Đọc tập truyện Hạt U Minh của Trần Kiêm Trinh Tiên

Phan Tấn Hải

 

Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, Hạt U Minh. Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền… Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.

U minh… Có một địa danh là Huyện U Minh ở tỉnh Cà Mau, và có một khu rừng tên là Rừng U Minh nằm ở tỉnh An Giang và Cà Mau, sát Vịnh Thái Lan. Nghĩa là, rất xa. Nếu bạn nhớ thêm, thời học Văn trong lớp Đệ Tứ (bây giờ là lớp 9) ở Miền Nam trong các năm 1960s, hẳn là bạn đã từng học về chữ “u minh” được hiểu theo nghĩa rất buồn trong Hoa Tiên truyện, một truyện thơ Nôm thế kỷ thứ 18 của Nguyễn Huy Tự. Chữ “u minh” có nghĩa là: bóng tối và ánh sáng, cũng có nghĩa là cõi chết và cuộc sống. Trích mấy câu trong Hoa Tiên truyện:

U-minh đôi ngả khơi chừng,

Một niềm sắt-đá biết rằng thấu không?

Kiếp này đã lỏng giải đồng,

Mảnh duyên gắn-bó còn hòng kiếp sau

Than ôi, buồn tới như vậy kìa. Dĩ nhiên, Hoa Tiên truyện không liên hệ gì tới tập truyện ngắn Hạt U Minh . Nhưng cõi này là những nỗi buồn bất tận, như dường Trần Kiêm Trinh Tiên viết truyện như lời kể buồn nhiều hơn vui. Những dòng cuối truyện ngắn Hạt U Minh cũng rất là buồn, ghi lời kể từ tôi, nhân vật chính, trích:

Niệm Tâm Kinh Bát Nhã mà lòng tôi như cơn gió thổi qua thảo nguyên trống không, thăm thẳm. Từ nay trong ngôi chùa xưa chỉ còn lại một mình tôi, Hạt U Minh của mẹ. Và mẹ là trang cổ thư, tôi có đọc suốt đời cũng không sao hiểu hết.” (Hạt U Minh , tập truyện Hạt U Minh , trang 29)

Hạt U Minh cũng là tựa đề một truyện ngắn trong tập truyện cùng tên, được viết trong một bầu không khí kể lại theo kỹ thuật, có lúc như tự sự, có lúc như tả thực, có lúc như kể theo trí nhớ. Truyện ngắn trung tâm này được viết theo lời kể của nhân vật chính là một ni cô, về sau lên làm trụ trì một ngôi chùa nhỏ, nhưng cảm xúc có khi nghĩ về một chàng trai bên một trường Dòng, hiểu là của một dòng tu Thiên Chúa Giáo.

Khi độc giả tìm sách này trên mạng Amazon, sẽ thấy phần giới thiệu là:

“Trinh Tiên có duyên với văn chương từ thời còn đi học. Năm 1974, truyện Sao núi của Tiên – được ký tên với bút danh Trần Thị Thái Khương – được chấm giải nhất của Báo Điện Tín trong cuộc thi “Viết cho Việt Nam Hoà Hợp”. Và bây giờ, tập truyện ngắn Hạt U Minh của Tiên ra đời, gồm những tác phẩm Tiên đã viết trong một thời gian dài, sau khi đã rời Huế và thiên di qua những vùng miền rất xa.

Tập truyện này chỉ gồm 8 truyện ngắn, nhưng ôm chứa trong lòng một thế giới rộng dài: những câu chuyện trong đó đã diễn ra trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ, trong không gian trải rộng qua nhiều châu lục. Đó là những cuộc đời Việt tại Úc, Nhật, Pháp, Mỹ… Những câu chuyện khiến ta xúc động bùi ngùi, vì trong đó có rất nhiều hợp tan, mừng tủi và thương nhớ…”

Phần giới thiệu trên là trích từ bài Nhẹ nhàng mà day dứt khôn cùng của Trần Thùy Mai nơi đầu sách, trang 9-10. Bạn có thể tìm thấy sách này ở:

https://www.amzn.com/B0DZGL1FJX/

Trên trang web riêng, nhà phê bình Trần Kiêm Đoàn có một bài bình luận, nhận định về tập truyện Hạt U Minh của Trần Kiêm Trinh Tiên, trích như sau:

“…Tác phẩm Hạt U Minh là một cánh diều căng gió với không gian riêng của nó; một không gian điên đảo mà bình lặng đầy ắp biến cố giữa thuở chiến tranh, ngày hòa bình, buổi giao thời, bước thoát ly, thái độ khước từ, nhập cuộc, khổ hạnh, đóng đinh và hệ lụy lâu dài hay tức thời của nó ở bất cứ vùng trời nào khi mà con người vừa là một sản phẩm mà cũng vừa là động cơ tái tạo của hoàn cảnh.

