoà liên bang Đức (Tây Đức)

do và đang về với em. Em vẫn còn lo lắng cho anh thêm hai ngày vô ích. Lỗi đó tại anh. Tại anh không về ngay được với em. Hãy tha lỗi cho anh, không cất đi cho em được hai ngày đau khổ âý…

Hắn viết lộn xộn và cất bức thư ấy vào xếp thư vợ con hắn gửi cho hắn mang từ trại về.

Ngọn đèn đỉện, vuông giấy trắng trên bàn viết của anh Diệu, căn phòng yên tĩnh cùng với việc hắn vừa viết một bức thư dài làm hắn nhớ đến cái bàn viết của hắn.

Đã bao đêm hắn ngồi viết như đêm nay, nhưng không phải để trò chuyện với vợ hắn mà đối thoại với toàn thế giới. Nghĩa là hắn sáng tác. Hắn thích hai câu thơ Maia:

Tôi sẽ quên năm quên tháng quên ngày

Đóng cửa cô đơn ngồi bên giấy trắng

Ngồi bên giấy trắng. Một hạnh phúc tuyệt vời.

Ngọn đèn bàn chiếu một ô sáng. Cẩn thận hơn, hắn lấy một tờ báo, khoanh thành cái bù đài, úp chụp xuống để khỏi làm chói mắt vợ con đang nằm trong màn. Khi vợ con hắn đi nằm là lúc hắn ngồi bên giấy trắng.

Trên khuôn sáng nhỏ ấy, xếp giấy càng nổi lên màu trắng tinh khiết, trang trọng mời chào. Đó là thế giới của hắn. Ở đó có trời, có biển, có người. Có tình yêu và bất hạnh. Có một ngọn cây cao vút, quê hương của một thủy thủ. Cả làng không ai trèo lên được ngọn cây, ngoại trừ một người, một người đui cả hai con mắt. Có người gác đèn biển, chiều chiều nhớ tiếng gà con bị mẹ bỏ chiêm chiếp vào chuồng muộn. Anh cứ đứng nhìn con cua bơi, những ngoe xanh vụng về gạt nước, bị sóng đánh lạng đi như người ném thia lia. Ở đó sóng biển xô như núi. Một con cá cơm nhỏ xíu nhảy lên không trung, lộn mấy vòng, rơi xuống, rồi lại thong thả bơi đi.

Có người bí thư chi bộ địch hậu uống một bát nước mắm cho nóng người, đội rong, lội đầm trở về làng, giành lại nhân dân.

Có đêm tháng 10 trên sân hai vợ chồng người xã viên già. Có cuộc đời người giám đốc nhà máy cơ khí hay như tiểu thuyết. Có khẩu pháo 14 ly 5 trên sân thượng một xí nghiệp. Có một đầu cầu khói lửa Cát chảy thành thủy tinh, kính trên cửa sổ xưa xanh, vụn thành cát nhỏ.(1)

Đó là lòng hắn yêu Đảng, lòng hắn yêu cuộc sống.

 

(1) Trích trường ca Đầu Cầu, sáng tác của hắn.

Là cái máu thi đấu của hắn với những trở ngại, khó khăn: Vốn sống, thời gian, kiến thức. Là lòng hắn quyết tâm đạt được những gì cao nhất so với khả năng của hắn.

Là tình yêu của hắn với vợ con, món nợ hắn phải trang trải với đời, với bạn bè, với Ngọc.

Ngày đi làm đêm hắn viết. Hắn có thói quen thức khuya. Hạnh phúc là được thức khuya trong yên lặng. Hạnh phúc là những dòng chữ kín từng trang. Là bóng tối mờ mờ trong phòng. Và ở một góc nhà, màn buông, tiếng vợ con thở nhẹ nhàng trong giấc ngủ. Hạnh phúc là lúc đêm khuya cặm cụi, bỗng cảm thấy có người đứng sau lưng. Buông bút, ngả người trên ghế, đầu đã chạm ngay vào ngực vợ.

Linh cảm không nhầm.

Nàng đứng sau lưng tự bao giờ. Nàng đứng yên lặng nhìn mình làm việc. Nàng đưa tay ép nhẹ đầu mình vào ngực nàng. Đầy đặn. Ấm. Mềm. Mình dụi đầu vào đó và ngước mắt nhìn lên, thấy rõ dưới cằm nàng có một vết sẹo nhỏ, chỉ nhìn từ góc độ ấy mới thấy; vết sẹo khi nàng còn bé tí, bị vập vào miệng chum nước.

Đứng phía sau, nàng ấp hai tay vào cằm mình, thì thào:

– Đói không?

Gật đầu. Thế là hai vợ chồng khóa trái cửa, để con ngủ trong màn, đi ăn phở khuya. Ông hàng phở Ngã Bảy quen.

Hắn mong thời gian đi nhanh.

Đêm thứ hai hắn ngủ ở Hà Nội, vẫn là một đêm trằn trọc dài dằng dặc như một đêm VQ, một đêm QN, một đêm xà lim Trần Phú.

*

*        *

Sớm hôm sau, hắn ra Bến Nứa. Trong túi hắn rủng rỉnh tiền. Anh chị Diệu cho. Một xe ca đã đông người ngồi. Và ở bậc lên xuống, người đứng vòng quanh anh ét.

Hắn sấn đến. Hắn lách vào. Nhiều người làm như hắn, tiền cầm sẵn trên tay, nhưng anh ét không thèm nhận tiền của ai. Anh mắng những hành khách già bằng tuổi bố mẹ anh như mắng con anh vậy.

– Hết vé rồi. Khổ lắm nữa.

– Đã bảo. Không tin thì cứ đứng đến mai.

Mọi người tản ra, buồn rầu. Nhớ đến chuyến xe từ trại về đây, hắn rút tờ lệnh tha ra. Quên cả xấu hổ nhục nhã, hắn ấp úng:

– Báo cáo anh, tôi mới ở tù ra. Tôi mới được tha…, năm năm…

– Đã bảo là hết mà. Tù thì tù, nhưng cũng phải còn chỗ chứ!

Tuy anh ta nói thế nhưng hắn vẫn thấy có người lên xe. Sau này, khi đi buôn thuốc lá, hắn hoàn toàn hiểu bọn tài ét ấy. Chỉ cần đàng hoàng bước lên xe, không vé, ngồi vào ghế và khi người ét đeo kính râm, còn trẻ nhưng đã để ria mép đến, thì đưa cho anh ta gấp đôi, gấp ba số tiền vé với vẻ mặt thản nhiên, từng trải là được.

Hắn nuốt hận vì người ta cho hắn biết: Cả ngày hôm ấy chỉ có một chuyến ô-tô duy nhất. Tàu hỏa cũng không có. Hắn không bịa đâu. Hắn có thể nói rõ ngày hôm đó. Lấy ngày hắn được tha cộng thêm hai ngày nữa: Ngày 05-4-1973.

Ngày hôm đó ở Hà Nội gặp những ai, nói chuyện những gì hắn không nhớ. Hắn chỉ nghĩ đến vợ con. Một ngày hôm ấy chắc chắn dài hơn bất kỳ một ngày tù nào khác.

Hắn giở bộ quần áo tù cho anh chị Diệu xem. Cái màu quần áo xám nhợt, lâm thâm mốc đen vì mồ hôi, chữ số đỏ trước ngực, sau lưng, dưới ống quần, cái màu ấy trong tù còn khả dĩ, chứ ở ngoài đời trông quá thể. Hắn mặc bộ quần áo ấy vào. Hắn đứng giữa nhà, cười hồn nhiên:

– Trong tù em đúng là thế này đây, anh chị ạ.

Chị Diệu rơm rớm nước mắt, gắt lên:

– Thôi, chú cởi ra đi.

Anh Diệu lắc đầu:

– Trông sợ quá. Cứ như Jean Valjean đang ở trong nhà.

Chị Diệu thở dài:

– Khiếp. Trong ấy người nào người ấy đều như thế cả. Hàng nghìn người…

Hắn muốn nói với anh chị: Cái chính là cái vẻ mặt của những người tù cơ. Ở đây em không còn bị tù nữa nên vẻ mặt em không đại diện cho ai cả…

Hắn nghĩ hắn đã có lại nụ cười, có lại sự phản xạ trên nét mặt. Ít nhất là sau hai ngày tự do nó cũng linh hoạt hơn nét mặt ông Quân trực trại.

Hắn đã đúng. Nhưng hắn không ngờ xóa được nét mặt tù đâu phải dễ. Cái dấu ấn còn để lại lâu. Rất lâu. Nó in vào hắn cho đến tận cuối đời, cho đến lúc chết như đóng bằng sắt nung đỏ. Điều ấy thật đúng như vậy. Chẳng hạn như hắn luôn tự bảo mình là người không có tội, không việc gì phải xấu hổ với mọi người. Ấy thế mà cái ý thức cùng đinh mạt hạng mà hắn luôn phủ nhận cứ tồn tại trong hắn, cái dáng người khép nép, ngồi đâu cũng cố thu nhỏ lại vĩnh viễn là dáng ngồi của hắn. Và cho đến tận những năm cuối đời, hắn còn phát hiện ra mình có một thói quen nữa: Thói quen gãi tai khi nói chuyện với người khác, dù bất cứ ai. Gãi tai cả khi nói chuyện với con mình. Thói quen kỳ cục ấy hình thành từ những tháng năm tù tội và định hình trong chuỗi ngày dằng dặc tiếp theo – những ngày hậu tù – mà hắn không hay. Ngay khi biết mình có thói quen buồn cười ấy, hắn vẫn không sao sửa được. Vẫn cứ là gãi tai trong khi đối thoại. Vẫn cứ là gãi tai ngay khi nói chuyện với con mình.

Hoặc dễ xác định hơn là cứ xem ảnh hắn. Cứ xem những bức ảnh hắn chụp hai, ba mươi năm sau, vẻ u uất đau khổ lo lắng trên mặt hắn cứ hiện ra. Tấm ảnh chụp ở Đồ Sơn khi hắn đã được đi làm lại càng thảm thương. Hắn đứng trên sân sau khách sạn Vạn Hoa lộng gió và cao ngất. Nhìn ra bốn chung quanh. Nhìn về Hòn Dấu bao kỉ niệm. Đảo Hòn Dấu gắn với những năm tháng đẹp nhất của đời hắn. Hòn Dấu có đất có cây, có rừng rậm. Khoai lang Hòn Dấu ngon nổi tiếng. Luộc khoai, chủ khách ngồi ăn. Làm bùi nhùi soi đuốc bắt “cum cum” (1). Những con cua đá thấy ánh sáng, giương mắt nằm im không động đậy. Hắn cùng cả tổ khí tượng hải văn reo hò mỗi khi có một con “cum cum” được bỏ vào thùng. Tuổi trẻ lúc đó là cùng chung lý tưởng. Là chan hòa cởi mở. Là tiếp nhận nhau vào một tập thể mà không dị ứng với một tế bào lạ. Anh chị em trên đảo cùng lớp tuổi hắn đón hắn như một người quen cũ. Cô cán bộ khí tượng hải văn tình nguyện ra đây sau một chuyện tình dang dở kéo hắn lên đài quan sát, giảng cho hắn cách ngắm máy đo sóng và hắn hiểu rằng những bản tin thời tiết hàng ngày hắn nghe trên đài ngắn gọn khô khan chính là bắt nguồn từ những hoạt động lặng lẽ của biết bao người như cô. Cô đưa cho hắn xem tập thơ cô làm trên đảo, trong đó cô gọi con chim biển “Hãy dừng cánh trông, con người chiến thắng, phong ba bão bùng”.

Hắn như nhìn thấy rõ cô dắt bò, tài sản của cả tổ, đi dọc ruộng khoai lang và âu yếm nhìn nó gặm cỏ. Thấy cô từ khu nhà tắm đi lên, tay bưng nón quần áo ướt, tóc búi rất cao, áo phin nâu, ngả người leo dốc như đi ngược chiều gió thổi. Hắn như sống lại một tối xuống bến đón anh em dưới đài quan               

(1) Một loại cua đá.

sát, gặp cả tổ đi lên. Đèn pin lập lòe giữa lối đi hẹp trong rừng cây trên đảo. Cô gái hải văn đi đầu, vai cô vắt biết bao quần áo của cánh thanh niên, như một cái giá lưu động. Theo sau là đám con trai quần đùi áo may-ô cười nói ồn ã. Nhìn đống quần áo đàn ông trên vai cô, tự nhiên hắn cảm thấy buồn buồn, gần như ghen tuông thất vọng…

Đâu rồi chàng phóng viên thuở ấy. Đâu rồi lớp người thuở ấy? Số phận ra sao rồi lớp thanh niên ấy? Liệu bao giờ sẽ có lại lớp thanh niên như thế nữa. Một lớp thanh niên mới tuyệt vời và vô tư làm sao, một lớp thanh niên có thể làm nên tất cả.

Một bàn tay đặt lên vai hắn. Hắn quay lại. Đồng chí thứ trưởng kiêm tổng giám đốc kéo hắn ra chụp ảnh màu bằng máy ảnh tự động Konica. Đồng chí thân tình trách hắn:

– Trời đất quỷ thần ơi! Tôi đưa ông ra nghỉ Đồ Sơn mà ông cứ buồn rười rượi. Tôi chán cho ông quá!

Hắn giật mình. Hắn đang thanh thản. Hắn có buồn đâu. Hắn chỉ đang nhớ lại một tí chút kỷ niệm. Thế mà người ngoài nhìn hắn buồn rười rượi. Thật không dễ gì xóa được cái dấu ấn nung đỏ ấy trong tim.

*

*        *

Hắn đã về đến P. Tàu hỏa đang đưa hắn vào ga.

Hắn gọi xích-lô. Không mặc cả. Hắn đã phải ở lại Hà Nội thêm một ngày nữa. Nghĩa là từ lúc cầm quyết định, nhận tiền của trại là ba ngày rồi. Hắn không thể chịu đựng lâu được nữa. Anh Diệu đã gọi điện ra ga. Nhà ga cho biết trừ một ngày đột xuất không có tàu, nhà ga vẫn có hai chuyến tàu trong ngày.

Hắn đi chuyến tàu sớm. Hắn dậy từ tinh mơ. Sự xếp hàng mua vé hôm đó thật khổ ải. Hành khách dồn lại từ hôm trước. Không. Hắn quyết chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này. Hắn ra ga Hàng Cỏ từ lúc còn tối đất. Hắn là một trong những người xếp hàng đầu tiên. Khi ấn cái vé bằng giấy các-tông hình chữ nhật có ghi giá tiền 2 đồng 05 vào túi, hắn sung sướng như người vớ được của. Hắn đi lang thang trong sân ga. Hắn đã đút số tiền anh Diệu cho vào túi quần trước, nhưng hắn vẫn cảnh giác. Trong tù Giang là đã dặn hắn: Đó là chỗ an toàn hơn túi sơ-mi, hơn túi quần sau. Tiền để ở đó rất khó đá.

Ngoài sân ga, người ngồi, người đứng, người trải ni-lông nằm ngủ. Một dãy người đang ngồi hướng về một cửa bán vé còn đóng im ỉm, bỗng đồng loạt đứng lên chạy cả về một phía, rầm rập, hốt hoảng, vội vã. Và lại tranh nhau, xô nhau đứng rồi ngồi, hướng cả vào một cửa ghi-sê khác cũng đóng im ỉm. Hắn hỏi một thanh niên ngồi cuối hàng, giọng lễ phép và được một câu trả lời ngắn, đanh như phát súng CKC:

– Vinh nhanh!

Cũng súc tích như “cá mè ô 5”, câu trả lời đó có nghĩa là lấy vé tàu nhanh đi Vinh. Nhưng hắn không hiểu. Không hiểu, nhưng không dám hỏi thêm nữa. Hắn nghĩ đến vợ hắn. Đã bao lần vợ hắn lang thang bồng bế con cái, vật vạ ở ga để đi học đại học, để đi tiếp tế cho hắn. Bị móc túi, bị mất cắp cả túi xách. Khóc rồi về. Hắn đã kể chuyện vợ hắn bị mất cắp sạch cho Giang nghe. Giang là bạn tù, là lính mổ. Giang rất thân với hắn. Giang kêu:

– Thôi. Anh đừng kể nữa. Em sợ lắm!

Ở sân ga, hắn quan sát nhưng chàng lính mổ vật vờ. Đã ở nơi ấy ra rồi thì dễ nhận thôi. Những anh trạc tuổi 17, 18 cứ lượn vòng ngoài. Hay ngồi hàng nước. Thường đi có đôi. Nét đặc biệt là quần áo Tô Châu. Để mọi người, nhất là dân quác (1) tưởng nhầm bộ đội. Và móng trắng. Dép nhựa Tiền Phong có quai hậu, cài khóa tử tế. Để bùng (2) cho nhanh mà. Nhiều lính móng trắng.

Trong tù những lính móng trắng bị tỏi (3), ngoài đời lại có những lính móng trắng khác. Bao giờ hết được. Ở tù ra, hắn nhìn bọn này với một phần thông cảm hơn. Hắn không chỉ ghê tởm, căm ghét như trước. Hắn nghĩ xã hội, gia đình phải chịu trách nhiệm môt phần. Như Giang chẳng hạn. Giang là con liệt sĩ…

Thông cảm với các chú thì thông cảm, nhưng anh vẫn phải cảnh giác. Hắn thò tay vào túi quần, nắm chặt gần chục đồng còn lại. Hắn lên tàu và rất nhanh tìm được chỗ ngồi cạnh cửa sổ. Bao nhiêu năm rồi đói thèm cửa sổ. Khi tàu ra khỏi thành phố, hắn mới thực sự biết thế nào là tốc độ. Thì ra tự do là liên tiếp nâng cao tốc độ. Hôm đi ô-tô từ trại về Hà Nội, hắn đứng giữa những người là người. Mãi đến khi gần về đến Hà Nội, xe mới vắng một chút. Nhưng hắn vẫn phải ngồi ở giữa xe. Hôm nay hắn ngồi ngay cạnh cửa sổ. Gió thổi tung tóc hắn, như muốn rứt tóc hắn ném đi. Còn tàu thở hồng hộc. Cố lên. Nhanh nữa lên. Đồng bằng, lũy tre. Những hàng bạch đàn hai bên những con

(1) Quê

(2) Chạy, đi khỏi

(3) Bắt

mương. Cầu sắt, một cái vó bè, những chiếc ô-tô ngược trở lại và những chiếc ô-tô xuôi theo đoàn tàu, chạy song song chỗ hắn ngồi một lúc, rồi vượt lên…

Hắn xuống ga P. Hắn đã tính trước. Tàu về P. lúc mười một giờ. Giờ ấy hẳn vợ hắn đã đi làm về. Vợ con hắn hẳn ra Ngã Bảy mua rau. Ngồi trên xích-lô, tay ôm cái túi vải, hắn bỗng cảm thấy buốt hai chân. Hắn hồi hộp quá. Ông xích- lô không biết gì về tâm trạng hắn, vẫn phóng nhanh. Hắn muốn ông đi chậm lại. Để hắn tìm trong những phụ nữ đang quay mặt vào phía những người bán hàng ngồi trên vỉa hè kia xem ai là vợ hắn. Hai mắt cá chân hắn buốt. Buốt trong tủy, chạy từ mắt cá chân lên đầu gối. Như người mắc bệnh phong thấp. Như người bị lạnh quá. Cả đời hắn chưa thấy thế bao giờ. Hắn khẽ nhấc một chân lên. Rồi chân kia. Không. Chân hắn vẫn cử động được, nhưng đau và khó khăn. Cầu cho chân hắn đừng đau.

Xích-lô dừng lại. Hắn trả tiền và xách túi vào nhà. Hắn không muốn gặp ai trong căn nhà đông hộ này. Và hắn đã gặp may.

Hắn bước nhanh lên gác. Nhẹ nhàng không một tiếng dộng. Như một con mèo. Hắn nhô người lên cầu thang. Nhìn vào nhà hắn. Cửa mở. Hai đứa trẻ đang ngồi chơi trong nhà. Con chị, thằng em. Hắn nhận ngay ra chúng. Đã năm năm, nó đã lớn, khác trước rất nhiều. Đó là nói về con chị. Còn thằng em. Thằng con bé của hắn. Hắn chưa hề gặp. Nhưng hắn cũng nhận ra đó là con hắn. Con chị kêu lên:

– Bố!

Nó đứng bật dậy chạy ra. Ôi! Nó đã lớn như vậy. Nó đã lớn như thế này ư? Hắn ôm và bế bổng đứa con gái lên. Trong bếp, thằng lớn đang nấu cơm thò đầu ra. Nó đứng chôn chân ở cửa bếp. Nó toét mồm cười:

– Bố về!

Và chạy lại phía bố. Ba bố con ôm chặt nhau. Hắn ghì những mẩu đời của hắn. Hắn ghì những mảnh thịt xương của hắn. Hắn hít má con hắn. Trong nhà thằng bé đứng ngơ ngác. Nó không dám ra.

– Dương ơi! Bố về. Ra với bố!

Chị nó gọi nó. Hắn đứng quay về phía thằng bé con, hai tay dang rộng chờ đợi. Thằng bé ngước đôi mắt trẻ thơ nhìn người đàn ông râu ria xa lạ mà anh chị nó gọi là bố. Nó vẫn nghe ông bà, mẹ, anh chị nói về bố. Khi nó khóc, mọi người dỗ nó: “Nín đi, bố về, bố yêu”. Thời gian sơ tán, nó ở nhà ông bà, với thằng Téng, bằng tuổi nó, thằng Đường kém tuổi nó, đều là con bác nó. Tối nó được ngủ với ông, nhưng chỉ được ôm lưng ông, còn thằng Đường bé hơn, được ông nằm nghiêng ôm vào lòng.

Chủ nhật nào bố thằng Đường cũng về. Thằng Đường, thằng Téng gọi bố. Bác nó bế thằng Đường lên. Rồi bác nó bế nó. Nó gọi bác bằng bác. Không phải bố. Nó mong bố. Chủ nhật càng mong hơn. Mong mãi. Nó hỏi mẹ: “Bố đi đâu hả mẹ? Sao bố không về?”. Chính nó một hôm đã nghiến răng, mắt long lên, bảo mẹ: “Con với mẹ đi đánh điện cho bố về với con đi”. Nó biết nó có bố. Nó vẫn chờ lúc bố nó trở về. Hôm nay bố nó đã về. Nó do dự bước về phía bố.

Một bước, hai bước.

Hắn không thể chờ đợi được nữa. Hắn chạy vào, xốc thằng bé con lên, chạy quanh căn buồng hẹp. Hắn ghì thằng bé vào ngực. Hắn nâng thằng bé lên đỉnh đầu. Rồi hắn ngồi xuống giữa nhà. Đứa con trai sinh ra khi hắn đi tù, đứng trong vòng chân khoanh tròn của hắn. Thằng bé hình như bây giờ mới thật tin rằng đây là bố nó. Chỉ có bố mới có thể yêu nó như thế. Bố nó đã về. Từ lúc sinh ra, nó không có bố, nay nó cũng đã có bố như thằng Téng, thằng Đường.

Nó ôm lấy cổ bố, nép vào ngực bố.

– Bố ơi. Sao bố đi lâu thế?

Đó là một câu hỏi. Một lời trách móc. Hay tiếng than thân?

Những giọt nước mắt to nóng lăn trên má hắn.

Hắn không giữ được. Hắn quệt ngang, sợ thằng bé trông thấy. Không thể để tổn thương tới một tâm hồn bốn tuổi. Không thể bắn những mũi tên vào đôi mắt trẻ thơ bốn tuổi.

Một lúc sau, khi đã nằm ngửa trong vòng tay hắn, bé Dương đưa tay lên cằm hắn, chạm vào những sợi râu rễ tre của hắn.

Nó nỉ non:

– Bố ơi! Bố già chưa hả bố?

Hắn cúi xuống nhìn đôi má non bệu, cái miệng xinh xinh hé mở có mấy cái răng sữa trắng nhỏ như gạo nếp của đứa con đang đợi hắn trả lời. Hắn áp mặt vào ngực thằng bé, nghe rõ tiếng tim đập nhanh trong lồng ngực nhỏ nhoi. Hắn day day mặt vào đấy, thầm thì trong óc: “Ôi con tôi. Bố già rồi. Bố chết rồi. Bố đã qua một kiếp. Bố vừa sống lại về với con đây.”

 

*

*        *

Thế là cuối cùng hắn đã về đến nhà hắn. Đến căn buồng của hắn. Nghe tiếng guốc lên thang gấp gáp, như chạy, hắn biết là vợ hắn đã về. Tiếng lên thang của vợ hắn có một nhịp điệu riêng. Dù đã năm năm hắn vẫn nhận ra. Hắn bật ra hành lang. Vợ hắn đang lên tới giữa cầu thang, ngửa mặt nhìn hắn. Phải khóc năm năm mới có được nụ cười như nàng. Phải tuyệt vọng năm năm, tủi nhục khắc khoải năm năm, góa bụa năm năm mới có được khuôn mặt sáng bừng lên như nàng lúc ấy.

Hàng chục năm sau khi tóc nàng đã bạc, nàng hỏi lại hắn:

– Anh bế em lên ngay ở cầu thang, anh còn nhớ không?

Cái ngày hắn mới bị bắt, cứ mỗi lần đạp xe về nhà, nàng lại ngước nhìn lên cửa sổ tìm bóng hắn và lại một lần nữa, nàng buồn rầu hiểu rằng hắn đã đi tù. Nàng sẽ bước vào nhà chỉ có một mình nàng vắng lạnh (các con nàng đã đi sơ tán). Nàng khao khát nghe giọng nói của hắn, khao khát nhìn dáng đi của hắn trong căn buồng nàng đã sống với hắn, đã quen và quý mến bè bạn của hắn, đã đẻ bốn đứa con với hắn.

Cái phản xạ nhìn lên cửa sổ tìm bóng hắn phải hàng năm sau nàng mới bỏ được.

Nàng ôm lấy hắn bằng xương bằng thịt. Nàng òa lên khóc. Và nàng nín bặt. Nàng cười. Hắn vuốt dọc lưng nàng. Người vợ đau khổ, tuyệt vời của hắn. Trong một bức thư gửi từ trại tù, nhờ một người bạn được tha, yểm mang về cho nàng, hắn viết: “Trước đây anh yêu em, giờ anh yêu và kính trọng em”.

Hắn kéo vợ hắn và gọi lũ con hắn vào buồng. Hắn dang tay ôm bốn mẹ con. Hắn ý thức được rằng: Đây là tất cả gia đình hắn. Là vợ con hắn, là da thịt hắn mà người ta đã cắt lìa. Và hắn đã có lại tất cả. Vợ hắn hiểu những điều hắn đang nghĩ. Nàng chúi đầu vào vai hắn:

– Con Nguyệt đang ở quê với ông bà.

Nguyệt là tên đứa con thứ ba của hắn.

*

*        *

Lẽ ra hắn đã được về nhà sớm hơn. Hắn đã được ôm vợ con hắn vào lòng sớm hơn. Lẽ ra hắn bớt được hai cái Tết trong tù. Bớt được hai Tết, chứ không phải hai năm. Vì thực ra chỉ là mười bốn tháng.

