Công trình Giáo dục của Đạo Công giáo trong những biến động của xã hội Việt (1930-1990)

Trần Quốc Anh – Marie Lê Thị Hoa

Hè vừa rồi đi Paris, tôi được gặp tác giả Marie Lê Thị Hoa và vui mừng được biết luận văn tiến sĩ của chị bảo vệ tại Institute Catholique de Paris mấy năm trước đã được xuất bản dưới tựa đề: Công trình Giáo dục của Đạo Công giáo trong những biến động của xã hội Việt (1930-1990) (L’enseignement catholique dans les bouleversements de la société vietnamienne (1930-1990))”, Nhà xuất bản Báo chí Đại học Bordeaux, Pháp năm 2024.

Sau đây là bản tóm tắt nội dung của nhà xuất bản (dịch từ tiếng Pháp).

Tác phẩm này, tập hợp nhiều nguồn liệu gốc và chưa được xuất bản, cho thấy làm thế nào giáo dục Công giáo ở Việt Nam đã thích ứng với những biến động của thế kỷ XX (thời kỳ thuộc địa, chiến tranh, phân chia, thống nhất, đổi mới). Nó không đề nghị một lối đọc phê bình lịch sử (contre-histoire) nhưng, trái lại, một lối đọc đúng đắn hơn về chỗ đứng của người Công giáo trong lịch sử đương đại của Việt Nam và về sự giải phóng họ khỏi chính quyền. Vì vậy, nó cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về đạo Công giáo Việt Nam đương đại, một trong những Giáo hội năng động nhất ở Châu Á.

Tác giả cũng có gửi cho tôi lời giới thiệu về sách. Xin đăng lại để các bạn tham khảo:

LỜI GIỚI THIỆU

Tác phẩm này phân tích Lịch sử Công giáo Việt Nam qua lăng kính giáo dục, đồng thời lập luận rằng giáo dục không chỉ là công cụ loan báo Tin Mừng, mà còn là phương tiện xã hội hóa, hình thành hàng giáo sĩ bản địa và phát triển trí thức, văn hóa trong xã hội Việt Nam hiện đại.

Tác phẩm đặt Lịch sử Đương đại Việt Nam và Công giáo Việt Nam cận đại và hiện đai trong một bối cảnh rộng lớn, từ lịch sử, văn hóa, chính trị đến tôn giáo, giáo dục và thần học, bao gồm cả hệ thống trường học dân lập và công lập, từ tiểu học đến đại học, từ các dòng tu nam nữ đến đại chủng viện. Trong bối cảnh này, vai trò các nhà truyền giáo, đặc biệt là Hội Thừa sai Paris (MEP), Hội Linh Mục Xuân Bích (Sulpiciens), Dòng Đa Minh Tây Ban Nha thuộc Tình Dòng Philippines, và các dòng nữ, được nhấn mạnh như những nhân tố quyết định trong việc hình thành đường hường mục vụ và đào tạo hàng giáo sĩ bản địa Việt Nam.

Từ thế kỷ XVII, Hội Thừa Sai Paris đã triển khai thành lập các trung tâm đào tạo linh mục tại các đô thị trọng điểm như Hà Nội, Huế và Sài Gòn, với mục tiêu không chỉ truyền đạt giáo lý mà còn hình thành một hàng giáo sĩ bản địa có học thức, đạo đức và khả năng quản lý Giáo phận trong bối cảnh xã hội và chính quyền thời thuộc địa. Phương pháp giáo dục của các nhà thừa sai của MEP mang tính tích hợp, kết hợp giữa giảng dạy giáo lý, đạo đức, kiến thức khoa học cơ bản và việc học các ngôn ngữ như Latinh và Pháp, vừa là công cụ học thuật quan trọng, vừa là phương tiện giao tiếp với chính quyền thuộc địa Pháp.

Quá trình tuyển chọn ứng viên đào tạo linh mục diễn ra một cách cẩn trọng, với những thanh thiếu niên xuất sắc, có phẩm chất đạo đức và trí tuệ, xuất thân từ các gia đình Công giáo trung lưu hoặc có truyền thống gắn bó với Giáo hội. Các ứng viên này được đưa vào tiểu chủng viện, nơi họ học tiếng Pháp, Latinh, Kinh Thánh cùng các môn học cơ bản, đặt nền móng cho quá trình « bản địa hóa » linh muc Việt Nam. Đây là bước đầu tiên trong nỗ lực biến giáo dục Công giáo trở thành công cụ, đồng thời phục vụ mục đích tôn giáo và phát triển xã hội.

Vai trò của các dòng tu nam cũng đóng vao trò then chốt trong quá trình đào tạo. Hội Linh Mục Xuân Bích quản lý và giảng dạy tại các đại chủng viện, điển hình là Đại chủng viện Xuân Bích đao tạo liên địa phận tại Hà Nội (1933–1954), nhấn mạnh kỷ luật học thuật, nghiêm túc trong đời sống mục vụ và chuẩn bị cho công tác quản lý giáo phận. Họ đào tạo các thế hệ linh mục có năng lực điều hành các cơ sở giáo dục và thực hiện nhiệm vụ truyền giáo. Trong khi đó, các linh mục Dòng Đa Minh Tây Ban Nha hoạt động chủ yếu tại Tonkin (Bắc Kỳ), trong các giáo phận Bùi Chu, Hải Phòng, Bắc Ninh, xây dựng các trường học dạy giáo lý và khoa học, đặc biệt là Đại chủng viện Thánh Albertô Cả, nơi phát triển nhân cách, đạo đức và kiến thức khoa học của các linh mục trẻ. Các phương pháp của dòng linh mục Dòng Đa Minh bổ sung cho cách giáo dục của các nhà thừa sai của MEP, tạo nên một hệ thống đào tạo linh mục đa chiều và hiệu quả.

