Cách đọc “Những linh hồn da đen” trong thời đại hậu chủng tộc

Jonathan Scott Holloway

Nguyễn Hồng Anh, dịch từ: Holloway, J. S (2015), Introduction, in W. E. B. Du Bois, The Souls of Black Folk, Yale University, pp. ix-xxxvii)

Một tiểu sử trí thức

“Tôi ngồi với Shakespeare và ông không tỏ vẻ dè chừng. Vượt qua ranh giới màu da, tôi bước đi tay trong tay với Balzac và Dumas, giữa những quý ông mỉm cười và những quý bà dịu dàng lướt qua trong các đại sảnh dát vàng. Từ những hang động của buổi đêm, nơi giao thoa giữa mặt đất rắn rỏi và đường nét của các vì tinh tú, tôi triệu hồi Aristotle và Aurelius và bất cứ linh hồn nào tôi muốn, và họ đều đến với lòng ân cần, không hề khinh miệt hay ngạo mạn”

W. E. B. Du Bois, “Về việc đào tạo người da đen”

Người New England. Nhà tư tưởng đề cao tầng lớp trung lưu. Nhà luận chiến. Nhà xã hội học đô thị. Người miền Nam. Người theo chủ nghĩa liên Phi [Pan-Africanism]. Người theo chủ trương đồng hóa. Giáo sư. Người theo chủ nghĩa tinh hoa. Nhà hoạt động dân quyền. Biên tập viên. Tiểu thuyết gia. Người tiến bộ. Nhà hoạt động hòa bình chống hạt nhân. Người bị nghi ngờ. Người đứng đầu. Người cộng sản. Người Ghana.

Mỗi từ này đều mô tả William Edward Burghardt Du Bois vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời ông. Sinh ra ở Great Barrington, Massachusetts năm 1868, W. E. B. Du Bois (phát âm là doo-boys) là một trong những nhân vật quan trọng và hấp dẫn nhất trong lịch sử văn học và chính trị hậu giải phóng. Có lẽ Du Bois nổi tiếng nhất với lập trường nguyên tắc chống lại triết học chính trị về sự thỏa hiệp chủng tộc của Booker T. Washington, ông cũng thiết lập các lĩnh vực nghiên cứu mới, giúp lãnh đạo một trong những hội văn hóa đầu tiên dành cho trí thức da đen và cố vấn cho nhiều thế hệ học giả và nhà hoạt động da đen. Ông bắt đầu tham gia vào các cuộc đấu tranh dân quyền khi giúp thành lập Phong trào Niagara năm 1905 và Hiệp hội Quốc gia vì sự Tiến bộ của Người Da Màu (NAACP) năm 1909. Mặc dù có mối quan hệ phức tạp với NAACP nhiều thập kỷ từ khi tổ chức thành lập, vai trò của Du Bois đối với lịch sử đấu tranh cho quyền công dân đầy đủ của người da đen luôn quan trọng đối với các lãnh đạo nổi bật nhất của phong trào. Một khoảng khắc ấn tượng chứng tỏ điều này: Vào buổi sáng diễn ra Cuộc tuần hành ở Washington vì Việc làm và Tự do, Roy Wilkins, người đứng đầu NAACP, bước lên bục và thông báo đến 250.000 người biểu tình rằng Du Bois đã qua đời đêm trước tại Ghana. Wilkins nói: “Bất chấp thực tế là vào những năm cuối đời, Tiến sĩ Du Bois đã chọn con đường khác, ta vẫn không thể phủ nhận rằng vào buổi bình minh của thế kỷ 20, ông chính là tiếng nói kêu gọi các bạn tập trung tại đây hôm nay vì sự nghiệp này. Nếu các bạn muốn đọc chút gì liên quan đến năm 1963, hãy quay lại và lấy một bản Những linh hồn da đen của Du Bois xuất bản năm 1903”[1].

Những linh hồn da đen là một trong những kiệt tác không thể chối cãi của văn học Mỹ gốc Phi. Khi Du Bois còn trẻ, chỉ mới ba mươi lăm tuổi lúc xuất bản cuốn sách, ông đã tạo nên dấu ấn lớn trong thế giới nghệ thuật và văn chương của người da đen. Vì Du Bois chưa bao giờ tự đánh giá thấp giá trị của mình, nên có thể nói rằng ông biết mình đã đạt được thành tựu gì khi viết cuốn sách này. Tuy nhiên, khó có thể tưởng tượng rằng Du Bois có thể lường trước được Những linh hồn da đen – một phần là văn xuôi giàu chất thơ, một phần là chuyên luận xã hội học, một phần là hồi ký, một phần là truyện ngắn, một phần là tuyên ngôn, một phần là điếu văn – rồi sẽ trở nên quan trọng và tồn tại lâu bền đến vậy[2].

Dễ hiểu vì sao cuốn sách giữ vai trò quan trọng khi Du Bois từng tham gia rất nhiều hoạt động tư tưởng và chính trị của người Mỹ gốc Phi thế kỷ 20. Mặc dù Những linh hồn da đen không phải là cuốn sách đầu tiên của ông, nhưng qua đây Du Bois xuất hiện như một thế lực chính trong các cuộc tranh luận trung tâm về dân quyền và nhân quyền của người Mỹ gốc Phi. Cuốn sách đã đưa ra bản cáo trạng mạnh mẽ đối với nền chính trị thỏa hiệp mang tính bảo thủ của thời kỳ chuyển giao thế kỷ, củng cố vai trò trung tâm của triết lý nâng cao địa vị trong các tầng lớp xã hội và chính trị trung lưu da đen trong nhiều thập kỷ tới. Cách tiếp cận liên ngành của ông khi mô tả cuộc sống của người da đen khiến cuốn sách có giá trị lâu dài đối với các thế hệ học giả tương lai muốn nói đến vị trí trung tâm của đời sống người da đen trong âm nhạc, nghệ thuật văn chương và những hình dung xã hội học. (Dự án tri thức văn hóa cấp tiến này của Du Bois thể hiện rõ cả trong bố cục của cuốn sách. Mỗi chương mở đầu với hai trích dẫn: một đoạn văn xuôi trích từ tác phẩm kinh điển châu Âu và một đoạn nhạc trích từ thánh ca của người da đen. Du Bois không hề ngần ngại khi đặt những ví dụ văn hóa này cạnh nhau và khẳng định rằng độc giả của ông hiểu sự sánh vai này như một sự bình đẳng giữa những sản phẩm văn hóa có ảnh hưởng lẫn nhau).

Những linh hồn da đen có thể chiếm một vị trí đặc biệt có giá trị lâu dài trong thế giới học thuật, nhưng giá trị vượt ra khỏi tháp ngà của nó là gì? Rốt cuộc, không thể phủ nhận rằng nhiều thứ đã thay đổi qua nhiều thập kỷ từ khi Du Bois đưa ra các đánh giá và dự đoán. Mặc dù ông qua đời ngay thời điểm cận kề diễn ra một số thay đổi đáng chú ý nhất – Đạo luật Dân quyền và Quyền Bầu cử được thông qua, cải cách nhà ở liên bang, thể chế hóa chính sách hành động khẳng định [“affirmative action”, nhằm đảm bảo không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc trong giáo dục hay tuyển dụng – N.D] trong công nghiệp, chính phủ và khối đại học (dù đã phai mờ trong thời đại chúng ta) – và chỉ vài thập kỷ trước khi một tổng thống người Mỹ gốc Phi được bầu, Du Bois đã có thể nhìn thấy một châu Phi đang giải thuộc địa và mở ra những khả năng cho tương lai. Trước những thay đổi trong nước và quốc tế cùng với gợi ý ngày càng tăng rằng thế kỷ 21 chúng ta đang sống là “thời đại hậu chủng tộc”, một số người có thể kết luận rằng Những linh hồn da đen là một di tích, một nguồn tài liệu chính chỉ dành riêng cho giới học giả muốn hiểu rõ hơn về một thời điểm cụ thể trong lịch sử. Trước khi cầm cuốn sách lên, độc giả đương đại thậm chí có thể thắc mắc liệu Những linh hồn da đen có còn dự đoán được các cấu trúc quyền lực và tương tác văn hóa hay không và liệu có thể bác bỏ ý kiến cho rằng nó có liên quan lâu dài đến công chúng rộng rãi hay không.

Sẽ là vội vàng nếu bác bỏ nó.

Cũng như cách Roy Wilkins nhắc nhở người biểu tình tập trung tại Quảng trường trung tâm Washington nên đọc kiệt tác của Du Bois nếu muốn hiểu lịch sử cuộc đấu tranh dân quyền lâu dài của đất nước, chúng ta cũng trở nên hiểu biết hơn khi đọc Những linh hồn da đen: nó vẫn cất lên tiếng nói với chúng ta hôm nay và với tình trạng hiện tại của chúng ta. Ngay cả khi nhiều thứ đã thực sự thay đổi kể từ khi cuốn sách được xuất bản lần đầu, những tuyên bố cho rằng, hiện tại, bằng cách nào đó chúng ta đang ở trong thời đại “hậu chủng tộc”, vẫn gây nên nhận thức bất hoà. Một danh sách các sự kiện về quyền công dân, lao động, giáo dục, bệnh lý và bạo lực liên quan đến chủng tộc – đều là chủ đề trong sách của Du Bois – thậm chí hiện đang được đưa vào ý thức tập thể của chúng ta, và các cuộc tranh luận về di sản của chế độ nô lệ chủng tộc, mà nhiều người coi là tội lỗi nguyên thuỷ của quốc gia chúng ta, vẫn lấp đầy các trang báo chính thống và internet[3].

Đối với Du Bois, vấn đề chủng tộc không vượt ra ngoài phạm vi luận lý của con người. Trái lại, ông nhiều lần chỉ ra trong Những linh hồn da đen rằng, làm thế nào di sản của những thực hành xã hội, chính trị và kinh tế lại mang lấy lớp vỏ chủng tộc và làm thế nào sự chiếm dụng này lại là kết quả từ những lựa chọn có chủ đích. Có những người muốn vấn đề chủng tộc biến mất (khi các chính sách hành động khẳng định tạo ra sự “ưu tiên” chủng tộc, chẳng hạn). Tư tưởng chủng tộc là một kiến tạo của con người khiến họ tin rằng, con người, ít nhất là ở Hoa Kỳ, có thể giải kiến tạo, và thực sự đã giải kiến tạo, điều đã được tạo ra từ thời lập quốc. Nhưng khi đọc kỹ Những linh hồn da đen, bạn sẽ nhận ra rằng tư tưởng chủng tộc là sản phẩm được kiến tạo vẫn chia rẽ con người và nó thấm đẫm vào những gì đất nước này từng là, và trên thực tế, vẫn đang là.