Hắn đã được di lý từ Q.N về Trần Phú vào giáp Tết năm 1971. Ngày thì hắn không nhớ. Hắn chỉ nhớ là gần Tết, vì trại đã mua trâu về chuẩn bị cho tù ăn Tết. Đi làm, qua cổng trại, lượn qua chỗ ngoẹo suối, chỗ ấy nước sâu và đứng, là nơi rửa rau vo gạo của nhà bếp. Trên bờ khúc ngoẹo ấy, chiều hôm trước đi làm về, bọn hắn chỉ thấy đống rau bắp cải già đã băm để sang hôm sau rửa và nấu. Mùa lạnh, kiểu ủ rau như vậy còn đỡ. Chứ về mùa nóng, rau muống băm ủ một đêm, hôm sau rau ở bên trong vàng hết. Lá rụng ra hấp hơi nóng sực. Rau muống của trại lại là thứ rau muống Trung Quốc, chính toán hắn trồng, gốc to như gốc nứa tép. Ông quản giáo bắt để già rau mới cho cắt. Nhiều ngọn bò dài như rau khoai lang. Cầm gốc rau hất mạnh lên đầu, rễ con ở các đốt vẫn còn đứt lịch phịch. Rau đã vậy. Nhà bếp lại cầm từng nắm băm như băm rau lợn, để sáng hôm sau bốc vào lồ xuống suối khuấy cho nhanh. Có bát rau còn cả một miếng phân bò khô dính vào rễ.

Mùa rét ở các trại trung ương thật khủng khiếp. Lạnh lắm. Thấu xương. Lạnh từ suối, từ đất bốc lên. Từ trong núi đá tỏa ra. Từ trên trời xuống. Và lạnh tê ngay trong ruột. Lạnh từ trong những cơ thể thiếu ca-lo, cạn kiệt vật chất, tinh thần, cạn kiệt hy vọng.

Thế mà sáng hôm ấy, cả đám người đói rét, mụ mị, lê từng bước chân ra khỏi cổng trại, cúi gằm mặt trước cái bút máy của ông Quân dứ dứ, bỗng náo nhiệt hẳn lên. Mắt long lanh. Háo hức. Tự nhiên lại trò chuyện. Dù chỉ rì rầm.

Ở đám đất gần nhà bếp như có phép lạ, năm con trâu đã buộc. Năm con trâu sừng kềnh càng. Những bộ sừng đồ sộ choãi rộng, trông lại càng đồ sộ, kềnh càng trên cái đầu quá khổ đối lập với thân hình còm cõi, đếm rõ từng dẻ xương sườn to và cong. Cái chỗ lõm ở xương hông và khấu đuôi có thể đổ được nửa thùng nước. Xương vai đội lên. Mắt con nào con ấy đầy dử. Lông cứng sù ra trắng những trứng rận. Chỉ có một con khẽ phe phẩy cái đuôi. Một con nằm cố đứng lên nhưng không nổi, choãi chân loạng choạng, rồi lại phục xuống, đít phun ra phân loãng.

Những con trâu ấy là tín hiệu báo mùa xuân của họ. Là những bông hoa đón năm mới của trại tù. Là biểu tượng Tết cổ truyền dân tộc của họ. Đó là những con trâu không thể kéo cày được nữa, những con trâu già, ốm của địa phương.

Cương, toán lâm sản, người đã tặng hắn cái chén uống trà, dân kỳ cựu ở trại này cho biết: Trước đây dân cho trại, vì họ không có thói quen ăn thịt trâu. Nhưng thấy năm nào trại cũng cần, họ bán. Muốn gì thì gì, năm con trâu ấy cũng nói với họ sắp Tết rồi.

Tết chẳng là gì đối với phạm, ngoài hai điều phấn khởi: Cả trại được nghỉ ba ngày và khẩu phần thịt trâu đang chờ đợi họ. Hai lạng hay ba lạng?. Cuộc tranh luận triền miên không dứt.

Buổi sáng, khi đi làm, hai nghìn con mắt sáng lên phóng về lũ trâu già, ngạc nhiên, thích thú.

Buổi trưa, khi đi làm về, hai nghìn con mắt bao bọc lấy trâu, âu yếm và hứa hẹn.

Buổi chiều, khi đi làm, hai nghìn con mắt nhìn trâu thăm nom sức khỏe, bàn tán, ước lượng, đo ướm, tha thiết và chờ đợi.

Lúc chiều tà đi làm về, hai nghìn con mắt nhìn trâu sỗ sàng, hau háu như muốn dùi, muốn đâm thủng cả da trâu.

Hắn ngạc nhiên. Sao lũ trâu có thể chịu đựng nổi mỗi ngày gần vạn cái nhìn như vậy? Những cái nhìn bắn ra tia lửa hẳn hoi mà trâu chỉ xiêu xiêu thôi. Không đổ.

Mấy con trâu đã thổi một luồng không khí mới vào trại, làm thay đổi bộ mặt của cả trại. Bởi vì khi trâu về cũng là lúc con đường vào trại đông nườm nượp những người tiếp tế. Đi lấy phân xanh, đi làm đồi, đi phá đá lò vôi là nhìn thấy họ trên đường. Họ đi một mình, từng tốp hai, ba người có khi tới mười người, những ngày cao điểm tới mấy chục người, với những gói, những túi những bị bọc to nhỏ khoác trên vai, gồng gánh hay chằng buộc ở poóc ba-ga xe đạp. Tết, trại bao giờ cũng cho nhận tiếp tế nhiều hơn bình thường.

Những tin sót dẻo rò rỉ từ cánh tù tự giác, từ toán nhà bếp và nhất là từ trật tự trại được truyền nhau loang ra toàn trại như những vệt dầu rỏ xuống nước: Ngày hôm nay bao nhiêu người tiếp tế, nhà ai tắc rằm lắm, những bốn cái bánh chưng, ai được nhận cả một nồi thịt kho tầu, mẹ thằng Xuân già thế mà vẫn phải đi tiếp tế vì con vợ nó bỏ nó rồi, còn vợ thằng Trịnh đẹp nhất trong số người lên tiếp tế mấy hôm nay, cái thằng ấy thật mèo mù vớ cá rán…

Những quả tắc nặng trĩu được phạm khoác về trại, tiếp thêm dòng sinh lực vào trong trại. Những người không gia đình, bị gia đình bỏ rơi vì tù lâu quá rồi, hoặc gia đình ở quá xa thì đành đứng nhìn cánh tù đi ra cổng gặp người nhà hay khoác túi tiếp tế bước qua cổng trở về với con mắt thèm khát, ghen tị, dửng dưng và cam chịu.

Vỏ giấy kẹo, đầu đày thuốc lá, cả lá bánh chưng vung vãi quanh các lán nom thật lạ và vui mắt. Mấy anh ngồi xổm, nhặt những đầu mẩu thuốc lá gom lại, xé ra làm thuốc lào hút dần.

Cánh tù già pha trà, bóc bánh kẹo, tụ tập chỗ này chỗ kia, sàn trên sàn dưới mời nhau trịnh trọng như trong gia đình những ngày Tết đến. Còn cánh tù trẻ vùi đầu vào bài bạc.

Vẫn chỉ là ba cây. Lấy một cỗ bài tú-lơ-khơ ra, đã sẵn quy định về giá trị từng loại cây, từng loại hoa, đánh ít người, đông người đều được. Lấy đồ tiếp tế ra đánh. Lấy tiêu chuẩn Tết của trại sẽ có ra đánh. (Người ta tranh luận về số thịt trâu hai lạng hay ba lạng không chỉ cho vui mà có ý nghĩa này nữa.)

Ngoài thịt trâu, mỗi người còn được hai cái bánh chưng bằng lòng bàn tay, như kiểu bánh gói cho trẻ con đặt trên nồi bánh chưng sôi sùng sục trong các gia đình những đêm ba mươi Tết. Thịt, bánh đều được đổi ra ken (1). Ra Đrao. Tam Thanh, Nhị Thanh, Hoàn Kiếm, Điện Biên (2). Một bao Tam Thanh một lạng thịt trâu. Một bánh chưng của trại mười điếu Nhị Thanh (hay bảy điếu Tam Thanh). Một bánh chưng gia đình tiếp tế hai bao Đrao v. v… và v. v… Giá cả cũng có điều chỉnh chút ít tùy theo thị trường và gây tranh cãi, nhiều khi gay gắt, nhưng đều dựa vào mặt bằng chung, đều được thống nhất trước khi vào cuộc.

Đi làm về là ba cây. Chiều chờ cơm, ba cây. Tối, ba cây. Chủ nhật, ba cây.

Sòng bài của Triều Phỉ ở ngay đầu bê (buồng) tầng trên, giáp cửa ra vào. Chỉ Triều Phỉ mới dám ngồi ở đấy đánh bài. Bởi vì quản giáo đi kiểm tra, hay có khi không phải là kiểm tra mà chỉ đơn giản gọi phạm ra gặp mặt, vừa bước vào cửa đã nhìn thấy ngay. Quản giáo đến, tất cả úp bài xuống chiếu, ngồi nhìn nhau im bặt như đang liên hoan thì ngừng câu chuyện, nhưng giấu sao được các ông ấy. Dù mình ngồi sàn trên, các ông ấy không nhìn thấy cỗ bài, nhưng chỉ thoáng qua các ông ấy đã biết. Thấy trong đám bạc có Triều Phỉ, các ông ấy bước ra, chẳng nói năng gì. Cũng có ông hỏi:

– Các anh đánh bạc đấy à?

Triều Phỉ thay mặt cả hội, cười rất tươi, ỏn ẻn trả lời ngay:

– Không phải đánh bạc đâu ạ. Chúng tôi đánh ván bài cho nó vui. Thưa

(1) Thuốc lá

(2) Tên các loại thuốc lá thời đó

cán bộ, Tết nhớ nhà quá ạ.

Cũng thôi. Nếu không có Triều, gay đấy. Cỗ bài bị thu. Chỗ ken để trong chiếu bạc cũng bị thu. Kèm theo những lời đe dọa.

Đánh bạc với Triều Phỉ có một điều kiện đặc biệt: Không được ăn non. Nghĩa là người thua chưa đứng dậy thì người thắng cũng chưa thể đứng lên. Người thua còn chơi thì người thắng chưa thể rời chiếu bạc. Triều Phỉ có thể ngồi từ sáng tới chiều tối với bài bạc. Ai khen Triều giỏi ngồi thì Triều cười khiêm tốn:

– Chưa thấm đâu với ông bố mình. Thời gian máy bay đánh vào thành phố, bom nổ ầm ầm, cháy, khói mù mịt mà mấy hôm liền cụ không về nhà. Cả nhà bổ đi tìm. Tưởng cụ chết ở đâu rồi. Mò tìm khắp thành phố. Đi ra các cầu, bến phà, ra cả ngoại thành. Đã tưởng người chúng tôi hy sinh. Mãi sau vớ được cụ đang ngồi dưới hầm ngay cạnh Nhà hát Lớn giữa thành phố. Bốn ông. Đánh chắn. Bí tứ. Bánh mỳ khô vứt lăn lóc. Bi-đông nước thì đầy. Đái ngay dưới hầm. Khai đéo chịu được. Ỉa thì lên bên trên hầm. Gọi cụ, cụ bảo: Nói mẹ mày cứ yên trí. Mai tao về. Mai nào đã về. Bao giờ thua nhẵn túi cụ mới về. Chứ tiền cứ ra ra vào vào là không. Mồng thất! Rằm tây đen!

Triều phì cười:

– Cho nên mới xảy ra một chuyện: Ngài về quê đưa đám ma ông cậu, tức là tớ gọi bằng ông về đằng ngoại. Về đưa ma mà ở tới bốn chín ngày ngài mới ra. Bốn chín ngày hết tiền thì ra, chứ không, còn ở đến giỗ đầu. Quái nhân thế chứ!

Và Triều kết luận:

– Cho nên các chú có đánh với anh cũng phải theo nguyên tắc ấy: Bao giờ người thua đứng dậy thì người thắng mới được đứng lên. Đến bách nhật, đến giỗ đầu cũng phải ngồi.

Ngày chủ nhật trước Tết còn vui hơn Tết. Gần trăm người nhận tiếp tế. Trại đã giết trâu. Món lòng trâu đánh dấu kỷ nguyên giáp Tết. Chia chác tưng bừng. Suất nào cũng phải đủ lòng non, lòng già, sách và tí tiết luộc. Món lòng trâu làm mọi người cảm thấy hơi hướng mùi thịt trâu kho đang tới gần.

Triều Phỉ ngồi cả ngày trên chiếu bạc. Chủ nhật, bát mỳ xăng người lái(1) cũng không, người nhai mấy cái bích quy, người làm miếng bánh chưng trong quả tắc mới nhận, rồi tót lên sàn trên chiếm chỗ.

 

(1) Mỳ suông, nấu muối

Đánh cho đến trưa. Gọi lấy bát đũa ra chia cơm cũng không nhúc nhích. Bạn tù phải lấy hộ, nhận cơm hộ đem vào. Thỉnh thoảng mới tạm ngừng chơi, vì một anh buồn đái quá, tụt xuống chạy vào nhà mét. Thế là tất cả cùng xuống, cùng chạy theo anh ta vì ai cũng đã tức cứng bụng.

Đã nhiều người đứng lên vì thua cháy túi. Cả quả tắc mà vợ con, bố mẹ, anh em thu vén, dành dụm vất vả lo toan chắt bóp đem lên đến tận nơi, gửi vào với bao xót thương, chuẩn bị cả tháng giời, chỉ trong mấy tiếng đồng hồ bay biến. Còn chăng là điếu thuốc lá phì phèo trên môi. Nhưng những người này đứng lên, những khác lại ngồi xuống. Không đánh thì chầu rìa. Xem người khác đánh. Quan sát xem có sự gì gian lận không. Xem ai vận đỏ. Xem người ta thua bao nhiêu. Được bao nhiêu. Bê cơm bê canh hộ người đánh. Bất kể là ai, thân hay không, đàn anh hay đàn em của mình. Dù sao cũng còn hơn đi loanh quanh vớ vẩn ngoài sân trại. Đến chiều thì chỉ còn bốn người chơi. Triều Phỉ, Giang, Thông còn gọi là Thông Cháy và một anh tù có tai rách thành tua tên là Lập, Lập Ba Tai. Giang nhiều lúc đã tưởng ra hết nhưng rồi lại vào. Vào rồi lại ra. Thông cũng vậy. Triều thì đỏ, phía sau lưng Triều, giáp với vách gỗ chất những bị, những túi, những bánh chưng, những thuốc lá, thuốc lào, kẹo cứng, kẹo xốp, những đĩa cơm, những đĩa lòng trâu nguội tanh, nguội ngắt. Đó là những gì Triều thu được trong canh bạc. Giang phải kêu lên:

– Công nhận ông này đỏ thật đấy. Năm mà cũng vơ được của cả làng.

Triều vơ được của cả làng vì Triều cầm trang.

Triều quơ bài thoăn thoắt, hai tay hai nắm như một nghệ sĩ xiếc, vừa lấy ngón tay cái bật bật những quân bài, vừa lồng bài tay nọ vào bài ở tay kia. Những quân bài được đan ken vào nhau. Triều chia cỗ bài được trang ấy ra. Lập Ba Tai trán mướt mồ hôi vì thua quá nhiều, giằng lấy cỗ bài, đảo đi đảo lại, rồi nhanh nhẹn rút ra một quân. Bốn nhép. Tất cả khe khẽ:

– Tứ lùi.

Triều chia bài. Một tay rải đều. Ngón tay đeo một cái nhẫn tự tạo bằng nhôm có đổ mặt nhựa đỏ gẩy đều như máy làm bắn ra những quân bài rất đúng chỗ.

Được quân nào người ngồi chơi bài đưa tay ra úp lên, chầm chậm kéo vào lòng mình, khum khum lòng bàn tay, từ từ đưa ngang mặt ngắm nghía, rồi lại nhẹ nhàng thận trọng úp nó xuống chiếu, lấy tay giữ chặt như sợ nó bay mất, sợ người khác trông thấy khiến vận đỏ ở quân bài sau không đến. Tới quân bài thứ hai. Cũng như vậy. Sự im lặng hồi hộp càng tăng khi Triều chia quân bài thứ ba. Đây mới là quân bài quyết định. Khi lá bài vừa chạm chiếu, những bàn tay đã vồ lấy, kéo về lòng và cứ úp sấp quân bài dưới chiếu, cứ đè một bàn tay lên như vậy, còn xem lại hai quân bài có trên tay, khẽ nhích quân bài phía trước xuống để nhìn thấy cái đầu quân bài phía sau ló ra, xác minh một lần nữa những con số mình đã xem, rằng từ nãy đến giờ nó vẫn là nó, không có gì biến đổi, rằng mình vẫn chờ đợi con số thứ ba ấy. Vận may hay rủi đang đến cùng con bài dưới chiếu đây. Lúc ấy mới từ từ nhấc con bài dưới chiếu lên ngang mặt, hồi hộp và hy vọng. Dù con bài ấy xấu hay tốt cũng cứ cắm nó lên tay, xòe ba con cho chúng xếp hàng cạnh nhau, duyệt cả đội hình một lần nữa, rồi quăng nó ra vì một tịt, hay xòe ngay ngắn trên chiếu với một chút hy vọng mỏng manh vì số điểm ba cây cộng lại chỉ là số sáu, con số bảy dở dang.

Triều bao giờ cũng là người lên bài sau cùng và là người hạ bài sau cùng.

Lập thua. Lập cứ thua. Khi đã thua hết cả quả tắc, chơi ván bài cuối cùng, vừa xem xét thận trọng từng quân xong, Lập đã vứt bài xuống chiếu ngay:

– Xem nào! Xem chuyến này có được cầm trang không nào?

Triều Phỉ vẫn giữ ba cây bài đã xếp gọn trong lòng bàn tay, mặt lạnh như tiền.

– Giang. Lật lên.

– Tôi chín đây. Hai con bảy. Một con năm. Năm rô.

– Thông Cháy.

– Tôi ba. Đen quá.

Triều Phỉ vơ những điếu thuốc lá trên chiếu vào lòng và lúc ấy mới chìa ra ba quân bài của Triều. Mười. Mười rô. Hai quân át. Một quân tám rô. Lập
Ba Tai đứng phắt lên:

– Đ. mẹ. Đéo chơi nữa. Ông Phỉ hôm nay đỏ đéo chịu được. Mình tưởng mình mười có bảy rô là ăn chắc rồi. Ai ngờ ông ấy lại đè mình.

Triều vừa trang bài vừa cười thỏa mãn:

– Đừng thấy đỏ nghĩ chín, em ơi. Cao nhân tất hữu cao nhân trị.

Và hỏi những người còn lại:

– Chơi ba nhé.

Giang gật:

– Tiếp tục. Còn láng đây.

Thông Cháy cũng gật. Ba người cùng vào nhà mét. Khi trở ra đã thấy Lập cùng bát cơm và mấy miếng lòng trâu chờ sẵn:

– Chia bốn. Chơi nốt suất cơm sáng nay.

Triều để suất cơm của Lập cạnh những suất cơm được bạc khác và xì ra năm điếu thuốc Tam Thanh.

Năm ván liền Lập thua. Lập thản nhiên:

– Chia tiếp. Anh Triều ứng cho em suất chiều nay.

Triều lại đếm thuốc lá, vừa đếm vừa hỏi:

– Chiều nay ăn cơm với gì ấy nhỉ?

– Xương trâu.

– Đây. Năm điếu.

Lập lại thua nhẵn. Lập như đã bị mê đi rồi.

– Tiếp tục suất mỳ sáng mai, suất cơm trưa mai.

– Đây. Một điếu bữa sáng. Bốn điếu bữa trưa.

– Sao lại bốn? Năm chứ.

– Trưa mai ăn da trâu, bố ạ.

Ai cũng biết quy trình ăn thịt trâu của trại: Lòng rồi đến xương, xương rồi đến da (còn thịt dành cho Tết) mà cái món da trâu thì khó ăn thật. Tanh và khắm. Dính như keo. Lập chấp nhận sự hạ giá, nhưng còn nói thêm:

– Da trâu chúng nó cũng liếm được hai suất đấy, bố ạ.

Lại đánh. Vừa đánh vừa tranh thủ xúc cơm, bốc cơm lên mồm. Triều bảo Lập:

– Có đói làm miếng mày.

Không khách khí, Lập thò tay bốc cơm trên cái đĩa men vừa nãy còn là của Lập.

Họ đánh cho đến lúc lấy cơm chiều, chia cơm chiều. Không ai buồn nhúc nhích. Ba Đen phục vụ họ, nhận cơm, nhận thức ăn hộ họ. Dồn vào hai xoong. Xoong cơm có bốn mô, gạt ra bốn góc. Còn xoong xương để lẫn lộn. Ba Đen hỏi Triều:

– Đem mấy cái này đi chác nhé! Để thiu ra à?

Triều Phỉ gật gật. Vì còn đang mải mê vào những quân bài. Ba Đen bưng mấy suất cơm, mấy suất lòng trâu đi ra. Ba Đen không thú chơi bài. Ba Đen thích chác hơn. Ba Đen nắm rất vững ai có cái gì, ai cần cái gì, ai thiếu gì. Ba Đen làm cái việc điều hòa.

Lập lại thua. Tới điếu thuốc lá cuối cùng, nghĩa là ván bài cuối cùng, được quân nào, Lập vật ngửa ngay quân ấy, bất cần đời.

– Át nhép.

Quân thứ hai: Tám pích. Hai quân mà chín. Thật ít hy vọng. Lại đang đen. Ai cũng nghĩ Lập sẽ trắng tay, phải rời chiếu bạc. Quân bài thứ ba vừa rơi xuống chiếu, Lập đã quơ lấy, ấn vào đũng quần, rồi vật ra. Tất cả cùng kêu lên:

– Nhất cụ!

Quân át cơ với trái tim đỏ chót nằm giữa chiếu. Lập sướng quá, bất ngờ quá, thét to:

– Cái b. của tao thiêng thật. Nhất cụ!

Nói rồi, Lập lại đưa quân bài lên miệng hôn đánh chút. Lập được ván ấy. Lập được cầm trang. Tưởng nhẵn túi, đứng lên, ai ngờ lại thắng. Hy vọng vận đỏ sẽ đến với mình từ đấy…

Hắn sang toán mộc mấy lần định trò chuyện với Giang bảo Giang thôi đi, đừng chơi bạc nữa. Giang chỉ nhìn hắn cười cười, rồi lại chăm chú vào quân bài. Hắn biết chẳng thể nào kéo Giang ra khỏi đám bạc được. Hắn lo lại như năm ngoái, Giang thua nhẵn, hai anh em phải ăn chung nhau một suất thịt trâu.

Hắn có ngờ đâu trưa hôm sau hắn phải chuyển đi. Giáp Tết rồi mà lại chuyển đi. Một mình hắn chuyển đi. Gánh phân nhà bò về, cất cặp lồng ở chỗ đặt nội vụ, hắn đem bát ra chia cơm, suất cơm và suất da trâu lạnh ngắt.

Già Đô lẩm bẩm một mình:

– Sắp ba Tết rồi đây.

Hắn thì sắp bốn Tết rồi.

Hắn vừa ăn vừa nghe Ba Đen hát to ở phía ngoài:

Người ta ăn Tết tưng bừng

Ba Đen ngồi đợi bánh chưng trong tù

Người ta ăn Tết lu bù

Ba Đen trong tù ngồi đợi bánh chưng

Người ta ăn tết tưng bừng…

Cứ loanh quanh chỉ có bốn câu như cái kiểu “Con kiến mà leo cành đa... Ba Đen hát to. Có vẻ bất cần. Nội dung bài hát, giọng hát nghêu ngao của Ba Đen có nghĩa là: Tết, tôi nhớ nhà. Tôi tù đến bao giờ? Các ông bảo tôi không yên tâm cải tạo. Cũng được. Các ông bảo tôi kích động người khác. Cũng được. Tháng này là tháng củ mật. Các ông sợ tù trốn trại, tăng cường canh gác, đề phòng. Các ông cho tôi vào xà lim cũng được. Các ông bảo tôi chống đối tinh vi cũng được. Kéo dài thời gian cải tạo cũng được.

Mỗi người là một cái lò-xo đã bị nén xuống tột cùng. Mà cỗ máy, khối thép đồ sộ khổng lồ còn cứ ấn xuống mãi. Cho tới bẹp dí. Tiếng hát ê a của Ba Đen làm hắn nhớ tới những tiếng gào thét vào những đêm 30 Tết khi hắn còn ở xà lim. Tiếng gào thét vang lên từ những B nữ. Thảm thiết. Ai oán. Trong đêm giao thừa, nó vọng đến tai hắn đang nằm co trong xà lim tối đen, lạnh lẽo và bị bỏ quên…

Hắn ăn cơm với già Đô. Lòng trâu ngon, nhưng da trâu đúng là khó nhá. May mà có thêm món muối vừng của Giang. Giang đã nhận tắc từ hôm 20 Tết. Gia đình Giang không lên mà là Phu, một người bạn của Giang. Bao giờ cũng là một người bạn của Giang lên tiếp tế. Ở chỗ gặp mặt về, Giang xách cặp lồng xôi sang chỗ hắn ngay. Nhìn qua cửa sổ, thấy Giang đi tới, già Đô tót ra ngoài. Già tránh mặt. Dù sáng hôm ấy là chủ nhật. Treo mỏ. Muôi mỳ xăng người lái cũng không. Dạ dày lép từ tối hôm qua cơ. Mong từng phút tới lúc nhà bếp gánh nước đổ vào thùng ở sân ùm ùm để mang các thứ ra lấy nước. Rồi lại mong từ đấy đến bữa cơm trưa. Buổi sáng chủ nhật cắt ra làm hai như vậy đỡ dài hơn. Nó có cái mốc ở giữa. Chóng tới bữa cơm trưa hơn dù biết bữa cơm trưa cũng chỉ nằm gọn trong một góc dạ dày rỗng. Các ông giám thị cứ bảo các anh ở nhà ăn mười ba cân (gạo), vào đây ăn mười ba cân, mười tám cân, hai mốt cân, hơn ở nhà rồi. Quả là làm việc nặng, gồng gánh mười tám cân, lâm sản, thợ xẻ, đập đá lò vôi ăn hai mốt cân thật đấy. Nhưng có no đâu. Gạo bốc hơi từ kho, từ ông giám thị cân gạo, từ anh em nhà bếp đem cơm đi chác, từ đàn gà béo núc hai chục con của ông quản giáo phụ trách toán bếp… Với lại chỉ có chỗ cơm ấy và một tý rau nấu muối. Có chất gì đâu mà no. Cơm và rau chỉ ở trong dạ dày không quá một tiếng đồng hồ. Các nhà khoa học đã nói vậy. Ắt là phải đúng.

Già Đô đói như hắn đói, như mọi người đói. Nhưng già chỉ có thể ăn của hắn. Già không thể ăn của bạn hắn. Giang còn đang phấn khởi vì vừa gặp bạn:

– Em sẻ cho chúng nó rồi. Đây của anh em mình. Già Đô đâu rồi?

