Nhớ lại sau 40 năm ra tù (kỳ 5)

Hoàng Hưng

Thưa các bạn yêu quí,

“Người nhớ lại” rất cảm động vì sự quan tâm và đồng cảm của hàng trăm bạn bè cũ và mới! Sau khi đọc bốn kỳ “nhớ lại”, một số bạn tỏ ý “tò mò” muốn biết về những ngày tháng trong tù của tôi! Thú thật, tù thì tất nhiên là buồn, khổ, đau… Nhưng không hiểu sao, về già, toàn nhớ những chuyện “vui” các bạn ạ. Hôm nay, tạm coi là kỳ cuối “nhớ lại”, xin kể hầu các bạn một “chuyện tù vui”. Và “nhớ lại” mãi cũng… rất mệt, phải nghỉ! Hẹn các bạn khi nào khoẻ lại… nhớ tiếp!

CHUYỆN “VUI” HOẢ LÒ – NHỮNG ĐÊM “HÁT ĐỐI” NÁO ĐỘNG PHỐ PHƯỜNG

Những tối mùa thu năm 1982, có hiện tượng vô tiền khoáng hậu giữa lòng Hà Nội: người đi đường chen nhau đứng ở ngã ba Hai Bà Trưng – Hoả Lò. Để nghe… trai gái tù nhân trong Hoả Lò “hát đối”!

“Maison Centrale” (Nhà [giam] Trung tâm) từ thời Pháp, có tên tiếng Việt là Hoả Lò, do nó được xây trên đất làng Hoả Lò, cái làng chuyên sản xuất ấm và hoả lò (một loại bếp đun) bằng đất. Nhưng với những ai đã từng vào đây thì nó không hổ danh, vì nóng bức kinh người, mà nước tắm thì quí như vàng!

Dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Hoả Lò là trại tạm giam của thành phố Hà Nội một thời gian dài, là nơi giam những người bị bắt để lấy khẩu cung, trước khi có án. Sau khi được toà án xử thành án thì tù nhân sẽ được chuyển đi các “trại cải tạo” nằm ở các tỉnh. Hoặc nếu được coi là thuộc vụ án chính trị quan trọng thì sẽ chuyển lên Trung tâm thẩm vấn Bộ Nội vụ ở ngoại thành Hà Nội.

Toàn cảnh Hoả Lò (ảnh trên mạng)

Chiều muộn 17/8/1982, chiếc xe bít bùng nhỏ đưa tôi vào đó. Sau khi làm thủ tục kiểm kê và thu giữ đồ đạc cá nhân trong đó có “tang vật vụ án” là tập thơ Về Kinh Bắc chép tay của Hoàng Cầm, tôi được đưa vào một phòng giam nhỏ, trong đó đã có sáu bảy người tù. Mấy người trung niên ra dáng “cựu cán bộ công nhân viên” và mấy cậu đầu trọc nhìn thấy ngay là dạng tù lưu manh!

Một cậu đầu trọc ra lệnh cho tôi nằm xuống, lấy chân dận mạnh mấy cú vào ngực tôi khá đau! Cậu bảo đây là đòn “chào buồng”, thủ tục bắt buộc đối với mọi “ma mới” nhập trại! Để biết thế nào là lễ độ với các “sĩ quan”, “đại bàng” ma cũ!

May mà một anh ra dáng “cựu cán bộ” đã nói cậu ngưng lại, và hỏi: “Anh bị bắt vào đây vì tội gì?”

Tôi trả lời: “Tội lưu truyền văn hoá phẩm phản động, là tập thơ của nhà thơ Hoàng Cầm!”.

Thế là anh nói tôi ngồi dậy! Không biết vì Hoàng Cầm nổi tiếng hay vì tội “chính trị” được coi là “sang trọng” ở chốn “ngoài vòng pháp luật” này?

Cậu trọc đầu có vẻ tiếc rẻ. Cậu thật thà nói: “Những người ở buồng này là đã có án, chờ ngày đi “bọp” (trại cải tạo). Anh có gì cho tôi làm kỷ niệm không?”. Tôi chẳng có gì ngoài chiếc khăn mùi xoa trong túi quần, liền móc ra cho cậu! Cậu đành nhận vậy!

Anh “cán bộ” hỏi kỹ hơn câu chuyện của tôi, và cho biết mấy anh “cán bộ” đây là phạm nhân trong vụ cháy lớn các nhà kho ở Cảng Hải Phòng mấy năm trước, nay đã thành án.