Khi chúng ta nghĩ về các quá trình hình thành và tính bền vững của việc kiến tạo chủng tộc, Những linh hồn da đen đặc biệt hữu ích nhờ cách tác phẩm biểu đồ hoá ý thức chủng tộc đang phát triển trong chính Du Bois. Từ những trang đầu tiên của cuốn sách, chúng ta khám phá ra rằng Du Bois, “người của vấn đề chủng tộc” vĩ đại, người trí thức da đen ưu tú của thế kỷ 20, không phải sinh ra đã mang trong mình một sứ mệnh về chủng tộc. Cảm thức chủng tộc của ông là do học hỏi. Và mặc dù điều kiện vật chất của rất nhiều người ở đất nước này đã thực sự thay đổi, những thế lực hình thành quan điểm chủng tộc vẫn không thay đổi về cơ bản kể từ khi Những linh hồn da đen lần đầu ra mắt. Cuốn sách đứng vững như một khẳng định buồn bã rằng ý thức “hậu chủng tộc” là một ý thức sai lầm.

Cuộc khảo sát về những năm đầu đời của Du Bois cho thấy đó là một cậu bé tài năng và quyết tâm, đã lớn lên thành một chàng trai trẻ có ý thức về chủng tộc trong hoàn cảnh cậu được nuôi dạy. Ông lớn lên ở Great Barrington giữa cộng đồng đa ngôn ngữ của những người nhập cư và đã sống một cuộc sống khá bình thường và bình dị, theo lối sống đó. Ông chắc chắn nhận thức được những khác biệt chủng tộc ở Great Barrington – chỉ có vài chục người da đen trong một cộng đồng năm ngàn người – nhưng mẹ ông và ông được những nhân vật da trắng hàng đầu chào đón và ủng hộ (mục sư của Giáo hội Hội chúng [Congregationalist Church], vị hiệu trưởng của hai trường khác nhau), và Great Barrington sẽ luôn là nơi đóng vai trò quan trọng nền tảng trong đời ông[4].

Mặc dù được nhiều người ở Great Barrington ngưỡng mộ và kính trọng, Du Bois sớm nhận ra rằng thành công của mình phụ thuộc vào thiện ý của bạn bè cùng trang lứa. Trong những đoạn mở đầu “Về những nỗ lực tinh thần của chúng tôi”, chương đầu tiên của Những linh hồn da đen, Du Bois kể lại việc khám phá ra sự khác biệt chủng tộc đã ảnh hưởng đến cuộc sống của ông như thế nào và giới thiệu ẩn dụ trung tâm của cuốn sách: “bức màn” chủng tộc ngăn cách người da trắng với người da đen. Ông viết về một ngày “vui vẻ” trao đổi danh thiếp với các bạn cùng lớp cho đến khi một cô bé mới đến thị trấn từ chối nhận danh thiếp của ông. Đó là khoảnh khắc khi “bóng tối quét qua tôi”: “tôi đột nhiên nhận ra rằng mình khác biệt với những người khác… bị ngăn cách khỏi thế giới của họ bởi một bức màn lớn”.

Du Bois đã tận dụng rất tốt câu chuyện thời thơ ấu và sự thiếu lịch sự của người mới đến này. Ông giải thích những khoảnh khắc như thế đã thúc đẩy ông hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, giúp ông luôn háo hức bác bỏ phẩm chất giả định của bức màn chủng tộc. Ông nhớ lại: “Từ đó, tôi chẳng còn mong muốn xé bỏ bức màn đó, để chui qua; tôi coi thường tất cả những gì ở phía bên kia, và sống cao hơn nó, trong một vùng trời xanh và bóng mây rộng lớn lang thang. Bầu trời ấy xanh nhất khi tôi có thể vượt qua đám bạn bè trong kỳ thi, hay thắng bọn chúng trong một cuộc chạy đua, hay thậm chí đánh bại những cái đầu bảo thủ của chúng. Than ôi, qua năm tháng, tất cả sự khinh thường cao quý ấy bắt đầu phai nhạt; vì thế giới tôi khao khát, và tất cả cơ hội rực rỡ trong đó, là của họ chứ không phải của tôi. Nhưng tôi tự nhủ: họ sẽ không giữ được những phần thưởng đó mãi; một phần nào đó, hay tất cả, tôi sẽ giành lại”.

Khi bước vào tuổi thiếu niên, Du Bois đầy tham vọng kết luận rằng mình sẽ vượt trội hơn các bạn cùng lứa trong thế giới tư tưởng. Với mục tiêu đó, ông hướng tới Harvard. Các cố vấn học tập của Du Bois lo ngại rằng trường học ở Great Barrington chưa chuẩn bị đầy đủ cho ông trước những đòi hỏi khắt khe ở Harvard và gợi ý ông nên theo học tại Đại học Fisk, ở Nashville, Tennessee. Dù trong những năm sau đó, mọi người thấy ông đã tận tụy hết mình để cải thiện chất lượng cuộc sống của người Mỹ gốc Phi, nhưng việc chuyển đến Fisk là lần đầu tiên ông tiếp xúc lâu dài với một cộng đồng người da đen đông đảo và là lần đầu tiên ông có trải nghiệm ở miền Nam.

Bốn năm ở Fisk rõ ràng đã ảnh hưởng đến Du Bois. Những điều sỉ nhục ông phải chịu đựng ở thị trấn thời thơ ấu trở nên nhạt nhòa khi so sánh với những gì ông chứng kiến và trải qua ở miền Nam. Trong Những linh hồn da đen, Du Bois dành vài chương (“Về đôi cánh của Atalanta”, “Về Vành Đai Đen”, “Về cuộc tìm kiếm Bộ lông Cừu vàng”, “Về con cháu của chủ nhân và đầy tớ”) để chuyển từ các nghiên cứu lâm sàng về lịch sử, chính trị và lao động miền Nam sang những quan sát đau đớn về bạo lực chủng tộc, cảnh bần cùng và những giấc mơ tan vỡ. Chỉ một đoạn trong “Về Vành Đai Đen” đã nắm bắt được sự chênh lệch trong khu vực này:

“Đây là một vùng đất của những tương phản rõ rệt, của sự pha trộn kỳ lạ giữa hy vọng và nỗi đau. Ngồi đây là một cô gái lai da đen mắt xanh xinh đẹp đang giấu đôi chân trần; cô mới kết hôn tuần trước, và đằng kia trên cánh đồng là người chồng trẻ da ngăm của cô, đang cuốc đất để nuôi cô, với mức lương ba mươi cent một ngày không bao gồm bữa ăn. Bên kia đường là Gatesby, da nâu và cao lớn, chủ của hai ngàn mẫu đất giành được và đã khôn ngoan giữ được nó. Có một cửa hàng do người con trai da đen của ông điều hành, một xưởng rèn, và một nhà máy bông. Cách năm dặm về phía dưới là thị trấn do một người da trắng New England sở hữu và kiểm soát. Ông ta sở hữu gần như một quận của Rhode Island, với hàng ngàn mẫu đất và hàng trăm lao động da đen. Nhà của họ trông đẹp hơn hầu hết những căn nhà khác, và trang trại, với máy móc và phân bón, có tổ chức hơn nhiều so với bất kỳ trang trại nào trong quận, dù người quản lý luôn mặc cả lương. Bây giờ chúng ta quay lại và nhìn lên năm dặm phía trên, ở rìa thị trấn có năm nhà thổ – hai của người da đen và ba của người da trắng; và trong một ngôi nhà của người da trắng, một cậu bé da đen vô giá trị được chứa chấp quá lộ liễu hai năm trước; vì vậy cậu đã bị treo cổ vì bị cáo buộc tội hiếp dâm. Và ở đây, cũng có hàng rào trắng cao của “khu trại”, cách gọi nhà tù quận; người da trắng nói rằng nơi này luôn đầy rẫy tội phạm da đen, người da đen nói rằng chỉ có những cậu bé da màu mới bị tống vào tù, không phải vì phạm tội, mà vì nhà nước cần tội phạm để kiếm thêm thu nhập từ lao động cưỡng bức của họ”.

Chứng kiến những chênh lệch quá mức như vậy và quá nhiều tiềm năng con người bị lãng phí đã thúc đẩy Du Bois đi theo tiếng gọi phục vụ cho chủng tộc của mình. Ông tin rằng mình nên tiếp tục học và rồi trở thành một “thừa sai văn hóa cho một dân tộc chưa được giáo dục” như ông viết trong chương “Về đôi cánh của Atalanta”. Quyết tâm thời thơ ấu của Du Bois là chứng minh mình vượt trội hơn bạn bè đồng trang lứa đã được gói gọn trong những thành tựu học thuật của ông, và ông đã tập trung tầm nhìn vào việc dẫn dắt chủng tộc mình tiến lên phía trước, không phải trên đôi vai mà là trong sự thức tỉnh lớn của ông.

Sau khi tốt nghiệp Đại học Fisk năm 1888, Du Bois trúng tuyển vào Harvard với tư cách là sinh viên năm ba (những năm tháng học tại Fisk đã giúp ông chuẩn bị cho những thách thức tại Harvard, theo quan điểm của các cán bộ tuyển sinh của trường); ông ở lại Cambridge để học sau đại học. Vào thời điểm ông nhận bằng Tiến sĩ năm 1895 – người Mỹ gốc Phi đầu tiên nhận được bằng cấp này tại Harvard – ông đã dành hai năm tại Đại học Berlin theo diện học bổng và bắt đầu giảng dạy tại Đại học Wilberforce, ở Ohio. Luận án của ông, Sự đàn áp của việc buôn bán nô lệ châu Phi vào Hoa Kỳ, 16381870 [The Suppression of the African Slave Trade to the United States of America, 16381870], là cuốn sách đầu tiên được xuất bản trong loạt sách Nghiên cứu lịch sử nổi tiếng của Harvard.

Với tấm bằng trong tay và một ấn phẩm lớn đang thực hiện, Du Bois dường như sắp bắt đầu một sự nghiệp đột phá tại một trong những trường đại học nghiên cứu hàng đầu quốc gia. Khi Đại học Pennsylvania thuê ông từ Wilberforce với tư cách là trợ lý xã hội học, lộ trình này dường như vẫn đúng. Du Bois được đưa đến Penn để tiến hành một nghiên cứu mở rộng về các khu phố người da đen của Philadelphia, là khu vực da đen lớn nhất cả nước. Khi hoàn thành và xuất bản nghiên cứu của mình, Người da đen Philadelphia [The Philadelphia Negro], Du Bois hi vọng sẽ được đề nghị một vị trí giảng dạy để ghi nhận thành quả của mình – một nhiệm vụ hoàn toàn phù hợp với ông. Ông tin rằng phương pháp luận của ông đã mở ra những cách thức hoàn toàn mới để tiến hành nghiên cứu xã hội học và nhấn mạnh các vấn đề kinh tế xã hội quan trọng đang cản trở người da đen ở Philadelphia và ngăn cản họ phát huy hết tiềm năng của mình. Tuy nhiên, ban lãnh đạo trường đại học cảm ơn công trình ông thực hiện và từ chối trao cho ông một vị trí lâu dài. Du Bois không bao giờ vượt qua được sự khinh miệt đó. Mặc dù ban điều hành tại Penn không đánh giá cao giá trị nghiên cứu của Du Bois, nhưng ngày nay ông được ghi nhận là người đã sáng tạo ra lĩnh vực dân tộc học đô thị và định hình lại cách thức tiến hành nghiên cứu xã hội học về các thành phố.