– Ngồi đây. Chờ anh.

Hắn bảo Giang và đi sang các toán khác tìm già Đô. Già Đô đang ngồi bên toán lâm sản, chỗ hội chợ điếu. Các loại điếu cày sáng loáng. Và đủ loại âm thanh của các nõ điếu rúc lên. Ngẫu nhiên thôi. Thoạt đầu mấy anh lâm sản sở tại đem điếu ra. Điếu của toán lâm sản toàn loại oách. Rồi bạn bè đến chơi mang điếu đến. Thế là mấy tay áp-phe có mặt ngay. Ngày Tết nhiều người nhận tắc. Cánh không gia đình biết họ rằm, cũng muốn moi của họ. Một cách lương thiện thôi. Đem điếu, lược đến gạ gẫm. Những cái điếu, cái lược tự sản xuất với sự kiên nhẫn của người tù khổ sai đẹp như đồ kim hoàn, nổi tiếng đến tận Cục lao cải.

Hắn tìm thấy già Đô trong đám người đang đẩy mạnh hoạt động thương nghiệp ấy. Trắng xóa những lá đề (1) những đai điếu chạm trổ và mù mịt khói thuốc. Khoảng hai chục cái điếu cùng bắn loạn xạ. Đủ các cung bậc. Rít lên chói màng nhĩ. Già Đô ngồi cạnh Dần, một anh lái xe kẹp chết người, cùng toán, nổi tiếng là mê điếu. Dần mân mê ngắm nghía cái điếu của Ba Đen, vốn vừa là tay sản xuất, vừa là tay phe đại tài. Dần đang gièm pha cái điếu mà chỉ thoáng trông, hắn cũng biết là loại đờ luých man-te và Dần kết lắm rồi.

Hắn kéo tay già Đô:

– Cụ về đi.

Già Đô giãy nãy:

– Về làm gì?

– Về tôi bảo cái này.

Già Đô kiên quyết, vẻ hơi lạnh lùng:

– Tôi ngồi đây tý nữa tôi về.

Hắn nhìn già Đô và đến lúc ấy hắn mới để ý thấy lông mày già Đô cũng bạc rồi. Chẳng ai đoán được tuổi già là bao nhiêu nữa.

– Cụ về một tý thôi. Tôi van cụ.

Giọng hắn khẩn khoản. Già Đô biết hắn sẽ không về nếu già còn ngồi lại. Già miễn cưỡng đứng lên, đi theo hắn, bỏ lại sau lưng đám hội chợ đông vui, tiếng Dần dẹt giọng, dè bỉu:

– Bốn biêu cái điếu. Có mà điên à?

Và tiếng Ba Đen bình thản, tự tin:

(1) Miếng kim loại ốp vào thân điếu cày

– Tùy ông anh thôi.

Thấy già, Giang trách:

– Con không đồng ý tý nào. Anh Tuấn với già thế nào, thì con với già thế vậy.

Ba người ngồi ăn xôi lạc. Giang kể chuyện bên ngoài. Bao giờ cũng vậy, người ra gặp mặt không chỉ mang về gói quà tiếp tế, mà còn mang theo chuyện bên ngoài. Qua đó biết được tình hình gia đình, tình hình xã hội. Đó là một chút tia nắng từ nơi dương thế rọi vào chốn âm phủ này. Chút tia nắng ấy thường tăm tối, ảm đạm. Gia đình sinh sống khó khăn. Chiến sự còn đang căng. Lại bắt bớ. Tuyệt vọng càng tuyệt vọng.

Già Đô nhai kỹ, ăn chậm. Già muốn ăn ở mức ít nhất, tuy già có thể ăn hết một nửa chỗ cơm nếp này vẫn còn thòm thèm. Dẻo. Thơm. Ngọt. Ngậy. Bùi. Ăn đến đâu tỉnh đến đấy. Những người như già, như Dự, Lê Bá Di… ngày Tết chẳng hy vọng gì tắc tế. Chẳng hy vọng gặp ai. Càng buồn. Càng thấy mình thuộc tầng lớp thấp kém. Càng thấy mình bị bỏ rơi. Bỏ rơi hoàn toàn. Không một chút xíu gì liên hệ với cuộc đời nữa. Sống dưới cặp mắt thương hại và coi thường của anh em tù, nên lại càng tự trọng. Hắn bốc những hột lạc, ấn vào véo xôi của già, gỡ một hột cơm rơi vào giữa chòm râu rậm rịt hoa râm của già.

Giang bảo:

– Chị Ngọc phải giáp Tết mới lên, anh nhỉ?

Hắn cũng đoán như vậy. Thường vợ hắn vẫn tiếp tế cho hắn vào những ngày giáp Tết. Có năm đến hai tám Tết. Vì lúc bấy giờ mới có bánh chưng mà gói. Dù như vậy cập rập. Rất cập rập. Hắn thương vợ. Vất vả quá. Bình thường Tết đến đã có bao nhiêu thứ phải lo toan. Hắn đi tù. Ngọc một mình lo Tết. Lại còn lo tiếp tế cho chồng. Tàu xe. Đường sá. Phà đò. Tới nơi, ngủ lại một đêm. Hôm sau gặp chồng mười lăm phút. Rồi về. Bấy giờ mới yên tâm lo

Tết ở nhà, lòng vẫn không nguôi xót thương chồng ăn Tết trong tù.

Nghĩ vậy, nhưng hắn vẫn rất mong gặp vợ. Không có cách nào khác, dù biết vợ vất vả khổ sở vì mình. Càng gần Tết càng mong.

Nhưng Tết năm ấy vợ hắn không lên. Hay đúng hơn vợ hắn không phải vượt hàng trăm ki-lô-mét lên QN thăm hắn vì hắn đã được chuyển về 75 Trần Phú.

Cái buổi trưa đang ăn cơm với già Đô, có món da trâu ninh, miếng nào

miếng ấy dày tới cả chục xăng- ti-mét, thêm tí muối vừng mằn mặn thơm lừng của Giang, vừa ăn vừa nghe Ba Đen ê a hát, hắn bỗng thấy ồn ào ở buồng bên. Và những tiếng thét:

– Giang! Thôi! Tao bảo mà!

– Anh Triều đùa đấy!

Hắn buông bát cơm ăn dở chạy sang bên toán mộc. Giang lăm lăm cầm lưỡi bướm sáng loáng trong tay. Đó là thứ đục bản to dùng để đục phá, bóc gỗ. Nó tách những thớ gỗ chắc như gỗ lim một cách ngon lành. Mặt Giang trắng bệch. Môi đã mỏng, mím lại thành một vệt thẳng. Tay Giang nắm chắc lưỡi bướm sắc ngọt. Trước mặt Giang là Triều Phỉ cao lớn, chủ canh bạc hôm qua.

Triều Phỉ là trùm anh chị ở P. Cùng giam ở bê D Trần Phú với hắn, với Giang. Tất cả cánh hình sự đều quy phục Triều Phỉ. Một điều anh, hai điều anh đầy mến phục. Triều Phỉ xăm trổ thì khiếp lắm. Ở bụng là những con rắn uốn khúc mổ vào bướm cô đầm khỏa thân. Một bên đùi là Triệu Tử Long phò A Đẩu. Đùi bên kia là Trương Phi râu quai nón cầm mâu đứng trên cầu Trường Bản. Lưng: Đại chiến Xích Bích. Triều Phỉ khoe với hắn khi còn ở Trần Phú:

– Công an bắt em cởi truồng. Chụp ảnh các cảnh trổ. Chụp từng bộ phận một.

– Em là Triều Phỉ, vì trước em để tóc dài ngang vai. Em đi thuyền cát, lên phố, một chân đất, một chân giày, tóc xõa. Trông như phỉ.

– Em mặc quần ống tuýp. Công an mấy lần rạch ống quần của em, nhưng em vẫn mặc quần ống tuýp.

Triều Phỉ rất đẹp trai. Cao lớn, da trắng như da con gái, luôn cắn cắn môi trên, môi dưới cho đỏ. Lên QN, Triều Phỉ trổ thêm nốt ruồi Ấn Độ giữa hai lông mày. Quần áo tù, Triều cắt lại hết. Không rộng thùng thình nữa, mà chật căng. Bó từ ngực tới ống, rất bít dít. Giặt phơi xong, gấp vuốt cẩn thận, để đầu giường gối lên, mặc phẳng như là. Hôm đóng số tù, Triều đóng kín số CR 832 đằng trước đằng sau; những chữ số nằm trong khung chữ nhật to, xếp thành hàng từ ngực xuống chân, từ vai xuống gót đen sì, vuông thành sắc cạnh. Tù thấy vậy thích lắm. Nhưng quản giáo bực. Triều biết, vẫn cứ thản nhiên: “Thưa ông, đóng thế này cho đẹp”. Cánh hình sự càng nể Triều Phỉ.

Lên Q.N, Triều dùi chim, đeo vào đó cái pơ-lắc khắc chữ: “Vĩnh biệt em yêu”. Lên Q.N, Triều còn lập một chiến công khiến cả bọn càng tôn sùng: Đánh thắng Ba Đen.

Lên Q.N, Triều gặp Ba Đen, thủ lĩnh đám tù hình sự ở trại. Đôi bên không chịu nhau. Đánh nhau. Tay bo. Ròng rã cả tháng. Đi làm về lại đánh. Im lặng đánh. Không kêu một tiếng. Không nói một lời. Chỉ có tiếng rầm rầm trong buồng. Nhảy từ sàn bên này sang sàn bên kia. Dồn nhau từ cửa ra vào tới cửa nhà mét. Từ lối đi hẹp giữa hai sàn, dưới đất vọt lên sàn trên. Nửa đấm bốc. Nửa võ Tàu. Cả giu-đô Nhật Bản.

Cả hai đều cao lớn, trên một mét bảy. Ba Đen cũng có một thân hình rất đẹp, ngực nở bụng thon. Chỉ có cái khác: Triều Phỉ trắng trẻo, còn Ba Đen đen bóng. Gần một tháng tỉ thí, cả hai tím mặt, sưng tay, gãy răng, hộc máu. Có lẽ về nghệ (1) thì không ai thua ai. Kẻ tám lạng người nửa cân. Nhưng đây là cuộc đối đầu về ý chí. Ai bền gan hơn, quyết tâm hơn sẽ thắng. Cuối cùng Ba Đen chịu thua, xin làm đồ đệ.

Vậy mà bây giờ Giang đang đứng trước Triều Phỉ. Giang nắm chắc lưỡi bướm, giọng lạnh đi:

– Tôi biết anh. Anh cũng biết thằng Giang. Ý anh thế nào?

Thì ra, sau khi thắng lớn cả ngày, tối qua Triều Phỉ chơi ba cây đại bại. Người thắng là Giang. Triều Phỉ khất Giang, chờ nhận tắc sẽ trả. Sáng nay Triều Phỉ gặp mặt, nhận tắc nhưng chưa chịu trả nợ Giang. Khi đi làm về, Giang đã thủ sẵn một cái bướm. Lập Ba Tai nắm lấy cổ tay đang cầm lưỡi bướm của Giang:

– Thôi. Giang ơi!

Giang dùng bàn tay còn lại chém mạnh vào tay anh tù tai rách và hoa lưỡi bướm, gầm lên:

– Thằng Lập Ba Tai kia. Mày định can khéo để tao chết đấy phải không? Lui. Tôi nói trước nhá. Bất kỳ ai đến gần tôi là tôi xơi đấy. Đừng trách!

Lưỡi bướm sáng loáng vạch một vòng tròn trong không trung. Triều Phỉ đứng khoanh tay cười nhạt:

– Mày định thịt tao đấy à?

– Tôi không biết. Tôi hỏi anh một lần cuối: Hôm qua anh bảo nhận tắc thì trả. Hôm nay anh nhận rồi. Anh có trả không?

 

(1) Võ nghệ

Ai cũng biết Giang sẵn sàng đổi mạng. Vì danh dự, vì luật chơi. Phải tôn trọng luật chơi. Triều có thể đánh bật lưỡi bướm của Giang, diệt Giang đến mức quỵ, nhưng khi khỏi, khi dậy được, khi Triều ngủ, Giang sẽ thực hiện luật chơi.

Nếu không mọi người coi Giang không hơn một con sên, Giang sẽ không sống được. Không đâm Triều hôm nay, chắc chắn ngày mai Giang sẽ phải đâm người khác. Giang lấy của Triều cả quả tắc, nhưng có thể Giang sẽ mời Triều ăn cả quả tắc ấy. Còn việc thua mà không trả lại là chuyện khác.

Bao nhiêu con mắt nhìn vào khuôn mặt trắng bệch của Giang, cái cách cầm lưỡi bướm của Giang. Cũng như mọi người, hắn thấy trước máu sẽ chảy.

Không biết việc gì xảy ra, nếu Ba Đen không kêu lên:

– Anh Triều đừng đùa nữa. Anh là chúa hay đùa.

Triều cười khì khì:

– Tao đùa một tý.

Và thản nhiên bước lại khoác vai Giang vẫn đang cầm lưỡi bướm:

– Tao thử xem mày là thằng thế nào. Tao công nhận mày có bản lĩnh.

Tất cả thở phào. Hắn hiểu thêm Giang. Càng tin Giang. Quý Giang. Hắn quay về ăn nốt bữa cơm. Đi được mươi bước thì gặp già Đô. Già Đô hớt hải:

– Tôi tìm mãi. Cụ về ngay, ông quản giáo chờ.

Hắn về buồng. Một ông quản giáo đã đứng ở cửa buồng giam:

– Mang hết nội vụ ra ngoài.

Hắn ngơ ngác. Cả toán ngơ ngác.

– Thưa ông. Tôi chưa ăn cơm xong.

– Anh đi đâu mà chưa ăn?

– Tôi đi vệ sinh.

Nói làm gì chuyện sang toán mộc. Ít nói là tốt nhất.

– Ăn đi rồi mang nội vụ ra. Anh có lưu ký không?

Thế nghĩa là đi hẳn. Cắt đứt quân số ở đây. Bối rối. Cả hy vọng. Vận may hay vận rủi chờ đợi. Cũng là nhắm mắt đưa chân. Thân tù bao giờ cũng lành ít dữ nhiều.

Già Đô giúp hắn bó chăn màn, ấn quần áo, khăn mặt, điếu, bi-đông, cặp lồng, bàn chải, cả túi vừng đang ăn dở vào bị, vào hòm. Hắn nói khẽ:

– Để vừng lại. Cụ sang gọi Giang hộ tôi.

Giang sang. Nhìn đống nội vụ của hắn đã xếp gọn giữa chiếu, Giang hốt hoảng:

– Anh đi ngay giờ à?

– Anh đi đây.

Cả toán không ai nói một câu. Họ chỉ biết im lặng nhìn hắn. Già Đô vẫn chưa hết ngơ ngác. Hắn thì thào:

– Cụ còn nhớ địa chỉ tôi không?

– Nhớ. Số… Điện Biên Phủ.

Già Đô thì không có địa chỉ để hắn nhớ. Xăng vòm. Cái giường cá nhân già nằm trong khu tập thể xí nghiệp đã có người khác thay thế rồi. Hắn nói với Giang mặt lạnh tanh:

– Có về trước đến thăm chị nhé. Kể chuyện anh trên này.

Giang còn lạnh hơn cả hắn:

– Anh đi.

Ông quản giáo đã đến. Hắn nhìn nhanh một lượt anh em trong toán từ nãy tới giờ vẫn ngồi yên nhìn hắn, cả sàn dưới lẫn sàn trên. Tất cả nhìn lại. Không một lời. Không một tiếng động.

Hắn bị bọc bước ra.

Gió rừng thốc vào mặt hắn.

Hắn bước những bước nặng trĩu.

Trước mắt là trống rỗng.

Là những trại tù mới.

Phải mất hơn ba năm, anh em trong toán mới hiểu mình. Mình mới quen với anh em, với công việc.

Phải mất hơn ba năm mới tìm được những người như Giang, như già Đô. Những người cùng khổ thương nhau, sưởi ấm cho nhau. Thay cho bố mẹ, vợ con, gia đình. Lại phải ra đi. Hắn lại thấy hoàn toàn cô đơn. Lại thấy như thời gian mới bị bắt vào xà lim 76.

Hắn theo ông quản giáo đi qua cổng gác. Qua chỗ ngoẹo suối. Qua chỗ vẫn buộc trâu ăn Tết. Qua nhà bếp. Tới cái xe com-măng-ca Rumani đít vuông đậu ở bên kia cầu bắc qua suối, lối đi vào trại, nơi bọn hắn vẫn xuống tắm. Hai người công an áo vàng đã đứng chờ sẵn. Một người lái xe. Một người ngồi sau với hắn. Hắn rúc chân vào đống nội vụ lỉnh kỉnh của hắn cho đỡ rét. Hắn im lặng. Không dám hỏi mình đi đâu. Để làm gì. Vì sao lại phải đi. Bởi vì hắn biết hắn không được hỏi. Không được phép hỏi. Hắn như một thứ đồ vật người ta mang đi đâu thì đi đấy. Thế thôi.

Xe nổ máy, lao đi, để lại một làn bụi đỏ mù mịt. Vĩnh biệt rừng, vĩnh biệt lòng chảo Q.N khủng khiếp nhưng đã thành thân thiết này.

Xe đi. Rừng núi chung quanh. Lòng hắn rối bời. Rối bời và hy vọng. Hy vọng đến mức không dám nghĩ đến nữa. Trong tù hắn đã luyện được thói quen giết chết hy vọng. Hãy biết cái thực tại đang xảy ra. Thực tại xe đang chạy. Thân tù đi đâu chẳng là một thằng tù, chẳng nằm trong quân số Cục lao cải. Bỗng người công an ngồi cạnh hắn kêu lên:

– Đến rồi đấy!

Hắn giật thót. Người ta đưa hắn xuống đây hay sao?

Xe dừng lại. Người lái xe nhảy xuống, biến mất.

Hắn ngồi im lặng. Người ngồi cạnh hắn giở thuốc lá ra hút. Hắn liếc nhanh: Tam Thanh bao bạc. Người ấy hỏi hắn: “Hút không?” Hắn lễ phép: “Báo cáo ông, có.” Hắn châm thuốc bằng bật lửa của hắn. Hắn hút và im lặng. Hút chưa hết điếu thuốc lá, người lái xe đã về. Hắn không tin ở mắt mình nữa. Những cành đào. Những cành đào to mập. Không có lá, chỉ những búp non xanh hơi nứt. Và những cánh hoa đào phơn phớt hồng. Những nụ đào âng ấng dọc các cành non. Hai người cho đào vào thùng xe, nghĩa là ngay trước mặt hắn. Họ lấy dây buộc để khỏi giập nát. Họ bàn nhau về cành đào thứ ba dành cho ông Trần nào đấy.

Hắn chưa thể quen ngay được với thứ hoa tạo nên niềm kiêu hãnh trong ngày Tết ở ngoài đời. Nhưng rồi chính hắn nhớ ra: Nhà hắn cũng có một cây đào trồng ngay ở đầu hồi, trên nền nhà cũ, cái nhà hắn sống suốt tuổi ấu thơ mà Tây đã đốt ngay từ cuối năm 1946. Bố hắn bảo: “Thất trảm thành đào”. Bảy lần chém, bảy lần mọc mới thành cây đào thực sự. Hắn nhớ đến bàn thờ nhà hắn. Mâm ngũ quả nhà hắn đẹp như mâm ngũ quả ngoài đình. Giao thừa, hắn bưng mâm ra đặt trên một cái ghế đẩu giữa sân. Hắn im lặng nhìn bố thắp hương khấn trời đất. Lúc đó thật thiêng liêng. Hắn nghe được cả tiếng nói cây cỏ…

Xe chạy. Những cành đào đập đập vào ngực áo bông của hắn. Cái áo bông Trung Quốc to sù có một hàng chữ số CR 880 ở ngực, một hàng chữ số CR 880 ở lưng. Những nụ đào cứ dụi dụi vào hàng số tù ấy. Thì ra người ta đã bàn nhau từ trước về chuyến đi này. Kết hợp giải hắn và mua đào sắm Tết. Hắn hiểu được rằng người ta đang chuẩn bị mọi thứ cho Tết, cho ngày vui, ngày đầu năm, ngày đoàn tụ. Ngoài đời đang bận bịu tất bật, lo lắng và sung sướng. Chợ hoa, chợ Tết, mua sắm, may mặc, màu sắc, hàng hóa…

Hắn ngắm những nụ đào, những bông đào nở sớm. Đẹp. Mỏng manh. Vô tình. Hắn nhớ đến một câu văn cũ hắn rất thích: “Xuân năm nay tươi và còn tươi mãi mãi mà ta đã chết dần dần”(1). Không. Hắn không chết dần dần. Hắn đã chết rồi. Hắn đã bị tước đoạt cuộc sống rồi. Hắn nghĩ đến anh em trong trại. Mù mịt. Heo hút. Thăm thẳm. Và đàn trâu già vừa bị giết. Đó là tất cả thế giới, tất cả mong ước của những người tù để đón Xuân.

Xe lại dừng một lần nữa. Anh lái xe nhảy xuống. Hẳn điểm dừng này cũng đã được định trước. Anh ta bê từ dưới suối lên một hòn đá cuội bằng quả mít nhỏ. Rồi lại xuống bê thêm hòn nữa. Thở hổn hển, nhưng hài lòng.

– Đá thế này chứ. Nén bằng đá xanh có mà thối hết hành với dưa.

Cả chuyện ấy nữa. Cải nén, hành nén. Năm nào vợ hắn cũng mua ít hành nén với dưa. Nén cả mía cho vàng và ngọt. Thật cầu kỳ. Người ta sung sướng với những lo lắng. Càng tỉ mỉ nỉềm vui càng trọn vẹn. Tất cả cho giờ phút giao thừa. Tất cả cho ba ngày Tết. Thế giới ấy gần gụi với hắn. Hắn đã trải qua. Hắn đã tất bật. Hắn đã lo lắng. Hắn đã sung sướng. Hắn hiểu được niềm vui của những người công an đang áp tải hắn. Những người chồng đảm đang chiều nay sẽ đem về cho vợ con cả một sự ngạc nhiên và hạnh phúc.

Sắp Tết rồi.

Hắn cố nuốt một tiếng thở dài, giữ cho mình một bộ mặt dửng dưng.

Triết lý Tư duy – Hành động trong “Hiện tượng con Người” của Teilhard de Chardin [1]

 Phạm Toàn

                  

Hiện tượng con ngườiTrước mặt tôi là hai lời giới thiệu tổng quát về công trình Hiện tượng Con Người của Pierre Teilhard de Chardin – một là của dịch giả Đặng Xuân Thảo, trong bản tiếng Việt đầu tiên tác phẩm này, và một là của Julian Huxley trong Lời giới thiệu tác phẩm de Chardin sang tiếng Anh.

Đây là lời giới thiệu của Đặng Xuân Thảo:

Cuốn sách trình bày một quan điểm độc đáo về vũ trụ. Quan điểm này mở rộng thuyết tiến hóa đến lĩnh vực tinh thần và được coi là bước tiến quan trọng trong sự hòa giải giữa khoa học hiện đại và tôn giáo.

Nghiên cứu trong cuốn sách khởi đầu từ một nghịch lý con người, biểu lộ qua việc khoảng cách hình thái học giữa con người và khỉ giống người là không đáng kể, trong khi đó con người lại khác những động vật đó biết bao. Để giải thích nghịch lý này, tác giả lần theo qui trình tiến hóa trong quá khứ, cho đến tận những cội nguồn của sự sống trên trái đất. Bằng cách nhìn ra những đường nét chủ đạo của qui trình đó (đôi khi bị che phủ bởi những vẻ bề ngoài đối nghịch), tác giả chỉ ra các điều kiện chung mà sự sống trong quá khứ phải thỏa mãn để có được diện mạo như ngày hôm nay. Rồi từ đó, tác giả rút ra qui luật về độ phức hợp và ý thức.

Cũng chính từ cách nhìn này, tác giả nhận ra sự cần thiết của việc đưa vào qui trình đó một biến số mới nhằm diễn giải hợp lẽ hiện tượng con người. Biến số đó là mặt nội tại của sự vật, hay chính là tâm thần, được giả định hiện hữu dưới một dạng sơ đẳng ngay từ cấp độ tế bào. Theo những nấc thang tiến hóa, cấp độ tâm thần ngày càng tăng lên và bắt đầu từ con người tác động của nó trở nên nổi trội sau khi đã trở thành ý thức có phản tư[2].

Còn đây là lời giới thiệu bản dịch Hiện tượng con người sang tiếng Anh của Julian Huxley:

Trong tác phẩm Hiện Tượng Con Người, Teilhard de Chardin đã phân tích và đưa ra được một bảng tổng hợp với ba tầng bậc, giữa thế giới vật chất và vật lý với thế giới tư duy và tinh thần; giữa quá khứ và tương lai; giữa tính đa dạng và đa số với sự thống nhất và cái đơn nhất. Ông dùng phương pháp khảo sát từng sự kiện và từng đề tài trong kiểu tiến hóa riêng của chúng trong mối tương quan với quá trình phát triển của chúng trong thời gian và trong vị trí chúng đang tiến hóa. Vì vậy mà ông có thể quan niệm cái toàn thể như một thực tại nhận thức được không như một cơ chế tĩnh tại mà như một quá trình. Hệ quả là, ông đã có thể bước sang tìm kiếm ý nghĩa của Con Người trong tương quan với các di sản của quá trình kéo dài bao quát ấy; tầm vóc ấy với lập trường ấy của ông khiến ông đạt tới thành tựu quá lớn lao trong nghiên cứu.[3]

Nghịch lý của nghịch lý

Tác phẩm của de Chardin nói đến ở đây là một cuốn luận văn viết lúc tài năng đã hoàn toàn chín[4] nghiên cứu về hiện tượng TIẾN HÓA CỦA CON NGƯỜI, riêng chủ đề ấy do một nhà thần học viết ra cũng đủ để thấy tính nghịch lý của nó.

Ta biết rằng, trong Kinh Thánh, chương Sáng Thế đã ghi: “Thiên Chúa phán: chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta… Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (ST 1, 26 – 27).  Kinh Thánh còn cho thấy: “Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật…” (ST 2, 7). Ở một chỗ khác, Kinh Thánh còn nói: “Này Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người giống như Thiên Chúa. Chúa sáng tạo con người có nam có nữ, Chúa ban phúc lành cho họ và đặt tên cho họ là “người” ngày họ được sáng tạo” (ST 5, 1 – 2).

Ấy thế nhưng vì duyên cớ gì de Chardin lại chuyển sang nghiên cứu sự ra đời và sự tiến hóa của con người nhưng lại không đi theo giáo điều cả ngàn năm đó?

