GIÓ @, VĨNH QUYẾT
Trần Tuấn
Tôi chợt nhận ra, cơn gió ấy đã thổi qua khỏi địa cầu hoảng loạn này rồi. Qua hẳn rồi. Qua thật rồi. Như một thời đại, đã qua.
Khi đọc Gió @ của Giao (Đoàn Huy).
Chỉ còn là Nó.
Nó là
hiện sinh, hiện thực, vị lai, phi lý, địa ngục, phượng hoàng, william caley, bát bún măng vịt đổi đời, mông bờ hồ, nhân văn, karl heinrich marx, đạt ma, chư vị la hán, đạo đức thặng dư tư bản luận, xã viên, b52, khâm thiên, chiến lợi phẩm, búp bê nhựa, kinh tuyến, vĩ tuyến, thuyền nhân, thi ca, văn đàn, nghệ thuật, ngôn từ, thi pháp, bờ ảo vọng, bia mộ vô danh, thế hệ mình, thế giới đại đồng, thế giới tự do, thế sự suy vi, dị tật của bầu trời, màu cái chết, màu bộ lạc, trái tim phi giới tuyến, vĩ mô, vi mô, câu lạc bộ thơ truyền thống, thơ bậc thang, da vàng, lá cờ tang, dải khăn xô,… (*)
Thật ra, Nó qua đã lâu, từ rất lâu, nhưng nay thì vĩnh quyết. Không tiếc nuối. Không nhớ nhung. Không níu kéo. Cả trong anh, cả trong tôi. Cho dù “giữa cô đơn vây hãm/ tôi tin vào thần Gió”, như đã từng.
Như đã từng mềm lòng
cơn gió rỗng sơ sinh điệp trùng
trong câm lặng
cạ vào mái rêu hồi chuông chiều
dư âm câu xẩm chợ mềm lòng – mùi châu thổ.
Như đã từng
bờ ngực hương chanh, đôi bồng đá ma mâm, thiên đường trắng man di, vầng trán sa cơ, nhịp đồng thau, đêm thổ hoàng, hồi ức vỡ bờ, đốn ngộ lên ngực em, hoa loa kèn thanh tao kẹp năm cửa ô phập phù ngực gió, men hạt cỏ vỗ về trái tim đại thụ,… (*)
Tôi rơi nước mắt vì Nó, không phải là tôi khóc.
Tôi rơi nước mắt, vì tôi vì anh chúng ta đã yêu quá nhiều đã tin quá nhiều đã mơ quá nhiều đã sống quá nhiều quá lâu quá đắm đuối. Vì Nó.
Milan Kundera đã nói rồi. Khi bị giết, những giấc mơ chảy máu rất nhiều. Nó từng là giấc mơ rất lớn của chúng ta. Nhưng giờ tôi đang vật vã tìm cách quên đi Vĩnh quyết.
Nó
cái chết có màu gì?
cái chết!
màu bộ lạc – bên kia sông đi rong
cơn động kinh khải thị.
cái chết có màu gì?
cái chết!
Nó
mớ ngôn từ khóc / cười trong cay đắng
trái tim nổ tung & câm lặng theo cách quả
rốc kết ngủ vùi trong lau sậy mù u chờ ra
đòn tề thiên của mấy tay đầu nậu phù phép
biên niên sử.
Nó
thi pháp! thi pháp!
cửa đóng then cài cho mi nép bên thùng phước
sương chánh điện hồn thơ chay tịnh chảy tràn
dòng thủy lôi chen chúc trên bàn hội thẩm chờ
xét duyệt giải mưa ngâu hoàng triều văn tuyển
chập cheng cửa hậu chật như nem bóng anh tài
cuồng dâm sốt vó.
May còn chút yên ủi cuối cùng
bóng đêm bao dung nàng đặt làn môi
điên mê lên vầng trán lưu linh thằng chết hụt.
một khải thị đá tảng câm lặng trong nguyệt
tận chỉ dấu cho ta gõ vào bàn phím @ lạc
phách về trời.