Đêm đầu tiên trong đời tù của tôi đi qua một cách… bình thường không ngờ, tôi chỉ thao thức ít phút rồi cũng chìm vào giấc ngủ sau một ngày quá nhiều sự cố!

(Hoàng Cầm cũng bị đưa vào phòng giam này vào ngày 20/8, và được những người ở đây kể là tôi đã vào đây chiều 17/8).

Nhưng đây mới là “phòng chờ” nằm ở khu ngoài của Hoả Lò, cùng với các phòng hỏi cung. Sáng hôm sau tôi được đưa vào khu trại giam chính thức bên trong. Ranh giới giữa hai khu là cái cổng sắt to cao ngất. Qua cửa, là cái sân rất rộng. Lúc ấy đúng vào giờ tù nhân ra sân ăn sáng! Đập vào mắt tôi là dăng dăng những hàng tù nhân đầu trọc lốc, mình xăm trổ, xương xẩu, chân tay nghều ngào như củi khô! Ấn tượng đầu tiên ấy được ghi lại về sau trong bài thơ “Vào”:

VÀO

Cánh cửa sắt đen kịt

Đóng sầm sau lưng tôi

Bỗng ào ào náo loạn

Như một bể dầu sôi.

Những cái đầu trọc lốc

Vươn theo từng bước đi

Những bộ xương đen đúa

Bốc lên mùi tử thi.

A! Địa ngục là đây

Ta bắt đầu kiếp quỉ

Sao dễ dàng quá nhỉ

Chỉ một bước một giây

Bước qua cánh cửa này

Kiếp người đã xa lắc.

Giật mình nghe tiếng quát:

– Cởi hết áo quần ra!

18/8/1982

Có một hình ảnh là lạ khiến tôi phải chú ý: giữa đám tù trẻ lưu manh, lại có một ông già râu tóc rất dài, có thể nói là có phong thái “tiên phong đạo cốt”! Sau tôi mới biết đó là Nguyễn Chí Thiện, cựu sĩ quan quân đội Quốc gia đã bị đi cải tạo sau 1954, rồi vì đem bản thảo tập thơ Hoa địa ngục vào Sứ quán Anh mà bị vào tù lần thứ hai (theo một tư liệu trên mạng thì đây là lần thứ ba!). Các công an trong trại thường nói nhạo ông là “tỷ phú không tiền” vì nghe nói tập thơ của ông đã được xuất bản ở nước ngoài! Họ nhốt ông chung với đám tù lưu manh cốt để mượn tay chúng trừng trị ông! Có biết đâu, chỉ sau ít ngày, ông đã chinh phục tất cả phòng giam với tài kể chuyện của mình! Sau khi kể hết các pho truyện Đông truyện Tây mà ông đã đọc, ông bắt đầu… sáng tác ra chuyện để kể cho bạn tù nghe mỗi tối sau giờ đóng cửa phòng giam! (Ông được trả tự do năm 1991 và sau đó sang Mỹ, chết ở Mỹ năm 2012).

*

Phòng giam của tôi là phòng số 18, ngay mặt đường Hoả Lò, là phòng dành cho các “cán bộ công nhân viên phạm tội lần đầu” (nhưng cũng có khoảng ¼ là tù hình sự, chắc họ xếp vào để “dằn mặt” đám tù hiền lành kia khi cần thiết). Vuông góc với nó, là phòng dành cho nữ tù nhân, nằm ở mặt tiền phố Hai Bà Trưng. Ở giữa là bốt gác của cảnh sát trại giam. Sau khi Hoả Lò bị phá để xây Hanoi Tower, trại tạm giam của thành phố Hà Nội chuyển ra ngoại thành, thì phòng giam số 18 vẫn được giữ nguyên làm vật chứng lịch sử của Maison Centrale, vì đây là nơi nhiều nhà cách mạng Cộng sản lừng danh từng bị giam giữ, như Trường Chinh, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng… Những năm 1960, nơi đây cũng giam giữ 60 phi công Mỹ, trong đó có John McCain. Khi tôi vào, thì số tù nhân trong phòng giam khoảng 200, đêm ngủ phải nằm “úp thìa” trên sàn mới đủ chỗ. Dịp 1000 năm Thăng Long, lần đầu Hoả Lò mở cửa cho dân vào tham quan, tôi sửng sốt thấy cảnh phòng giam thời Tây được phục dựng: chỉ có vài chục người, toàn được nằm trên sạp rất cao!!! (ảnh 2). Ôi, “tù Tây sướng hơn tù Ta” (nhại bài hát “Ôi hàng Tây quí hơn hàng Ta” được giang hồ Hà Nội chế từ câu thơ “Đông Trường Sơn nhớ Tây Trường Sơn” của bạn Phạm Tiến Duật) quá đi thôi! (Hoàng Cầm bị giam ở phòng số 20, phòng này đã bị phá khi xây Hanoi Tower).