Sẽ có thể có những lý giải nghịch lý ấy bằng nguồn gốc ra đời – de Chardin là con của một gia đình mà mẹ ông là cháu của ông trẻ Francois-Marie Arouet, tức là nhà triết học kiêm nhà văn Voltaire. Chắc chắn, khi lớn lên, trong học hành, de Chardin phải suy nghĩ về cung cách đóng góp cho Đời bằng những tiểu thuyết luận đề của thế hệ Ánh sáng qua Zadig (hay là chuyện số phận) và qua Candide (hay là chuyện lạc quan) của Voltaire, cũng như qua Émile (hay là chuyện giáo dục) của Jean-Jacques Rousseau. Chắc chắn de Chardin phải nghĩ về một con đường khác với lối hoạt kê hoặc lối ẩn dụ như ở những người đi trước để có thể có đóng góp cho Đời tích cực hơn, hiệu quả hơn.

Cũng có những lý giải gán cho việc de Chardin tham gia Dòng tu mang chính tên Jesus.  Cũng có thể như vậy lắm đối với dòng tu nhiều danh tiếng và cũng nhiều tai tiếng ấy.  Rõ ràng là chúng ta chớ nên quên Alexandre de Rhodes cũng là tu sĩ Dòng Tên, đã lênh đênh tới phương Đông xa xôi, và de Rhodes chính là một trong những tác giả bộ chữ quốc ngữ người Việt Nam đang sở hữu. Cũng không nên bỏ qua tính thời đại trong quyết định của nhiều đấng bề trên của de Chardin đã cho phép nhà thần học này được tiếp tục nghiên cứu khoa học tự nhiên: không có sự cho phép đó, khó có thể có một de Chardin là nhà địa chất, là nhà cổ sinh vật học, là người đã tham gia khám phá vùng hang động karste ở Chu Khẩu Điếm để loài người biết rõ thêm một di chỉ người vượn Bắc Kinh.  

Tác phẩm Hiện tượng con người của Teilhard de Chardin có bố cục như sau:

– Lời dẫn nhập, như một lời thưa về phương pháp nghiên cứu; sau đó là những ý lớn sau

Phần I : Sự Tiền Sinh, (bản tiếng Anh dịch thoát nghĩa là Before Life Came), nội dung là “cuộc sống” trước khi có sự sống, trong đó khảo sát (1) Chất liệu kết cấu của vũ trụ, (2) Cái nội tại của sự vật, (3) Trái đất non trẻ với cái ngoại tai và cái nội tại của nó.

Phần II: Sự Sống, có nội dung là (1) sự xuất hiện sự sống, (2) Sự lan rộng của sự sống, và (3) lời reo vui về “Đất Mẹ” với Nữ thần Canh nông Demeter làm biểu trưng, và ở cuối chuơng lại một sự reo vui nữa về tin mừng xuất hiện Tư Duy.

Phần III: Tư Duy, gồm (1) Sự ra đờì của tư duy, (2) Sự triển khai của Tuệ quyển, và (3) Trái đất hiện đại, sự thay đổi thời đại.

Phần IV: Sự Sống Siêu Việt (bản tiếng Anh dịch là Survival) với nhiều chương hơn đụng chạm tới Lối thoát tập thể, tới Cá nhân, tới Tôn giáo, cùng một lời kết về Bản chất của hiện tượng con người.

Nội dung cuốn sách thật quy mô, đồ sộ – giọng văn lại cực kỳ nhã nhặn mà thuyết phục. Do sức của người giới thiệu có hạn, chúng tôi cố gắng giới thiệu chắt lọc cuốn sách và giới hạn trong ba điều – là những ấn tượng của một bạn đọc tuổi cao nhưng trí lực thì thấp – mong sao với ba ấn tượng này đó có thể là vừa đủ để hiểu và yêu cuốn sách (qua đó phần nào hiểu và yêu tác giả).

Ba điều mang tính ấn tượng đó nằm trong:

(1) Hành trình một cuộc đời và những yếu tố chi phối phương pháp nghiên cứu con người của tác giả Teilhard de Chardin;

(2) Biến số Tư duy-Người trong khám phá căn bản của tác giả với khái niệm Tuệ quyển của Trái đất này;

(3) Khái niệm Siêu việt-Người như một nhắn gửi Loài Người đương đại của công trình và của tác giả.

Hành trình đến Hiện tượng Người

Ngay từ phần Dẫn luận, tuy không nói trắng ra, nhưng de Chardin đã khiến cho bạn đọc cảm nhận thấy xưa nay việc nghiên cứu Con Người diễn ra chỉ như xem xét một đối tượng bất kỳ, không thấy đó chính là mình đang nhìn mình, mình đang cảm nhận chính mình. Trong một chừng mức nào đó, công trình Nguồn gốc các loài chẳng hạn hình như vẫn mới chỉ nhìn thấy con người tiến hóa theo cung cách chẳng khác gì muôn loài: tiến hóa bằng thích nghi và tiến hóa bằng cạnh tranh sinh tồn. Thế nên, cái luận điểm được công bố năm 1859 trong cuốn sách của Charles Darwin về “sự sống sót của kẻ thích nghi nhất” (the survival of the fittest) đã được diễn giải sai trong những hệ thống phân biệt chủng tộc, phân biệt đẳng cấp thành “kẻ mạnh nhất là kẻ sống sót”[5].

Ta nên biết rằng, đầu thế kỷ trước, de Chardin đã từng trải qua một quá trình ba năm dạy học và tham gia khai quật địa chất ở Ai Cập (tại đây ông đã tận mắt thấy và sở hữu một hóa thạch răng cá mập), sau đó lại có bốn năm học thần học thêm tại Sussex, người đã đạt được khả năng thực thụ về địa chất và cổ sinh vật học. Một chi tiết khác cũng đáng chú ý: trước khi được truyền chức linh mục vào năm 1912, de Chardin được đọc cuốn sách bị Nhà Thờ cấm, cuốn Évolution Créatrice (“Tiến Hóa Sáng Tạo”) của Henri Bergson, hiển nhiên de Chardin phải chịu ảnh hưởng và sẽ càng dấn thân sâu vào các hoạt động thực hiện theo lý thuyết tiến hóa mà riêng mình đang ấp ủ.

Khoảng từ năm 1919, sau những khổ ải cùng những trầm tư của anh lính cáng thương ngoài mặt trận, sau những đối thoại âm thầm với quá khứ dài dặc của loài người, Teilhard de Chardin lấy bằng tiến sĩ ở đại học Sorbonne năm 1922. Đến năm sau, 1923, việc qua Trung Hoa trong một năm đã như một định mệnh mở đường cho chuyến đi Trung Hoa lần sau – sự tiếp xúc với lối tư duy Khổng học sẽ càng kích thích de Chardin dấn thân vào những suy nghĩ triết học về con người, chắc chắn sẽ phải mang tính tích cực thực sự, dân chủ thực sự, hòa đồng thực sự. Thế rồi, cú đánh nặng nề vào de Chardin có lẽ là sự kiện xảy ra năm 1950 khi đơn xin phép xuất bản cuốn Le Groupe Zoologique Humain  (“Nhóm động vật người”) của ông bị Roma từ chối, cấm in. Mà cuốn sách đó lại như là một kiểu “đề cương chi tiết” cho công trình Hiện tượng con người sau này!

Chính vì thế mà những năm qua Hoa Kỳ sẽ là những năm hết sức phong phú đối với hoạt động của nhà triết học hiện đại ấy. Năm 1948, de Chardin được mời sang Hoa Kỳ lần đầu. De Chardin được tạo điều kiện đi thăm nhiều nơi trên thế giới mà quan trọng hơn cả có lẽ là cơ hội để được đến Châu Phi, đến tận nơi khai quật “người vượn Nam phương” Australopithecus. Năm 1951, de Chardin trở lại Hoa Kỳ và lần này thì ở lại hẳn và có trụ sở tại New York. Công trình lớn của đời de Chardin, Hiện tượng con người vẫn chưa được phép của Nhà thờ cho xuất bản. Nhưng theo luật, thì sau khi tác giả chết đi, bản thảo có thể được người khác đứng ra xuất bản. Và vì thế mà bây giờ ta có Hiện tượng con người và toàn bộ công trình khoa học triệt để của một ông thầy tu vĩ đại.

Hành trình cả đời người đã tạo ra và hun đúc phương pháp tổng quát của Teilhard de Chardin để thực sự đến được hiện tượng con người là nghiên cứu sự tiến hóa của đối tượng đó trong sự tiến hóa chung. Con người không thể như trong quá khứ, chỉ biết “tự đóng kịch cho mình xem”, không thể chỉ nhìn vào bản thân, và trong cái toàn cục đó, Con Người sẽ không thể nhìn thấy mình trọn vẹn khi ở bên ngoài Nhân Loại; cũng như Nhân Loại sẽ không thể nhìn thấy mình trọn vẹn khi ở bên ngoài Sự Sống, cũng như Sự Sống sẽ không thể nhìn thấy mình trọn vẹn khi ở bên ngoài Vũ Trụ.

Con người là tâm điểm của thế giới, con người phải nhận sứ mạng đó, và phải tự thấy rõ, Con Người không phải là tâm điểm tĩnh của Thế Giới, như từ lâu họ vẫn nghĩ vậy; mà Con Người là trục và hướng của Sự Tiến Hóa, và chẳng phải điều này lại càng đẹp hơn rất nhiều đó sao.

Trong con mắt và cách làm việc của con người thực chứng, de Chardin vận dụng những thành tựu của nhiều ngành khoa học để lùi xa nhất theo trục thời gian, để nhìnlàm cho nhìn thấy Con Người trong thế tiến hóa. Được giúp sức bởi các môn Vật lý học và Sinh vật học trên đường hiện đại hóa, Teilhard de Chardin đã nhận rõ sự thống nhất trong đa dạng của sự vật, nhận rõ tổ chức sinh thành ngày càng tỉ mỉ trong quá trình sáng tạo vũ trụ, như đã bộc lộ trong các đơn vị tiền nguyên tử chuyển sang nguyên tử, từ nguyên tử đến vô cơ, và về sau đến mô hữu cơ, rồi từ đó đến các đơn vị sống tiền tế bào đầu tiên hay những tập hợp mô, và rồi tới các tế bào, tới các cá thể đa bào, đến các thể có đầu óc, đến con người nguyên sơ, và rồi đến các xã hội văn mình.

Teilhard de Chardin nhận thấy tính đồng qui mang bản chất người được biểu thị trên cấp độ di truyền và sinh học: sau khi Homo Sapiens bắt đầu phân hóa thành các chủng tộc riêng biệt (hay các tiểu loại) việc di dân và hỗn chủng (inter-mariage) dẫn đến hiện tượng ngày càng nuôi dưỡng nhau giữa tất cả các loại người khác nhau. Kết quả, con người là loại thành công độc nhất trong việc duy trì mình như là một nhóm hay chủng loại tương dưỡng duy nhất, và đã không đi xa ra ngoài thành nhiều tập hợp tách biệt về mặt sinh học (giống như loài chim, với khoảng 8.500 loại, hay các côn trùng với hơn một nửa triệu).

Nhưng, sự tiến hóa như thế vẫn mới chủ yếu cho thấy vẻ bên ngoài của vấn đề. Teilhard de Chardin cón nhấn mạnh thêm vào mặt nội tại của sự vật – và đây là đóng góp lớn khác nữa của de Chardin, đó là việc đưa tư duy người vào sự tiến hóa như một biến số hoàn toàn mới của sự triển diễn.

Biến số Tư duy-Người

Trước hết là những biểu hiện bề ngoài đầy ấn tượng. Teilhard de Chardin viết:

Điều gì đã xảy ra giữa các địa tầng cuối cùng của Thế Thượng Tân (khi Con Người vắng mặt) và tầng tiếp theo nơi các nhà địa chất phải sững sờ nhận ra những khối thạch anh được đẽo gọt đầu tiên? Và độ lớn đích thực của sự đột biến này là như thế nào?

Và ở một đoạn khác, chính de Chardin đã trả lời – câu trả lời mới đầu còn trầm tĩnh, cuối cùng kết thúc như một tiếng reo vui, Tư duy đã ra đời:

Trong khi tâm thần của Loài Ngựa, Loài Hươu, Loài Hổ phát triển lên, cũng như Côn Trùng, chúng trở thành tù nhân của những phương tiện để chạy và để săn mồi mà các chi của chúng đã có được. Ngược lại, ở Bộ Linh Trưởng, sự tiến hóa, không đáng kể và vì thế vẫn để các phần còn lại mềm dẻo, đã hoạt động ngay ở trong bộ não. Và đó là lý do chính cho việc chúng dẫn đầu trong sự đi lên, hướng đến ý thức cao nhất. Trong trường hợp có ưu thế và đơn biệt này, sự trực sinh cụ thể của dòng trùng hợp đích xác với Sự Trực Sinh chủ đạo của chính Sự Sống: theo một câu nói của Orborn, mà tôi mượn và thay đổi nghĩa, sự trực sinh này là “phát sinh quí tộc”, và vì thế mà không bị giới hạn.

Từ đó ta có được kết luận đầu tiên rằng, nếu, trên Cây Sự Sống, Động Vật Lớp Thú tạo nên một Ngành chủ đạo, cái Ngành chủ đạo; và Bộ Linh Trưởng, tức là sinh vật dùng não và tay là mũi tên chỉ hướng của Ngành này, và các loài Khỉ Giống Người là cái mầm kết thúc cái mũi tên đó.

Và từ đó, chúng ta hãy bổ sung rằng, ta có thể dễ dàng xác định ra chỗ đôi mắt chúng ta phải dừng lại trên Sinh Quyển, trong khi chờ đợi điều phải đến. Chúng ta đã biết rằng, ở khắp nơi, tại đỉnh những tuyến dòng đang hoạt động, chúng tự nóng lên bởi ý thức. Nhưng trong một vùng được xác định rõ, ở giữa Lớp Thú, nơi hình thành những bộ não có hiệu lực nhất mà Tự Nhiên từng tạo nên, những tuyến này bừng đỏ. Và thậm chí ở ngay giữa vùng này, một điểm nóng sáng rạng tỏa.

Chúng ta hãy đừng rời mắt khỏi cái đường nhuốm đỏ ánh rạng đông này.

Sau hàng nghìn năm nó vươn lên ở bên dưới tầm nhìn của chúng ta, rồi một ngọn lửa sẽ bùng lên, tại một điểm khu trú tuyệt đối.

Tư Duy đã ra đời!

Tư duy đã ra đời. Cái biến số này góp phần ra sao vào cuộc tiến hóa của Người?  Có phải tư duy là đặc quyền chỉ riêng Người mới có?

Tiến hóa, như là một sự phát triển “tự nhiên” của Tự nhiên, đã diễn ra với mọi loài. Có một sự tiến hóa ngoại tại mà tiêu biểu là sự thay đổi có tính “cơ bắp”. và cũng có một sự tiến hóa về tâm trí. Ngay bây giờ, người ta vẫn còn như đã từng nghiên cứu và bao nhiêu mực đã đổ ra để có những cuốn sách về “Trí khôn loài vật” đó sao?[6] Vậy cái biến số Tư duy có thể áp dụng cho mọi loài có não. Song, cái ngưỡng tạo ra sự phân biệt Con Người với mọi động vật có xướng sống, nhất là với động vật thuộc bộ Linh trưởng là một yếu tố hoàn toàn mới của Tư duy: Teilhard de Chardin đưa ra khái niệm Tư duy Phản tư. Đó là sự nhận thức về bản thân, và đó là sự biết rằng mình biết.   

Trên quan điểm thực nghiệm (cũng chính là quan điểm của cuốn sách này), Sự Phản Tư, như đúng từ đó chỉ ra, là khả năng đạt được nhờ một ý thức tự quay ngược về bản thân, để chiếm hữu chính mình như một đối tượng, đối tượng này được phú cho độ vững chắc và giá trị đặc biệt sau đây: không chỉ là nhận thức, — mà tự nhận thức về bản thân; không chỉ là biết, mà biết rằng mình biết. Bằng sự cá thể hóa bản thân ở sâu thẳm trong bản thân mình này, phần tử sống (mà trước đó lan rộng và phân chia trên một phạm vi khuyếch tán của các tri giác và các hoạt động) lần đầu tiên tạo nên một tâm điểm nơi mọi biểu diễn và kinh nghiệm thắt nút lại và tự làm kiên cố thành một tập hợp có ý thức về sự tổ chức của mình.

Rồi bản thân sự phản tư cũng tiến hóa tới ngưỡng của nó. Sự tiến hóa đó diễn ra trên ba cấp độ. Ở cấp độ phần tử, nó đánh dấu sự tiến hóa thành Người của cá thể người. Ở cấp độ dòng, nó đánh dấu sự tiến hóa thành Người của loài. Và sau hết, ở một cấp độ thứ ba, cấp độ toàn hành tinh, nó đánh dấu sự ra đời của Tuệ quyển (noosphère). 

Khái niệm Tuệ quyển được hiểu như thế nào? Trong sinh quyển của Trái đất, Tuệ quyển là một tầng mới hay một lớp mới trên mặt trái đất, một tầng tư duy đặt trên tầng sống của sinh quyển và tầng vật liệu vô cơ vô sinh, tầng thạch quyển (lithosphère). Trong cách diễn giải lần đầu tiên năm 1925, trong tác phẩm La Vision du Passé (“Cái Nhìn về Quá khứ”), Teilhard de Chardin gọi đó là “quyển” của tư duy,  quyển của phát minh sáng tạo có ý thức, quyển của sự thống nhất về tâm hồn có cảm nhận đầy đủ (“une sphère de la réflexion, de l’invention consciente, de l’union sentie des âmes”)[7].

Đối với Teilhard de Chardin, noosphere – tuệ quyển, là thuật ngữ diễn tả tốt nhất một thứ “nhận thức tập thể” của các cá thể người. Tuệ quyển nảy sinh từ các tinh thần con người tương tác giao thoa nhau. Tuệ quyển đã phát triển lên từng bước tương ứng với quá trình quần thể nhân loại quan hệ với nhau, khi loài người sinh sôi nảy nở đầy trái đất. Khi loài người tự tổ chức thành các hệ thống xã hội phức tạp hơn, thì tuệ quyển sẽ phát triển cao hơn trong nhận thức. Đó là quá trình bành trướng. Pierre Teihard de Chardin còn cho rằng tuệ quyển đang phát triển hướng tới hội nhập, đồng qui và thống nhất lớn lao, lên đến đỉnh tột cùng là Điểm Omega, mà theo nhãn quan của ông, đó là cứu cánh của lịch sử.   

Viễn cảnh Siêu việt – Người

Tư tưởng về Tuệ quyển dẫn chúng ta một cách tự nhiên sang ấn tượng của tác phẩm Hiện tượng Con Người, đó là viễn cảnh Người sau khi đã nhìn được con đường tiến hóa của mình. Phần sách thứ ba của Teilhard de Chardin có tên Survie vừa dễ hiểu vừa khó dịch; cái nghĩa đen bóng bẩy của nó là như sau: ta đã biết trước khi có sự sống thì Vũ trụ này “sống” ra sao, rồi khi có sự sống thì Vũ trụ này sống như thế nào, và sau hết, khi ta đã biết con người là một sự sống trong Tuệ quyển, khi ấy con người sẽ phải chọn lối sống như thế nào để sự sống đích thực Người được tiếp tục phát triển mà không biến mất chất Người. Tôi đoán rằng dịch giả Đặng Xuân Thảo chọn Sự Sống Siêu Việt là có ý đó.

De Chardin có câu nói tổng hợp rất có ý nghĩa: “Mọi điều thăng hoa cao đẹp đều hội tụ nhau[8] (“Tout ce qui monte, se converge”). Ngày nay con người có xu hướng đối thoại, toàn cầu hóa, hòa giải, hơn là đối đầu và xé lẻ vị kỷ. Vào tháng 6 năm 1995, Jennifer Cobb Kreisberg viết trên tạp chí Wired rằng “Teilhard nhìn thấy hệ thống Mạng trước khi nó xuất hiện đến hơn nửa thế kỷ“….  “Teilhard mường tượng ra một giai đoạn tiến hóa đặc trưng bởi một lớp màng thông tin phức tạp bao phủ toàn cầu và được tiếp liệu bởi nhận thức của con người. Nó nghe có vẻ điên rồ cho đến khi bạn nghĩ tới hệ thống Mạng, cái hệ thống mạng điện tử khổng lồ bao quanh trái đất, chạy từ điểm này sang điểm kia thông qua một tập hợp những sợi dây điện nối với nhau như hệ thống thần kinh”[9].

Ấy thế mà, tự ban đầu, Teilhard de Chardin cũng chỉ khởi động công trình với giả thuyết có tính tư tưởng rằng

Ý nghĩa ưu việt của Con Người trong Tự Nhiên và bản chất hữu cơ của Nhân Loại hai giả thuyết này có thể bị bác bỏ ngay tại điểm khởi đầu; nhưng nếu thiếu hai giả thuyết này, tôi không nhìn ra cách nào khác để có thể đưa ra một sự hình dung mạch lạc và toàn diện của Hiện Tượng Con Người.   

Có thể hình dung thấy ảnh hưởng quan trọng của Hiện Tượng Con Người đối với tư duy của mọi con người trong thế giới hiện đại. Teilhard de Chardin phối hợp kiến thức khoa học uyên bác với cảm thức tôn giáo thâm sâu để cảm nhận về các giá trị nghiêm túc.

Teilhard de Chardin buộc các nhà thần học phải xem xét tư tưởng của họ trong viễn tượng tiến hóa mới của con người, và các nhà khoa học thì cũng phải xem xét lại các hệ lụy trí thức của họ. Teilhard de Chardin vừa soi sáng vừa giúp thống nhất cách nhìn thực tại của chúng ta, không thể mãi mãi chủ trương rằng khoa học và tôn giáo phải và chỉ có thể hoạt động trong những ngăn chật ních tư tưởng lắm khi đố kỵ. Những người có tinh thần tôn giáo không thể quay lưng với thế giới tự nhiên, và những người có tinh thần duy vật không thể từ chối tầm quan trọng của kinh nghiệm thiêng liêng và cảm thức tôn giáo.

Hà Nội, 17 tháng 6 năm 2014

Tác giả gửi Văn Việt.



[1] Giới thiệu sách “Hiện tượng con người” của Teilhard de Chardin, bản dịch tiếng Việt của Đặng Xuân Thảo, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, Tri thức xuất bản, 2014, Hà Nội, 564 trang. Bài thuyết trình chiều ngày 20-6-14 tại L’Espace, Hà Nội.

[2] Trong Lời người dịch. Những chỗ in nghiêng nếu không có chú thích khác đều lấy từ bản dịch tiếng Việt của “Hiện tượng con người”.

[3] “ … tôi phát hiện khi lần đầu tôi gặp cha Teilhard de Chardin tại Paris năm 1946, cha và tôi cùng đi tìm kiếm, và đã đang theo đuổi những con đường song hành từ khi chúng tôi là những thanh niên tuổi hai mươi.”  “Tôi có đặc ân làm bạn và người trao đổi thư tín với cha Teilhard de Chardin trong gần mười năm, và bây giờ tôi được đặc ân giới thiệu cuốn sách này, công trình đáng chú ý nhất, cho các độc giả nói tiếng Anh”. Rút từ bản sửa chữa lần cuối ngày 20 tháng Ba năm 2007, theo đường dẫn sau: http://arthurwendover.com/arthur/science/phenom10.html

[4] Ngoài bản thuyết trình về lý thuyết tiến hóa theo quan điểm của Teilhard de Chardin “Hiện tượng con người” – Le Phénomène Humain, in năm 1955, viết trong những năm từ 1938 đến 1940, còn có một số tác phẩm chính liên quan đến đề tài đang bàn:

  • Le Groupe Zoologique Humain (1956), “Nhóm động vật người”, viết năm 1949, chi tiết hóa hơn nữa các luận điểm của Teilhard de Chardin.
  • Le Milieu Divin (1957), “Môi trường thiêng liêng”, viết từ 1926 đến 1927, hướng đến cuộc sống có tín ngưỡng của người thế tục.
  • L’Avenir de l’Homme (1959) “Tương lai con người”, các tiểu luận viết từ 1920 đến 1952 về sự tiến hóa của ý thức người (Tuệ quyển – Noosphère).
  • L’Energie Humaine (1962), “Năng lượng người”, các tiểu luận viết từ 1931 đến 1939, về đạo lý và tình yêu.
  • L’Activation de l’Energie (1963), “Sự kích hoạt năng lượng”, đoạn tiếp của “Năng lượng người”, các tiểu luận viết từ 1939 dến 1955 nhưng không định công bố, bàn về tính phổ quát và tính không thể đảo ngược của hành động người.

[5] Tên đầy đủ của tác phẩm là: On the Origin of Species by Means of Natural Selection, or the Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life  (“Về vấn đề Nguồn gốc các Loài nhờ Chọn lọc tự nhiên hoặc sự Bảo tồn các Loài ưu đẳng trong Cạnh tranh sinh tồn”) được công bố năm 1859 của Charles Darwin.