Trong khi Du Bois đang trong quá trình nghiên cứu và viết Người da đen Philadelphia, ông đã tham gia vào một dự án tri thức khác: giúp thành lập Học viện Người Mỹ Da Đen (ANA). ANA được thành lập năm 1897 để ứng phó với sự thay đổi định hướng của lãnh đạo người da đen trong những ngày suy tàn vào cuối thế kỷ 19. Frederick Douglass qua đời vào tháng 2 năm 1895, và với sự ra đi của ông, người Mỹ da đen đã mất đi tiếng nói hàng đầu đấu tranh cho quyền công dân đầy đủ của họ. Chỉ vài tháng sau khi Douglass qua đời, Booker T. Washington, người sáng lập và là người đứng đầu Viện Tuskegee, trở nên nổi tiếng với bài diễn thuyết tại Triển lãm Bông các Tiểu bang và Quốc tế ở Atlanta [Cotton States and International Exposition] ủng hộ một nền hòa bình kinh tế và chủng tộc, mà đối với những người chỉ trích ông, tư tưởng đó đã đẩy người da đen vào tình trạng hạng hai vĩnh viễn. Khi đó, Tòa án Tối cao chỉ còn một năm nữa là đưa ra phán quyết vụ Plessy kiện Ferguson rằng phân biệt chủng tộc là hợp hiến (học thuyết “tách biệt nhưng bình đẳng” vẫn được áp dụng cho đến khi Tòa án Tối cao đảo ngược tiến trình vào năm 1954 với phán quyết trong vụ Brown kiện Hội đồng Giáo dục).

Chủ tịch đầu tiên của ANA là Alexander Crummell, một linh mục bảy mươi tuổi và là cựu nhà truyền giáo đã chuyển đến Washington, DC và thành lập Nhà thờ St. Luke thuộc giáo hội Giám nhiệm [The Episcopal Church] vào năm 1875. Crummell qua đời chỉ một năm sau khi sáng lập ANA, nhưng trong hai thập kỷ cuối đời, ông đã dành trọn tâm huyết để nói về nghĩa vụ đạo đức mà những người có phẩm chất, sự tinh tế và học thức phải phục vụ và cứu lấy giống nòi. ANA là một tổ chức nhỏ – số lượng thành viên chỉ giới hạn ở hai mươi lăm “người đứng đầu chủng tộc” – nhưng Du Bois tin tưởng sâu sắc vào sứ mệnh của tổ chức và hơn thế nữa, ông cùng chia sẻ với Crummell niềm tin rằng giới trí thức giữ vai trò nền tảng trong việc cứu rỗi chủng tộc. Rốt cuộc, chính các học giả là những người đã “nắm được tầm nhìn xuyên thấu vào bản chất của tự nhiên”[5].

Du Bois thể hiện cam kết của ông với lý tưởng này khi đồng ý làm phó chủ tịch đầu tiên của ANA (ông trở thành chủ tịch sau khi Crummell qua đời). Cam kết tương tự được thể hiện trong một chương khép lại Những linh hồn da đen khi ông ca ngợi người cố vấn của mình:

“Càng gặp gỡ Alexander Crummell, tôi càng thấm thía rằng thế giới này đánh mất biết bao điều quý giá, khi biết quá ít về ông. Ở một thời đại khác, ông có thể đã ngồi giữa các bậc trưởng lão của đất nước trong chiếc áo choàng viền tím; ở một quốc gia khác, người mẹ có thể đã hát ru tên ông bên những chiếc nôi.

Ông đã làm công việc của mình một cách cao quý và tốt đẹp; và dẫu vậy, tôi vẫn đau buồn vì ở đây, ông đã lao động gần như đơn độc, với quá ít tấm lòng đồng cảm. Ngày nay, cái tên ông, trên miền đất rộng lớn này, chẳng mang nhiều ý nghĩa, và đến với năm mươi triệu đôi tai mà không mang theo chút hương trầm nào của ký ức hay đánh thức được một niềm cảm hứng. Và chính đó là bi kịch của thời đại: không phải vì con người nghèo khổ vì ai cũng từng nếm trải phần nào cảnh đói nghèo; không phải vì con người độc ác vì ai có thể xưng là toàn thiện? Không phải vì con người ngu muội bởi ai dám khẳng định mình đã nắm trọn Sự thật? Không, mà là vì con người biết quá ít về chính đồng loại của mình”.

Crummell và Du Bois rất quyết tâm nêu quan điểm của họ về vai trò của trí thức vì sự trỗi dậy của Washington sau bài diễn thuyết nổi tiếng của ông tại Triển lãm Bông Atlanta đã đe dọa đến tầm nhìn của họ về tương lai chủng tộc. Trong khi Washington kêu gọi xoa dịu vấn đề chủng tộc, thúc giục chủ đất miền Nam và các nhà công nghiệp miền Bắc đầu tư vào lực lượng lao động da đen ngoan ngoãn với lòng trung thành đã được chứng minh và trấn an họ rằng những người da đen này sẽ tuân theo quy tắc duy trì sự tách biệt giữa các chủng tộc, Crummell và Du Bois lại nhìn thấy sự hình thành của một tầng lớp thấp kém vĩnh viễn. Năm 1901, Du Bois lần đầu tiên đưa ra quan điểm của mình về Washington trong bài đánh giá tác phẩm Vượt lên từ chế độ nô lệ [Up from Slavery] của Washington, nhưng thách thức của ông trước phe ủng hộ Washington dường như chưa được hình thành đầy đủ cho đến khi Những linh hồn da đen được xuất bản năm 1903. Tác phẩm sau đó rất nhanh chóng trở thành đánh giá xác định những giới hạn của triết lý Washington[6].

Khi tuyên bố trong chương “Về ngài Booker T. Washington và những người khác”, rằng đã đến lúc phải nói “bằng tất cả sự chân thành và lịch sự về những sai lầm và thiếu sót trong sự nghiệp của ngài Washington”, Du Bois đã khơi gợi lên vai trò cấp bách của trí thức về mặt đạo đức, trao cho họ (và đó chỉ là vai trò của người đàn ông tại thời điểm này trong cấu trúc của Du Bois) nhiệm vụ phải đứng lên chống lại những bất cập nguy hiểm của giáo dục nghề nghiệp. Dấu ấn của ý thức hệ Crummell rất dễ thấy: “Nếu không nêu rõ ràng và dứt khoát những yêu cầu chính đáng của dân tộc mình, cho dù là phải trả giá bằng sự bất đồng với một nhà lãnh đạo đáng kính, thì tầng lớp trí thức người Mỹ Da Đen đã trốn tránh một trách nhiệm nặng nề – trách nhiệm với chính họ, trách nhiệm với quần chúng đang vật lộn mưu sinh, trách nhiệm với những chủng tộc da màu mà tương lai phụ thuộc phần lớn vào cuộc thử nghiệm này của người Mỹ, nhưng đặc biệt là trách nhiệm với quốc gia – Tổ quốc chung của tất cả chúng ta”.

Du Bois chỉ trích luận lý của Washington vì nó dẫn đến “1.Việc tước quyền bầu cử của người Da Đen. 2.Việc hợp pháp hóa địa vị dân sự thấp kém rõ ràng cho người Da Đen. 3.Việc cắt giảm liên tục viện trợ cho các cơ sở đào tạo đại học dành cho người Da Đen”. Du Bois nói rằng những trí thức đồng chí của ông có nghĩa vụ đạo đức phải đứng lên chống lại Washington: “Chúng ta không có quyền ngồi im trong khi những hạt giống không thể tránh khỏi gieo xuống để rồi gặt lấy thảm họa cho con em chúng ta, cả da đen lẫn da trắng”. Đó là những lời lẽ mạnh mẽ đối với một vị giáo sư mới vô nghề, hiện đang giữ chức vụ giảng viên toàn thời gian đầu tiên của mình.

Ngay sau khi Du Bois nhận ra rằng vị trí trợ lý nghiên cứu của ông tại Penn sẽ không được gia hạn hoặc chính thức hóa thành một vị trí giảng viên, ông đã tìm kiếm một công việc khác. Sau khi hoàn thành một số công việc tư vấn cho Cục Thống kê Lao động – Du Bois trở nên khá thành thạo công việc khảo sát và thống kê sau khi nghiên cứu Người da đen Philadelphia – ông đã nhận được một vị trí tại Đại học Atlanta. Mười ba năm Du Bois trải qua ở đó (1897-1910) đại diện cho một trong những giai đoạn đỉnh cao trong sự nghiệp lâu dài của ông. Thật vậy, khi nhìn lại thời gian của mình tại Atlanta, lúc đó là một trong ba trường đại học dành cho người da đen mang tính lịch sử lớn nhất cả nước (Fisk và Howard là hai trường còn lại), Du Bois đã bày tỏ lòng yêu thích đối với môi trường kích thích tri thức nơi đây mặc dù ông đã kiềm chế sự nhiệt tình của mình bằng hồi tưởng về những căng thẳng mà người da đen phải trải qua khi sống ở Miền Nam Sâu Thẳm [Deep South – tên gọi chỉ một số tiểu bang mang đậm nét văn hoá truyền thống miền Nam Hoa Kỳ – N.D].

Trong thời gian ở Atlanta, Du Bois có lẽ đã tiến gần nhất đến việc hiện thực hóa các lý tưởng mà ông và Crummell đã nêu rõ ở Học viện người Mỹ da đen và Du Bois đã khẳng định lại nhiều lần trong Những linh hồn da đen. Công việc mà Du Bois theo đuổi tại Atlanta là học thuật có mục đích. Thông qua việc nắm giữ ấn phẩm Nghiên cứu Đại học Atlanta, là chuỗi ấn phẩm phát triển từ các hội nghị thường niên theo chủ đề tại trường, Du Bois đã tiến hành một cuộc khảo sát có hệ thống về cuộc sống của người da đen, luôn hướng đến mục tiêu tìm ra cách cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Tên các công trình nghiên cứu cho thấy các đề tài được khai thác: Người da đen trong kinh doanh, Trường học công lập dành cho người da đen, Nghệ nhân da đen, Người da đen được đào tạo đại học, Giáo hội của người da đen, v.v.