Nó, dù sao cũng TỪNG LÀM NÊN hai thằng đàn ông chúng ta, hai “thằng chết hụt”. Hai kẻ khai sinh cùng mang chung cái tên làng Đông Sơn mỏm Ba Tân Gân cực đông Quảng Ngãi chồm ra đại dương thăm thẳm:
khi ta về Thu Xà thì chiếc lá vàng của Khê đã
ngậm ngùi chiều thu trôi ra cửa Cổ Lũy theo
cách diễn đạt thậm xưng kiểu Hàn ngây ngất
trôi theo mùa trăng những mùa trăng đìu hiu
gạch tháp giày vò nỗi sầu thương bất tử.
Hai thằng đàn ông cách nhau gần đôi chục tuổi, cùng đau đớn khóc, cười. Để quên đi, với “bàn phím @ lạc phách”.
thần lãng quên có chổ thần tình của thần lãng quên
trong thiên hà dị sử.
ta có chỗ vi vu rong chơi hoang dại của ta
trong giới luật ta bà.
Phúc thay cho kẻ nào có thể lãng quên. Chúa chưa từng nói điều ấy.
2.9.2025
[*] những chữ in xiên rút trong bản thảo trường ca Gió @ của Đoàn Huy Giao
CÁI CHẾT CÓ MÀU GÌ?
Đọc “Gió @” – thơ Đoàn Huy Giao
Nguyễn Viện
Một câu hỏi vu vơ, tưởng như không thể trả lời. Nhưng là một câu hỏi ngỡ ngàng, sâu thẳm… vọng lên từ hố thẳm thực tại. “Cái chết có màu gì?”, câu hỏi xuyên suốt từ những giòng đầu tiên đến cuối tập thơ dài hơn năm ngàn chữ của Đoàn Huy Giao, nhức nhối và ai oán của một thời cuộc nhiễu nhương. Một lịch sử trớ trêu và khóc cười thành tiếng của cái chết.
Dường như với “Gió @”, tôi thấy một Đoàn Huy Giao khác. Cơn gió của thời đại thổi rát mặt những ai còn có chút bận tâm với thế sự. Nó nhắc nhở về một hiện thực đã và đang là cuồng phong trong đời sống chúng ta, không thể phủ nhận.
“ơi! cơn gió rỗng sơ sinh điệp trùng
trong câm lặng
cạ vào mái rêu hồi chuông chiều
dư âm câu xẩm chợ mềm lòng – mùi châu thổ.”
Cơn gió ấy không chỉ “cạ vào mái rêu hồi chuông chiều”, mà còn xé nát cõi nhân gian với những “ngôn từ giảo hoạt” của “thói văn ngôn cai ngục” phổ biến.
“bạn mơ chi mớ ngôn từ nhá nhem – bóng ma
thời hậu chiến lâm bệnh đậu ôn vàng da trí
tưởng tượng không phanh mấy dòng thơ tán
tình tuyệt vọng được chiêu danh : tên biệt
kích văn chương bách bệnh sầu đau lịch triều
hoang hoại.”
Từ chiến tranh đến hoà bình, thời nào cũng là bi kịch. Tang thương và phi lý. Con người trong vòng xoáy thời cuộc, chỉ là những nạn nhân của lịch sử.
“kẻ hoan hỉ đỏ mặt người khóc thầm rậm
rực nhận hàng cậy họ xuôi nam ngược
bắc cao trào khoái lạc râu tóc rối tung búa
bổ thái dương xình xịch đỉnh vinh quang
cuồng loạn khói than phụt ngút trời tàu
liên vận ngất ngây từng chùm chiến lợi
phẩm càn khôn lắc lư búp bê nhựa.”
Không chỉ là một ký ức hay một cáo trạng về một thời u ám, thơ Đoàn Huy Giao còn là tiếng nói khát khao hạnh phúc từ một cõi miền thơ ngây hoang dại.
“hãy để thiên chức con mái rừng rú trong em
giao tình ngấu nghiến phần cỏ dại ngổ ngáo
trong anh – bữa tiệc trăng non khát đói.”