[6] Còn nhớ, trong thời Pháp thuộc có bộ Sách Hồng (phỏng theo Livres Roses), số nào của tháng nào cũng có mục gây tò mò chẳng hạn như về trí nhớ của chó của mèo. Một con chó đem mấy khúc xương đi giấu để gặm dần. Và nó nhớ được bao nhiêu khúc, quên bao nhiêu…

[7] Theo Julian Huxley, tài liệu đã dẫn

[8] Julian Huxley, tài liệu đã dẫn

Nhưng chẳng phải là giấc mơ

Truyện ngắn Nguyễn Thanh Hiện

 

bà lão ăn xong những chiếc rổ đan bằng nan tre thì xoay sang ăn những chiếc rổ bằng nhựa, tôi thấy lo lắng vô cùng, rổ bằng nan thì còn khả dĩ, đằng này, rổ bằng chất nhựa chế tạo từ công nghệ hiện đại, nếu răng cỏ bà lão còn đủ cũng chẳng thể ăn được, cũng sắp tối rồi, bà không lo cơm nước, ngồi ăn chi những thứ rổ rá, tôi nói như để đánh thức bà lão vì bấy giờ cứ nghĩ là bà ấy đang lầm lẫn chi đó, bà lão ngưng việc ăn những chiếc rổ nhựa, ra hiệu tôi im, từ phía cuối làng đang vọng lại những tiếng hoan hô và đả đảo, hoan hô cái cày gỗ của làng, đảo lũ toàn cầu hóa, thì ra dân làng tôi đang xuống đường phản đối cái gọi là toàn cầu hóa, thú thật, từ ngày mấy tiếng toàn cầu hóa thâm nhập vào làng tôi thì chẳng người làng nào biết nó chính xác là cái gì, chỉ thấy dấy lên một nỗi lo sợ chẳng thể lý giải, nỗi lo sợ vô cớ bỗng ập xuống ngôi làng nghèo khó, theo cách nghĩ của những kẻ đi chân đất ở làng tôi thì toàn cầu hóa có nghĩa là sắp tới chẳng có gì là thuộc về mình, mà thuộc về thế giới, hết thảy những gì con người làm ra được là thuộc về thế giới, và chiều hôm ấy là người làng tôi bắt đầu xuống đường để phản đối thứ tai họa ấy, một lũ vô tích sự, bà lão lầm bầm sau khi nghe thấy những tiếng hoan hô và đả đảo từ cuối làng vọng lại, mà cháu cũng nên về lo việc nhà của cháu đi thôi, bà lão nhìn tôi, nói, rồi tiếp tục ăn những chiếc rổ nhựa, lần này tôi hơi hoảng vì bà lão bỗng ngậm chiếc rổ, ngửa mặt lên trời, thở, chắc bà ấy chết mất, tôi nghĩ, nhưng loáng cái, chẳng còn thấy những chiếc rổ nhựa, cũng hơi khó nuốt một chút, bà lão nhìn tôi, nói, vẫn còn nguyên vẻ mặt cấp bách, thì ra tôi đã hiểu ra, những người làng khác chống toàn cầu hóa bằng xuống đường phản đối, còn bà lão láng giềng của tôi thì bắt đầu ăn những gì bà tạo dựng được, nhưng khi bà bắt đầu ăn những chiếc dao xắt thịt bằng sắt thì tôi mới thực sự lo sợ bà ấy chết, nhưng cuối cùng thì chẳng hề chi, chẳng nhìn thấy giọt máu nào chảy ra ở miệng bà lão sau khi bà ấy nuốt hết mấy con dao bằng sắt, nhưng khi thấy bà lão nằm dài xuống trước bếp nấu, bắt đầu gặm những ông táo kê bằng đá núi thì tôi phải lên tiếng can ngăn, bếp là để nấu ăn bà không nên hủy nó đi, tôi nói, bà lão ngưng gặm những hòn đá núi, giận dữ nhìn tôi, cháu đâu biết nó là của ông nhà tôi hồi còn sống đã mang tự trên núi về, thì ra, đây là thứ tài sản còn quí giá hơn những dao rổ, hình như là máu đã bắt đầu ứa ra từ môi miệng bà lão, tôi sợ, nhưng chẳng dám can ngăn, cũng chẳng còn đủ can đảm để tiếp tục đứng nhìn thứ sự việc chẳng bao giờ tôi nghĩ có thể xảy ra trên đời, tôi về nhà thắp đèn, nằm nghĩ mãi về cách chống nỗi lo sợ toàn cầu hóa của bà lão, nỗi lo sợ vô cớ đã ập xuống xóm làng tôi, những người làng xuống đường chắc đã về cả, chẳng còn nghe thấy tiếng hoan hô đả đảo, vào khoảng quá nửa đêm tôi nghe đánh rầm một cái tựa ai đó đã xô ngã ngôi nhà bà lão láng giềng, tôi lo lắm, song chẳng còn dám sang, vừa hừng đông, tôi hé cửa dòm thử, thì thấy quả nhiên nhà bà lão đã biến mất, tôi vội vã chạy sang, thì thấy bà lão đã chết tự hồi nào, bà ấy nằm chèo queo trên nền nhà trống trơn, miệng còn ngậm mỗi bàn tay của mình, nhờ mấy cọng tranh rạ còn dính nơi môi mép bà lão nên mới biết căn nhà của bà chẳng phải ai mang đi mà do bà ấy đã ăn vào bụng, tới lúc ấy tôi mới hiểu ra, sau khi ăn hết những gì mình đã tạo dựng được, bà lão vẫn thấy chưa yên tâm với cái gọi là toàn cầu hóa, đã quyết định ăn luôn thân xác bà, có điều, sau khi ăn ngôi nhà và những vật dụng trong nhà, bà không còn đủ sức thực hiện quyết định cuối cùng, nên chỉ vừa bắt đầu ăn bàn tay của mình thì bà đã chết, thú thật, tôi chẳng lo chuyện toàn cầu hóa tí nào, mà chỉ sợ người ta truy đuổi mình, vào những tháng năm ấy tôi luôn lo sợ người ta truy đuổi tôi, và mỗi lần nỗi sợ hãi ấy ập đến thì tôi lại nghĩ đến cách chống nỗi sợ hãi của bà lão, là phải tự ăn mình.

Tác giả gửi Văn Việt.

Tình hình lí luận văn học Việt Nam hiện nay (trả lời câu hỏi của tạp chí Văn hóa Nghệ An)

GS TS Trần Đình Sử

1. PV. Với tư cách một ngành khoa học, lý luận văn học của nước ta có từ bao giờ?

GS. TĐS. Lí luận văn học hiểu như các quan niệm, niềm tin về văn học thì chúng ta đã có từ thời Lí Trần, Lê, Nguyễn, thể hiện qua các bài phát biểu, các lời Tựa, Bạt viết cho các tuyển tập thơ văn. Quan niệm thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo từ rất lâu đã ăn sâu vào trong tâm thức của các nhà nho Việt Nam thời trung đại. Tuy nhiên, lí luận văn học hiểu như một ngành khoa học, nhân văn thì phải đến đầu thế kỉ XX chúng ta mới có. Đó là thời điểm viết các cuốn văn học sử đầu tiên, như Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi… Muốn viết chúng phải có lí thuyết về lịch sử văn học, tác gia, tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ… Lí luận văn học cũng xuất hiện trong các công trình phê bình văn học như Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, các công trình nghiên cứu của Trần Thanh Mại, Nguyễn Bách Khoa…

2. PV. Trình độ lý luận văn học hiện nay của chúng ta đang ở mức nào trong bức tranh chung của nền lý luận văn học thế giới?

GS. TĐS. Trải qua nhiều biến động của lịch sử trong thế kỉ XX, từ năm 1943 với bản Đề cương văn hóa còn rất thô sơ và đặc biệt là bài Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam của Trường Chinh, có thể nói đó là các bản tuyên ngôn chuyển hướng văn hóa theo hướng thuần Mác xít, lí luận văn học Việt Nam một phen thay đổi theo hướng độc tôn lí thuyết Mác xít trong bối cảnh chiến tranh lạnh từ sau thế chiến 2 và sau cách mạng tháng Tám. Lí luận văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Lí luận văn học Liên Xô cũ và lí luận văn học Trung Quốc thời trước Đại cách mạng văn hóa. Chỉ có từ thời “Đổi mới” năm 1986, đặc biệt là từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, mở ra thời đại hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hóa thì lí luận văn học Việt Nam mới tiếp xúc trở lại với toàn bộ lí luận văn học của toàn nhân loại. Cái gọi là lí luận văn học hiện nay chính là chỉ lí luận văn học của thời này. Có thể nói trong bầu không khí hội nhập cởi mở chúng ta đã nhanh chóng tiếp thu các lí luận tiến bộ mà trước đây còn bị coi là thù địch, tư sản, xét lại. Tuy còn nhiều bất cập, yếu kém và chậm trễ, nhưng xu thế chung của lí luận văn học Việt Nam hiện đang cố gắng để vươn tới đồng hành với lí luận văn học thế giới. Nhưng nhìn chung nền lí luận văn học của chúng ta vẫn là một lí thuyết nhỏ, yếu, đi sau, ít tính sáng tạo trong bản đồ lí luận văn học của thế giới.

3. PV. Trong mấy thập kỷ qua, kể từ khởi đầu “Đổi mới” đến nay, Việt Nam đã tiếp thu được những gì đáng gọi là tinh hoa lý luận văn học thế giới để làm giàu cho nền lý luận văn học của mình?

GS TĐS. Nếu hiểu tiếp thu có nghĩa là biến lí thuyết của người thành nhận thức, tri thức của mình, đem chúng vận dụng xử lí các hiện tượng văn học thì phải nói từ thời “Đổi mới” đến nay tri thức lí thuyết văn học của chúng ta đã có sự thay đổi to lớn. Bên cạnh sự khắc phục những quan niệm lí luận giản đơn, sơ lược ngự trị một thời, chúng ta đã tự làm giàu mình bằng các lí thuyết tiếp nhận văn học, kí hiệu học, thi pháp học, phân tâm học, tự sự học, cấu trúc và giải cấu trúc, thông diễn học, lí thuyết nữ quyền, hậu thực dân, phê bình sinh thái, lí thuyết diễn ngôn, văn học so sánh, lí thuyết dịch văn học… Chúng ta thường nói tiếp thu tinh hoa, nhưng cái gì là tinh hoa? Trước đây ta hiểu tinh hoa là những gì duy vật, duy tâm là cặn bã; nội dung là tinh hoa, hình thức là cặn bã, gần gũi với dân tộc là tinh hoa, xa lạ là cặn bã, vô sản là tinh hoa, tư sản là cặn bã. Nhưng các tiêu chí ấy ngày nay không còn thích dụng nữa. Trong thực tiễn, trong tồn tại của con người tâm vật không tách rời, nội dung hình thức không tách rời, dân tộc và thế giới không tách rời, vô sản tư sản không tách rời, không thể phân biệt tinh hoa và cặn bã một cách siêu hình. Những gì hữu ích cho cuộc sống, có tác dụng giải thoát con người khỏi những hạn hẹp, ngu dốt, bất luận từ đâu đều là tinh hoa. Những gì trói buộc con người, cầm tù tư duy, ngăn trở sự phát triển đều là cặn bã. Nếu hiểu như thế thì chúng ta đã tiếp nhận được không ít tinh hoa lí thuyết văn học của nhân loại.

4. PV. Đánh giá của Gs về kết quả, hiệu quả của quá trình tiếp nhận này đối với lý luận văn học và nền văn học của chúng ta trong thời gian vừa qua?

GSTĐS. Nếu hiểu kết quả, hiệu quả của tiếp thu lí thuyết văn học nước ngoài là những công trình lí thuyết có ảnh hưởng nào đó thì ở nước ta hiện chưa có nhiều, nhưng xét hiệu quả ở giải phóng tư tưởng, thay đổi tư duy thì điều đó là có thật. Từ thời “Đổi mới” đến nay tư duy về văn học trong đại chúng và nhà văn đã có sự đổi thay to lớn. Chúng ta không chỉ đánh giá lại đúng đắn hơn di sản văn học dân tộc qua các thời đại, mà cũng biết tiếp nhận các thành tựu văn học của nhân loại hiện đại, dù chúng có vẻ xa lạ như thế nào. Trong đào tạo đại học, sau đại học đã xuất hiện nhiều đề tài mới, tìm tòi những lĩnh vực mới. Tuy nhiên phải nhận thấy rằng mức độ thâm nhập vào lí luận mới của ta chưa sâu sắc, vẫn còn nhiều thử nghiệm, hời hợt, chưa có các công trình nguyên sáng được thế giới quan tâm.

5. PV. Theo ông, ở nước ta, lý luận văn học và sáng tác văn học có tác động tương hỗ tích cực hay không? Hay ngược lại? Các nhà văn có được “hưởng lợi” gì từ lý luận, và ngược lại, thực tế sáng tác có giúp soi tỏ được gì thêm cho lý luận?

GSTĐS. Trước đây chúng ta có thời áp đặt lí thuyết cho nhà văn để họ sáng tác theo lí thuyết ấy, cách làm ấy vừa không đúng với quan hệ giữa lí thuyết  và sáng tác, vừa gây phản tác dụng. Lí thuyết có tác dụng giúp nhà văn đổi mới ý thức văn học, mở ra những khả năng, những chân trời để họ tự tìm tòi trong lĩnh vực của họ. Lí thuyết cũng có tác dụng biện hộ cho các tìm tòi mới trong sáng tạo, giúp người đọc hiểu được nhà văn và như thế cũng là giúp cho nhà văn. Từ thời “Đổi mới” lí thuyết có tác dụng giải phóng cho nhà văn rất nhiều. Họ không còn bị trói buộc vào phương pháp sáng tác cũ, tiêu chí thẩm mĩ cũ, hệ đề tài cũ. Không nhà văn nào còn dễ dãi tự hi sinh cá tính sáng tạo của mình cho mục đích nào khác. Nhà văn được hưởng lợi từ lí thuyết trong một khoảng cách xa, như một bầu không khí mới, luồng gió mới. Tuy nhiên, phần nhiều nhà văn Việt Nam vẫn còn “ngại” lí thuyết, họ thích sáng tác theo “bản năng” hơn, họ thích tuân theo tiếng gọi của cái “tạng” của họ nhiều hơn, có lẽ vì thế mà sáng tác của chúng ta phần nhiều chỉ nhàng nhàng, ít hoặc chưa thấy đỉnh cao, như dư luận chung cho là thế. Có thể nhà văn ta chưa đánh giá đúng, đánh giá hết ý nghĩa của lí thuyết đối với sáng tác của họ. Về phần mình, lí thuyết không thể là “chay” thoát lí thực tiễn văn học của nước nhà. Thực tiễn văn học Việt Nam qua các thời là đối tượng thú vị cho vận dụng lí thuyết, kiểm nghiệm lí thuyết và đề xuất lí thuyết, đáng tiếc là các nghiên cứu như thế còn rất hiếm.

6. PV. Theo ông, lý luận văn học có phải “chịu trách nhiệm” trước thực trạng nền văn học còn thiếu những tác phẩm “tầm cỡ”, “chưa tương xứng với thời đại”?

GSTĐS. Nếu đem một lí thuyết nào đó áp đặt cho nhà văn, buộc họ sáng tác theo lí thuyết đó, kết quả là không hoặc chưa có đỉnh cao, thì đúng là lí thuyết ấy phải chịu trách nhiệm đối với thực tiễn sáng tác ấy. Nhưng đó cũng chỉ là một phần, nhà văn như là chủ thể sáng tạo phải chịu phần lớn trách nhiệm chứ. Tình hình thực tế văn học ta còn thiếu vắng tác phẩm “tầm cỡ”, “ngang tầm thời đại” là vấn đề đã được nêu ra từ lâu. Đó trước hết là vấn đề đánh giá. Theo một tiêu chí nào đó thì chưa có tác phẩm “tầm cỡ”, theo một tiêu chí khác thì có thể vẫn có đấy, nhưng chưa được một luồng dư luận công nhận. Văn học Việt Nam đang trải qua một cuộc đổi thay to lớn về hệ giá trị, về chân, thiện, mĩ. Nhưng chúng ta vẫn còn quá thiên vị đối với hệ giá trị tuyên truyền, mà đối với hệ ấy thì khó có tác phẩm được đánh giá cao, “xứng tầm thời đại”. Một hệ giá trị thống nhất cho toàn bộ nền văn học là khó có thể hình dung được. Có thể đó là lí do làm nảy sinh các loại giải thưởng văn học với các tiêu chí trao giải khác nhau. Về nguyên lí, các văn kiện chỉ đạo của Đảng đều khẳng định tự do sáng tác, tự do tim tòi, song điều kiện cụ thể lại có khi chưa tương xứng với nguyên lí, điều này cũng có thể gây khó khăn. Nhưng vấn đề then chốt là ở nhà văn. Nhà văn phải độc lập tìm tòi sáng tạo. Họ có thể học hỏi bút pháp của danh gia nước ngoài như nhà văn Mạc Ngôn học bút pháp của Marquez, để làm ra cái mới bằng chất liệu của dân tộc. Nhà văn tầm cỡ thường phải sáng tác để trả lời các câu hỏi lớn về số phận dân tộc và đất nước. Họ cần phải học không chỉ lí thuyết văn học mà còn phải học các loại triết học của nhân loại.

7. PV. Ông có thái độ như thế nào, lạc quan hay bi quan, về tình hình nghiên cứu và giảng dạy lý luận văn học hiện nay ở các Viện nghiên cứu và ở các trường đại học?

GSTĐS.Ở các trường đại học và các viện nghiên cứu hiện nay đang có một đội ngũ các nhà nghiên cứu trẻ, phần nhiều đều sinh sau năm 1975, phần còn lại sinh từ năm 60, những người sinh năm 50 đều sửa soạn về hưu. Thế hệ mới có ưu thế về ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, tiếng Pháp, về nguồn đào tạo đa dạng, lại sống vào thời đại toàn cầu hóa, phương tiện internet phát triển. Đó là thế hệ sẽ đóng góp tích cực cho nền lí luận văn học nước nhà hiện nay và tương lai. Tình hình cán bộ bộ môn lí luận văn học ở trường hay viện cũng như trong xã hội, có người giỏi, người yếu, người thích tiên tiến, người thích như cũ. Tình trạng tổ chức nhiều khi người kém chỉ huy người giỏi, người cũ chỉ huy người mới và thế là kìm hãm lẫn nhau, sự tiến bộ gặp khó khăn. Việc quản lí nghiên cứu khoa học theo lối hành chính, làm theo lối chữa cháy hoặc nghiên cứu nhằm lấy thành tích kỉ niệm một sự kiện trọng đại nào đấy khó hứa  hẹn những thành công mong đợi. Cho nên đối với tình hình nghiên cứu lí luận hiện nay tôi vừa lạc quan vừa băn khoăn, nhưng lạc quan là chính. Những cái bất hợp lí rồi sẽ được khắc phục dần.

8. PV. Theo ông, điểm yếu nhất trong lý luận văn học hiện nay của ta là gì?

GSTĐS. Lí luận văn học của chúng ta hiện nay có nhiều chỗ yếu. Sách lí thuyết được phiên dịch, giới thiệu còn quá ít, thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ. Việc dịch thuật, thuật ngữ, chất lượng dịch còn rất nhiều vấn đề. Giáo trình lí luận văn học còn mang nhiều tri thức cũ kĩ chưa được đổi mới. Nhất là phần quá trình văn học. Mức phổ cập lí thuyết mới còn thấp, hệ thống lí thuyết cũ vẫn còn sức chi phối, kìm hãm. Trong cái khung lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng, bất cứ lí thuyết mới nào “phi mác xít” cũng ở vào vị trí “bất hợp pháp”, dễ bị phê phán về mặt ý thức hệ. Nhà nghiên cứu vừa làm việc tìm tòi vừa nhìn tới nhìn lui để giữ an toàn cho bản thân.

9. PV.  Xây dựng một nền lý luận cần có sự tiếp nối và đóng góp của các thế hệ. Theo ông, ở ta đã và đang có mấy thế hệ nghiên cứu lý luận và có sự tiếp nối tích cực giữa các thế hệ?

GSTĐS. Tính từ thế kí XX chúng ta có mấy thế hệ lí luận văn học sau: Thế hệ trước 1945, những người đầu tiên kết nối lí luận văn học Việt Nam với lí thuyết phương Tây. Thế hệ các nhà lí luận văn học mác xít hình thành từ năm 1945-1986. Thế hệ các nhà lí luận ở đô thị miền Nam trước 1975. Thế hệ các nhà lí luận văn học hình thành trong thời hội nhập, từ 1986 đến nay. Mỗi thế hệ đều là sản phẩm của lịch sử, nhưng cũng là sản phẩm của sự nỗ lực riêng của mối người. Mỗi thế hệ đều có đóng góp riêng và tiếp nối những kinh nghiệm của thế hệ trước, đồng thời cũng tự đổi thay theo sự vận động của lịch sử. Trong cái thế kỉ có nhiều khúc đứt gãy như thế kỉ XX này, sự tiếp nối lí thuyết của nhau chưa nhiều, nhưng các kinh nghiệm, thao tác nghiên cứu đều được ghi nhận. Chúng ta chưa có lí thuyết nguyên sáng của mình, chưa có các bậc thầy lí thuyết của riêng mình, do vậy cũng chưa có trường phái để tiếp nối. Mỗi thế hệ vẫn đang mải mốt đi tìm hệ hình lí thuyết của thời mình, giải đáp các vấn đề của thời mình. Chúng ta vẫn chưa giải quyết xong bài toán tiếp cận lí thuyết tinh hoa của nhân loại.

10. PV. Ông có đặt niềm tin vào tiền đồ lý luận văn học nước nhà khi nhìn vào “đội ngũ kế cận”? Vì sao?

GSTĐS. Tôi vẫn đặt trọn niềm tin vào thế hệ kế cận, bởi họ là con đẻ của thời hội nhập, toàn cầu hóa, thời của đa phương đa nguyên, giàu có. Thế hệ nắm vững tiếng Anh, một công cụ giao lưu rộng mở. Thế hệ không mang gánh nặng của lí luận quá khứ như thế hệ của chúng tôi, chỉ được đọc một loại sách, chỉ theo môt quan điểm, chỉ được nhìn theo một phía như con ngựa già. Họ sẽ được vũ trang nhiều thứ lí thuyết, được tắm trong nhiều nguồn suối trong. Trong hội nhập xã hội Việt Nam cũng sẽ cởi mở hơn, thông thoáng hơn, có nhiều không gian cho sáng tác hơn. Thế hệ đó sẽ đem lại nhiều cái mới cho lí luận văn học Việt Nam.

PV. Xin cảm ơn ông.

Nguồn: http://trandinhsu.wordpress.com/2014/06/18/tinh-hinh-li-luan-van-hoc-viet-nam-hien-nay/

THẢO LUẬN VỀ DỊCH THUẬT (4): Dịch thuật (văn học) trong bối cảnh toàn cầu hóa: Một số chiến lược diễn dịch & những hệ hình mới (*)

Bùi Vĩnh Phúc

Văn Việt: Trong khuôn khổ cuộc THẢO LUẬN VỀ DỊCH THUẬT, Văn Việt xin đăng một số bài viết có chất lượng làm tài liệu tham khảo.

Thân tặng NHQ & HN-T, và
các bạn khác của tôi—những
người yêu và sống với chữ.

 

Toàn cầu hóa đang là một câu chuyện sôi nổi của toàn thế giới. Nó là một xu hướng tất yếu của phát triển và hợp tác, ảnh hưởng đến tất cả mọi quốc gia và đời sống mọi con người trên trái đất. Nền công nghệ truyền thông của thế giới càng tiến bộ thì nhịp độ và tiến độ toàn cầu hóa càng được đẩy nhanh.

Trên bình diện xã hội, vấn đề dịch thuật nằm ở giữa cơn sốt phát triển ấy, vì toàn cầu hóa giúp cho việc dịch thuật nói chung, và các dịch thuật gia nói riêng, đứng ở vị trí trung gian, đóng vai trò của (những) kẻ thương thảo cần thiết giữa các nền văn hóa trong việc tạo một sự hiểu biết rộng rãi và sâu sắc hơn giữa những con người sống trong các nền văn hóa khác biệt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, con người quan tâm sâu xa hơn nữa đến việc tìm hiểu những nền văn hóa khác, đặc biệt thông qua vấn đề dịch thuật.

 

Về vấn đề “dịch”

Nhưng, trước hết, dịch là gì? Xét về mặt từ nguyên, trong tiếng Latin, gốc từ translatio hay traduco, “dịch” có nghĩa là “đưa qua”, “dẫn qua” (to carry across, to lead across). Nói thế, người ta có thể hiểu ngầm là có một “vực thẳm” ở giữa, và dịch thuật chính là chiếc cầu để làm công việc đưa dẫn và nối kết ấy. Nói chung, nó là một tiến trình chuyển dịch từ ngữ và ý nghĩa từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, từ ngôn ngữ gốc, ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích. Cũng có thể nói, dịch là công việc mã hóa cái ý nghĩa và dạng thức trong ngữ đích qua việc giải mã cái ý nghĩa và dạng thức của ngữ nguồn.[1]

Có rất nhiều định nghĩa thế nào là “dịch”. Qua các định nghĩa, người ta thấy được các quan điểm về vấn đề “dịch” rất khác nhau, từ đó, đưa đến những lý thuyết khác nhau trong lĩnh vực này. Một trong những định nghĩa khá chi tiết và được chú ý nhiều là định nghĩa của Peter Newmark, qua đó, ông cho rằng “dịch là một nghệ thuật , một nỗ lực thay thế một thông điệp, một diễn ngôn của một văn bản hay ngôn bản trong một ngôn ngữ bằng một thông điệp hay một diễn ngôn giống như vậy trong một văn bản hay ngôn bản của một ngôn ngữ khác.” Ông cũng nhìn chuyện dịch như một khoa học, một kỹ năng, một nghệ thuật, và một vấn đề liên quan đến khiếu thẩm mỹ. Là một khoa học, dịch bao gồm kiến thức và sự đánh giá những dữ kiện và cái ngôn ngữ được dùng để miêu tả những dữ kiện ấy; là một nghệ thuật, dịch phân biệt cách viết hay với cách viết dở trên những cấp độ của sự tân kỳ, mới lạ, của trực giác, và của sự gây tạo cảm hứng; là một kỹ năng, dịch cho thấy khả năng chọn lựa một ngôn ngữ thích đáng—nói chung, một cách sử dụng ngôn ngữ có thể chấp nhận được; và, cuối cùng, trên phương diện khiếu thẩm mỹ, dịch (đặc biệt là dịch văn chương) bao gồm việc dịch giả chọn lựa những từ ngữ hay cách diễn đạt theo sở thích, phong cách và sự cảm thụ riêng của họ. Với tất cả những điều vừa nói, những bản dịch khác biệt của cùng một văn bản có thể rất khác nhau. Chúng thể hiện phong cách, tài năng và sự cảm thụ riêng của những dịch giả khác nhau.

Dorothy Kelly thì cho dịch là kỹ năng thấu hiểu văn bản nguồn và chuyển đạt nó sang ngôn ngữ của văn bản đích bằng cách sử dụng một giọng điệu và ngôn ngữ thích hợp cho văn cảnh, cũng như dùng những kiến thức nền cùng những nguồn tài nguyên khác về ngôn ngữ cho một mục đích được nhắm tới. Bởi vậy, người dịch còn được nhìn như một người làm công việc thương thảo về mặt ý nghĩa giữa hai ngôn ngữ và hai nền văn hóa, giữa văn bản nguồn và và văn bản đích. Nói tóm lại, dịch chính là sự thương thảo giữa hai nền văn hóa.

Để làm công việc thương thảo đó, các dịch giả phải trải qua nhiều công đoạn khó khăn.

Nếu ngôn ngữ chỉ là một sự phân loại các tập hợp của các khái niệm mang tính chung nhất hay phổ quát, chuyện dịch từ ngôn ngữ đích sang ngôn ngữ nguồn hẳn sẽ là một điều dễ dàng. Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, chuyện học một ngôn ngữ thứ hai chắc chắn là cũng dễ dàng hơn nhiều. Thật sự, ngôn ngữ không phải chỉ là một tập hợp những danh pháp, và các khái niệm trong ngôn ngữ này có thể rất khác biệt với các khái niệm trong một ngôn ngữ khác, bởi lẽ mỗi một ngôn ngữ có một cách tổ chức cái nhìn về thế giới khác nhau. Các ngôn ngữ khác nhau đưa ra những vũ trụ quan khác nhau. Ngôn ngữ không chỉ giản dị là liệt kê các phạm trù; chúng tạo nên những phạm trù cho riêng chúng. Từ đó, cái khó khăn trong vấn đề chuyển dịch là sự khác biệt trong bản chất của các ngôn ngữ. Cái hố khác biệt giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích càng lớn, thì việc đưa một thông điệp, một ý nghĩa, từ ngữ nguồn sang ngữ đích càng trở nên khó khăn.

Sự khác biệt giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích, cũng như sự khác biệt giữa hai nền văn hóa sản sinh ra chúng, khiến cho tiến trình chuyển dịch trở nên một thách thức. Trong những yếu tố tạo nên sự khó khăn ấy, người ta phải kể đến dạng thức diễn đạt, ý nghĩa, phong cách, những thành ngữ, tục ngữ, phương ngữ, v.v. Nếu ta chỉ xét đến những phương thức chuyển dịch những khái niệm gắn kết với các đặc thù văn hóa (tiếng Anh, CSCs, hay culture-specific concepts) từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (và cùng với chúng là các chiến lược chuyển dịch các ẩn dụ) không thôi, việc tìm hiểu thấu đáo những phương thức hoặc chiến lược ấy đã là một vấn đề công phu.

