Tiểu thuyết
NXB Lao Động, 2008

Tác giả Đặng Văn Sinh
CHƯƠNG 1
Dòng Nậm Khoang khởi nguồn từ chót vót dãy Phù Đinh. Ngọn núi đá trông xa giống hệt con diều hâu già mỏ khoằm, khoác bộ cánh xám, đang trầm mặc giữa khoảng không bao la như nhà hiền triết nhìn xuống thế gian bằng đôi mắt đầy chiêm nghiệm. Thấp hơn một chút, sau những triền đá lô xô, bạc phếch như thứ vôi quét lâu ngày bị mưa nắng làm loang lổ là dải rừng già mọc san sát toàn loại trúc cần câu xanh đậm nhìn đến hút tầm mắt. Khác với triền núi đá quanh năm ẩn mình trong tầng tầng sương khói, cánh rừng đại ngàn gần như cả bốn mùa xuân hạ thu đông đều phô ra vẻ đẹp rực rỡ, đẹp đến nao lòng, chẳng khác gì một vườn địa đàng ngay trong cõi nhân gian. Con suối luồn lách trong rừng trúc. Dòng nước bắt ánh mặt trời lấp lánh như bạc. Những cụm trúc mọc so le, mảnh mai chạy dọc mép nước. Vô vàn là thân trúc óng mượt, ken nhau vút lên cao. Một ngọn nồm nam thoảng qua. Lá trúc khẽ lao xao. Vài chú chim sâu chuyền cành gọi nhau lích tích. Những cặp cánh nhỏ xíu của chúng xập xoè theo nhịp nhún nhảy của đôi chân dài khẳng khiu giống hệt vũ điệu tăng gô.
Càng xuống thấp, suối Nậm Khoang càng mở rộng ra. Khi đã du ngoạn một cách khá dềnh dàng qua thảm rừng nguyên sinh, nó đột nhiên quặt xuống phía nam, ôm gọn mấy quả đồi đầy sim mua, quẫy đạp, vặn mình rồi hung hãn lao thẳng xuống một thung lũng toàn chuối rừng hoa xoè đỏ rực như lửa. Đến đây dường như đã hết năng lượng, dòng thác chững lại, ngập ngừng đôi chút rồi hoà mình vào suối Nậm Pạng, một con suối hiền lành cũng bắt nguồn từ dãy Phù Đinh nhưng chảy xuống từ phía đông.
Dòng Nậm Pạng như một dải lụa xanh uốn lượn giữa đôi bờ mọc toàn cây cơi[1], cây ngái và doi rừng. Đến đoạn cây 24 của tỉnh lộ Cao bằng đi Trà Lĩnh nó bị chặn lại bằng chiếc cầu bê tông nhỏ. Đây là vị trí rất hiểm trở bởi những vòng cua ngẫu hứng bất chấp mọi quy trình kỹ thuật. Nhìn từ xa, cầu Nậm Pạng chênh vênh như một thứ đồ chơi trẻ con lọt thỏm giữa hai đầu dốc. Đứng trên lan can nhìn xuống mặt nước sâu hun hút.
Đầu năm 1965, bên cạnh cầu Nậm Pạng, nhích lên thượng lưu chừng trăm mét, có một đơn vị công nhân cầu đường. Dân làm đường hầu hết là miền xuôi nhưng cũng có những người ở thành phố và thị xã các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Lán trại được làm hai bên bờ suối. Một bên Nam, một bên nữ. Ông đội trưởng, lúc ấy thường gọi là C (xê) trưởng, người Vân Yên, một làng khoa bảng nổi tiếng ở tỉnh Đoài thời trước bảo: “Con trai con gái phải ăn ở cho tách bạch ra. Anh chị nào léng phéng là đuổi khỏi công trường”. Bọn con gái nhà quê mới lên, lớ ngớ chưa biết gì, lấy tay che miệng cười. Cánh con trai chừng trên dưới đôi mươi, mép lún phún vài sợi ria, nghe thì nghe nhưng rồi tai nọ chui qua tai kia, chỉ qua một đêm đến sáng hôm sau là quên sạch. Ông đội trưởng vui tính nhưng nghiêm khắc, ai có khuyết điểm là nói như chan tương đổ mẻ vào mặt người ta. Chính vì thế ông bị công nhân ghét. Lúc vắng mặt, họ gọi ông là “cụ Khốt”[2].
Làm lán trại, khó khăn nhất là phải lên rừng chặt tre. Tre bương vừa to vừa dài, có những cây bằng cả cột nhà. Cánh con trai chặt xong, vần xuống. Bọn con gái lấy dây rừng xâu vào những lỗ đã vạc sẵn, sau đó, mỗi người một cây kéo lệt sệt dọc lòng khe ra đến suối. Tại đây, tre được kết thành bè xuôi về cầu Nậm Pạng.