Không thể không nhắc đến vai trò của các dòng nữ, như các nữ tu Dòng Thánh Phaolô thành Chartres và Dòng Đức Bà (Notre-Dame des Oiseaux), chịu trách nhiệm đào tạo nữ sinh Công giáo. Nhờ sự đóng góp của các dòng nữ, giáo dục Công giáo không chỉ giới hạn trong đào tạo linh mục, mà còn phát triển mạng lưới giáo dục rộng khắp, hình thành tầng lớp nữ trí thức Công giáo tham gia vào công tác giáo dục và xã hội hóa cộng đồng.

Giai đoạn từ 1930 đến 1945 chứng kiến sự củng cố và chuyên nghiệp hóa của hệ thống đào tạo linh mục, các tiểu chủng viện và đại chủng viện được tổ chức bài bản với chương trình học chuẩn hóa, đồng thời được củng cố nhờ sự kết hợp giữa các nỗ lực của các nhà thừa sai phương Tây và cơ sở địa phương. Đại chủng viện Hà Nội, dưới sự quản lý của MEP và Hội Linh Mục Xuân Bích, trở thành trung tâm đào tạo uy tín, được Tòa Thánh công nhận năm 1935, thể hiện vị thế quan trọng của giáo dục Công giáo trong việc hình thành hàng giáo sĩ bản địa. Trong bối cảnh này, các linh mục Việt Nam bắt đầu đảm nhận các vai trò quan trọng trong quản lý giáo phận, điều hành tiểu chủng viện và tham gia công tác giảng dạy, truyền giáo. Giáo dục Công giáo trở thành môi trường hình thành tinh thần dân tộc, khả năng thích ứng với bối cảnh chính trị và xã hội, đồng thời phát triển kỹ năng lãnh đạo và quản lý.

Giai đoạn 1945–1975, từ Chiến tranh Đông Dương đến sự chia cắt đất nước, đã tác động sâu sắc đến hệ thống đào tạo linh mục. Tại miền Bắc, nhiều tiểu chủng viện và đại chủng viện phải đóng cửa hoặc hạn chế hoạt động do sự kiểm soát của chính quyền đương thời, buộc Giáo hội phải duy trì công tác đào tạo một cách ngầm. Ngược lại, tại miền Nam, làn sóng di cư năm 1954 mang theo hàng trăm ngàn tín hữu Công giáo, tạo cơ hội tái thiết và mở rộng hệ thống giáo dục tại các đô thị như Sài Gòn, Huế và Đà Lạt. Đại chủng viện Huế (1962), cùng các trường trung học và đại học Công giáo, hình thành một hàng giáo sĩ bản địa tự chủ, có khả năng điều hành giáo phận và hệ thống giáo dục theo hướng dẫn của Vatican.

Sau năm 1975, hệ thống trường Công giáo phải đối mặt với giải thể và quốc hữu hóa, khiến đào tạo linh mục chuyển sang hình thức ngầm hoặc bán công khai. Trong điều kiện chính trị khó khăn, các linh mục và dòng tu vẫn nỗ lực duy trì truyền thống giáo dục. Từ cuối thập niên 1980, cùng với quá trình Đổi Mới, giáo dục Công giáo bắt đầu tái hợp tác với Nhà nước, triển khai các dự án giáo dục mầm non và xã hội, các linh mục bản địa dần đảm nhận vị trí trung tâm trong đào tạo, giảm sự phụ thuộc vào nhà truyền giáo nước ngoài. Giai đoạn này minh chứng cho khả năng kiên cường, thích ứng và sáng tạo của Giáo hội Công giáo Việt Nam, đồng thời khẳng định vai trò giáo dục Công giáo trong việc duy trì văn hóa, tôn giáo và hình thành hàng linh mục Việt Nam, góp phần phát triển chung của xã hội Việt Nam.

Tác phẩm này cho thấy giáo dục Công giáo là công cụ trung tâm trong việc hình thành và phát triển hàng Giáo sĩ Việt Nam từ thế kỷ XVIII đến XX. Qua các giai đoạn thuộc địa, chiến tranh, chia cắt và Đổi Mới, giáo dục Công giáo không chỉ truyền đạo mà còn đào tạo linh mục bản địa có khả năng quản lý giáo phận, điều hành hệ thống giáo dục, hình thành tầng lớp trí thức Công giáo đóng góp vào sự xã hội hóa và phát triển văn hóa, đồng thời thể hiện khả năng thích ứng với những biến động lịch sử, từ thời kỳ bảo hộ của Pháp đến giai đoạn hoạt động ngầm dưới chính quyền XHCN. Cuốn sách mang đến một góc nhìn khoa học, toàn diện, kết hợp dữ liệu lịch sử, văn hóa và tôn giáo, vượt lên trên các diễn giải tôn giáo hay chính trị đơn giản, mở ra những hướng nghiên cứu sâu hơn về vai trò của giáo dục Công giáo trong lịch sử và xã hội Việt Nam hiện đại.

Ước mong rằng cuốn sách này sẽ trở thành một nguồn tư liệu giá trị, không chỉ dành cho các nhà nghiên cứu, mà còn cho tất cả những ai quan tâm đến việc tìm hiểu sâu hơn về chủ đề Giáo dục Công giáo trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầy biến động giai đoạn 1930–1990.

This entry was posted in Trên kệ sách and tagged , . Bookmark the permalink.