 

Một vài phương thức và chiến lược dịch

Trước khi đi vào tìm hiểu một số biện pháp trong việc chuyển dịch, có lẽ ta cũng nên để ý đến những khái niệm cách thức (methods), phương sách (procedures), và chiến lược (strategies) trong lĩnh vực này.

Newmark phân biệt cách thức (methods) và phương sách (procedures) như sau: cách thức liên hệ đến toàn bản văn, còn phương sách được áp dụng cho câu cú và các thành phần nhỏ hơn nữa của ngôn ngữ. Còn chiến lược (strategies), đối với một số nhà lý thuyết, là những phương pháp để đối phó với các khó khăn trong việc dịch thuật. Tìm cách giải quyết vấn đề là công việc quan trọng nhất của các chiến lược. Đối với một số nhà lý thuyết khác thì không có biên giới rõ ràng giữa những chuyên ngữ này. Ngoài ra, tất cả những cách thức, phương sách hoặc chiến lược được các nhà lý thuyết dịch thuật đề ra cũng chỉ phản ánh một số quan tâm hay đường lối giải quyết những khó khăn về dịch thuật trong cái nhìn và trong kinh nghiệm của chính họ. Các cách thức, phương sáchchiến lược dịch thuật vẫn còn tiếp tục được các dịch giả và các nhà lý thuyết tìm tòi và phân tích.

Newmark đưa ra một số phương thức dịch thuật sau:

* Dịch từng từ: Trong cách này, cấu trúc từ ngữ trong ngữ nguồn được giữ y nguyên, và các từ được chuyển dịch với những ý nghĩa thông dụng nhất của từng từ, không xét đến văn cảnh.

* Dịch nguyên văn: Trong cách này, cấu trúc ngữ pháp của ngữ nguồn được chuyển sang cấu trúc ngữ pháp gần gũi nhất của ngữ đích, nhưng các từ ngữ với nghĩa từ vựng của chúng cũng vẫn được chuyển dịch từng từ đơn lẻ mà không xét đến văn cảnh.

* Dịch trung thành: Một nỗ lực chuyển cái ý nghĩa chính xác trong văn cảnh của bản gốc qua cấu trúc ngữ pháp mang tính bó buộc của bản đích.

* Dịch ngữ nghĩa: Cũng giống như dịch trung thành. Cái khác duy nhất ở đây là dịch giả phải chú trọng nhiều hơn đến những giá trị mang tính thẩm mỹ của bản gốc.

* Dịch phóng (phóng dịch, phỏng dịch, hoặc dịch tùy ứng): Đây là cách dịch tự do nhất, và thường được dùng để dịch (hài) kịch và thi ca. Các chủ đề, nhân vật, cốt truyện thường được giữ nguyên; các mã văn hóa của ngôn ngữ gốc được chuyển sang các mã văn hóa của ngôn ngữ đích, và bản văn được viết lại.

Một thí dụ, trong tiếng Việt, tuy hơi xa dòng văn chương một chút (vì đây là dịch tựa phim) nhưng phản ánh khá rõ phong cách dịch này. Tựa đề từ bản gốc của cuốn phim mà tôi muốn nhắc đến ở đây, bằng tiếng Thụy Điển, là Hon dansade en sommar (1951). Đây là một phim tình cảm khá táo bạo về mặt hình ảnh trong giai đoạn đó, nhưng đầy tính thơ mộng, lãng mạn và bi kịch. Bản tiếng Pháp nhấn mạnh vào ý “chỉ trong một mùa hạ”, nên đã dịch thành Elle n’a dansé qu’un seul été (nguyên văn: “Nàng chỉ nhảy múa trong một mùa hạ”). Bản tiếng Ý cũng bám theo ý đó: Ha ballato una sola estate. Bản tiếng Đức cũng vậy: Sie tanzte nur einen Sommer. Bản tiếng Anh thì dịch một cách chân phương và hiền lành thành One summer of happiness. Khi phim được đưa sang Việt Nam, theo bản tiếng Pháp, vào khoảng đầu thập niên 1950, một vị nào làm công việc chuyển ngữ phim xưa của ta đã rất tài hoa, lãng mạn và bay bướm dịch thành Tóc em chưa úa nắng hè, thoát hẳn ra khỏi hình ảnh nhảy múa của người con gái, nhưng lại cho thêm “tóc” và “nắng” vào. Lại thêm từ “úa” dùng một cách tuyệt vời như một động từ. Tôi nghĩ là khó có cách dịch nào thơ mộng hơn. Nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương, không biết có dính dự gì đến việc chuyển ngữ này không, sau đó, đã lấy nguyên văn tựa đề này để đặt tên cho một bài hát cũng rất lãng mạn của mình.

Cũng trong phong cách dịch “tùy ứng” như thế, đặc biệt đối với các tựa đề tiểu thuyết mà tác giả dùng tên người làm tựa sách, nhiều dịch giả Việt Nam đã chọn lối dịch này. Chẳng hạn đối với một số sách của Hermann Hesse như Narziss und Goldmund, Siddhartha, Peter Camenzind, Demian, Gertrude, Knulp, v.v. Quyển Narziss und Goldmund được Vũ Đình Lưu dịch đầu tiên tại Việt Nam (nhà xuất bản Ca Dao ở Sàigòn in vào năm 1967) với tựa đề Đôi bạn chân tình; sau đó, vào năm 1972, nhà xuất bản An Tiêm lại in một bản dịch khác của Phùng Khánh, với tên sách là Nhà khổ hạnh và gã lang thang. Quyển Siddartha được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch, do nhà xuất bản Lá Bối ở Sàigòn in lần đầu vào năm 1965, với tựa đề Câu chuyện của dòng sông. Quyển Peter Camenzind được Vũ Đình Lưu dịch (nhà xuất bản Ca Dao, 1967) với tựa đề Tuổi trẻ và cô đơn. Quyển Demian được Hoài Khanh dịch (nhà xuất bản Ca Dao, 1968) với tên sách là Tuổi trẻ băn khoăn. Quyển Gertrude được Vũ Đằng dịch (nhà xuất bản Ca Dao, 1972) với tựa đề Mối tình của chàng nhạc sĩ. Quyển Knulp được Võ Toàn dịch (nhà xuất bản Tập san Văn, 1966) và được đặt tên là Một kiếp giang hồ. Cũng thế, quyển sách nổi tiếng Zorba the Greek của Nikos Kazantzakis lần đầu tiên được Nguyễn Hữu Hiệu dịch ra tiếng Việt và in tại Việt Nam với tựa đề Alexis Zorba, con người chịu chơi (nhà xuất bản Thương Yêu, Sài Gòn, 1969); Dương Tường, sau đó, cũng có bản dịch Alexis Zorba, con người hoan lạc (nhà xuất bản Trẻ, 1989). Bản dịch của Dương Tường lại được nhà xuất bản Văn Học, sau đó, cho in lại vào năm 2011 với tên mới là Zorba, tay chơi Hy Lạp.

Ngoài ra, một thí dụ khác cho thấy cách dịch này cũng có thể được dùng cho những tác phẩm mà tựa đề không phải là tên người: quyển The Great Railway Bazaar (nguyên văn: “Tiệm chạp-phô vĩ đại trên đường sắt”), một tác phẩm du ký kinh điển viết về phương Đông (trong đó có Việt Nam) của Paul Theroux, mới đây, đã được Trần Xuân Thủy dịch và xuất bản tại Việt Nam (Nhã Nam & Nxb Thế Giới, 2012) với tựa đề là Phương Đông lướt ngoài cửa sổ. Hay cuốn phim nổi tiếng Tant qu’il y aura des hommes (1953) (dịch sát là “Chừng nào còn đàn ông”, với Burt Lancaster, Montgomery Clift, Frank Sinatra, Deborah Kerr và Donna Reed, đoạt được 8 giải Oscar, bản gốc tiếng Anh là From Here to Eternity), khi sang Việt Nam, đã được dịch theo tinh thần của bản tiếng Pháp là Thói Đời.

Trình bày khá chi tiết như thế để thấy rằng, cách dịch “tùy ứng” này, đặc biệt với các tựa thơ, tựa sách, tựa phim, v.v., có thể giúp dịch giả đưa ra một cái nhìn về tinh thần tác phẩm, hay (đặc biệt nếu tựa sách lại chỉ vỏn vẹn là tên của nhân vật chính) về phong cách hoặc cá tính của nhân vật ấy. Có lẽ các dịch giả đã mong rằng, với cách dịch như thế, tác phẩm sẽ dễ đến gần với người đọc bản xứ hơn.

Nhưng, sử dụng phong cách này cho toàn cuốn sách, và đẩy nó đến đầu mút tận cùng của sự “tùy ứng”, có lẽ người ta có thể kể đến những cuốn sách “dịch” đi nghiêng nhiều về hướng “phóng tác”. Nếu chấp nhận hướng nhìn này, ở Việt Nam, có lẽ người ta phải kể đến quyển Ngọn Cỏ Gió Đùa của Hồ Biểu Chánh (dựa trên tác phẩm nổi tiếng Les Misérables của Victor Hugo) và một vài cuốn sách phóng tác theo những tác phẩm ngoại quốc của Hoàng Hải Thủy (trong đó quyển nổi bật là Kiều Giang, dựa trên Jane Eyre của Charlotte Brontë). Qua những quyển sách đó, độc giả có thể thấy các dịch giả đã tự cho phép mình tách ra khỏi nguyên tác và giữ một khoảng cách với tác phẩm để chuyển đạt nội dung của câu truyện. Các dịch giả, trong trường hợp này, dù vì bất cứ lý do gì, đã cho phép mình có được nhiều tự do hơn để tiếp cận với nguyên tác và chuyển nó sang ngôn ngữ của văn bản đích. Đặc biệt, trong những trường hợp như của Hồ Biểu Chánh với Ngọn Cỏ Gió Đùa, ta thấy dịch giả/tác giả đã sử dụng chủ đề cùng hình ảnh của nhân vật và cốt truyện trong nguyên tác, rồi chuyển tất cả sang một mã văn hóa khác, mã văn hóa của ngữ đích, của văn bản đích.

* Dịch tự do: Dịch giả đưa ra một bản dịch trong ngữ đích mà không quan tâm đến phong cách, dạng thức, hay nội dung (chính xác) của bản gốc. Trong văn học Việt Nam, Bùi Giáng có lẽ là người thường xuyên dịch theo lối này, và dịch một cách rất tài hoa, nói chung. Ở một góc độ nào đó, dù sao, người ta cũng có những lý do để phê phán cách dịch của ông. Ông thêm thắt, thêm thơ của người khác và, đặc biệt, thêm thơ của chính mình, cũng như “triết luận… ngoại đề” ở nhiều chỗ trong bản dịch. Hãy thử so sánh bản dịch Hòa Âm Điền Dã (nguyên tác La Symphonie Pastorale của André Gide) của ông, do Nhà xuất bản Quế Sơn in vào năm 1969, với bản dịch Khúc Nhạc Đồng Quê do Đào Đăng Vỹ dịch, Tủ sách Ngã Ba Thế Giới xuất bản vào năm 1954, hoặc với bản dịch Bản Đàn Thôn Dã của Mai Kim Ngọc trong khoảng trên dưới chục năm trở lại đây, để thấy sự khác biệt trong phong cách dịch của các dịch giả. Ở đây, chúng ta tạm không làm việc đánh giá các bản dịch. Chỉ thấy rằng bản dịch của Vân Mồng-Bùi Giáng “lang thang”, “tùy ứng” hơn rất nhiều so với các bản dịch vừa nêu, và với các bản dịch khác nữa cũng từ tác phẩm này của Gide. Cách dịch của Bùi Giáng, với các tác phẩm của Gide, Saint-Exupéry, và một số nhà văn ngoại quốc khác, theo tôi, chính yếu là cách dịch tự do này, kết hợp ở một mức độ nào đó với cách dịch “tùy ứng” ở trên và cách dịch “phương ngữ” được trình bày dưới đây.[2]

* Dịch phương ngữ: Dịch giả chuyển cái “thông điệp” của bản gốc nhưng có khuynh hướng uốn nắn những đường nét về mặt ý nghĩa bằng cách chọn lựa những lối nói thông tục hoặc những thành ngữ, phương ngữ không hề có trong bản gốc.

* Dịch giao tiếp: Một nỗ lực chuyển đạt chính xác cái ý nghĩa nằm trong văn cảnh của bản gốc theo cách mà cả nội dung lẫn ngôn ngữ đều có thể được người đọc hiểu và chấp nhận.

 

*

 

Trong quan điểm của Vinay và Darbelnet, hai nhà lý thuyết dịch thuật chuyên nghiên cứu, phân tích về mặt phong cách đối chiếu giữa Anh và Pháp ngữ, có hai phương sách chính trong việc chuyển dịch mà hai nhà lý thuyết này gọi là dịch thẳng/dịch nguyên văn (direct/literal translation) và dịch nghiêng (oblique translation)—có thể xem là dịch nguyên văn và dịch tự do. Hai hướng dịch thuật này kết hợp nên một mô hình bao gồm bảy chiến lược khác nhau, trong đó bao gồm ba chiến lược dịch thẳng và bốn chiến lược dịch nghiêng.

Ba biện pháp đầu tiên liệt kê dưới đây thuộc phương sách “dịch thẳng”.

1. Vay mượn (Loan/Borrowing): Từ trong ngữ nguồn được chuyển trực tiếp sang ngữ đích. Những từ vay mượn này thường được sử dụng rộng rãi, chẳng hạn trong những lĩnh vực kỹ thuật (“software”) hoặc văn hóa (“punk”), xã hội, chính trị (rouble, datcha, glasnost, perestroika [3]). Lý do của việc vay mượn có nhiều. Có thể là:

        – Ngữ đích không có một từ mang tính tổng quát tương đương. Chẳng hạn, những vệ tinh nhân tạo đầu tiên do con người làm là của Nga Xô-Viết ngày xưa; bởi thế, trong một thời gian khá dài, chúng được biết trong tiếng Anh với tên là “sputniks”.

        – Từ trong ngữ nguồn nghe “hay” hơn (hoặc chính xác hơn là “thời thượng”, “lạ lẫm” hay chỉ giản dị là đã được chấp nhận), cho dù là nó có thể được chuyển dịch. Chẳng hạn, trong lĩnh vực công nghệ thông tin của Tây-ban-nha, những từ như “soft[ware]” được sử dụng rộng rãi, và dân kế toán của họ thường xuyên dùng từ “overheads”, cho dù những từ này có thể dịch được ra ngôn ngữ Tây-ban-nha.

Một thí dụ đặc biệt trong tiếng Việt: từ “hacker” trong tiếng Anh, ngoài việc được dịch ra tiếng Việt thành “tin tặc”, nó còn được dịch thành “hắc khách”. [“Hắc khách” vừa chuyển được âm [hak] trong tiếng Anh, “hac-”, vừa chuyển được âm [k] trong “-ker”, qua từ “khách” (mặc dù hơi khiên cưỡng). Nó lại mang được cái nghĩa ẩn dụ trong nội hàm của từ “hắc”—chỉ một sự đen tối, không quang minh, chính đại/đáng. Thật sự trong cái nhìn của tôi, cách dịch này pha trộn giữa các phương cách vay mượn, dịch âm và dịch nghĩa. Tiếp vĩ ngữ “-er”, dùng để chỉ người, tác nhân trong tiếng Anh, như “speaker”, “house maker”, v.v., được dịch thành “khách”, như trong “thuyết khách”, “tân khách”, “hiệp khách”, “lữ khách”, rất hay.] Ở một mức độ gần gũi như thế, “game player” trong tiếng Anh được chuyển thành “game thủ” trong tiếng Việt (giữ nguyên “game” và dịch “player” thành “thủ” (như trong “dương cầm thủ”, “sát thủ”, v.v.). Cũng trong hướng ấy, với một chút “xê dịch”, những người chuyên viết “comments” dưới bài chủ của một người khác được gọi là “còm sĩ” [“Còm” là phiên âm từ “comments” (“những ý kiến phản hồi”); “sĩ” thì cũng là một hậu tố Hán-Việt trong các từ kép để chỉ “người”, “tác nhân”, giống như “thủ”, “gia”, “giả”, “viên”, “sư”, “khách”, v.v.]. Tất cả những từ tiếng Việt mà ta vừa bàn, ở những mức độ khác nhau,đều có gắn bó xa gần đến cách dịch “vay mượn” này. Dù sao, ít ra có một ngoại lệ trong lối dịch theo phong cách trên đối với những từ mang mầu sắc của thời đại “computer hóa” hiện nay; nhưng “ngoại lệ” là quy chiếu theo cách dịch của những từ vừa bàn, chứ nó lại phản ánh trọn vẹn cách dịch “borrowing” này. Đó là cách mượn nguyên từ “blogger” của tiếng Anh trong tiếng Việt. Người ta không dịch “blogger” thành “blog thủ”, “blog khách”, “blog gia”, “blog sĩ”, v.v., mà vẫn dùng “blogger”. “Blogger” trở nên nổi tiếng toàn cầu như “hamburger” (!) vậy. Trong thời đại tin học này, có lẽ nó còn “nổi tiếng” hơn.

        – Để giữ lại cái “mầu sắc” của ngữ nguồn hay của văn hóa gốc. Chẳng hạn những từ pétanque, armagnac và bastide, [4] trong những tài liệu hướng dẫn về du lịch của nhiều ngôn ngữ, khi đề cập đến những nét đặc thù của miền tây nam nước Pháp. Hoặc các từ như phở, chả giò, áo dài, v.v. trong các sách nói về du lich Việt Nam bằng tiếng Anh, Pháp hoặc một số ngôn ngữ khác.

2. Sao chép hay “can-kê” (Calque): Đây là một lối vay mượn đặc biệt, ở cấp độ ngữ đoạn hay cụm từ. Trong biện pháp này, một lối diễn đạt hay cấu trúc từ ngữ trong ngữ nguồn được chuyển dịch nguyên văn sang ngữ đích. Chẳng hạn, cụm “Compliments de la Saison” của tiếng Pháp được sao chép thẳng từ cụm “Compliments of the Seasons” của tiếng Anh. Chúng cũng thường xuất hiện trong những lĩnh vực đặc biệt, mang tính quốc tế, như cụm “quality assurance” để chỉ việc “kiểm tra phẩm chất” (aseguramiento de calidad, assurance qualité, Qualitätssicherung, v.v.).

Biện pháp sao chép này có những khi được sử dụng rất tốt, lại có những lúc nó không thật sự đắc dụng.

3. Dịch nguyên văn (Literal translation): Đây là một lối dịch từng-từ-một, thường được dùng giữa các ngôn ngữ cùng gia đình và văn hóa. Chẳng hạn, câu “I left my spectacles on the table downstairs” (“Tôi để kính của tôi trên bàn ở dưới nhà”) trở thành “J’ai laissé mes lunettes sur la table en bas”. Hoặc câu “El equipo está trabajando para acabar el informe” (“Nhóm đang làm việc để hoàn tất bản tường trình”) trong tiếng Tây-ban-nha thành “The team is working to finish the report” trong tiếng Anh.

Dù sao, có những lúc, biện pháp này cũng có thể được sử dụng để dịch giữa những ngôn ngữ không gần gũi, không thuộc về cùng một ngữ tộc, như trong việc dịch các tựa đề tác phẩm chẳng hạn. Quyển Of Mice and Men của John Steinbeck được nhiều dịch giả dịch sang tiếng Việt thành Của Chuột và Người [Dịch như vậy là hợp lý, vì nguyên văn tựa đề Of Mice and Men là xuất phát từ đoạn thơ “The best laid schemes of mice and men / Go often askew / And leaves us nothing but grief and pain / For promised joy!” của Robert Burns (“To A Mouse”). Nếu không thích dịch nguyên văn như thế, có thể chọn cách dịch “tùy ứng” chẳng hạn; nhưng điều đó có thể phải hy sinh phần nào ý nghĩa của tựa đề trong nguyên tác]. Hoặc, như Trần Tiễn Cao Đăng dịch tựa đề tác phẩm If on a winter’s night a traveler của Italo Calvino thành Nếu một đêm đông có người lữ khách [Tôi cũng nghĩ dịch thế là khá hợp lý,[5] vì tựa đề của bản tiếng Anh cũng dịch theo đúng như tựa đề của nguyên tác tiếng Ý, Se una notte d’inverno un viaggiatore. Dịch như thế là để giữ lại cái phong cách đặt tựa đề hết sức đặc biệt lạ lẫm của tác giả Italo Calvino]. Được dịch sang tiếng Việt cũng theo phong cách dịch nguyên văn này là các tác phẩm như Mùi hương (Das Parfum (1985) / Perfume) của Patrick Süskind, dịch giả Lê Chu Cầu; Tên của đóa hồng (Il nome della rosa (1980) / The name of the rose) của Umberto Eco, cũng của dịch giả Lê Chu Cầu; hay Tên tôi là Đỏ (Benim Adim Kirmizi (1998) / My name is Red) của Orhan Pamuk, dịch giả Phạm Viêm Phương. Vấn đề ở đây là, ngoài sự chọn lựa phong cách dịch của riêng mỗi dịch giả, việc chuyển dịch nguyên văn tên các tác phẩm trong nguyên tác cũng có thể là do các tác phẩm này quá nổi tiếng. Và việc giữ lại cái tên tựa đề theo nguyên ngữ trong bản gốc có những lý do hợp lý và cần thiết của nó, kể cả lý do thẩm mỹ.

Một thí dụ khác: một trong những cuốn phim nổi tiếng mà Marilyn Monroe đóng là The Seven Year Itch (1955) (dịch sát thì là… “Cơn ngứa ngáy sau bảy năm chung sống”; bản tiếng Pháp dịch hiền lành thành Sept ans de réflexion, “Bảy năm trầm tư/phản tỉnh/suy tư”) đã được dịch có vẻ gần như nguyên văn sang tiếng Việt thành Bảy Năm Ngứa Nghề. [6] Cũng thế, phim Waterloo Bridge (1940) (do Vivian Leigh và Robert Taylor đóng, với giai điệu luân vũ nổi tiếng “Auld Lang Syne”), khi sang Việt Nam với bản tiếng Pháp, La Valse dans l’Ombre, đã được người chuyển dịch tiếng Việt dịch sát nguyên văn theo bản tiếng Pháp này là Vũ điệu trong bóng mờ. Như thế, ở đây, cách dịch tựa phim Việt từ tựa phim Pháp là theo lối dịch sát; còn cách dịch tựa phim Pháp từ tựa phim Mỹ là theo lối “tùy ứng”.

Tuy nhiên, cũng giống như “can-kê” hay sao chép, biện pháp này có lúc dùng được, có lúc không. Câu tiếng Tây-ban-nha ở trên, “El equipo está trabajando para acabar el informe”, không thể dịch kiểu (nguyên văn) này sang tiếng Pháp hoặc tiếng Đức, vì vấn đề cấu trúc câu khác nhau. Người ta, trong trường hợp đó, phải dùng biện pháp số 4. Bốn biện pháp liệt kê dưới đây thuộc về cách “dịch nghiêng”.

4. Sắp đặt lại (Transposition): Phương pháp này thay đổi một từ loại trong ngôn ngữ này thành một từ loại trong ngôn ngữ khác. Nó có thể là sự bắt buộc hoặc tùy ý.

        – Bắt buộc: “Dès son lever” [Ngay khi cô ta dậy] khi chuyển sang tiếng Anh, ngoài cụm “upon her rising”, trong một văn cảnh rõ rệt để chỉ quá khứ, người ta phải dịch thành “As soon as she got up” (chuyển từ Danh từ sang Động từ).

        – Tùy ý: Trong hướng ngược lại, “As soon as she got up” có thể dịch nguyên văn thành “Dès qu’elle s’est levée” hoặc dùng biện pháp “sắp đặt lại” để thành “Dès son lever”.

Cấu trúc ngữ pháp thường không giống nhau từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác; vì thế, biện pháp này thường xuyên được các dịch giả dùng để giải quyết sự khác biệt. Tựa đề sách Bitter in the Mouth của Monique Trương được Đinh Từ Bích Thúy dịch thành Vị Đắng Trong Miệng. “Bitter”, trong nguyên gốc tựa sách, có thể là một danh từ, mặc dù để dùng như một danh từ thì “bitter” không thông dụng bằng “bitterness”. Nó cũng có thể là một tính từ. Nhưng ngay cả khi nó là một tính từ, dịch thành “vị đắng”, một danh từ, cũng hoàn toàn hợp lý. Dịch giả, một cách ý thức hay không ý thức, đã áp dụng chiến lược “sắp đặt lại” này để giữ lại nét trung tính của từ “bitter” trong nguyên tác. Không “đắng cay”, “đắng chát”, “đắng ngắt”, hay “đắng nghét”, mà chỉ giản dị là “(vị) đắng” thôi.

Một thí dụ nữa: “She likes swimming” được chuyển sang tiếng Tây-ban-nha thành “Le gusta nadar” (không dùng “nadando”, một danh-động từ như “swimming”), hay sang tiếng Đức thành “Sie schwimmt gern”, vì các danh-động từ (hay hiện tại phân từ được dùng như danh từ) và các động từ-nguyên mẫu được dùng theo những lối khác nhau trong tiếng Anh và tiếng Tây-ban-nha. Còn tiếng Đức thì lại phức tạp hơn nữa (đem thêm vào một tiếng trạng từ để làm “rối mù” vấn đề).[7] Biện pháp “sắp đặt lại” này thường được dùng trong tiếng Anh và tiếng Tây-ban-nha vì sự chọn lựa vị trí của động từ trong câu: Anh thì thích động từ đứng ở gần đầu câu; Tây-ban-nha thì lại có thể đặt nó ở gần cuối câu.

5. Điều chỉnh (Modulation): Cách dùng một cụm từ hay câu khác biệt nhau trong ngữ nguồn và ngữ đích để chuyển tải cùng một ý tưởng. Nó thay đổi cả ngữ nghĩa lẫn góc nhìn trong văn bản của ngữ nguồn. Như “Te lo dejo”[8] thành “You can have it”.

Biện pháp này có thể là:

        – Bắt buộc: “The time when” trong tiếng Anh thành “le moment ” trong tiếng Pháp (nguyên văn trong tiếng Pháp, như thế, thành “the moment where”). Tiếng Việt thì thành “Vào lúc ”, (“At the moment that”).

        – Tùy ý: bám vào cách tổ chức câu thường được dùng trong mỗi ngôn ngữ. Thí dụ, sự thay đổi góc nhìn khi chuyển “It is difficult to show” thành “Il est facile de démontrer” [nguyên văn: “It is easy to show”].

Điều chỉnh là một biện pháp được sử dụng khi, nếu dịch nguyên văn, hay dịch theo lối “sắp xếp lại” sẽ vẫn đưa ra được kết quả đúng theo ngữ pháp của câu nói, nhưng câu dịch như thế được đánh giá là không thích hợp, không theo lối nói thông dụng, hoặc thậm chí là vụng về trong ngữ đích.