Những giây phút hiếm hoi trở về bản năng gốc này đã cứu vãn những phẫn nộ của một người thức tỉnh trước sự giả dối chính trị thành một diễn ngôn nhân bản và chân thực. Trong góc nhìn của tôi, Đoàn Huy Giao là một trường hợp hiếm hoi trong nền văn chương đương đại của chúng ta, khi sự chân thành của chữ nghĩa được bày tỏ. Một lương tâm công chính được thể hiện trong tư thế kẻ sĩ.
Thơ Đoàn Huy Giao mạnh mẽ, mỗi chữ như nhuốm máu oan hồn. Nhưng thơ Đoàn Huy Giao cũng đòi hỏi sự hiểu biết lịch sử để thấu cảm. Những trải nghiệm của anh, những đớn đau bi phẫn ấy không dễ được chấp nhận. Nhưng nếu chúng ta không chấp nhận sự thật, làm sao chúng ta có thể “giải oan cho cuộc biển dâu này” (Tô Thuỳ Yên)?
Một Đoàn Huy Giao khác biệt, vẫn là một cần thiết để thi ca mang tiếng nói con người tự do. Bởi khác biệt và tự do mới là nhân cách thật sự của nghệ sĩ.
Nhưng,
“anh mơ gì quanh đàn kiến du cư vô tội trên
mảnh ván thuyền sống sót.”
Cuộc lữ của văn chương Đoàn Huy Giao cheo leo từ cổ phong đến mơ mộng tiền chiến, qua khắc khoải của chiến tranh, rồi hậu sự hoà bình như chiếc quan tài trôi theo dòng nước lũ.
Tôi không trông chờ “Gió @” của Đoàn Huy Giao thổi tới và lay động được đám đông ngoài kia, nhưng tôi tin “Gió @” của anh sẽ lưu dấu trong đời sống văn chương chúng ta như một nhân chứng thầm lặng và bền bỉ.
Bởi thế, sau khi đọc hết tập thơ này, tôi đã tự tìm ra cho mình câu trả lời, không phải “Cái chết có có màu gì? Cái chết!” như một thảng thốt mơ hồ của Đoàn Huy Giao, mà cái chết có màu hổ phách của máu và nước mắt được kết tinh qua thời gian.
N. V.
(8/2025)
CHIM KHÔNG BIẾT BAY LÀ DO DỊ TẬT CỦA BẦU TRỜI
Thiếu Khanh
Mấy năm trước, một trong những lần ghé thăm tôi ở Sài Gòn, nhà thơ Đoàn Huy Giao tặng tôi một tập thơ của anh: Tụng ca viết trên lá tối. Đây là tác phẩm thứ sáu của Đoàn Huy Giao được xuất bản (2016), nhưng là tác phẩm thứ hai của Giao mà tôi được đọc. Tác phẩm trước là tập thơ đầu tay, Cho con vật hai chân, do nhà xuất bản Da Vàng, Đà Nẵng ấn hành năm 1969. Hồi đó tôi và Giao cùng vài người bạn văn nghệ nữa ở Đà Nẵng chơi thân với nhau. Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, chúng tôi như những giọt nước trên lá sen, bị một nắm tay đấm xuống, lá sen tan tác, nước văng tung tóe. Nhiều thập niên sau chúng tôi mới gặp lại nhau. Tôi rất mừng với tập thơ Tụng ca viết trên lá tối, trong đó có in lại bài thơ Tam giác nghịch mà tôi đã có dịp đọc được trên website Talawas của nhà văn Phạm Thị Hoài (ở Đức). Và tôi rất thích bài thơ.