Nhờ lòng nhiệt thành tri thức và sự dấn thân của Du Bois, ông thấy hài lòng với những năm tháng dạy ở đại học. Trong khi giảng dạy ở Atlanta, ông đảm nhiệm chức chủ tịch ANA, tổ chức ấn phẩm Nghiên cứu Đại học Atlanta, nêu rõ tầm nhìn rồi sẽ trở nên nổi tiếng của mình về “nhóm một phần mười tài năng” (trong một bài luận cùng tên, từ cuốn sách do không ai khác ngoài Booker T. Washington biên tập), xuất bản Những linh hồn da đen và giúp tổ chức Phong trào Niagara rồi đến Hiệp hội Quốc gia vì sự Tiến bộ của Người da màu. Vào cuối giai đoạn phong phú đáng chú ý này, Du Bois là giám đốc truyền thông và nghiên cứu đầu tiên của NAACP, với một trong những nhiệm vụ chính là biên tập tạp chí The Crisis. Ông rời Đại học Atlanta vào mùa hè năm 1910 để đảm nhận công việc mới. Mặc dù NAACP một cách chính thức là tổ chức phi đảng phái, nhưng Du Bois đã sử dụng vị trí biên tập của mình để ủng hộ nhiều mục đích khác nhau trong hai thập kỷ tiếp theo. Ông kêu gọi người da đen ủng hộ nỗ lực chiến tranh vào năm 1918 và một năm sau, khi sự hy sinh vì lòng yêu nước của người da đen không mang lại thay đổi tích cực nào cho tình trạng công dân của họ, ông nói với họ hãy đấu tranh cho quyền công dân của họ ở quê nhà. Vào những năm 1920, Du Bois đã sử dụng tạp chí này để đào tạo thế hệ nghệ sĩ mới, qua đó đóng vai trò quan trọng trong việc định hình phong trào Phục hưng người da đen mới.

Du Bois từ chức khỏi NAACP vào năm 1934 sau một loạt bất đồng với giám đốc điều hành mới, Walter White, và trở lại Đại học Atlanta. Luôn là một nhà tư tưởng năng động, Du Bois lúc này đang phát triển một phê bình Mác-xít về lịch sử Hoa Kỳ và ủng hộ những ý tưởng của Washington về các hợp tác kinh tế phân biệt chủng tộc. Lần này, Du Bois không trụ lại ở Atlanta được một thập kỷ; hội đồng trường từ chối gia hạn hợp đồng với ông sau năm 1944, và hiệu trưởng đại học âm thầm hy vọng rằng Du Bois sẽ nghỉ hưu. Ông trở lại NAACP, nhưng lại rời đi năm năm sau đó, khi lòng trung thành và tình bạn công khai của ông với những cá nhân là thành viên của Đảng Cộng sản sẽ có nguy cơ khiến FBI giám sát chặt chẽ hơn nhóm dân quyền này.

Nhiều thập kỷ trước khi những ý tưởng và hoạt động của Du Bois thu hút sự chú ý của FBI và thậm chí trước khi cả Những linh hồn da đen được xuất bản, Du Bois hiểu rằng “vấn đề người da đen ở Mỹ” là một phần của hiện tượng toàn cầu về việc từ chối có hệ thống cơ hội dành cho công dân hạng hai, bị kì thị chủng tộc. Ví dụ, vào năm 1900, ông đã giúp lãnh đạo Hội nghị Liên Phi đầu tiên (trong đó ông kêu gọi các cường quốc châu Âu trao cho các thuộc địa của họ quyền tự quản) và cũng làm giám tuyển một cuộc triển lãm ảnh lớn, “Triển lãm người Mỹ da đen”, cho Triển lãm Paris. Vai trò lãnh đạo tiếp theo của ông trong Đại hội Liên Phi vào thập niên 1910 và 1920 và cuốn tiểu thuyết Công chúa da đen [Dark Princess] năm 1928 (nói về các chiều kích quốc tế của quyền công dân chủng tộc) đã khẳng định sự nhạy cảm toàn cầu của ông. Vào giữa những năm 1940, Du Bois hướng sự tập trung cao độ vào các vấn đề quốc tế. Ông đưa ra lời chỉ trích gay gắt về chủ nghĩa thực dân tại hội nghị thành lập Liên Hợp Quốc, giúp tổ chức Đại hội Liên Phi lần thứ năm (và cũng là lần cuối cùng), cáo buộc Hoa Kỳ thực hiện các hành vi diệt chủng và trở thành một nhà hoạt động thẳng thắn đấu tranh vì hòa bình và chống hạt nhân.

Là đối tượng trong một cuộc điều tra của FBI từ trước khi bày tỏ lập trường chống lại vũ khí hạt nhân, Du Bois đã phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn và hộ chiếu của ông bị thu hồi vào năm 1950. Trong tám năm, ông không thể rời khỏi đất nước. Khi Bộ Ngoại giao trả lại hộ chiếu, Du Bois lên đường thực hiện một chuyến đi quốc tế và được các nguyên thủ quốc gia trong thế giới Cộng sản chào đón. Cuối cùng, từ bỏ hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ thực hiện các lý tưởng dân chủ, Du Bois tuyên bố mình là một người Cộng sản vào năm 1961, chuyển đến Ghana, được Kwame Nkrumah – nguyên thủ đầu tiên của quốc gia mới giành được độc lập – đích thân chào đón và sau đó từ bỏ quốc tịch Mỹ khi Mỹ từ chối gia hạn hộ chiếu của ông khi hết hạn.

Du Bois qua đời tại Accra vào ngày 27 tháng 8 năm 1963. Ông thọ 95 tuổi. Nkrumah, người đã gặp Du Bois ở Manchester, Anh, tại Đại hội Liên Phi lần thứ năm vào mười tám năm trước, đã tổ chức tang lễ cấp nhà nước cho công dân Ghana sinh tại New England này, người đã trở thành một nhà hoạt động và trí thức nổi tiếng thế giới.

Một lịch sử tri thức quan trọng

“Chắc chắn sẽ có một bình minh huy hoàng ló rạng, vén Bức màn lên và giải thoát những kẻ bị cầm tù. Không phải cho tôi – tôi sẽ chết trong những ràng buộc này – mà cho những tâm hồn trẻ trung tươi mới chưa từng biết đến đêm tối và sẽ thức dậy vào sớm mai; một sớm mai khi người ta hỏi về người thợ: “Anh ta có làm được việc không?”, chứ không còn: “Anh ta có phải da trắng không?”. Khi người ta hỏi về người nghệ sĩ: “Họ có hiểu biết không?”, chứ chẳng còn: “Họ có phải da đen không?”. Một sáng mai như thế có thể sẽ tới, sau thật nhiều, thật nhiều năm sau. Nhưng lúc này đây, trên bờ biển tối tăm kia bên trong Bức màn, vẫn vang lên giọng nói sâu thẳm năm xưa: Ngươi phải từ bỏ!

W. E. B. Du Bois, “Về sự ra đi của đứa con đầu lòng”

Tiểu sử trí thức của Du Bois cho thấy một người đàn ông cảm thấy thoải mái khi liên kết thế giới ý tưởng và thế giới hành động. Nó cũng cho thấy một người đàn ông không ngại đưa ra những tuyên bố mang tính dự đoán quan trọng về các vấn đề của thời đại. Mặc dù ý tưởng của ông thay đổi theo thời gian – sự khinh bỉ của ông đối với bất kỳ hình thức phân biệt chủng tộc nào đã được điều chỉnh; cam kết phản chiến của ông lên xuống theo cường độ; cảm nhận của ông về sự căng thẳng khi phân tích và giải thích giữa giai cấp và chủng tộc dao động – Du Bois luôn cực kỳ chắc chắn về những ý tưởng của mình tại thời điểm biểu đạt chúng.

Sự tự tin đó được thể hiện trong các chương mở đầu của Những linh hồn da đen. Trong “Về những nỗ lực tinh thần của chúng tôi”, Du Bois đưa ra một câu hỏi và một phân tích, và trong “Về buổi bình minh của tự do”, ông đưa ra một tuyên bố, mà khi kết hợp lại, đã định hình giọng điệu cho phần còn lại của cuốn sách. (Thật vậy, tuyên bố này xuất hiện thậm chí còn sớm hơn, trong “Lời Tựa”). Vì những loạt đạn mở đầu này đã thu hút sự chú ý của độc giả trong hơn một trăm năm qua kể từ khi cuốn sách được xuất bản, nên đọc phê bình Những linh hồn da đen cần bắt đầu từ đây. Cả ba chương đều giúp chúng ta hiểu được vì sao cuốn sách vẫn phù hợp qua thời gian.

Câu hỏi:

“Giữa tôi và thế giới bên ngoài luôn tồn tại một câu hỏi không ai đặt ra: có người không hỏi vì tế nhị; có người vì không biết phải diễn đạt thế nào cho đúng. Tuy vậy, ai cũng lảng vảng xung quanh câu hỏi đó. Họ đến gần tôi với vẻ lưỡng lự, nhìn tôi một cách tò mò hoặc đầy thương hại, rồi thay vì hỏi thẳng: Cảm thấy sao khi chính mình lại là vấn đề? họ lại nói: Tôi biết một người da màu xuất sắc ở thị trấn của tôi; hay: Tôi từng chiến đấu ở Mechanicsville; hay: Những hành vi tàn bạo của miền Nam này không làm anh sôi máu sao? Khi nghe những lời này, tôi mỉm cười, hoặc tỏ ra hứng thú, hoặc kìm nén cơn giận, tùy tình huống. Đối với câu hỏi thực sự: Cảm thấy sao khi chính mình lại là vấn đề? Tôi hiếm khi trả lời”

Phân tích:

“Sau người Ai Cập và người Ấn Độ, người Hy Lạp và người La Mã, người Đức và người Mông Cổ, người da đen giống như đứa con trai thứ bảy, sinh ra với một bức màn, và được ban cho cái nhìn thứ hai trong thế giới Mỹ này – một thế giới không mang lại cho anh ta ý thức thực sự về bản thân, mà chỉ cho phép anh ta nhìn thấy chính mình thông qua sự hiển lộ của thế giới khác. Đó là một cảm giác kỳ lạ, ý thức kép này, cảm giác luôn nhìn chính mình qua con mắt của người khác, đo lường linh hồn mình bằng thước đo của một thế giới nhìn mình với sự khinh thường và thương hại thích thú. Anh ta luôn cảm thấy tính hai mặt của mình – một người Mỹ, một người da đen; hai linh hồn, hai suy nghĩ, hai nỗ lực không thể dung hòa; hai lý tưởng đối đầu trong một thân thể da đen, mà chỉ có sức mạnh ngoan cường mới giúp nó không bị xé nát”

Tuyên bố:

“Vấn đề của Thế kỷ hai mươi là vấn đề về ranh giới màu da – tức mối quan hệ giữa các chủng tộc sẫm màu và sáng màu hơn ở Châu Á và Châu Phi, ở Mỹ và trên các đảo”

Trong ba đoạn văn này, Du Bois nhắc đến câu hỏi đau đớn gợi ra sự bất lực không thể khác, “Cảm thấy sao khi chính mình lại là vấn đề?”; ông chỉ ra món quà đặc biệt của người da đen là “ý thức kép” và ngụ ý về sự vô hình lẫn hiển thị quá mức tồn tại đồng thời nơi họ; và ông kết luận rằng ý thức chủng tộc, “ranh giới màu da”, sẽ là đặc điểm quyết định của thế kỷ tới. Vì những khẳng định trên tấn công vào luận lý nền tảng của đất nước này, nên Những linh hồn da đen được ứng dụng lâu dài trong lịch sử, chứ không chỉ được đọc.

Vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, các trường đại học của người da trắng có lịch sử lâu đời đã trải qua những thay đổi đáng kể khi họ ngày càng chào đón sinh viên da đen và sau đó là giảng viên người da đen đến trường. Khi giảng viên da đen bắt đầu dạy “các khóa học dành cho người da đen”, họ phải đối mặt với thách thức là phát triển danh sách đọc với tài liệu học tập. Những linh hồn da đen đã lấp đầy khoảng trống; các bản in mới xuất hiện với tần suất đáng kinh ngạc. Ví dụ, từ năm 1965 đến năm 1979, Những linh hồn da đen đã được tái bản bảy lần. Nếu hai mươi hai phiên bản đầu tiên của ấn phẩm gốc chưa đủ để chứng minh, thì mười một phiên bản tiếp theo (bốn phiên bản khác được xuất bản từ năm 1938 đến năm 1965) đã cho thấy: Những linh hồn da đen là một văn bản gốc nền tảng cho nghệ thuật và văn học của người Mỹ gốc Phi[7].

Những năm 1990 chứng kiến ​​một làn sóng quan tâm mới đối với cuốn sách, một làn sóng song song với các cuộc chiến văn hóa lớn của thời đại và những lời kêu gọi ngày càng tăng về giáo dục đa văn hóa[8]. Thật vậy, cuốn sách đã được tái bản mười ba lần từ năm 1989 đến năm 1999. Chính trong giai đoạn này trong lịch sử của cuốn sách, lời kêu gọi về ý thức kép của Du Bois vang lên mạnh mẽ nhất.

Một loạt các ấn bản mới (và ngành nghiên cứu liên quan) xuất hiện cùng với kỷ niệm một trăm năm xuất bản Những linh hồn da đen. Không có gì ngạc nhiên khi nhiều sách và tiểu luận đề cập đến tuyên bố của Du Bois, rằng cần phải hiểu được tầm quan trọng trung tâm của ranh giới màu da để hiểu thế kỷ 20. Các tác giả khẳng định sự sáng rõ trong tuyên bố của Du Bois đồng thời chỉ ra những ý tưởng của ông đã đặt nền tảng cho mối quan tâm hiện thời đối với thế giới người da đen khu vực Đại Tây Dương và chủ nghĩa xuyên quốc gia[9].

Mặc dù câu hỏi, phân tích và tuyên bố ở phần đầu Những linh hồn da đen đã duy trì sự quan tâm của các học giả trong các thời đại khác nhau, cuốn sách yêu cầu chúng ta cũng phải chú ý đến những đóng góp của nó trong việc hiểu các vấn đề vượt thời đại.

Có nhiều cách để hiểu làm thế nào vấn đề chủng tộc giao thoa với hoạt động của Hoa Kỳ. Ý nghĩa và những chuyện liên quan đến chủng tộc đã được xét xử tại các cơ quan lập pháp và tòa án xuyên suốt lịch sử đất nước. Rào cản chủng tộc (và đôi khi là cầu nối) là thực chất của những câu chuyện về lao động và việc làm và tiếp nối là sự tiếp cận đầy đủ các quyền và đặc quyền của công dân. Bạo lực – phương thức đánh dấu lãnh thổ, đòi công lý và xác định ranh giới tiếp cận và quyền công dân đáng buồn nhất – thường được phân định theo ranh giới chủng tộc.

Du Bois đã chứng kiến ​​tất cả những điều này. Và khi chúng ta đọc những hiểu biết sâu sắc của ông về hệ thống giáo dục của đất nước, vai trò của lao động và tác dụng của bạo lực, chúng ta cũng có thể thấy chủng tộc đang định hình tất cả, đan xen vào tất cả. Chúng ta có thể thấy chủng tộc hoạt động trong quá khứ; chúng ta cũng có thể thấy nó đang hoạt động trong hiện tại.

Du Bois không bao giờ dao động trong cam kết của mình về tầm quan trọng của giáo dục đại học và nhu cầu người da đen được tiếp cận với những cơ sở giáo dục tốt nhất. Tuy nhiên, điều mà nhiều người không nhận ra là Du Bois cũng nhất quán trong việc ủng hộ các loại hình giáo dục khác nhau. Ông không cho rằng tất cả người da đen đều cần theo đuổi học vị tiến sĩ và sống cuộc đời trí thức. Thay vì vậy, ông cảm thấy rằng hầu hết người da đen cần một nền giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao để họ có thể chuẩn bị cho những nhu cầu thay đổi của ngành công nghiệp. (Như ông đã nói trong chương “Về đôi cánh của Atalanta”, một cuộc thảo luận về vai trò của giáo dục đại học trong thế giới của người da đen: “Dạy người lao động cách làm việc… Dạy người suy tư cách suy nghĩ”)[10].

Giáo dục liên kết trực tiếp với lao động, và ở đó, chủng tộc cũng đóng một vai trò quan trọng. Du Bois hiểu rằng ngay cả việc yêu cầu một hệ thống đào tạo nghề phát triển tốt cũng là quá nhiều đối với các tầng lớp sử dụng lao động. Ông biết rằng người da trắng coi thường người lao động da đen, nghĩ rằng họ không đủ khả năng đối mặt với thách thức của bất kỳ thứ gì ngoài những công việc lao động tầm thường nhất. Du Bois thách thức lại quan niệm của người da trắng cho rằng người da đen là “lười biếng” hay “vô trách nhiệm”. Ông có thể thấy những bất bình đẳng về cấu trúc dẫn đến những nỗ lực kém cỏi của người da đen, mà người chủ da trắng dường như không thể tự mình nhìn thấy. Như Du Bois đã viết trong chương “Về cuộc tìm kiếm Bộ lông Cừu vàng”: những người lao động da đen

“cẩu thả vì họ không thấy rằng cẩn thận mang lại lợi ích; họ thiếu tầm nhìn dài hạn vì những người thiếu toan tính quanh họ cũng có cuộc sống không khác gì những người lo liệu chu đáo. Trên hết, họ không hiểu tại sao họ phải mất nhiều công sức để làm đất đai của người da trắng tốt hơn, vỗ béo con la của chủ, hay tiết kiệm ngô cho chủ. Ngược lại, chủ đất da trắng cho rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm cải thiện đời sống những người lao động này bằng cách tăng trách nhiệm, tăng lương, cải thiện nhà cửa, hoặc cấp đất riêng cho họ, đều chắc chắn sẽ thất bại”.

Kỳ vọng thấp hơn về những gì có thể xảy ra với người da đen đã gây ra thiệt hại to lớn trong cộng đồng người da đen. Nhưng những kỳ vọng như vậy không hoạt động trong chân không. Thay vào đó, chúng gắn liền với những bất bình đẳng về cấu trúc sao cho đảm bảo quyền công dân hạng hai. Khi người da đen quyết định chống lại những kỳ vọng và bất bình đẳng này, người da trắng sẵn sàng nhắc nhở người da đen về vị trí của họ trong hệ thống kinh tế xã hội – chính trị. Tùy thời đại, những lời nhắc nhở có thể liên quan đến roi da, dây thừng hoặc đám đông.

Trong chương áp chót của Những linh hồn da đen, Du Bois đề cập đến bạo lực chủng tộc. Trong dụ ngôn “Về sự trở về của John”, ông kể về hai người bạn miền Nam chơi với nhau, cả hai đều tên John, một người da đen và một người da trắng. Khi hai đứa trẻ trưởng thành, con đường của họ rẽ ra cho đến khi, do sự trùng hợp tàn khốc, họ hội ngộ đầy bạo lực. Câu chuyện kết thúc với cảnh John da đen nhìn thấy một đám đông đến tìm mình, tự hỏi liệu đám người đó có mang theo “cuộn dây thừng xoắn” không.

Tuy nhiên, trước đoạn kết đó, Du Bois đã cho người đọc thấy thoáng qua những điều phi logic tàn bạo đã nghiền nát giấc mơ của người da đen về khả năng có cơ hội bình đẳng và tự do làm việc và suy nghĩ không bị ràng buộc. Người thị trưởng (cha của John da trắng) đã giải thích rõ ràng với John da đen về ranh giới phân định khi nói đến giáo dục của người da đen:

“John à, cậu và tôi đều biết, ở đất nước này, người Da Đen phải ở chiếu dưới và không thể nào lại trông mong được ngang hàng với người da trắng. Ở vị trí của mình, dân của cậu có thể thành thật và lễ phép; và có Chúa chứng giám, tôi sẽ giúp họ hết sức. Nhưng một khi họ muốn đảo lộn tự nhiên, đòi cai trị người da trắng, cưới phụ nữ da trắng và ngồi trong phòng khách nhà tôi, thì, thề có Chúa, chúng tôi sẽ trấn áp họ, dù có phải treo cổ từng tên mọi đen ở cái nước này. Giờ thì, John, câu hỏi là, cậu với thứ học vấn và mớ tư tưởng miền Bắc đó, có chấp nhận tình cảnh hiện tại và dạy bọn da đen trở thành những đầy tớ và người lao động trung thành như cha ông họ không – Tôi biết cha cậu đấy, John, ông ấy từng là nô lệ nhà anh trai tôi, và là một tên mọi tốt. Thế thì… thế thì, cậu sẽ như ông ấy, hay sẽ nhồi vào đầu đám đấy những ý tưởng điên rồ về sự trỗi dậy và bình đẳng, để rồi khiến họ bất mãn và không hạnh phúc?”

Người đồng cảm với “hậu chủng tộc” có thể đọc đoạn trích này và chỉ ra rằng Du Bois viết ra những điều này, không phải hôm nay, mà trong một thời đại khác và trong những hoàn cảnh khác – và họ đúng. Mọi thứ đã thay đổi tốt đẹp theo nhiều cách từ khi Du Bois xuất bản Những linh hồn da đen, nhưng không có nghĩa là vấn đề chủng tộc không còn giá trị với những hệ quả mạnh mẽ và thường là tiêu cực. Khi chúng ta nhìn xung quanh mình trong “thời đại hậu chủng tộc”, chính xác thì chúng ta thấy gì? Cũng giống như Du Bois có thể nhận thấy làm thế nào chủng tộc lại làm trung gian khớp nối và định hình giáo dục, lao động và bạo lực với nhau, ngày nay chúng ta cũng có thể nhìn vào những khu vực tương tự và thấy rằng ranh giới màu da vẫn là một phương cách hiệu quả để hiểu thế giới.