Hàng ngày, cửa sắt lớn của phòng giam được mở ra khoảng 7 giờ sáng. Sau thủ tục “điểm danh” (cai tù tức “quản giáo” bước vào, đọc tên ai thì người ấy phải “đọc rõ số giam” của mình); sau đó người tù ra sân đánh răng rửa mặt chớp nhoáng. Suốt giờ hành chính cửa cứ mở để lâu lâu có người bị gọi đi “cung”; rồi tù ra ăn trưa, ăn chiều (hai bữa cơm của nhà tù phát). Còn lại, suốt thời gian ở trong phòng giam người tù phải tuyệt đối im lặng. Đến khoảng 5 giờ chiều, cửa đóng sầm lại, là bắt đầu thời gian “sinh hoạt tự do” cho đến lúc có kẻng đi ngủ (khoảng 9 giờ tối). Phòng giam bắt đầu thành một cái chợ với 200 con người đã phải âm thầm nhịn nói suốt ngày!

Rồi sẽ đến giờ “văn nghệ”! Những kẻ có tài lẻ hát hò được vinh dự phục vụ buồng! Chủ yếu là hát “nhạc vàng”! Tôi không quên được một người tù lái xe rác ngà ngà say rượu lỡ cán chết một người đi đường ban đêm, anh có giọng nam trung với bài tủ là Gửi người em gái miền Nam của Đoàn Chuẩn:

Cành hoa tim tím đắm say hương xuân nồng

Rừng đào phong kín cánh mong manh như hoa lòng

Một cậu chuyên “cắt bom” (ăn cắp đồ chở trên xe đạp bằng cách cắt dây buộc đồ đàng sau xe) giọng nam cao với bài Bài Thánh ca buồn:

Bài thánh ca đó còn nhớ không em

Noel năm nào chúng mình có nhau…

Tôi đã học thuộc bài hát này ở Hoả Lò và nó sẽ giúp tôi và những bạn tù bị chuyển đi trại Thanh Cẩm gần ba năm sau có bữa ăn sáng nóng hổi đầu tiên từ các cha cố bị giam giữ ở đó!

Là một “ca sĩ” có giọng hát nghe được, từng học thanh nhạc từ năm 12 tuổi với nữ ca sĩ nổi tiếng một thời là Minh Đỗ, từng là đội trưởng đội ca thiếu nhi Hà Nội từng được vào Phủ Chủ tịch mỗi tối thứ Bảy để phục vụ Bác Hồ tiếp khách là các chuyên gia Trung Quốc đang giúp Việt Nam xây dựng miền Bắc, là trưởng ban văn nghệ trường cấp 3 An Dương Hải Phòng đêm đêm dẫn học sinh ra hát hò động viên các chiến sĩ phòng không trên ụ pháo, tôi đã góp phần tốt đẹp trong những tối văn nghệ Hoả Lò; và nhờ thế, nhanh chóng được chuyển từ thân phận “ma mới” phải nằm ngủ dưới sàn xi măng, gần “nhà mét” (nhà vệ sinh) hôi thối lên bệ cao ở giữa phòng, tức là được hưởng tiêu chuẩn của “sĩ quan”, “đầu gấu”!

Cùng với tôi, còn có anh Phạm Sông Tương, nghệ danh là Tương Giang, làm việc ở Ban Văn nghệ đài Tiếng nói Việt Nam, tổ dân ca, ca cổ. Anh can tội làm những bài thơ “phản động” và bị chính vợ mình tố cáo với công an! Biết thế, anh đem chồng bản thảo của mình đi gửi thì bị bắt giữa đường. Thật tình tôi thấy tinh thần anh không được bình thường, những bài thơ “phản động” của anh phần lớn ngồ ngộ, kiểu như:

Tên tôi là Phạm Sông Tương

Suốt ngày chửi mắng coi thường cấp trên

Tiến lên ta quyết tiến lên

Tiến lên ta gọi cấp trên bằng thằng”!

Anh không có ai “tắc” (tiếp tế), nên bữa ăn nào tôi cũng chia sẻ với anh đồ ăn mà gia đình tôi gửi vào. Anh chuyên phục vụ phòng bằng các bài hát chèo.