Thế giới trong tác phẩm Hạt U Minh là những mảnh đời hiện thực và chuỗi biến hiện – thánh thiện, bác ái, từ bi, nhỏ nhen, độc ác, âm mưu vừa phản kháng vừa hội nhập – mang đậm tính người vừa gian manh bất ổn như tên chúa đảng hải tặc; vừa thiện lành như vị thiền sư có mặt nhan nhản từ Huế tới muôn phương. Tác giả đã hồi tưởng hay xây dựng nhân vật của tác phẩm với tầm nhìn từ những góc khuất tâm lý, trải nghiệm và hoàn cảnh xuất thân thấm đẫm nếp văn hóa nhạc và hoa nhiều hơn là hận thù và vũ khí.

Triết lý Phật giáo bàng bạc như những dấu ấn vô hình thâm xuyên các truyện không theo lối thuyết giảng, mà thẩm thấu qua từng chi tiết đời thường: là tiếng chuông u minh chùa Thiên Mụ vọng về lẫn trong tiếng rền xa của đại bác từ Trường Sơn…” (Trần Kiêm Đoàn: https://trankiemdoan.net/hat-u-minh/)

Thực tế, nói một cách truyền thống theo các cụ thì ngay những dòng đầu truyện đã cho thấy là “oan nghiệt” khi một ni cô ngẩn ngơ nhớ tới một thầy Dòng (Ki Tô Giáo). Các đoạn văn đầu tiên của truyện Hạt U Minh được tác giả Trần Kiêm Trinh Tiên viết, trích:

“Lần thứ hai trong năm, lúc Chùa sửa soạn cho vụ mùa, Sư bà trụ trì lại cho tôi hai tuần nhập thất. Khi nghe Sư cô Giáo Thọ báo tin, cổ họng tôi đắng khô. Bao giờ Nhà Dòng ở bên kia đồi cũng phái thầy Huyên kéo chiếc máy cày sang làm đất giúp Chùa vài hôm. Như thế là tiêu tan hy vọng được gặp lại thầy mùa này. Tôi ngẩn ngơ đứng nhìn ra chiều đang vàng lắm ở trên đồi mà không thấy Sư cô Giáo Thọ quay đi, giấu tiếng thở dài.

“Ngay từ hôm đầu tiên vào thất, tôi đã bắt gặp cái tâm tôi như “vượn chuyền cành”. Chỉ một tiếng người lao xao bên ngoài cũng đủ làm cho con ngựa chứng bất kham trong tôi trỗi dậy. Tôi nhớ thầy Huyên. Không biết từ mùa nào, khi Thầy kéo chiếc xe máy cày về lại Nhà Dòng, lòng tôi cũng đi theo về bên ấy…” (Hạt U Minh, trang 17-18)

Thôi thì, phải dằng co như thế mới thành truyện cho gay cấn? Truyện không có nhiều chi tiết kịch tính, nhưng tác giả đi sâu vào diễn biến tâm lý nhân vật “tôi” – một ni cô trẻ. Ni cô có nỗi nhớ da diết với thầy Huyên, và tự ý thức rằng đang có “tâm vượn chuyền cành.” Tác giả cũng trích dẫn lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh để cho thấy ni cô đang muốn an tâm, khi nỗi nhớ thầy Huyên ám ảnh đến mức “hồ như mình đang bước đi trên sóng” (trang 18) hay “cái tâm cuồng si tội nghiệp ấy đang mang đến cho tôi vị mặn đậm của mùi mồ hôi đàn ông” (trang 19). Những hình ảnh này cho thấy sự đấu tranh quyết liệt giữa đời và đạo, giữa khao khát tình yêu đời thường và giới luật của một người tu hành.

Nút thắt của câu chuyện được mở ra khi Sư bà gửi ni cô về Huế tìm mẹ. Đây không chỉ là một chuyến đi vật lý mà còn là một hành trình tinh thần quan trọng. Việc nhận ra mẹ mình là O Lượm, một người đàn bà mất trí, đã giúp nhân vật “tôi” chuyển hóa nhận thức. Bất hạnh của người mẹ trở thành nơi an trú cho tâm hồn cô, ý thức thâm sâu về nỗi khổ trần gian. Cái nhìn về Khổ Đế hiện thân nơi người mẹ giúp ni cô nhìn lại những xao động của bản thân, nhận ra cái “tâm như vượn chuyền cành” ngày xưa chỉ là sự “chém những đường gươm vô minh vào khoảng không” (trang 26).