Ví dụ, chúng ta có thể xem xét các tòa án liên bang đã nhấn mạnh thông qua một loạt phán quyết rằng các hướng dẫn xem xét chủng tộc cho các chương trình đại học và cao đẳng phải được “thiết kế chặt chẽ”, được biện minh bằng lợi ích cấp tiểu bang bắt buộc và có thể tồn tại dưới sự giám sát chặt chẽ của tư pháp – những quy định mơ hồ đã dẫn đến ít nhóm chủng tộc thiểu số hơn trong các trường đại học của chúng ta[11]. Khi khảo sát cảnh quan bên ngoài các trường đại học, chúng ta cũng thấy một Tòa án Tối cao hài lòng với việc chấp nhận những điều lặp đi lặp lại thừa nhận vai trò rộng lớn của chủng tộc trong án lệ. Ví dụ, trong vụ Phụ huynh kiện Khu học chánh Seattle số 1, Chánh án John Roberts tuyên bố rằng “cách duy nhất để chấm dứt tình trạng phân biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc là chấm dứt tình trạng phân biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc”, ông đã đưa ra một lời khẳng định có vẻ như là hợp lý, trung lập về chủng tộc nhưng thực tế lại lờ đi những tác động có hại và lặp đi lặp lại mà các chính sách và luật pháp trung lập về chủng tộc đã gây ra đối với các cộng đồng phi da trắng[12].

Trong thế giới lao động, chúng ta thấy các chính sách trung lập về chủng tộc đang được áp dụng ở các tiểu bang miền Nam, nơi đang áp dụng luật nghiêm ngặt để trừng phạt những chủ lao động tư nhân cố tình thuê lao động không có giấy tờ. Những luật này trao quyền cho tiểu bang (lực lượng cảnh sát, trường công, hệ thống chăm sóc sức khỏe công cộng) giám sát những người “có vẻ” là người nhập cư bất hợp pháp và từ chối cung cấp dịch vụ công cho những người nhập cư bất hợp pháp. Cho đến nay, luật nghiêm khắc nhất trong số này là Alabama HB 56, Đạo luật Bảo vệ Người nộp thuế và Công dân Beason-Hammon Alabama. Khi được ban hành vào năm 2011, các doanh nghiệp thâm dụng lao động (những doanh nghiệp phụ thuộc nhiều nhất vào lao động nhập cư) bắt đầu mất lực lượng lao động khi người lao động chuyển đi nơi khác thay vì phải đối mặt với nguy cơ bị phạt, bị bỏ tù hoặc bị trục xuất. Ở các tiểu bang miền Nam này, ngoại hình và lĩnh vực lao động gắn liền với tình trạng bất hợp pháp[13].

Về mặt bạo lực, quá nhiều trường hợp cho thấy rằng “thời đại hậu chủng tộc” của chúng ta – khi chúng ta có thể hy vọng tách rời chủng tộc và bạo lực – vẫn dễ bị tổn thương bởi sự tàn bạo chủng tộc như trước đây. Một luồng hỗn loạn, các vụ xả súng và giết người liên quan đến chủng tộc liên tục được truyền qua màn hình tivi của chúng ta và được đăng lên Internet để chúng ta tiêu thụ. Trong chính phủ, các ví dụ về bạo lực do nhà nước tài trợ và có hệ thống – thể hiện trong chính sách dừng-và-khám xét [stop-and-frisk] của Sở Cảnh sát Thành phố New York – chứng minh lời nói dối đằng sau khẳng định “hậu chủng tộc”[14]. Chính sách này, bề ngoài là trung lập về chủng tộc, đã có tác động khác biệt đầy nghịch dị đối với công dân New York phi da trắng. Khi tuân theo các quy trình dừng-và-khám xét, đàn ông da đen trong độ tuổi từ mười tám đến hai mươi bốn có 70% khả năng bị cảnh sát chặn lại; đàn ông da trắng cùng độ tuổi có 13% khả năng. Phân tích kỹ lưỡng các vụ chặn lại cho thấy chúng không liên quan đến hành vi phạm tội bị nghi ngờ. Ở Thành phố New York, người ta bị chặn lại, bất kể giai cấp, vì họ là những nam thanh niên da đen[15]. Chênh lệch lớn trong các vụ chặn và khám xét này đã nuôi dưỡng chứng hoang tưởng của cư dân da đen đối với cảnh sát – một công thức dẫn đến thảm họa. Cộng đồng người da đen (và người Latinh) ngày càng từ chối tìm kiếm sự trợ giúp ngay cả khi thực sự cần giúp đỡ, và cộng đồng người da trắng cho rằng công lý đang được thực thi vì tất cả các thông điệp văn hóa mà họ nhận được đều chỉ ra rằng người da đen dễ có hành vi phạm tội hơn người da trắng[16].

Trong chương “Về con cháu của chủ nhân và đầy tớ”, một cách lạnh lùng, Du Bois đã quan sát thấy những giả định tương tự được đưa vào thực tế. Lời buộc tội có giá trị hơn sự thật, và kết quả cuối cùng là người da đen không có quyền nào đáng được tôn trọng và người da trắng không có lý do gì để lo lắng cho người da đen, mà lo lắng về họ:

“Mỗi ngày, người Da Đen càng lúc càng nhìn nhận pháp luật và công lý không phải như những lá chắn bảo vệ mà là nguồn cơn của sự sỉ nhục và áp bức. Luật lệ do những người không mấy quan tâm đến họ đặt ra; lại được thực thi bởi những người không có động cơ gì để phải đối xử lịch sự hay tử tế với họ; và cuối cùng, khi bị buộc tội phạm pháp, người da đen thường không được xét xử bởi một bồi thẩm đoàn gồm những người cùng chủng tộc hoặc địa vị xã hội, mà thường bởi những người thà trừng phạt mười người Da Đen vô tội còn hơn để một kẻ có tội thoát tội”.

Hãy nhớ rằng, điều này được viết vào năm 1903, chứ không phải năm 2013.

Trên thực tế, văn bản trong cuốn sách này là bản in lại từ ấn bản gốc năm 1903 của Những linh hồn da đen. Phiên bản này vẫn không thay đổi cho đến năm 1953, khi nhà Blue Heron Press phát hành ấn bản kỷ niệm năm thứ năm mươi. Du Bois đã thực hiện một số chỉnh sửa cho ấn bản kỷ niệm, đáng chú ý nhất là xóa các tài liệu tham khảo về người Do Thái có thể bị hiểu là bài Do Thái. Du Bois cũng cắt bỏ các tài liệu tham khảo về tính tiết kiệm của người Yankee. Mặc dù ông đã tự mình thực hiện các thay đổi, chúng tôi vẫn in lại bản gốc ở đây để phản ánh tư tưởng của Du Bois khi ông lần đầu soạn thảo cuốn sách.

Ngay cả khi chúng ta phải đặt những ý tưởng của Du Bois vào đúng bối cảnh lịch sử của chúng, ta sẽ thấy nhiều ý tưởng vẫn còn liên quan đến ngày nay như thời điểm tác phẩm được xuất bản lần đầu. Hiểu biết sâu sắc của ông về tâm lý quốc gia cho chúng ta nhiều hiểu biết về hiện tại cũng như quá khứ. Diễn giải khéo léo của ông về cách các nền tảng xã hội – giáo dục, lao động, bạo lực – “tô màu” cho thế giới của ông không cần phải cập nhật nhiều. Nói cách khác, Những linh hồn da đen chứng minh rằng đất nước này vẫn chưa giải quyết được những câu đố về chủng tộc được ghi trong các văn bản lập quốc, trong ý thức hệ và thực tiễn đất nước. W. E. B. Du Bois, người con trai thông minh của Great Barrington, Massachusetts, người khơi dậy lương tâm của quốc gia, công dân Ghana, vẫn đang nói với chúng ta, với tình trạng của chúng ta và với nhân tính của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải lắng nghe.

NIÊN BIỂU

1863  Tuyên ngôn Giải phóng nô lệ có hiệu lực.

1865  Nội chiến kết thúc.

1868 William Edward Burghardt Du Bois chào đời tại Great Barrington, Massachusetts.

1867–1877 Thời kỳ Tái thiết, giai đoạn người da đen miền Nam đạt được quyền tự do chính trị chưa từng có.

1881 Booker T. Washington thành lập Viện Tuskegee tại Alabama, say này trở thành trường học hàng đầu dành cho người da đen tại Hoa Kỳ, tập trung vào giáo dục nghề nghiệp.

1884 Du Bois tốt nghiệp trường trung học Great Barrington và nhập học Đại học Fisk ở Tennessee.

1888 Du Bois tốt nghiệp Đại học Fisk và tiếp tục học tại Đại học Harvard với tư cách là sinh viên năm ba để lấy bằng cử nhân thứ hai.

1890 Du Bois tốt nghiệp Đại học Harvard, loại xuất sắc, và nhập học Cao học Khoa học xã hội tại Đại học Harvard.

1892–1894 Du Bois học tại Đại học Berlin với học bổng từ Quỹ John Slater.

1892 Anna Julia Cooper viết Một tiếng nói từ miền Nam [A Voice from the South], một tác phẩm nữ quyền từ sớm, trong đó bà bày tỏ sự phản đối đối với kế hoạch giáo dục nghề nghiệp của Booker T. Washington; lời phê bình của bà xuất hiện hơn một thập kỷ trước những luận điểm của Du Bois.

1895 Du Bois nhận bằng Tiến sĩ từ Đại học Harvard, trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên đạt được học vị này tại trường.

1895 Frederick Douglass qua đời.

1895 Booker T. Washington đọc bài diễn thuyết nổi tiếng ở Triển lãm Bông các Tiểu bang và Quốc tế tại Atlanta, trong đó ông hoà giải với những lợi ích kinh tế và chính trị của người da trắng miền Nam. Ông tin rằng người da trắng và người da đen – lực lượng lao động mà ông gọi là “kiên nhẫn và trung thành nhất” – có thể làm việc cùng nhau: “Trong mọi lĩnh vực thuần túy xã hội, chúng ta có thể tách biệt như những ngón tay, nhưng vẫn như một bàn tay trong mọi điều thiết yếu cho tiến bộ chung”.