Chiến lược điều chỉnh được đánh giá cao hơn là chiến lược sắp xếp lại. “Điều chỉnh” được coi là hòn đá thử vàng trong dịch thuật, trong khi “sắp xếp lại” chỉ cho thấy là dịch giả nắm được một cách vững chãi ngôn ngữ đích. Điều chỉnh có thể được phân loại thành:

        – trừu tượng sang cụ thể

        – nguyên nhân – hậu quả

        – thành phần – toàn thể

        – lật ngược ý nghĩa của từ

        – phủ định của đối chọi

        – chủ động sang thụ động (hay ngược lại)

        – không gian thay cho thời gian

        – tái tư duy về những khoảng cách và giới hạn (trong không gian và thời gian)

        – thay đổi biểu tượng (bao gồm cả những ẩn dụ mới và những ẩn dụ quen thuộc)

Điều chỉnh, như thế, là một chiến lược bao gồm một hiện thực dịch thuật rộng lớn. Nó cũng thường là những tiến trình lúc đầu là điều chỉnh tự do, sau đó trở thành những cách diễn đạt đã trở nên thành ngữ. Như dịch “Vous l’avez échappé belle” (tiếng Pháp) [nguyên văn là “You have escaped beautifully” (“thoát hiểm một cách đẹp đẽ”)], thành “You’ve had a narrow escape” (“thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc”).

6. Tương đương (Equivalence): Để nói về những trường hợp trong đó các ngôn ngữ diễn tả cùng một hoàn cảnh hay sự kiện bằng những phong cách hay cấu trúc khác nhau. Biện pháp này đặc biệt hữu dụng khi dịch những quán ngữ, thành ngữ hay cách ngôn (thí dụ, ý nghĩa—cho dù không cùng hình ảnh—của “comme un chien dans un jeu de quilles” [nguyên văn trong tiếng Pháp, “giống như một con chó trong trò chơi cầu cửu trụ”, ý nói có tính vụng về, hùng hục, “ẩu tả”, thiếu tế nhị trong việc xử lý tình huống] có thể được chuyển dịch thành “like a bull in a china shop” trong tiếng Anh (“giống như một con bò mộng trong một tiệm bán đồ sứ”). Trong tiếng Việt, liệu ta có thể dịch thành ngữ này thành một đoản ngữ như “hành động bất cẩn, thiếu tế nhị”, hoặc thành thành ngữ “như một con ngựa lồng”?

7. Tiếp biến (Adaptation): Trong biện pháp này, một điểm đặc thù trong văn hóa của ngữ nguồn được diễn đạt một cách hoàn toàn khác nhưng quen thuộc và thích hợp hơn trong văn hóa của ngữ đích. Có khi điểm đặc thù văn hóa này lại không có trong ngữ đích. Chiến lược này có khi thích dụng, có khi lại gây nên vấn đề. Chẳng hạn, một thực đơn của tiệm ăn trong một khu du lịch và nghỉ dưỡng Tây-ban-nha có nên chuyển dịch “pincho” thành “kebab” trong tiếng Anh?[9] Có nên chuyển dịch môn chơi “cricket”, với những hàm ngụ văn hóa của nó, trong một văn bản Anh, ra thành cuộc đua xe đạp nổi tiếng “Tour de France” trong một văn bản Pháp? Có nên chuyển “tình yêu như trái phá”, một câu hát nổi tiếng của Trịnh Công Sơn, thành “love at first sight” (tiếng Anh) hay “coup de foudre” (tiếng Pháp)?[10]

“Tiếp biến” có thể là một giải pháp thích dụng trong một số trường hợp mang tính ẩn dụ có tính giới hạn, nhưng, trong những trường hợp khác, nó chẳng mang lại một ý nghĩa thích ứng nào. Thí dụ, người ta không thể chuyển môn chơi “cricket” sang môn đua xe đạp trong những câu theo kiểu như “That isn’t cricket” [“Đây không phải là môn chơi cricket”]. Đó là chưa nói đến tính chất “bạo động” của chiến lược này trong việc “bản địa hóa” (hay “nội hóa”) một văn bản đến từ một nền văn hóa khác, để xóa nhòa những đường nét đặc thù của nền văn hóa ấy, với mục tiêu là hòa trộn tất cả những cái ngoại lai, khác lạ, vào nền văn hóa của văn bản đích. Những điều này tôi sẽ trình bày kỹ hơn ở phần cuối bài.

 

Dịch như một sự viết lại

Như đã nói, hơn lúc nào hết, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, dịch đã trở nên nền tảng của sự sống, của các mối giao tiếp tạo nên cuộc sống của con người ở khắp mọi nơi. Nói như Salman Rusdie, “Được sinh ra giữa lòng thế giới, tất cả chúng ta đều là những kẻ được dịch”, những “translated beings”. Sống là một hành động diễn dịch. Diễn dịch tất cả mọi điều mà chúng ta đối mặt và va chạm trong đời. Những động thái dịch đó neo giữ chúng ta lại trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta, như những con tàu, được neo giữ lại ở những bến bờ mình bằng chiếc neo của sự diễn dịch. Hoàn cảnh đó lại càng rõ rệt hơn đối với những người sống bên ngoài đất nước của họ. Dịch là một hành động duy trì và kiến tạo sự sống.

Từ những suy nghĩ cơ bản đó, chúng ta có thể thấy dịch, nhiều khi, là một sự viết lại. Trên cấp độ cá nhân, người ta vẫn thường phải diễn dịch, phải “viết lại” nhiều thứ trong đời để tiếp tục sống còn. Kinh nghiệm ấy, những người Việt sống bên ngoài đất nước có lẽ là những người đã nhận thức rất rõ. Nhưng trong quan điểm của lý thyết dịch, sự viết lại này, nếu được hệ thống hóa ở một cấp độ cao, mang màu sắc quyền lực và ý thức hệ, và có một ý hướng chính trị rõ rệt, có thể đưa đến những hậu quả cực đoan, ảnh hưởng đến cái nhìn văn hóa.

André Lefevere, trong tác phẩm Translation, Rewriting, and the Manipulation of Literary Fame, cho rằng dịch là một dạng viết lại, được sản xuất và được đọc với những cái khung về ý thức hệ và chính trị trong lòng hệ thống văn hóa của ngôn ngữ được dịch. Và, “ý thức hệ”, ở đây, theo ông, có một nghĩa rộng rãi, không chỉ gắn bó với phương diện chính trị. Nó có thể bao gồm một lược tuyến, một bộ khung của “các dạng thể, quy thức và các niềm tin điều hướng và ảnh hưởng đến những hành động của con người”. Ông cho rằng bất cứ một văn bản nào được dịch, đặc biệt những văn bản mang tính văn học, văn chương, cũng đều có ý hướng của người dịch trong việc “tiếp biến” văn bản đó ở một mức độ ý thức hệ hay thi pháp của một giai đoạn, một thời đại, hoặc cả hai, đang giữ ảnh hưởng trong ngôn ngữ đích. Với từ “thi pháp”, ông muốn nói đến cái thẩm mỹ học về thể loại, biểu tượng, chủ đề, nhân vật, và những cốt truyện được chấp nhận, tính cách “cổ điển”, được đề cao của những loại tác phẩm nào đó, v.v.. Ông cho thấy có những yếu tố cụ thể điều khiển một cách có hệ thống sự tiếp thu, chấp nhận hoặc từ chối những tác phẩm văn học. Những yếu tố này gắn liền với quyền lực, ý thức hệ, định chế và những thao tác mang tính cách khuynh loát. Lefevere nhìn những con người trong các vị thế quyền lực là những kẻ đã làm công việc “viết lại” văn học, văn chương, và điều khiển sự tiếp nhận và tiêu thụ của quần chúng. Một vài thí dụ trong lịch sử mang tính cực đoan nhất là trường hợp của Elizabeth I của nước Anh giai đọan Shakespeare và của Hitler trong thập niên 1930s của nước Đức.

Một thí dụ về sự viết lại này có thể thấy nơi bản dịch thơ của nhà thơ Ba Tư Omar Khayyam do Edward Fitzgerald, một dịch giả (hay “người viết lại”) ở thế kỷ thứ XIX. Fitzgerald cho rằng ngôn ngữ Ba Tư thấp kém và ông cho mình cái quyền được tự do trong bản dịch để “cải tiến” bản gốc của nhà thơ Ba Tư, và cùng lúc, đáp ứng được những quy phạm văn chương của Tây phương trong thời đại ông.

Một thí dụ khác liên hệ đến quyển nhật ký nổi tiếng của Anne Frank. Ấn bản 1947 trong tiếng Hòa Lan được sự cộng tác biên tập (và viết lại) của Otto Frank, cha của Anne Frank. Ông sửa đổi lại hình ảnh người con gái 13 tuổi của mình, bằng cách loại bỏ đi những đoạn nói về những khát vọng tình dục của cô bé. Ngoài ra, những đoạn miêu tả “không hay” về bạn bè và gia đình đều được cắt bỏ. Cũng thế là những câu, những đoạn về nhiều cá nhân hợp tác với quân Đức Quốc Xã; sự cắt bỏ này là do yêu cầu của những cá nhân được nêu tên trong nhật ký của Anne. Ấn bản năm 1950, bằng tiếng Đức, do Anneliese Schütz, một người bạn của Otto Frank, biên tập, chứa nhiều lỗi lầm làm cho người đọc khó bắt được đúng ý của Anne, cũng như có nhiều thay đổi về hình ảnh của người Đức và nước Đức, bao gồm những câu, những đoạn mang tính tiêu cực (về người Đức và nước Đức) bị cắt bỏ hoặc làm “nhẹ giọng” xuống. Những nhận xét về thái độ cư xử của Đức đối với người Do Thái cũng được thay đổi. Tất cả những điều đó đều là do những áp lực của ý thức hệ.

Một thí dụ nữa liên quan đến việc “viết lại” trong dịch thuật là cách dịch từ “penis” (“dương vật”) trong vở kịch Lysistrata của Aristophanes, khi Lysistrata yêu cầu nhân vật nữ, mang tính ẩn dụ về hòa bình, đưa sứ giả người Spartan đến cho bà. Trong lời yêu cầu, bà nói thêm, “Nếu anh ta không đưa tay cho cô nắm, hãy nắm lấy dương vật của anh ta.” (nguyên văn: En mē dido tēn cheira, tēs sathēs age.) Trong những bản dịch tiếng Anh của vở kịch này qua nhiều năm tháng, người ta thấy là từ “penis” này đã được dịch thành “cái bộ phận hùng tráng” (“membrum virile”), cái mũi (“nose”), cái chân (“leg”), cái cán (“handle”), “cái đường sống”, “cái sinh tuyến” (“life-line”), “bất cứ cái gì khác” (“anything elsse”), và nhiều cách dịch khác nữa, thường là đi với cước chú nêu rõ lý do về cách dịch. Tất cả những điều này đã cho thấy cái ý thức hệ, cái quy thức về mỹ học, về thi pháp, của một thời đại nào đó, trong một xã hội nào đó, đã ảnh hưởng đến cách dịch của người ta ra sao.

Trong khung cảnh của Việt Nam, những dịch phẩm, chẳng hạn, từ hai cuốn sách nổi tiếng Narziss und Goldmund của Hermann Hesse và The Godfather của Mario Puzo, cũng cho thấy cái nhìn mỹ học cũng như những quy thức về thi pháp đã khuôn nắn cách làm việc của những dịch giả liên hệ như thế nào. Cuốn The Godfather đã được dịch sang tiếng Việt một cách tuyệt vời với bản dịch trước 1975 của Ngọc Thứ Lang. Dịch giả đã chuyển được cái giọng điệu cũng như cái không khí của tác phẩm gốc một cách xuất sắc, nói chung. Tuy nhiên, những đoạn có tính “nhậy cảm” nhất của tác phẩm (liên hệ đến nhân vật Sony chẳng hạn) đều bị bỏ qua. Có lẽ dịch giả đã cảm thấy, trong khuôn khổ đạo đức của xã hội Việt Nam, những đoạn miêu tả quá rõ nét về vấn đề tình dục, không thể hoặc không nên xuất hiện? Về những lý do không thuộc sự kiểm soát của dịch giả (nhưng cũng đã tạo áp lực ảnh hưởng đến thái độ làm việc của người dịch), một điều nổi bật mà người ta có thể dễ nhận thấy là: “chính phủ” có thể cấm xuất bản cuốn sách (dịch). Trong một trường hợp mà tôi nhớ rõ, bộ sách Tình Dục, dịch phẩm gồm bốn cuốn của Thế Uyên do Thái Độ xuất bản vào năm 1969, có những trang bị Phòng Kiểm Duyệt của Nha Báo Chí đục đen sì nhiều dòng.[11] Hình như tác phẩm, trước đó, đã được cấp giấy phép xuất bản; nhưng đến phút cuối, đến “giờ thứ 25”, những phần “không hợp thức” này đã bị Phòng Kiểm Duyệt phát hiện. Kết quả là có những chỗ bị đục bỏ lỗ chỗ và đen xì như thế. Thật sự, tôi chưa từng có cơ hội đọc bất cứ sách vở của một nước nào khác với tình trạng bị kiểm duyệt tương tự như vậy!

Trở lại với cuốn Narziss und Goldmund của Hesse. Cả hai bản dịch của Vũ Đình Lưu và Phùng Khánh (như đã có nhắc đến ở một đoạn trên)[12] đều hay. Dù sao, những đoạn “nhậy cảm” liên hệ đến nhân vật Goldmund, vốn luôn gắn bó đến mẹ thiên nhiên, đến nhục cảm, cũng bị lược bỏ. Trong bản dịch của Vũ Đình Lưu, những đoạn ấy chỉ bị lược bỏ một phần, nhưng trong bản dịch của Phùng Khánh thì bị lược bỏ hầu hết. Đó là chưa nói đến việc, trong bản của Phùng Khánh, các nhân danh, địa danh đều được chuyển sang tiếng Việt, được đặt cho những cái tên hoàn toàn Việt Nam. Như Narziss được chuyển thành Huyền Minh, Goldmund thành Đan Thanh, tu viện Mariabronn trở thành tu viện Thánh Ân, v.v. Những quy thức về mỹ học, những quan niệm về “thi pháp”, đạo đức của chính những người dịch, và cả cái nhìn về thi pháp, về hệ ý thức (theo nghĩa rộng của từ như đã nói) của các (con người có “quyền lực”, nằm trong các) thiết chế xã hội, đã khuôn nắn, điều chỉnh hoặc tạo áp lực trên cách dịch của các dịch giả. Dịch, như thế, ở một mức độ nào đó, cũng chính là một cách “viết lại”.

Cũng trong tinh thần phê phán tính cách bạo động và phi dân chủ trong việc dịch như một sự viết lại, Gayatri Spivak (1993) cho rằng trong việc dịch ào ạt các tác phẩm của thế giới sang Anh ngữ, người ta có thể thấy sự “phản bội những lý tưởng dân chủ để chiều theo luật của kẻ mạnh nhất”. Chuyện này được nhìn thấy rõ khi văn chương của các nước trong Thế Giới Thứ Ba, của những nền văn hóa nhỏ, được chuyển dịch theo phong cách đồng hóa khiến cho văn chương của một nhà văn nữ xứ Palestine trở nên giống, theo bà, trong cảm nhận của người đọc qua dòng chảy của bản văn dịch, với lối viết của một người đàn ông sống ở Taiwan. Những cảm thụ về văn hóa và giới tính bị xóa nhòa.

Tác giả Lefevere cho rằng “cái tiến trình viết lại, trên căn bản, là giống nhau trong việc dịch thuật, biên soạn lịch sử, thực hiện những tuyển tập, cũng như trong việc phê bình và biên tập.” Và ông cho rằng dịch thuật là thể cách viết lại được nhận diện một cách hiển nhiên nhất, và nó có tiềm năng ảnh hưởng nhất vì nó có thể phóng chiếu hình ảnh của một tác giả hay/và của những tác phẩm ra bên ngoài những biên giới của nền văn hóa gốc của chúng.

 

Dịch như một ý thức phê bình

Dịch là “viết lại”, cũng có nghĩa dịch là phê bình. Phê bình những cái viết và “viết lại” trước đó. Dịch và vấn đề giới tính, dịch và những văn bản của người đồng tính, dịch và cái nhìn nữ quyền, dịch trong ý thức sáng suốt của tâm thế văn học hậu thuộc địa, v.v. là những cái nhìn, những thao tác mang đậm chất phê bình, phê phán. Nó tìm cách hóa giải tính chất bất thăng bằng trong những quan hệ quyền lực giữa “những kẻ mạnh” và “những kẻ yếu”, giữa những cái lớn và những cái nhỏ, giữa chính thống và ngoại biên, giữa “chính mạch” và “thiểu số”. Bất bình tắc minh. Tất cả những điều đó, trong thời đại hiện nay của chúng ta vốn phản ánh rõ rệt tính chất chuyển dịch, di cư, lưu đầy và lưu vong, gắn bó với những khái niệm liên lập về “tính-ở-giữa” (in-betweenness), về “không gian thứ ba” (the third space), về sự “đứt gãy về mặt trú xứ” (locational disrupture), về “tính lai ghép”, và về sự “khác biệt văn hóa”. Nó khiến cho hai tính từ liên hệ đến việc dịch thuật (“translational”) và tính chất liên-quốc-gia (“transnational”) trở nên quấn quyện, ôm ấp lẫn nhau. Những điều vừa đề cập là những vấn đề lớn liên hệ đến bản sắc, đến “căn cước tính” và sự “thuộc về” của những con người cầm bút. Chúng cũng là những vấn đề lớn của cả dịch thuật và phê bình. Chúng không nằm trong khuôn khổ chật hẹp và giới hạn của bài viết này. Nhưng tất cả những ai quan tâm đến văn hóa, văn học (trong đó có những vấn đề về bản sắc, giới tính, chỗ đứng, trú xứ của người cầm bút, v.v.) nói chung, và với vấn đề dịch thuật nói riêng, đều cần chú ý và ý thức về dòng chảy mỗi ngày mỗi cuộn xiết này với lưu lượng và sức sống cuộn trào trong nó.[13]

 

“Bản địa hóa” và “ngoại quốc hóa” trong dịch thuật

Ngoài cái nhìn cho rằng dịch là “viết lại”, là “phê bình” như chúng ta vừa nói, trong bối cảnh toàn cầu hóa này, vấn đề dịch thuật, trong thời gian gần hai mươi năm trở lại đây, cũng nhấn mạnh đến thái độ bạo động của những cách dịch đối với văn hóa gốc của những văn bản được dịch.

Nhà lý thuyết dịch thuật người Đức Schleiermacher, vào đầu thế kỷ XIX, đã cho rằng, trong chuyện dịch thuật, người ta có hai con đường: một là dịch giả để tác giả ở yên một chỗ, tối đa trong mức có thể, và kéo người đọc về phía tác giả; hai là dịch giả để người đọc ở yên một chỗ, tối đa trong mức có thể, và kéo tác giả về phía người đọc. Lawrence Venuti, một lý thuyết gia về dịch thuật người Mỹ gốc Ý, từ nhận định mang tính lưỡng cực của Schleiermacher, đã làm mới và nổi bật đối cực tính trong vấn đề dịch thuật qua việc đưa ra hai phương cách với hai tên gọi đã đi vào thuật ngữ của ngành dịch thuật hiện đại: phương cách ngoại hóa, hay ngoại quốc hóa (foreignizing method / foreignization) và phương cách nội hóa, hay bản địa hóa (domesticating method / domestication).

Bản địa hóa là phương cách dịch “trong suốt”, dịch trôi chảy, lưu loát, tự nhiên theo lối nói, lối viết, lối suy nghĩ của ngôn ngữ đích, đem bản gốc đến gần với những giá trị văn hóa của ngữ đích, đem tác giả đến gần người đọc trong ngữ đích. Phương cách này làm cho người đọc trong nền văn hóa của văn bản đích cảm nhận rằng tác giả đã viết tác phẩm cũng với cảm quan và cái nhìn của người đọc trong văn bản đích. Nó xóa nhòa hay đè nén nhiều dị biệt của văn bản nguồn. Venuti dùng một cụm từ mạnh mẽ là “ethnocentric reduction” (một tiến trình qua đó dân của một nền văn hóa này bắt dân của một nền văn hóa khác hành động theo cách phù hợp với các tín niệm văn hóa và mỹ học của họ; trong văn cảnh này nên hiểu là “sự giảm trừ những nét đặc thù của văn bản gốc”) để chỉ phương cách bản địa hóa. Ông cho rằng cách dịch này mang tính bạo động với văn bản nguồn và nền văn hóa mà từ đó văn bản nguồn được thực hiện.

Ngược lại, ông dùng cụm “ethnodeviant pressure” (trong văn cảnh này nên hiểu là “áp lực giúp tránh việc đồng hóa vào những nét đặc thù của văn bản đích”) để gọi phương cách ngoại quốc hóa. Ông cho rằng phương pháp này tránh được sự áp đặt của những giá trị văn hóa của ngôn ngữ đích “để có thể ghi nhận sự khác biệt về mặt ngôn ngữ và văn hóa của văn bản nguồn, đưa người đọc đi xa, đến những phương trời xa lạ.” Ông hô hào chủ trương dịch ngoại quốc hóa vì “nó có thể là một dạng thức chống trả lại chủ nghĩa dân tộc vi trung và sự kỳ thị chủng tộc, tính tự mê cuồng về văn hóa (“cultural narcissism”) và chủ nghĩa đế quốc; cùng lúc, nó cổ xúy cho những liên hệ, những bang giao địa-chính trị mang tính dân chủ.”

Những phân tích và nhận định về hai phương thức dịch thuật bản địa hóa và ngoại quốc hóa của Venuti đặc biệt nhắm đến việc dịch sang tiếng Anh những tác phẩm văn học của những quốc gia nằm bên ngoài phạm vi Anh ngữ, những tác phẩm của những nền văn hóa nhỏ. Nó nhắm vào tính bá quyền của Anh ngữ, của nền văn hóa Anglo-American, đặc biệt nền văn hóa mang tính “McWorld” của Mỹ đang càng ngày càng phát triển cùng với sự bùng dậy của thế giới theo hướng toàn cầu hóa. Tuy nhiên, những phân tích và nhận định của Venuti cũng có thể được áp dụng chung cho vấn đề dịch thuật ở khắp nơi trên thế giới.

 

Tạm kết

Theo quan điểm cũ, người ta vẫn xem dịch chỉ là một thao tác chuyển ngữ, chuyển ý nghĩa từ một văn bản của ngôn ngữ này sang một văn bản sử dụng ngôn ngữ khác; từ đó, cách dịch “trong suốt”, tự nhiên, xuôi chảy, giúp người đọc tiếp cận dễ dàng với văn bản gốc, vẫn được đánh giá cao. Người dịch được xem như “vô hình”, vì bản dịch như thế sẽ làm người đọc trong ngôn ngữ được dịch cảm thấy như tác giả trực tiếp nói với mình, viết cho mình, và tác giả thực sự có những cảm xúc và cái nhìn như người đọc, có cùng văn hóa với người đọc. Từ sự “vô hình” đó, vai trò của dịch giả bị xem nhẹ. Cũng từ đó, bản dịch được xem là một sản phẩm thứ cấp. Tác phẩm trong bản chính vẫn được xem là quan trọng hơn. Quan niệm của Venuti và những người cùng quan điểm, chiều hướng với ông (như Spivak, đã nói ở trên, và nhiều người khác nữa), đã đặt lại vấn đề của sự dịch. Người ta không thể vẫn quan niệm theo lối cũ được nữa.

Dĩ nhiên, cách dịch hướng đích, bản địa hóa, mà một trong những người cổ xúy nổi bật nhất là Eugene Nida, với những đóng góp quan trọng và phong phú của ông trong lĩnh vực dịch, vẫn có những nét khả thủ của nó. Dù sao, lịch sử đã cho thấy mỗi giai đọan, mỗi thời đại đều có những nét đặc thù và nổi bật riêng. Lĩnh vực dịch thuật cũng không đi ra ngoài lẽ thường này. Người ta đang thấy những đường nét mới, những phong cảnh mới trên tấm bản đồ dịch thuật của thế giới, của nhân loại.

Cũng trong mắt nhìn ấy, quan niệm cho rằng dịch là một sự “viết lại”, là sự phê bình, của Lefevere và những tác giả khác, cho thấy rõ tính cách quan trọng của dịch thuật. Người ta phải quan tâm và ý thức hơn khi nhìn vào hành động dịch, vào “kỹ nghệ dịch”, không những ở cấp độ cá nhân mà còn ở những cấp độ cao hơn, mang tính điều hướng và chỉ định. Đó là vai trò của những định chế, những con người mang tính quyền lực, có thể củng cố hay ngăn cản việc đọc, viết, và viết lại những tác phẩm văn học. Vai trò của những nhà chuyên môn trong hệ thống văn học cũng rất quan trọng. Những nhà phê bình và điểm sách, những giáo sư, cả những dịch giả nữa, cũng như các nhà xuất bản, các viện đại học, các “chính phủ”, v.v., là những cá nhân, những định chế có thể đóng góp vào việc quyết định “thi pháp” của một thời, và, có khi, quyết định cả “ý thức hệ” của cả một giai đoạn văn học, của những tác phẩm được dịch.

Với những bước ngoặt dịch thuật kể trên—cho dù được xem là những chuyển dịch trong quan điểm dịch thuật, hay có thể được xem như một sự thay đổi hệ hình[14] trong lĩnh vực dịch—, người làm công việc dịch thuật Việt Nam, cũng như tất cả những ai có dính dự, gắn bó hoặc có ảnh hưởng trong lĩnh vực này, dù là cá nhân hay những định chế, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện tại, đang giáp mặt với những quan niệm, những phương cách làm việc mới. Họ đang thấy mở ra trước mắt mình những phong cảnh mới, những địa lý mới. Cách nhìn vấn đề cũng như thái độ làm việc của chúng ta, dù ở trong hay ở ngoài nước, trong lĩnh vực quan trọng và cần thiết này, chắc chắn sẽ định hình bộ mặt dịch thuật của Việt Nam trong tương lai.

 

Bùi Vĩnh Phúc
Tustin Ranch, California
VIII – 2013

 

____________________

Các nguồn tham khảo:

 
As-Safi, A.B. 1994. Translation Theories, Strategies, and Basic Theoretical Issues. Amman: Petra University.
 
Bassnett, Susan and Lefevere, Andre (eds.). 1990. Translation, History and Culture. London: Pinter.
 
Berman, Antoine. 1984. L’Epreuve de l’étranger. Culture et traduction dans l’Allemagne romantique. Paris: Gallimard.
 
Bhabha, Homi. 1994. The Location of Culture. New York & London: Routledge.
 
Munday, Jeremy. 2008. Introducing Translation Theories : Theories and Applications, 2nd Edition. London & New York: Routledge.
 
Nida, E. and Reybum, W.D. 1981. Meaning across Cultures. New York: Orbis Books.
 
Niranjana, Tejaswini. 1992. Siting Translation: History, Post-structuralism, and the Colonial Context. California: University of California Press.
 
Simon, Sherry. 1996. Gender and Translation: Cultural Identity and the Politics of Transmisssion. New York & London: Routledge.
 