Tuy nhiên, tựa của bài viết này: NẾU CHIM KHÔNG BIẾT BAY LÀ DO DỊ TẬT CỦA BẦU TRỜI, là đề từ cho một trường ca khác của Đoàn Huy Giao vừa mới sáng tác (1925). “Chim không biết bay là do dị tật của bầu trời / chứ đâu phải lỗi của ngôn từ”, lời phát biểu này khiến người ta liên tưởng một câu tiếng Anh của nhà văn và nhà hoạt động người Nam Phi Achmat Dangor được ghi trên các biểu ngữ của các sinh viên Hồng Kông biểu tình phản đối sự đàn áp của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc nhiều năm trước đây: “Birds born in a cage think flying is an illness.” (Chim sinh ra trong lồng nghĩ rằng bay là một điều bịnh hoạn.)[1]
Để cảm nhận hết ý nghĩa câu nói Achmat Dangor, có lẽ phải nhắc lại vài mốc lịch sử vắn tắt về hòn đảo Hồng Kông này từng là thuộc địa của nước Anh. Năm 1842, sau Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất (giữa nhà Thanh và Hải quân Anh), theo Hiệp ước Nam Kinh, triều đình nhà Thanh nhượng Hồng Kông cho Anh quốc làm thuộc địa. 155 năm sau, năm 1997, Hồng Kông được Anh quốc trao trả lại cho Trung Quốc.
Trong tuyên bố chung được ký vào năm 1984 giữa Thủ tướng Anh Margaret Hilda Thatcher và Thủ tướng Trung Quốc Triệu Tử Dương về việc trao trả này, Trung Quốc hứa sẽ thực hiện mô hình “Một quốc gia, hai chế độ”, theo đó trong 50 năm người dân Hồng Kông có thể tiếp tục thực hành chủ nghĩa tư bản và các quyền tự do chính trị vốn bị cấm ở đại lục. Thế nhưng chưa bao lâu sau, chánh quyền đặc khu Hồng Kông, theo chỉ thị của Bắc Kinh, đã dần dần áp đặt sự kiểm soát các quyền tự do căn bản, và cuối cùng, năm 2014, họ tước bỏ quyền tự do ứng cử và bầu cử của người dân Hồng Kông, thay bằng mô hình “đảng cử dân bầu.” Biến cố này dẫn đến sự phản đối của sinh viên với phong trào được gọi là cuộc “cánh mạng dù” kéo dài trong một thời gian. Và cuối cùng “Phong trào dù” (the umbrella movement) cũng bị Bắc Kinh tìm cách đập tan. Câu biểu ngữ “Những con chim sinh ra trong lồng nghĩ sự bay là một điều bịnh hoạn” trở thành một phát ngôn đau buốt của thời đại.
Nhưng nhân dân Hồng Kông là những con chim không hề sinh ra trong lồng. Họ sinh ra trong thế giới tự do, sống 155 năm trong không khí tự do dân chủ như của Vương quốc Anh, vậy mà những con chim này không được bay hoặc không bay được.
Những con chim không sinh ra trong lồng nhưng chúng không biết bay hay không bay được thì hẳn là do bầu trời có vật cản, hoặc do những dị tật nào đó của bầu trời. Đề từ “Nếu chim không biết bay là do dị tật của bầu trời” là một phát hiện tài tình của Đoàn Huy Giao.
Thơ Đoàn Huy Giao chủ yếu là “thơ tự do.” Cho nên phát biểu này có thể được coi là một câu thơ sáng tạo tuyệt vời của anh.
***
Đoàn Huy Giao chọn thơ tự do từ rất sớm.
Trước cuộc di cư vĩ đại 1954, những người làm thơ ở miền Nam dường như chỉ có một lối thơ-mới… cũ. Tức là lối thơ mới từ thời Tự Lực Văn Đoàn đầu những năm 1930 kéo dài đến đó. Biến cố 1954, một số nhà văn nhà thơ từ ngoài Bắc vào Nam, thành lập tạp chí Sáng Tạo ở Sài Gòn (năm 1956), đã cùng một số văn nghệ sĩ miền Nam cổ súy một dạng thơ mới… mới. Câu thơ tự nhiên như văn viết. Thoạt đầu thứ “thơ mới” lần này được báo chí gọi là “Thơ xuôi” dần dần về sau được định danh là Thơ Tự Do. Các tên tuổi được coi là chủ soái của Thơ Tự Do lúc bấy giờ là Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Tô Thùy Yên và một số tên tuổi khác. Phong trào Thơ Tự Do mới mẻ gặp sự chống đối kịch liệt của những người bảo thủ (thời Thơ Mới những năm 1930 trước đó cũng vậy.) Nhưng cũng có không ít người hưởng ứng. Đa số là các nhà thơ trẻ. Tập thơ Cho con vật hai chân của Đoàn Huy Giao thuộc dạng thơ tự do sáng tác từ năm 1965/1969 được xuất bản hơn mười năm sau cái “mốc” xuất hiện của tạp chí Sáng Tạo (1956). Lúc đó thơ tự do cũng còn khá mới. Đoàn Huy Giao có lẽ là một trong số rất ít người ở miền Trung vào thời điểm đó đã chọn dạng “ngôn ngữ thơ” mới cho suốt sự nghiệp thơ ca của mình.