1896 Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đưa ra phán quyết trong vụ Plessy kiện Ferguson. Nguyên tắc “tách biệt nhưng bình đẳng” được thiết lập, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ luật phân biệt chủng tộc Jim Crow. Nguyên tắc này tồn tại đến năm 1954, khi Tòa án Tối cao phán quyết trong vụ Brown kiện Hội đồng Giáo dục rằng sự tách biệt về chủng tộc trong các trường công lập là vi hiến.

1896 Luận án tiến sĩ của Du Bois, Sự đàn áp của việc buôn bán nô lệ châu Phi vào Hoa Kỳ, 16381870, được xuất bản, trở thành tập đầu tiên trong loạt sách Nghiên cứu Lịch sử của Harvard.

1896 Du Bois bắt đầu làm việc tại Đại học Pennsylvania, thực hiện dự án nghiên cứu về sau sẽ xuất bản thành sách Người da đen ở Philadelphia.

1897  Du Bois bắt đầu mười ba năm làm giáo sư tại Đại học Atlanta.

1897 Học viện Người Mỹ Da Đen (ANA) được thành lập. Alexander Crummell là người sáng lập và là chủ tịch; Du Bois làm phó chủ tịch.

1898 Crummell qua đời và Du Bois trở thành chủ tịch ANA.

1900 Du Bois giúp tổ chức Hội nghị Liên Phi đầu tiên tại London.

1903 Du Bois xuất bản Những linh hồn da đen.

1905 Du Bois giúp thành lập Phong trào Niagara, một tổ chức đấu tranh đòi quyền công dân đầy đủ cho người da đen thông qua các hoạt động chính trị và pháp lý.

1909 Hiệp hội Quốc gia vì sự Tiến bộ của Người Da Màu (NAACP) được thành lập (sau một hội nghị gồm các cựu thành viên của Phong trào Niagara). Du Bois là người da đen duy nhất giữ vị trí lãnh đạo trong tổ chức mới, làm giám đốc tuyên truyền và nghiên cứu, đồng thời là biên tập viên tạp chí The Crisis của NAACP.

1911 Du Bois xuất bản tiểu thuyết đầu tay Cuộc tìm kiếm Bộ lông Cừu bạc [Quest of the Silver Fleece]

1915 Nhà làm phim D. W. Griffith phát hành bộ phim Sự ra đời của một quốc gia [The Birth of a Nation] với nhiều lời khen ngợi và tranh cãi. Miêu tả mang tính xét lại của bộ phim về thời kỳ Tái thiết dựa trên những khuôn mẫu chủng tộc tiêu cực, làm sống lại sự quan tâm đến Ku Klux Klan. NAACP phản đối dữ dội và coi bộ phim là “ba thước phim rác rưởi”.

1915 Booker T. Washington qua đời.

1916 Nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa da đen Jamaica, Marcus Garvey, người mà Du Bois vô cùng khinh thị, chuyển đến Harlem để truyền bá tầm nhìn về tổ chức cơ sở của mình, là Hiệp hội Cải thiện Người da đen Toàn cầu [Universal Negro Improvement Association].

1917 Cuộc bạo loạn chủng tộc ở East St. Louis.

1917 Hoa Kỳ tham gia Thế chiến I.

1918 Du Bois viết bài luận “Siết chặt hàng ngũ” [Close Ranks] trên tờ The Crisis, kêu gọi người Mỹ da đen “quên đi những bất bình đặc biệt” và ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Mỹ. Ông tin rằng tinh thần yêu nước này sẽ giúp người da đen đạt được đầy đủ quyền công dân sau chiến tranh.

1919 Du Bois thay đổi quan điểm và viết bài “Sự trở lại của người lính” [Returning Soldiers] cũng trên tờ The Crisis: “Chúng ta trở về. Chúng ta trở về sau cuộc chiến. Chúng ta trở về để chiến đấu”. Những tuyên bố này, mỗi câu được in đậm trên một dòng riêng, phản ánh sự thật rằng những người lính da đen trở về vẫn bị đối xử tồi tệ như trước khi tham gia quân đội. Du Bois nhận ra niềm tin về quyền công dân sau chiến tranh của mình là sai lầm.

1919 Bạo loạn sắc tộc lan rộng khắp các thành phố lớn, đặc biệt tồi tệ ở Chicago, nơi hơn một ngàn gia đình mất nhà cửa.

1920 Du Bois xuất bản cuốn tự truyện đầu tiên trong bộ ba, Vùng nước sâu: Những tiếng nói từ bên trong Bức màn [Darkwater: Voices from within the Veil].

1931  Chín cậu bé da đen, phần lớn là thanh thiếu niên, bị bắt trên một chuyến tàu ở Scottsboro, Alabama với cáo buộc cưỡng hiếp hai phụ nữ da trắng. “Những cậu bé Scottsboro” trở thành chủ đề của cuộc tranh luận quốc tế về chủng tộc, công lý, và những liên kết chính trị. Tổ chức Bảo vệ Lao động Quốc tế của Đảng Cộng sản và NAACP bất đồng quan điểm về cách đại diện cho họ; vài người bị giam giữ hàng thập kỷ. (Họ được ân xá sau khi qua đời vào năm 2013).

1933 Du Bois tổ chức Hội nghị Amenia lần thứ hai, do NAACP tài trợ. Ông coi đây là cơ hội để hỏi ý kiến thế hệ lãnh đạo da đen mới nổi về các giải pháp cho “vấn đề người da đen”. Các luận điểm dựa trên giai cấp được tranh luận mở rộng trong thời đại của các thử nghiệm chính trị.

1934  Du Bois mất kiên nhẫn với cách tiếp cận pháp lý và chủ nghĩa hòa nhập của NAACP khiến ông từ chức khỏi tổ chức mà ông đã góp phần thành lập. Du Bois bắt đầu ủng hộ các hợp tác kinh tế dựa trên chủng tộc như giải pháp duy nhất cho cuộc tìm kiếm quyền công dân và lòng tự trọng của người da đen (trớ trêu thay, các hợp tác này không quá khác biệt về tư tưởng so với các mô hình tự lực kinh tế của Booker T. Washington vào cuối thế kỷ 19). Du Bois trở lại Đại học Atlanta.

1935 Du Bois xuất bản Tái thiết người da đen [Black Reconstruction], một phân tích tiên phong theo tinh thần xét lại thời kỳ Tái thiết. Du Bois sử dụng cách tiếp cận dựa trên giai cấp để giải thích những gì mà nhiều người cho rằng chỉ là vấn đề dựa trên chủng tộc.

1940 Du Bois xuất bản Hoàng hôn của bình minh: Một tiểu luận hướng tới tự truyện về khái niệm chủng tộc [Dusk of Dawn: An Essay toward an Autobiography of a Race Concept]. Đây là một suy ngẫm sâu sắc về mối liên hệ giữa cuộc đời ông và các sự kiện thế giới, được nhìn qua lăng kính của chủng tộc như một khái niệm ý thức hệ.

1941  Hoa Kỳ tham gia Thế chiến II.

1944 Hợp đồng của Du Bois tại Đại học Atlanta không được gia hạn. Ông quay trở lại NAACP.

1945 Thế chiến II kết thúc không lâu sau khi Hoa Kỳ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki.

1945 Liên Hợp Quốc được thành lập tại một hội nghị ở San Francisco. Du Bois là một trong ba đại diện của NAACP được cử đi vận động chấm dứt chế độ thực dân ở nước ngoài.

1948 Du Bois từ chức tại NAACP. Các lãnh đạo của tổ chức này cho rằng mối quan hệ công khai của ông với những người Cộng sản và các chỉ trích kéo dài của ông nhắm đến chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ đe dọa đến sự tồn tại của NAACP trong Chiến tranh Lạnh. Du Bois bắt đầu làm đồng chủ tịch của Hội đồng về Các vấn đề châu Phi [Council on African Affairs], một tổ chức tiến bộ dành riêng cho phong trào chống thực dân và Liên Phi.

1950 Du Bois được bầu làm chủ tịch Trung tâm Thông tin Hòa bình [Peace Information Center], một tổ chức phản đối vũ khí hạt nhân. Ông ứng cử vào Thượng viện Hoa Kỳ (đại diện cho New York) với tư cách là ứng cử viên của Đảng Lao động Hoa Kỳ.

1950–1958 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thu hồi hộ chiếu của Du Bois. Ông không thể rời khỏi đất nước.

1951 Du Bois bị truy tố là đặc vụ nước ngoài chưa đăng ký và bị cáo buộc sử dụng hoạt động vì hòa bình làm vỏ bọc cho các hoạt động cộng sản.

1954 Tòa án Tối cao đưa ra phán quyết trong vụ Brown kiện Hội đồng Giáo dục, lật ngược phán quyết vụ Plessy kiện Ferguson. “Tách biệt nhưng bình đẳng” giờ đây bị coi là vi hiến, và luật Jim Crow bắt đầu sụp đổ. Các không gian công cộng ở miền Nam trở thành các không gian tư nhân – trường học, sân chơi, câu lạc bộ đồng quê, hồ bơi, sân golf – để tránh phạm vi quản lý của Tòa án Tối cao.

1961 Sau nhiều thập kỷ chiến đấu – và thất bại – trong các cuộc chiến vì quyền công dân đầy đủ, một thế giới không hạt nhân, và chấm dứt một hệ thống kinh tế bất công, Du Bois tin rằng Hoa Kỳ sẽ không thay đổi. Ông chuyển đến Ghana và tuyên bố trung thành với Đảng Cộng sản Hoa Kỳ (mặc dù trước đó ông chưa từng là một người Cộng sản, bất chấp nhiều thập kỷ bị cáo buộc).

1962 Du Bois trở thành công dân Ghana khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ từ chối gia hạn hộ chiếu đã hết hạn của ông.

1963 Du Bois qua đời vào đêm trước Cuộc tuần hành ở Washington vì Việc làm và Tự do và được chôn cất ở Ghana.

1964 Đạo luật Dân quyền được ký.

1965 Đạo luật Quyền Bầu cử được ký.

Chú thích

[1] Amy Bass, Those about Him Remained Silent: The Battle over W. E. B. Du Bois (Minneapolis: University of Minnesota Press, 209), 47.

[2] Cuốn sách là sự kết hợp của các tiểu luận đã xuất bản trước đây (hoặc phiên bản mở rộng của chúng) và tác phẩm mới được chuẩn bị đặc biệt cho riêng nó. Xem David Levering Lewis, W. E. B. Du Bois: Biography of a Race, 1868–1919 (New York: Henry Holt, 1993), 277–78.