U Minh là tối và sáng, là sống và chết, là sinh và diệt. Hạt U Minh là hình ảnh biểu tượng, khi ni cô trong vai nhân vật “tôi” tự coi mình là một “hạt giống lạc loài” bị số phận thả rơi xuống chốn cửa thiền – “Tôi là hạt giống của cõi nào mà cánh chim đã thả lạc nơi này?” (trang 19). Tương tự, ni cô kể, “Tôi thầm cảm ơn cánh chim của số phận đã thả rơi tôi, hạt giống lạc loài, xuống chốn cửa thiền” (trang 27).

Sau khi tìm thấy cội nguồn, ni cô nhận ra mình chính là Hạt U Minh của mẹ – một hạt mầm được sinh ra từ cõi tối tăm, bất hạnh của một người phụ nữ mất trí. Tuy nhiên, hạt mầm đó lại nảy nở trong môi trường thanh tịnh của nhà chùa, rồi cuối cùng, chính hạt mầm này lại trở về làm nơi nương tựa cho người mẹ bất hạnh. Cái chết của người mẹ càng khiến Hạt U Minh ấy trở nên quý giá và thiêng liêng, là “trang cổ thư” (trang 29) mà cô nguyện suốt đời đọc, suốt đời chiêm nghiệm.

Trần Kiêm Trinh Tiên sử dụng lối kể chuyện nhẹ nhàng, giàu chất thơ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự, độc thoại nội tâm và miêu tả. Tác giả thường xen kẽ Kinh Phật, như Bát Nhã Tâm Kinh, và lời dạy an tâm của Thầy Nhất Hạnh. Một đôi nơi, tác giả trích dẫn Kinh Thánh. Nhưng nổi bật về thủ pháp truyện là cách sử dụng nhiều hình ảnh, mà chúng ta đọc, đôi khi thấy như xem phim. Thí dụ, như các hình ảnh kinh điển (tâm vượn chuyền cành, hiệp sĩ mù chém gươm vô minh) và so sánh tinh tế (mẹ tôi nằm bình yên như chiếc lá khô)…

Một truyện khác, cũng gợi nhiều suy nghĩ, là truyện ngắn Dáng Xưa (trang 49-71). Có thể nói theo kiểu nhạc tình trước 1975 thì truyện này là “Bản tình ca dang dở giữa khói lửa chiến tranh,” nơi đây là mối tình lặng lẽ nhưng nồng nàn giữa cô gái Huế tên là Hiên và chàng trai Mỹ tên Timothy. Họ lo sợ nghĩ về nhau, nhớ nhau trong khi các trận đánh Tết Mậu Thân 1968 bùng nổ từ góc phố này tới góc phố kia, và khi Huế êm tiếng súng thì cô Hiên mới biết rằng xác anh Timothy được tìm thấy ở An Lăng. Bi thảm là, Timothy không có lời nào trong truyện cho thấy anh là chiến binh Mỹ. Trong truyện, anh được tác giả kể là làm cho “Ty” và như thế, có thể anh là cố vấn nông nghiệp cho Việt Nam hay nhà nghiên cứu về nông nghiệp, vì anh làm việc với các số liệu về những con thỏ, con bò… Tác giả không nói rõ chỗ này.

Mối tình cô gái Huế với chàng trai Mỹ rất là gian nan. Thân phụ của cô nói: “Con nhà gia giáo không lấy chồng Mỹ.” Chúng ta không thể hình dung mối tình này sẽ như thế nào, nếu chàng Timothy không chết trong trận Mậu Thân. Trong dòng văn học Việt Nam, có nhiều tác phẩm viết về chiến tranh và ký ức tuổi trẻ. Nhưng Dáng Xưa của Trần Kiêm Trinh Tiên lại mang đến một âm hưởng riêng: nhẹ nhàng mà ám ảnh, bi thương mà sâu lắng tình người. Đây không chỉ là một câu chuyện tình dang dở, mà còn là lời tưởng niệm một thế hệ thanh xuân bị chôn vùi trong khói lửa.

Cô gái Huế tên Hiên và chàng trai Hoa Kỳ Timothy. Họ có những giây phút đẹp đẽ, những hẹn hò ngập nắng vàng, những món quà bé nhỏ đầy thương nhớ. Nhưng chiến tranh đã không cho phép tình yêu ấy nở hoa. Ngày hẹn Tết Mậu Thân, Hiên chờ đợi trong vô vọng, và kể từ đó, “dáng xưa” chỉ còn ở lại trong ký ức.