Tuy “Thơ ca là vấn đề của cuộc sống, không chỉ là vấn đề ngôn ngữ”[2] nhưng chính bằng phong cách thơ tự do, không bị ràng buộc vần điệu niêm luật, ngôn ngữ thơ của Đoàn Huy Giao trở nên trực tiếp, mạnh mẽ, không kiêng kỵ hay ngại ngần. Trong bài thơ Tam Giác Nghịch, anh ghi nhận:
“Khi xứ sở bị coi chỉ có một người đúng. Những phiên chợ bên ngoài chốn văn chương nhảy bổ vào trang chữ.
Sự nô lệ đầu tiên bắt đầu từ ý nghĩ
rồi sau đó là hành động.
của chữ viết.” (30)[3]
Anh nói đến những sự dối trá lừa mị:
Đến cái cây mà cũng uốn lưỡi theo gió nói lời đạo đức hiện đại: “Em nở hoa vì anh vì nhân loại.” (36)
“Trời đất! Sao lại còn đòi sự mạch lạc trong một thế giới đảo lộn. Trông gà hóa cuốc. Có đúng vậy không hởi người bạn đường sáng tạo. Mẹ đẻ của những giấc mơ thằng cuội. Như người điên loạn sắm vai Thượng đế lấp ló trong tập đoàn quỷ dữ” (43)
Khi “Con đẻ của thần tượng thay cho tượng thần” (75) thì sự lừa dối đã trở thành trơ tráo, khiến người ta nhớ phát ngôn của một nữ đại biểu Quốc Hội Việt Nam: “Con cái của lãnh đạo mà làm lãnh đạo là hồng phúc của nhân dân.”
Đoàn Huy Giao cho biết:
Chúng ta thường đánh mất quá nhiều thứ
sự kiện
thời gian
hương thơm
ngữ nghĩa
giữa muôn trùng nhớ quên
trong bạt ngàn mây cỏ nhiễm từ (60)
Trong một bài thơ khác trong Tụng ca viết trên lá tối, Đoàn Huy Giao nhận ra:
Mùi lông chuột bám theo tàu liên vận bắc nam
những bài ca bán đứng linh hồn
kẻ không biết gieo trồng cũng chia phần mồ hôi
trên lưng người thu hoạch. (73)
…
Củ cà rốt mọc sợi lông tiến hóa
con cáo nhại tiếng người
và con người
biết cách tôn sùng bóng khói
thời đại mới
giai cấp mới
chú chuồn chuồn đỏ lạc vào tivi
những tràng súng liên thanh. (79)
…
Anh nói về tính chất của lịch sử:
Người dẫn đường là tay vệ binh chép sử
hắn là chúa ngục hồn nhiên trong nhà ngục của hắn
là các chữ cái được chu cấp
có lương bổng hẳn hoi
là giấy của thứ giấy độc chỉ được phép tụng ca (77)
…
Những giá trị tự thân phán xử
chứ không phải màu cờ
màu chữ
màu hoa
không phải đền đài nặng mùi sùng hãi
mà chính là lịch sử mù
làm cho nó uy nghiêm. (90)
…
Lịch sử chỉ là trò tấu hài của người có chữ. (108)
Và nhận ra lịch sử
Cái yếu đuối của sự thật (124)
Có người nói “Thơ ca là ngôn ngữ bình thường được nâng lên lũy thừa N. Thơ được vun đắp bằng ý tưởng, tôi luyện và thấm đẫm cảm xúc, tất cả được kết nối với nhau bằng lớp vỏ mỏng manh, bền bỉ của ngôn từ.”[4] Đoàn Huy Giao nói về thi ca:
Thơ.