Snell-Hornby, Mary. 2006. The Turns of Translation Studies: New paradigms or shifting viewpoints? Amsterdam: University of Vienna.
 
Spivak, Gayatri. 1993. “The Politics of Translation”, in Outside in the Teaching Machine. New York: Routledge.
 
Steiner, George. 1975. After Babel. London: Oxford University Press.
 
Venuti, Lawrence. 1992. Rethinking Translation. Discourse, Subjectivity, Ideology. London: Routledge.
 
Yang, Wenfen. 2010. “Brief Study on Domestication and Foreignization in Translation”. Journal of Language Teaching and Research, Vol. 1, No. 1, January 2010.

 

__________

Chú Thích:

 
(*) Khai triển từ bài thuyết trình cùng tên trong hội thảo về “Văn học Việt Nam trong thời toàn cầu hóa” tại Viện Việt Học, Westminster, California, ngày 13 tháng 7, 2013.
 
[1] Ngôn ngữ nguồn (source language), ngôn ngữ được đem ra để chuyển, để dịch, còn được gọi là ngữ nguồn; ngôn ngữ đích (target language), ngôn ngữ được dùng để chuyển bản gốc, còn gọi là ngữ đích (cũng giống như ngành “ngôn ngữ học” (linguistics) cũng có thể được gọi là ngành “ngữ học”). Trong một văn bản nói về lý thuyết dịch thuật, những từ ngữ này thường xuyên xuất hiện nên, để khỏi làm rườm rà bản văn, có những lúc, trong tiếng Anh, người ta chỉ thu gọn lại thành SL (ngữ nguồn) hoặc TL (ngữ đích).
 
(Văn) bản nguồn, trong tiếng Anh, được gọi là “source text” hay ST; (văn) bản đích được gọi là “target text” hay TT. Phong cách dịch theo hướng “ngoại (quốc) hóa” được gọi là phong cách “hướng nguồn”; phong cách dịch theo hướng “nội hóa” hay “bản địa hóa” được gọi là phong cách “hướng đích”.
 
Người viết xin phép được trình bày những chú thích khá rườm rà về những thuật ngữ này, ở đây, để giúp những độc giả chưa quen thuộc với những thảo luận hoặc những văn bản trong ngành Dịch Thuật Học (Translation Studies) đỡ ngỡ ngàng với một số dụng ngữ có thể là khá mới mẻ trong lĩnh vực này.
 
[2] Chúng ta có thể đọc thêm phần Bùi Giáng trình bày về lý do đưa đến phong cách dịch thuật của ông sau đây, trích trong “Lời Tựa” của bản dịch Cõi Người Ta do ông dịch (Sài Gòn: Quế Sơn, Võ Tánh, 1960), từ nguyên tác Terre des Hommes của Antoine de Saint-Exupéry:
 
“(…) Theo dõi giấc mộng dài của Saint-Exupéry, lại gọi ngôn ngữ Việt Nam về hạ tứ, nhiều phen phải bàng hoàng: Chúng ta đứng trước mấy lần hiểm họa của màu sắc lục hồng cứ trùng điệp rủ nhau bay, tung lên phủ xuống (…)
 
Dịch văn—sao cứ gọi là dịch?—dịch văn biến thành câu chuyện; vừa bay lên, vừa lặn xuống, vừa lẽo đẽo nối liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau. Thật vừa vui, vừa mệt mỏi.
 
Ngôn ngữ đa âm đòi hỏi lối phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn âm? Ðó là điều đáng xui chúng ta tư lự đăm chiêu.
 
Vì lẽ: tiết điệu đa âm có một phong thái dồi dào đương yêu cầu được tái hiện. Ðây là trường hợp: ở bên kia từ ngữ, tiết điệu của ngôn ngữ đương nói rất nhiều.
 
May sao, Việt ngữ đơn âm lại giàu sang âm vận. Nhưng không phải ở mọi cơ hội đều giản dị giàu sang. Do đó cần thêm một chút chuyển hóa thỏa đáng thì lời dịch sẽ tái lập được “cung bậc” gieo vàng của nguyên ngôn. Mà nguyên ngôn Saint-Exupéry lại chứa chan những thơ mộng khi u trầm, ngậm ngùi lúc lộng lẫy. Cái điệu nói la cà diệu vợi, vừa chát chát vừa hắt hiu, lúc nhắc tình bạn hữu, lúc gợi tiếng U già, lúc chuyện trò với gái trên nhịp cầu hai cõi hoang vu. “Tả nhi nữ tư tình, đãng khí hồi trường. Tả anh hùng sự tích, nghĩa bạc vân tiêu.” (…)
 
Trong bản dịch, có mấy chỗ thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa âm. Thỉnh thoảng lại bớt vài lời, ấy là bởi: Việt ngữ mang nhiều tính chất parataxique trong khi Pháp ngữ lại triệt để là một ngôn ngữ syntaxique. “
 
[3] “Rouble”, hay “ruble”, đơn vị tiền tệ của Nga. Như “dollar” của Mỹ, hay “đồng” của Việt Nam. “Datcha”, hay “dacha”, một căn nhà hay một villa ở miền quê nước Nga. “Glasnost” là chính sách được tuyên bố công khai trong nội bộ liên bang Xô-Viết ngày xưa, về việc thảo luận thẳng thắn và cởi mở những thực tại kinh tế và chính trị, được khởi xướng dưới thời của Mikhail Gorbachev vào năm 1985. “Perestroika”, cũng xảy ra trong nội bộ liên bang Xô-Viết xưa, nói về vấn đề tái cấu trúc hệ thống kinh tế và chính trị trong thập niên 1980, cũng dưới thời của Mikhail Gorbachev.
 
[4] “Pétanque”, một dạng thức chơi “bowling” trên nền đất, dùng những quả banh bằng thép, bắt nguồn từ Pháp. Nó cũng được gọi là “boule”. “Armagnac” là một loại rượu mạnh được sản xuất trong vùng Armagnac tại Gascony, miền tây nam nước Pháp. “Bastide” là một kiểu nhà nhỏ ở miền quê, cũng trong vùng tây nam nước Pháp.
 
[5] Tôi nói dịch thế là “khá hợp lý”, vì, thật sự, đoản ngữ dùng làm tựa đề này vẫn còn có chỗ hơi “chênh” so với tựa đề của bản gốc, tiếng Ý, và một số bản dịch ra các ngôn ngữ chính khác trên thế giới. Tựa đề của bản tiếng Ý và tiếng Anh thì đã được ghi trong bài. Bản tiếng Pháp: Si par une nuit d’hiver un voyageur; bản tiếng Tây-ban-nha: Si una noche de invierno un viajero. Tất cả đều dịch đúng theo nguyên tác tiếng Ý. Trong các tựa đề này không hề có từ “có” (như “there is”, “il y a”, v.v.). Một bạn văn, dịch giả Hoàng Ngọc-Tuấn, thấy được điều đó, đề nghị dịch là “Nếu một đêm đông một lữ khách”, bám thật sát nguyên tác trong tiêng Ý (cũng như phản ánh cách dịch sát như thế trong các bản tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Tây-ban-nha). Như thế sẽ tạo được hiệu ứng “lạ lẫm” và “bất ngờ” hơn. Nó tạo cảm giác “hụt hẫng”, vì ta không biết “người lữ khách” đó làm gì. (Và, phần còn lại, giống như câu dịch của TTCĐ, những chuyện gì sẽ xẩy ra với người ấy). Tôi nghĩ đề nghị này có sự hợp lý của nó, cho dù nếu dịch như dịch giả TTCĐ, thêm “có” và đổi “một” thành “người”, làm “mềm” cách dịch đi một chút bằng cách biến đổi như thế cho đoản ngữ này có được thêm phần âm điệu, tựa đề vẫn phản ánh được sự “hụt hẫng” ở một mức độ nào đó. Nhưng đó là một sự “hụt hẫng” hơi khác với nguyên gốc. Bởi lẽ, tôi nghĩ, trong nguyên văn, đây là một mệnh đề phụ bị bỏ lửng. Mệnh đề bỏ lửng này được bắt đầu bằng “If”, một liên từ (conjunction) đặt ở đầu một mệnh đề phụ mang tính giả định (như trong “I wouldn’t do that if I were you”, hoặc “If I were you, I wouldn’t do that”). “On a winter’s night” thì chỉ là một trạng ngữ (adverbial phrase), có thể tạm bỏ ra. Mệnh đề phụ này phải có một mệnh đề chính đi kèm thì câu văn mới hoàn chỉnh/hoàn tất. Phần chính của mệnh đề phụ còn bỏ lửng này sẽ là “If a traveler…”. Dịch là “Nếu (…) có người lữ khách” ( If [there is] a traveler ) thì mệnh đề phụ này hoàn chỉnh (There is a traveler), nhưng ý câu/câu văn vẫn chưa hoàn tất, vì mệnh đề này có “if” mang ý giả định đứng chặn ở đầu, nó vẫn đòi hỏi một mệnh đề chính theo sau để làm trọn nghĩa. Còn nếu dịch là “Nếu (…) một lữ khách” (If a traveler), sự “hụt hẫng” sẽ lại càng rõ hơn, vì chính mệnh đề phụ này cũng còn chưa hoàn chỉnh, chưa nói nó cũng vẫn cần một mệnh đề chính theo sau. Bởi vậy, tính cách bất ngờ, hụt hẫng của nó càng rõ ràng hơn. Nó hụt ý vì thiếu mệnh đề chính đã đành; chính mệnh đề phụ cũng chưa xong ý. Không bị làm “mềm” đi, nó “khục khặc”, gợi sự tò mò, và lại bám sát nguyên tác hơn. Nếu một đêm đông có người lữ khách, hay Nếu một đêm đông một lữ khách. Phải chọn lựa thôi! Và đó chính là cái thú vị và cái khó trong dịch thuật.
 
[6] Đây là cuốn phim hài pha chất lãng mạn, dựa trên vở kịch ba hồi cùng tên của George Axelrod. Tựa đề “The Seven Year Itch” (với từ “Year” không có “s”), đáng lẽ, đúng theo lối dùng từ pháp của những nhà ngôn ngữ nghiêm khắc, phải có một dấu gạch nối giữa “Seven” và “Year” (“The Seven-Year Itch”). Nó có nghĩa đen là “Cơn ngứa (sau) bảy năm (chung sống)”. Nó nói về sự nhàm chán của đời sống hôn nhân (trong chế độ “một vợ một chồng”, đặc biệt ở Bắc Mỹ) sau bảy năm người ta đã chung sống với nhau. Nó là một cụm từ được các nhà tâm lý học dùng để nói về tâm lý vợ chồng sau khoảng thời gian chung sống khá dài với nhau như thế. (Về mặt từ nguyên, cụm từ này có gốc gác trong lĩnh vực y khoa về một chứng bệnh ngứa!). Phim này cũng đã đem lại một trong những hình ảnh mang tính “thần tượng” (iconic image) nhất của thế kỷ XX: hình ảnh của Marilyn Monroe, đứng trên một cửa hầm tàu điện ngầm ở New York, với chiếc váy trắng bị thổi tung khi một chiếc metro vụt qua. Dù sao, với tôi, đọc nguyên văn vở kịch vẫn thấy thú vị hơn, mặc dù cuốn phim cũng rất “có duyên”.
 
Tựa đề phim tiếng Việt, “Bảy Năm Ngứa Nghề” (giống cách tổ chức từ/cấu trúc cụm từ trong bản tiếng Pháp là “Bảy Năm Trầm Tư / Bảy Năm Phản Tỉnh / Bảy Năm Suy Tư”), mặc dù có vẻ dịch khá sát nguyên tác “The Seven Year Itch”, thật ra, là dịch hơi khiên cưỡng, không đúng lắm. Đó là vì nguyên tác có từ “The”. Căn bản ở đây là “The Itch” (“Cơn ngứa”). “Seven Year”, hay đúng hơn là “seven-year” (có gạch nối) chỉ được dùng như một tính từ, bổ nghĩa cho “Itch”. Tên vở kịch, cũng là tên phim, nếu dịch sát nguyên văn, có nghĩa là “Cơn ngứa (ngáy) (sau) bảy năm (chung sống)”. Tức là sau bảy năm thì mới bắt đầu “ngứa ngáy”. Giai đoạn trước đó thì vẫn còn là giai đoạn “điều chỉnh”; đặc biệt trong giai đoạn đầu có khi còn có cảm giác “thiên đường” nữa! Có vẻ như tựa đề tiếng Việt đã được dịch từ cấu trúc của bản tiếng Pháp (thường là bản chuyển âm Pháp ngữ mà Việt Nam có cho các phim ngoại quốc trong giai đoạn đó), “Sept ans de réflexion”, rồi lấy cái ý về “ngứa” ở bản gốc tiếng Anh lắp vào. Dịch như thế, vô tình hay hữu ý, đã xem ý “bảy năm” là chính, trong khi thật sự thì cái ý về “cơn ngứa” mới là chính. Và không phải là “ngứa” trong bảy năm. Trong lý thuyết về tâm lý, năm thứ bảy chính là cột mốc. Sau đó, mọi chuyện mới đổ vỡ.
 
[7] Trong câu “Sie schwimmt gern”, “gern” là một trạng từ, kết hợp với một động từ để nói lên một ý nghĩa gần gụi với “thích làm một điều gì”. Trong tiếng Đức, möchten, mögen và gern có cùng điểm chung là đều có thể được dùng để nói về một điều gì mình thích, nhưng với những hàm ý hơi khác biệt:
 
* möchten + động từ: thích làm một điều gì (möchten là một trợ động từ). Như trong Frau Müller möchte nach München fahren: Bà Müller thích lái xe đi Munich.
 
* mögen: thích ai hoặc cái gì (mögen mặc dù cũng là một trợ động từ nhưng không cần đi cùng với một động từ trong một câu): Ich mag Jazzmusik: Tôi thích nhạc Jazz; Sie mögen Hunde: Họ thích chó.
 
* gern + động từ: thích làm một điều gì. Gern là một trạng từ. Như trong Ich spiele gern Klarinette: Tôi thích chơi kèn clarinette; Jens isst gern Pizza: Jens thích ăn pizza.
 
Để làm “trầm trọng” thêm vấn đề, gern cũng có thể kết hợp với möchten để làm cho lời phát biểu được nhấn mạnh: Ich möchte gern nach Australien reisen, có thể được dịch thành Tôi thật sự muốn đi du lịch đến nước Úc. Cùng với sự nhấn mạnh, cách dùng này làm cho ước muốn đó nghe có vẻ khó có thể xảy ra.
 
Bởi vậy, ở đây, ta phải “chào biệt” với cách dịch từng từ. Có những từ trong một ngôn ngữ này đòi hỏi nhiều từ khác biệt trong một ngôn ngữ khác để chuyển tải cũng một ý nghĩa, và ngược lại. Phần chú thích này lấy từ: http://deutschlernblog.edublogs.org/2008/11/30/mochten-morgen-gern/
 
[8] Động từ dejar trong tiếng Tây-ban-nha có nghĩa chính là “để lại một vật gì ở đâu đó”. Nghĩa của từ này sau đó được mở rộng, bao gồm cả ý “để lại/bỏ lại một cái gì (hay một người nào) ở đâu đó, đặt một vật gì ở đâu đó, hoặc bỏ rơi một điều gì đó”. Nó dễ bị lộn với động từ “salir”, cũng mang ý nghĩa là “to leave” trong tiếng Anh. Nhưng, để dịch “Cô ta sẽ lên đường/sẽ bỏ đi vào ngày mai”, người ta sẽ dịch thành “Sale mañana”; còn nếu muốn dịch câu “Tôi bỏ chìa khóa ở nhà” thì người ta sẽ dịch là “Dejé las llaves en casa.” Dejar, so với nhiều từ đơn nghĩa khác trong tiếng Tây-ban-nha, có thể được chuyển dịch nhiều cách tùy theo văn cảnh.
 
[9] Kebab là một thứ thịt lụi, thịt nướng vỉ, có nguồn gốc từ Trung Đông. Ở đó, thịt được nướng gần hoặc trên ngọn lửa. Món này, sau đó, lan sang vùng Balkans, rồi lan sang những nước Âu châu khác, rồi sang các xứ Trung và Nam Á, rồi, cuối cùng, lan ra toàn thế giới. Còn pincho là món thịt nướng xiên bằng tăm hay que, đặc biệt là ở vùng phía Bắc của Tây-ban-nha. Nó thường được xem là món “khai vị”, ăn trong các hàng quán với bạn bè hay người thân. Bởi thế, nó mang một khí vị, một tính cách xã hội mạnh mẽ.
 
[10] Cụm từ mang tính xuất thần và độc đáo, “tình yêu như trái phá”, của Trịnh Công Sơn đã được một dịch giả có tuổi đề nghị là có thể dịch sang tiếng Pháp thành “coup de foudre”, một thứ “tiếng sét ái tình”, hay sang tiếng Anh thành “love at first sight”, cũng là một thứ “tiếng sét” tương tự. Trong cái nhìn của tôi, đây là quan niệm dịch “kéo tác giả về phía người đọc” (chứ không phải “kéo người đọc về phía tác giả”). Hệ quả của lối dịch này là nó đè nén hay xóa nhòa những nét đặc thù văn hóa cùng bối cảnh lịch sử và xã hội của nền văn hóa trong bản gốc. Những quan niệm này tôi sẽ đề cập ở phần cuối bài.
 
Về cụm từ đặc biệt này của Trịnh Công Sơn, cùng những hình ảnh và ca từ bao quanh nó, tôi đã trình bày một số ý kiến khá chi tiết, được phổ biến trên mạng Da Màu, trong bài “Tình Yêu & Con Tim trong Tình Sầu của Trịnh Công Sơn: một thoáng dư ba (góp ý với Đinh Từ Bích Thúy và Thái Kim Lan)”, tại http://damau.org/archives/11585. Về đề nghị chuyển dịch cụm từ đó theo hướng “bản địa hóa” như đã nói ở trên, xin xem bài “Nhân vụ Trái Phá & Tình Yêu, bàn về chuyện chữ nghĩa, câu cú, dịch thuật, và phê bình” của tôi, cũng trên diễn đàn Da Màu, tại http://damau.org/archives/16484.
 
[11] Tập truyện ngắn Những Hạt Cát, cũng của Thế Uyên, do Thời Mới in lần đầu ở Sàigòn năm 1964, cũng gặp hoàn cảnh tương tự, nhưng ở một mức độ ít hơn. Chỉ một ít dòng, ở một vài trang, là bị kiểm duyệt đục bỏ!
 
[12] Thật ra, trong bản in, tên của dịch giả đề rõ hơn. Đó là Trí Hải, Vĩnh Bách và Lan Nhã. Dù sao, nhắc đến dịch phẩm này, người đọc thường “nghĩ gọn” là của (Công Tằng Tôn Nữ) Phùng Khánh, tên thật của dịch giả Trí Hải, người, trước đó, đã từng nổi tiếng với hai dịch phẩm Bắt Trẻ Đồng Xanh (dịch chung với Phùng Thăng tác phẩm The Catcher in the Rye của J.D. Salinger) và Câu Chuyện Của Dòng Sông (cũng dịch chung với Phùng Thăng tác phẩm Siddhartha của Hermann Hesse). Một số websites cũng ghi bản dịch này là của Phùng Khánh. Có những websites khác ghi bản dịch này (chỉ) là của Trí Hải.
 
[13] Những độc giả nào quan tâm về vấn đề này có thể đọc Sherry Simon trong Gender and Translation: Cultural Identity and the Politics of Transmisssion (1996); Keith Harvey trong Translating Camp Talk (2004); Gayatri Spivak trong chuyên luận The Politics of Translation; Tejaswini Niranjana trong Siting Translation: History, Post-structuralism, and the Colonial Context (1992); Homi Bhabha trong The Location of Culture (1994), v.v.
 
[14] Hệ hình, dịch từ “paradigm”, một thuật ngữ mà Thomas Kuhn đã mặc cho nó một ý nghĩa mới về mặt khoa học [trong tác phẩm The Structure of Scientific Revolutions (1962) (Cấu trúc của những cuộc cách mạng khoa học)], có nghĩa là một dạng thức, một bộ khung để nhìn vấn đề, đánh giá sự kiện. Nó cũng được xem là tập hợp của những giả định, quan niệm, giá trị, và những thao tác, những thực hành tạo nên một cách nhìn về hiện thực, cho một cộng đồng cùng chia sẻ chúng, đặc biệt trong lĩnh vực trí thức.
 
Có những văn bản tiếng Việt còn dịch “paradigm” là “phạm thức”, “hình mẫu”, “kiểu dụng”, v.v., nhưng từ “hệ hình” được dùng phổ biến hơn cả. Trong tiếng Anh, nó cũng còn được gọi là “disciplinary matrix”, một “ma trận mang tính quy luật”. Cuốn sách của Kuhn là một trong những cuốn sách tạo chấn động và gây ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX. “Paradigm shift”, sự “chuyển đổi hệ hình”, một cụm từ mà Kuhn dùng trong cuốn sách nói trên, cho dù ông không sáng tạo ra nó, theo John Naughton, có thể nói là một trong vài từ hay đoản ngữ, sau khi cuốn sách của Kuhn ra đời, được tìm kiếm nhiều nhất trên Google. Theo ông, tìm kiếm nó trên công cụ truy lục này cho ra 10 triệu lượt “truy cập”.

Nguồn: Tiền vệ.

Thơ Bùi Mai Hạnh

hanh - đen trắng

Vịn tối…

 

đổ xuống từ trời, bóng tối

đổ xuống xóm nghèo hoang liêu, đổ xuống cuống cuồng đường phố

khép lại ngày giống hệt ngày

chúng ta có gì để nói về hôm nay?

 

chúng ta có gì để hát về hôm qua?

hơi thở phả vào nhau khói độc

vòng tay quấn chặt nhau trói buộc

và những âm mưu mới say sưa nhai lại viễn mơ…

 

tương lai

trượt dài

mọi cánh cửa cũng trượt khỏi tầm mắt trong cuộc báo đền sòng phẳng

 

trườn lên từ đất, bóng tối

phủ lên những ấn tích…

ngập tràn gian tham ma mị

chúng ta vịn vào bóng tối, lần đi…

 

tôi không nhìn thấy tương lai của Tổ quốc tôi

 

Warrnambool 1997 – 2014

 

Vũ điệu mới

sáu bức tường trắng mắt

chật mùi đồ chết…

 

vùng quẫy!

mắt mở môi mở mười ngón mở

khe cửa nhỏ…

 

sáu bức tường vọng chờ…

ngoài kia nắng rỡ

ngoài kia kỳ dị mưa gió

em có mơ xói lở… bão ngoài kia?

 

sáu bức tường sụp đổ!

rạch mồ đất vỡ

trừng trừng mắt môi

bật dậy

lõa tõa thịt da

vía nhảy, hồn bay, mười ngón múa…

 

vũ điệu mới!

 

hà nội 1996

 

 

Hú Tên Người Tự Do                                          

 

Em băng bó đôi cánh thiên thần

gẫy gục ngục đời rượu nhạt tình bạc

Anh chạy rông thú hoang đạn lạc

xức dầu thơm cho cái đuôi linh hồn… 

 

Ta cuốn chặt nhau sợ hãi mê cuồng

tuyệt vọng săn lùng nhỏ nhoi hạnh phúc

như Người Nô Lệ khổ đau phóng tinh vào Cái Chết

Hú Tên Người Tự Do. 

 

Hà nội 2013

 

 

Zone Chín

 

Cho em Gi.Tr.

 

Em loăng quăng “Quảng trường thời đại đồng nát” 

Anh đánh võng hồn ma thầm thầm thì thì bán chúa buôn vua 

Môi anh sắc nặng búa liềm lãng mạn chen ngang “cửa hàng tem phiếu” hau háu

hập thò 

“Móc  ngoặc”  môi em ngọt đứ đừ mì chính cánh quốc doanh mậu dịch…  

 

Em bên Anh, mặc niệm, Zone Chín

Mắt em rượu chát, hơi thở anh khói tình… 

Nhắm dĩ vãng…

điêu linh…

 

Con cháu chúng mình khai quật Zone Chín… 

Cơn gió lạ đánh thức ngọn lửa nô lệ tàn tro

Vệt sao băng hi vọng xoẹt ngang đời ảm đạm

Ngắn ngủi tỉnh dậy, sặc tiết, giấc mơ tự do!!! 

 

Con gái giống em, con trai giống anh, lũ “đầu xanh tuổi trẻ” 

Khát khao dâng hiến, khát khao đòi hỏi… 

Khát run rẩy bong vỡ những mảng tường trơ lì già cỗi

Khát thay máu “quảng trường thời-đại-đồng-nát” 

 

Khát đau thương khắc chạm tên mình… 

 

Hà Nội 1.1.2014

 

 

Người nghệ sĩ

 

ôi! âm nhạc! ánh nến! tiếng đàn ghi ta, tiếng hát…

tiếng thầm thì cõi đau…

và Người Nghệ Sĩ!

 

cho em hôn trán bướng, mắt trắc ẩn ủ men tiếng đời

hôn ngón tay dây đàn đứt, gẫy.

 

cho em hôn đôi môi ngân lời đọi máu

từ tình yêu kiệt cùng…

 

yêu nến nhỏ hát gọi rừng lửa,

sáng đèn lên, sáng đèn lên đi…

 

yêu bóng tối phúc lạc sáng tạo,

nơi tẩy rửa niềm vui trần thế…

 

yêu buồn đẹp bần tiện cõi người,

nơi đớn đau tự do khóc cười …

 

tự do đắm say, tự do nức nở.

tự do đập phá, tự do nổ tung.

 

tự do thay đổi

 

thế giới.

 

Warrnambool 2012

 

 

Người  hát 

 

thức dậy rượu đêm thắp nến,

uống – tiếng – hát- em…

 

bài thánh ca…

giọng nữ đồng trinh

 

em hát, cho loài người còn mãi khát vọng bất tử

em hát, cho trái đất mong manh còn mãi đức tin không bằng cớ

em hát, cho bừng nở nỗi buồn cái đẹp – con nợ…

 

cho tình yêu vô vị lợi những tia nắng hào phóng, những giọt mưa thanh tẩy, những luồng gió tinh khôi 

cho mỗi sương mai tái sinh một nhành hoa một cọng cỏ một con kiến

cho tháng ngày hấp hối tuyệt vọng kiếm tìm ánh sáng…

 

cho gội rửa nghi ngờ cay đắng nhờn tởm vấy bẩn kiếp người

cho sự sống thét gào trên những nấm oan mồ

cho cái chết cứng khô đóng đanh mặt mày chính khách chiến tranh ái quốc…

 

cho rực rỡ rừng, cho hoan ca đất, cho hả hê sóng 

cho sụt – lở cho réo – sôi cho tung – hê cho nổi – loạn…

 

bầm môi giọng buồn đẹp

 

chết đi em,

thiên thần đến muộn

tia nắng óng sót lại giấc mộng ban chiều

và âm nhạc ngôn ngữ thánh

ngân rung ánh nến

bất tử

 

Warrnambool  2012

 

Tác giả gửi Văn Việt.