Điều làm nên sức hút của truyện là cách Trần Kiêm Trinh Tiên kết hợp giữa hoài niệm riêng tư và ký ức lịch sử. Câu chuyện của Hiên và Timothy không chỉ là chuyện tình cá nhân, mà là biểu tượng cho rất nhiều mối tình bị tan vỡ trong chiến tranh. Từng chi tiết đời thường – một vòng chỉ thêu, tiếng chuông đồng hồ, bản nhạc Phạm Duy, bữa cơm Tết đơn sơ – trở thành những ký ức đau lòng, cho thấy hạnh phúc mong manh đến thế nào trước bạo lực súng đạn.

Giọng văn trong Dáng Xưa mềm mại, đậm chất trữ tình, nhiều chỗ như thơ. Người đọc bắt gặp những hình ảnh gợi cảm: “dáng cành ngô đồng in như mực tàu trên lụa ngà” (trang 51), “vạt áo dài nâu trông buồn hiu hắt trong nắng hanh” (trang 51), hay tiếng gõ của chuông đồng hồ “như hỏi mình: đã học bài chưa?” (trang 55). Chính chất thơ ấy làm dịu đi cái bi thương, nhưng cũng khiến nó thấm sâu hơn, như một dư ba kéo dài sau khi gấp lại trang sách.

Cái kết của truyện đưa nhân vật “tôi” trở lại với gia đình Timothy nơi đất khách. Người mẹ già đã lẫn trí nhớ, những kỷ vật còn lại – cây ngựa gỗ, chiếc lược ngà, khung ảnh – đều gợi lên một khoảng trống mênh mông. Đó là khoảng trống của tình yêu chưa trọn, của tuổi trẻ không bao giờ trở lại, và của một thế hệ bị lịch sử bỏ lại phía sau.

Dáng Xưa vì thế không chỉ là truyện ngắn về tình yêu, mà còn là một bản tưởng niệm tuổi xuân. Nó khiến người đọc nhận ra: chiến tranh không chỉ giết sinh mạng, mà còn hủy diệt những mầm hạnh phúc. Và trong nỗi mất mát đó, ký ức trở thành nơi nương tựa duy nhất. “Dáng xưa” ấy, dù mong manh, vẫn sống mãi trong lòng người kể và trong tâm thức độc giả.

Một hình ảnh rất kinh điển về Tết Mậu Thân ghi trong nhật ký của cô Hiên, nhân vật chính của truyện Dáng Xưa: “Súng nổ rền bốn phía không ngớt, cho đến gần sáng. Có những tiếng nổ lớn như tiếng bộc phá khiến con Mực hoảng sợ, sủa inh ỏi. Thầy vặn thử radio như những khi Sàt Gòn có đảo chánh nhưng không bắt được làn sóng. Không ai đoán được chuyện gì đang xảy ra. Mẹ trải chiếu dưới gầm bộ ngựa gõ cho cả nhà nằm tạm. Lòng em như lửa đốt. Mẹ nhắc em niệm Phật. Em không còn nhớ nổi một câu kinh. Ôt Timmy, sao em cứ mãi lo sợ điều bất trắc xảy đến cho anh?” (trang 61)

Truyện ngắn của Trần Kiêm Trinh Tiên nhìn chung là những bước đi có vẻ như vượt qua những lằn ranh cách biệt. Tác giả gài những mối tình gay cấn vào những lằn ranh tôn giáo, màu da trong một bối cảnh Việt Nam, trong và rồi ngoài nước. Đúng như nhà phê bình Trần Kiêm Đoàn đã viết: “Triết lý Phật giáo bàng bạc như những dấu ấn vô hình thâm xuyên các truyện…”

Có thể có một lời nào ngắn gọn nói về các truyện ngắn của chị Trần Kiêm Trinh Tiên? Có lẽ nên nói rằng, đó là những lời kể thơ mộng để nói lên ước mơ yêu thương và hòa bình từ một nhà văn nữ trưởng thành trong thời nội chiến Việt Nam, nơi tất cả mọi người dân Việt đều mang theo những vết thương hậu chiến. Nơi đó, những dòng chữ của tác giả được viết như “muốn gửi lòng mình trên chiếc lá khô trôi theo con sông về xuôi… anh đã nằm lại với mảnh đại bác xuyên thủng ngực. Cũng bên một khúc quanh của dòng sông” (trang 36-37).

Nơi đó, tác giả tự nhìn về nỗi cô đơn sáng tác của mình như lời kể ở trang 138: “… tôi nhìn lên phía sau, chỉ âm u bóng đêm. Nơi ấy, trong khu vườn quạnh hiu, có con chim đang đứng hót một mình.”

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.