Một thỏi son bị xem nhẹ vì sắc màu không giới tính.
Một sản phẩm của tự do không có giấc mơ đuổi kịp.
Không thành chiếc cầu vồng bê bết mồ hôi sau làn mưa bụi lãng du. (31)
…
Ta nghĩ đến thi ca
những dấu chân hoang thổ
nhờ bản năng cảnh giới được mùa.
Giữa kỷ nguyên thở dài rừng xanh đồng cỏ.
thương cái vạc cái cò
rock, rap suốt canh thâu. (80)
…
Thơ
Quả đấm
Đấm vào nỗi buồn đòi hy vọng. (142)
Anh bày tỏ:
Đó là hy vọng lương thiện duy nhất của người biết vẽ rồng rắn các ký tự trần ai trên giấy (33)
Tôi hy vọng để sống. Tôi tuyệt vọng cô đơn để sống. (51)
Anh tự nhận mình
Đem thơ làm thuốc nổ là một hành động dại dột
Tôi đã làm. (54)
Anh khẳng định: Cái đẹp không thể hủy diệt (71)
Nhưng:
Anh cố tô vẽ cái đẹp không đúng chỗ
anh cũng là tên bồi vẽ (93)
Và Đoàn Huy Giao nhận ra:
Nơi tôi cùng góp tuổi máu say xây nên bức tường che chắn cho hy vọng lẽ thiện và hạnh phúc. Nào ngờ lại biến thành trại chăn ngột ngạt.
Sóng mạnh hơn tất cả khi có ai đó chống lại nó.
Hoa dại đẹp chết người vì tự do.
Mùi thơm không nắm bắt được ở nơi thiên bẩm bên ngoài quang hợp kiểm soát của lão dọn vườn.
Hay lão cai đền. (37)
…
Anh than:
Tôi thường có quá ít cơ hội
Khóc cười cho ra khóc cười (139)
…
Một gã du ca bị cắt thanh quản (35) hay “cánh chim đã bị cắt đường bay” (98) có lẽ tình trạng cũng giống một con chim ở trong lồng, hót đã không thành tiếng, mà bay lên cũng không được nữa. Mà dù không ở trong lồng, bầu trời ngoài kia đầy dị tật thì bay lên có được đâu!
Tập thơ còn nhiều điều để nói.
Không gian thơ Đoàn Huy Giao rất phong phú hình tượng, mà đa nghĩa. Vốn là thơ tự do, không hợp và cũng không dành để ngâm nga. Và cũng không dành để đọc trước đám đông. Nó sẽ trôi tuột qua kẽ tay. Thơ Giao phải đọc một mình. Và đọc chậm. Chậm như nhắp giọt cà phê sáng tinh mơ. Nếu không, ta chỉ có thể đọc được mặt chữ mà thôi.
Tháng 8/2025
T. K.
[1] Cũng có chỗ nói câu này là của nhà làm phim người Pháp gốc Chilê Alejandro Jodorowsky. Tuy nhiên câu trích dẫn này thường được thấy dưới dạng tiếng Anh thay vì tiếng Pháp, nên tạm coi Achmat Dangor là tác giả có lẽ gần sự thật hơn.
[2] “Poetry is a matter of life, not just a matter of language. – Lucille Clifton (1936 –2010), New York, Hoa Kỳ, nhà thơ da màu, hai lần đoạt giải Pulitzer về thơ.
[3] Những chữ in nghiêng có kèm chữ số trong ngoặc đơn là số trang, được trích từ Tụng ca viết trên lá tối của Đoàn Huy Giao.
[4] “Poetry is ordinary language raised to the Nth power. Poetry is boned with ideas, nerved and blooded with emotions, all held together by the delicate, tough skin of words.” – Paul Engle.