[3] Để biết ví dụ về các cuộc tranh luận mạnh mẽ và sâu sắc hiện nay về quyền công dân mang tính chủng tộc, quyền thuộc về và di sản của luận lý chủng tộc của quốc gia này, xem loạt bài viết của Ta-Nehisi Coates trên The Atlantic năm 2013 và 2014. Đầu tiên là những trao đổi giữa Coates và một đối tác trí thức, Jonathan Chait, về văn hóa người da đen và các giả định về bệnh lý (xem, ví dụ, “Black Pathology Crowd-sourced”, “Other People’s Pathologies”, “Black Pathology and the Closing of the Progressive Mind”). Tiếp theo là tiểu luận mở rộng của Coates, “The Case for Reparations,” tất cả đều có thể xem tại http://www.theatlantic.com/ta-nehisi-coates.Về các tranh luận đương đại về việc bồi thường ngoài Hoa Kỳ, xem Jonathan Holloway, “Caribbean Payback: Europe’s Former Colonies Battle for Slavery Reparations”, Foreign Affairs, ngày 2 tháng 4 năm 2014, http://www.foreignaffairs.com/articles/141090/jonathan-holloway/caribbean-payback.

[4] Bass, Those about Him Remained Silent, 14–21.

[5] Alexander Crummell, “Civilization, the Primal Need of the Race,” American Negro Academy, Occasional Papers, no. 3 (Washington, DC: American Negro Academy, 1898), 6.

[6] Du Bois không phải là người duy nhất thách thức chính sách hoà giải của Washington. Biên tập viên báo chí ở Boston, Monroe Trotter, và những người khác nữa, thường xuyên tấn công cỗ máy chính trị của Washington. Tuy nhiên, có lẽ người phê phán sớm nhất là nhà nữ quyền Anna Julia Cooper. Cooper đã chỉ trích Washington và sự trỗi dậy nắm quyền của ông ta trước một thập kỷ khi Du Bois xuất bản Những linh hồn da đen. Trong A Voice from the South: By a Woman from the South, xuất bản năm 1892, Cooper cho rằng chương trình nghị sự của Washington sẽ dẫn đến ngõ cụt cho người Mỹ da đen. A Voice from the South là một văn bản quan trọng trong lịch sử học thuật về nữ quyền da đen và thể hiện nhiều ý thức hệ đồng hóa và nâng cao địa vị tương tự như Du Bois đã công khai trong thời kỳ nổi lên của mình.

[7] Để biết thông tin xuất bản, xem M. Elaine Hughes, “A Selected Publication History of The Souls of Black Folk,” trong Dolan Hubbard, ed., The Souls of Black Folk: One Hundred Years Later (Columbia: University of Missouri Press, 2003), 323–25. Những năm này cũng chứng kiến ​​ Những linh hồn da đen trở thành một phần của bộ ba tác phẩm tự sự về quá khứ của người da đen. Nó được biên soạn cùng với Up from Slavery của Booker T. Washington và An Autobiography of an Ex-Colored Man trong Three Negro Classics của James Weldon Johnson, do John Hope Franklin biên tập và giới thiệu (New York: Avon Press, 1965).

[8] Adolph Reed, Jr., W. E. B. Du Bois and American Political Thought: Fabianism and the Color Line (New York: Oxford University Press, 1997), 92.

[9] Xem, ví dụ, Alfred Young, Jr., et al., The Souls of W. E. B. Du Bois (Boulder, CO: Paradigm Publishers, 2006); Dolan Hubbard, ed., The Souls of Black Folk: One Hundred Years Later (Columbia: University of Missouri Press, 2003); Manning Marable, “Introduction”, trong W. E. B. Du Bois, The Souls of Black Folk (Boulder, CO: Paradigm Publishers, 2004); và Brent Hayes Edwards, “Introduction”, trong W. E. B. Du Bois, The Souls of Black Folk (New York: Oxford University Press, 2007).

[10] Du Bois viết tiếp: “Người lao động phải làm việc vì vinh quang của sản phẩm được làm từ đôi tay của mình, không chỉ vì tiền công; nhà tư tưởng phải suy tư vì chân lý, không phải vì danh tiếng. Và tất cả những điều này chỉ đạt được thông qua đấu tranh và khao khát của con người; thông qua đào tạo và giáo dục không ngừng; bằng cách tạo lập Quyền trên sự công chính và Chân lý trên sự tìm kiếm Chân lý không bị cản trở; bằng cách thành lập trường học cộng đồng tại trường đại học, và trường dạy nghề tại trường học cộng đồng; và do đó dệt nên một hệ thống, chứ không phải là bóp méo nó, và mang lại sự sinh nở, không phải là sự cấm đoán”.

[11] Xem, ví dụ, trong vụ Gratz kiện Bollinger (2003), Tòa án Tối cao tuyên bố rằng cơ chế đa dạng hóa sinh viên của Đại học Michigan đã vi phạm Điều khoản Bảo vệ Bình đẳng và thực sự phân biệt đối xử với những ứng viên da trắng; trong vụ Grutter kiện Bollinger (2003), Tòa án Tối cao cho biết Khoa Luật của Đại học Michigan có thể sử dụng chủng tộc làm yếu tố trong tuyển sinh với điều kiện việc sử dụng nó được “thiết kế chặt chẽ”; và trong vụ Fisher kiện Texas (2013), Tòa án Tối cao bảo lưu hành động khẳng định nhưng nhấn mạnh rằng chủng tộc chỉ có thể được sử dụng (và với “sự giám sát chặt chẽ”) như một yếu tố để đảm bảo sự đa dạng khi các lựa chọn trung lập về chủng tộc không thành công. Khả năng hành động khẳng định dựa trên chủng tộc giảm sút hơn nữa vào năm 2014, khi Tòa án Tối cao phán quyết trong vụ Schuette kiện BAMN rằng tòa án liên bang không được can thiệp vào các hành động của tiểu bang nhằm loại bỏ chủng tộc như một yếu tố trong việc tuyển sinh đại học. Để xem xét cẩn thận tác động tiêu cực mà các chính sách trung lập về chủng tộc gây ra đối với nhân khẩu học về chủng tộc và sắc tộc của các trường đại học, xem David R. Colburn, Charles E. Young và Victor M. Yellen, “Admissions and Public Higher Education in California, Texas, and Florida: The Post-Affirmative Action Era,” InterActions: UCLA Journal of Education and Information Studies 4(1), 2008: 1–21.

[12] George Lipsitz viết rất thuyết phục về vấn đề này trong cuốn sách The Possessive Investment in Whiteness: How White People Profit from Identity Politics (Philadelphia: Temple University Press, 1998). Trong vụ Schuette kiện BAMN, Thẩm phán Sonia Sotomayor đã chỉ trích gay gắt tuyên bố của Roberts trong vụ Parents Involved in Community Schools: “Theo quan điểm của các đồng nghiệp tôi, việc xem xét tác động chủng tộc của luật pháp chỉ làm duy trì sự phân biệt chủng tộc. Thật đáng tiếc khi từ chối chấp nhận thực tế phũ phàng rằng chủng tộc là vấn đề. Cách để chấm dứt nạn phân biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc là nói một cách cởi mở và thẳng thắn về vấn đề chủng tộc, và áp dụng Hiến pháp với con mắt mở to trước những tác động đáng tiếc của hàng thế kỷ phân biệt chủng tộc. Là thành viên của ngành tư pháp có nhiệm vụ can thiệp để thực hiện bảo đảm bình đẳng, chúng ta không nên ngồi yên và mong ước xóa bỏ, thay vì đối mặt với, sự bất bình đẳng chủng tộc tồn tại trong xã hội của chúng ta. Chính quan điểm này gây hại, khi duy trì quan niệm dễ dãi rằng điều khiến chủng tộc trở nên quan trọng là thừa nhận sự thật đơn giản rằng chủng tộc thực sự quan trọng”. Mặc dù là một cáo buộc mạnh mẽ về những diễn giải vô hại trong lịch sử về cách chủng tộc cộng hưởng trong xã hội, nhưng phê bình của Sotomayor đến từ sự bất đồng quan điểm. Trong Tòa án hiện tại, quan điểm của bà thuộc về thiểu số.

[13] Vào tháng 5 năm 2014, phóng viên tờ New York Times Ian Urbina đưa tin rằng chính phủ liên bang đang tuyển dụng những người nhập cư bị giam giữ – gần một nửa trong số họ là hợp pháp nhưng bị giam giữ vì nhiều lý do, thường là lỗi hành chính – làm nhân viên dịch vụ tại các cơ sở giam giữ trên khắp cả nước. Những người nhập cư này chủ yếu là người Latinh và được trả không quá một đô la một ngày, mức lương được thiết lập cho loại công việc này từ năm 1950 và không bao giờ tăng. Urbina, “Using Jailed Immigrants as a Pool of Cheap Labor,” New York Times, ngày 24 tháng 5 năm 2014.

[14] Vào tháng 5 năm 2013, thẩm phán Tòa án Quận Hoa Kỳ Shira Scheindlin đã phát hiện ra rằng các hoạt động dừng-và-khám xét của New York vi phạm Điều khoản Bảo vệ Bình đẳng. Tuy nhiên, lệnh của Scheindlin đã bị Tòa Phúc thẩm Liên bang vòng Hai đình chỉ với lý do Scheindlin đã vi phạm Bộ quy tắc ứng xử và không công bằng trong các cân nhắc của mình. Khi Thị trưởng Bill de Blasio nhậm chức vào tháng 1 năm 2014, ông đã có động thái giải quyết các vụ kiện liên quan đến chính sách dừng-và-khám xét của sở cảnh sát và chấm dứt hoạt động này. Không thể biết được sở cảnh sát sẽ mất bao lâu để khắc phục thiệt hại do chính sách của mình gây ra.

[15] Jeffrey Fagan, Amanda Geller, Garth Davies, và Valerie West, “Street Stops and Broken Windows Revisited: The Demography and Logic of Proactive Policing in a Safe and Changing City,” Public Law and Legal Theory Working Group, Paper Number 09-203, Columbia Law School, 6/2009, 44.

[16] Như nhà khoa học chính trị Vesla Weaver buồn bã kết luận, càng xa thời đại chủng tộc “rõ ràng” (và do đó càng tiến sâu hơn vào thời đại “hậu chủng tộc”), thì cảm giác về mối liên hệ giữa chủng tộc và tội phạm càng mạnh mẽ. Weaver lưu ý rằng: “Khi lịch sử chủng tộc đáng xấu hổ của chúng ta dần lùi xa theo thời gian”, “sự bành trướng mang tính trừng phạt của chúng ta ngày càng tách biệt khỏi động cơ chủng tộc của nó, và do đó, câu chuyện tội phạm da đen cũng trở nên hợp lý hơn bao giờ hết, giả định một tính chất thực tế, được coi là hiển nhiên trong dư luận đại chúng, phương tiện truyền thông và thậm chí là các câu chuyện học thuật”. Weaver, “Unhappy Harmony: Accounting for Black Mass Incarceration in a ‘Post-Racial’ America,” trong Frederick C. Harris và Robert E. Lieberman, ed., Beyond Discrimination: Racial Inequality in a Postracial Era (New York: Russell Sage Foundation, 2013), 247.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged , . Bookmark the permalink.