Một người nữa là một thanh niên, ca sĩ của một đoàn văn công địa phương nào đó, không rõ bị bắt vì tội gì.

Không thể quên được những tối “văn nghệ” Hoả Lò! Đặc biệt nhất, có lẽ chỉ có một lần trong lịch sử nhà tù này, là những tối “hát đối” của chúng tôi với tù nhân nữ ở phòng bên!

Nhân tiện kể một chuyện kỳ quái diễn ra trong những buổi tối sau khi đóng cửa phòng. Phòng tôi có một tay “đầu gấu” to con, không biết phạm tội gì nhưng chắc là trọng án, triển vọng tù mọt gông, nên rất ngỗ ngược, không biết sợ ai. Chiều chiều cứ đóng cửa phòng là hắn trèo lên lưng chừng cửa sắt, từ trên ấy có thể nhìn sang “nhà mét” của phòng nữ. Hắn treo mình ở đấy để theo dõi tất cả những nữ tù nhân thay đồ lót, tắm rửa, và vừa nhìn vừa… công khai thủ dâm. Mọi người im lặng cho hắn hưởng cái đặc quyền kỳ quái ấy. Theo hắn kể, thì nhiều tù nhân buồng nữ biết việc ấy, nhưng cũng đồng loã, thậm chí còn cố tình “biểu diễn” cho hắn xem! Thật đúng với câu thành ngữ “b… tù cu hãm”, đúng hơn nữa phải là “l… tù cu hãm”.

Một buổi tối, từ bên phòng nữ, nổi lên một giọng hát nữ, xướng một câu hò lục bát! Rồi ngừng lại như chờ đợi!

Phòng tôi ban đầu không ai để ý, nhưng khi bên nữ lặp lại câu hát mấy lần, thì mọi người hiểu là bên phòng nữ “thách đối”, nên nhao nhao yêu cầu tôi với Tương Giang phải đáp lại.

Thế là hai đứa chúng tôi phải thay nhau nghĩ ngay một câu hò lục bát để đáp lại bên nữ.

Tôi không còn nhớ được những câu hò đối đáp hồi ấy giữa hai phòng, nhưng phải nói thật là bên nữ, chắc là mấy cô thôn nữ ở những vùng quen hát đối, nghĩ rất nhanh những câu hò thú vị khiến hai chúng tôi mang tiếng là “nhà thơ, nhà báo chuyên nghiệp” mà toát mồ hôi mới nghĩ kịp câu đáp. Và người cất tiếng hò lên câu lục bát mà hai chúng tôi nghĩ ra chính là anh ca sĩ địa phương nọ.

Với những ai chưa hiểu về lối hò đối đáp như thế, xin tham khảo ví dụ sau đây:

Bên nữ:

– Hò ơ…

Đố anh chi sắc hơn dao

Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời?

Bên nam:

– Hò ơ…

Em ơi mắt sắc hơn dao

Bụng sâu hơn biển, trán cao hơn trời

Bên nam:

– Tóc em dài sao em không bới

Để chi dài bối rối dạ anh?

Bên nữ:

– Tóc em dài em cái hoa thiên lý

Anh ngó làm gì cho bối rối dạ anh?

Bên nữ:

– Khế với chanh một lòng chua xót,

Mật với gừng một ngọt một cay.

Ra về bỏ áo lại đây,

Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng.

Bên nam:

– Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp,

Trả áo cho anh về đi học kẻo trưa

(sưu tầm trên mạng)

Cả phòng hào hứng theo dõi cuộc hò đối đáp và vỗ tay tán thưởng! Thật là những giờ phút xả hơi hiếm có trong cảnh tù đày!

Những anh lính canh trên bốt gác chắc cũng khoái nghe, nên không can thiệp gì hết!

Những tối “hát giao duyên” của tù nhân Hoả Lò kéo dài được khoảng một tuần lễ thì một tối, đang mê mải hò, bỗng có tiếng đập cửa sầm sầm và tiếng quát bên ngoài:

– Ai cho chúng mày hát hò ầm ĩ thế hả? Im ngay!

Thì ra các tối, người đi đường đứng lại đầy góc phố Hai Bà Trưng-Hoả Lò để nghe tù hát đối!

Chắc là Ban giám thị Hoả Lò hay cấp trên nữa khi biết tình trạng ấy, hạ lệnh cấm ngay!

Từ đấy chấm dứt chương trình giao duyên! Thật tiếc!

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.