Phải nói, rừng tre cũng rất nên thơ. Thích nhất là những ngày đẹp trời, vào dịp cuối xuân đầu hạ vào rừng hái măng. Rừng tre lúc ấy lao xao hàng ngàn tiếng chim sáo, chim khuyên ríu ran tạo nên bản giao hưởng sơn lâm nhiều bè với đủ các cung bậc. Vào rừng tre không dược ồn ào mà phải thật khẽ khàng mới cảm nhận được vẻ thanh khiết tuyệt vời của không gian nửa hư nửa thực đầy vẻ quyến rũ. Lúc chiều buông xuống, rừng trở về với sự yên tĩnh muôn thuở trong nhịp thở dài xào xạc của lá lìa cành, tiếng kẽo kẹt mệt mỏi từ hàng ngàn cây khẽ chạm vào nhau khi một cơn gió từ dãy Phù Đinh bất chợt thổi về.
Hái măng vừa có tính thực tiễn lại vừa như là thư đam mê của những chàng trai, cô gái đồng chiêm lần đầu tiên đến với rừng. Đối với họ, măng bây giờ là thứ ân huệ mà trời đất ban cho. Chỉ những kẻ ngốc nghếch và lười nhác mới đi đốn những cây măng đã vượt lên khỏi mặt đất năm sáu chục phân. Thứ măng ấy ăn cũng được nhưng ít nạc nhiều xơ. Loại đặc sản chính hiệu phải là măng củ chỉ mới nhú lên chừng già nửa gang tay, đầu nhọn hoắt như có gai, vỏ tím sẫm mới được những tay sành ăn đào về. Măng ấy bóc vỏ, bổ ra, luộc kỹ, tước nhỏ, phơi khô rồi hầm với chân giò thì không có một thứ sản phẩm nào của vùng Đông Bắc này so sánh được. Có điều, vào rừng tre, hái được măng về phần lớn chỉ là những kẻ…vô tư. Người giầu trí tưởng tượng vào rừng không cốt ở sự đào măng mà thường là với mục đích khá mơ hồ. Trong số này có một người con gái tên là Sa, đã đi ba hôm mà chẳng lần nào mang được “đặc sản rừng” về…
Hôm ấy Phan cũng đi tìm măng. Anh còn khá trẻ, chưa đầy mười tám nhưng dáng cao to với hàng ria con kiến lưa thưa trên mép, thoạt trông có vẻ như già trước tuổi. Sa và Phan cùng ở A4. Sa hai mươi, hơn Phan hai năm bốn tháng. Lúc đầu anh chỉ nói trống không, sau bị bọn con gái bắt nạt đành phải gọi cô ta bằng chị. Sa có vẻ như không thích như thế, nhưng Phan vốn vô tư, chẳng mấy quan tâm đến thói dành hanh của các cô. Vừa gánh măng từ sườn đồi xuống, Phan huýt sáo khe khẽ bài “Suối mơ” thì thoáng thấy Sa từ dưới lòng khe đi lên. Nhìn cô gái tay không, bên vai thõng thượt chiếc túi bạt nhỏ căng phồng, Phan biết, cô không đi hái măng mà vào rừng tìm chút chít, một thứ quả đỏ chót, chỉ bằng ngón tay, khi chín vừa ngọt vừa chua, là món ăn rất được lũ chào mào ưa chuộng. Biết vậy nhưng Phan vẫn hỏi:
– Măng của chị đâu ?
– Đây không thích măng. – Sa gái lắc nói trống không. – Người ta bảo ăn nhiều cái của ấy vào là mất máu, lại sốt rét nữa…
Phan hất gánh măng khỏi vai cho nó tuột xuống lòng khe, khum hai bàn tay vốc nước uống. Uống chán, anh vã nước lên tóc, lên mặt rồi mới thong thả hỏi:
– Ai bảo chị thế?
Sa đang nhấm nháp quả chút chít, nghe vậy liền bảo:
– Những người làm nghề sơn tràng trong rừng bảo thế. Muốn sống về với u thì ăn ít măng rừng thôi ông tướng ạ.
Vừa đi Phan vừa ngẫm nghĩ: “Bây giờ mình lại là ông tướng cơ đấy”. Khi xuống hết dốc, hai người men theo sườn quả đồi thấp trồng sắn. Suốt từ trưa, lang thang mải tìm măng, giờ Phan thấy bụng đói cồn cào. Nhìn thấy sắn, anh quay lại bảo cô bạn đồng hành:
– Chị chờ một chút, tôi kiếm mấy củ sắn nướng ăn.
Sa trừng mắt nghiêm giọng:
– Sắn của bản Quang. Người Thái không thích kiểu xin vắng mặt ấy đâu.
– Chị đã được ăn sắn nướng than hồng bao giờ chưa?
– Rồi, nhưng của bà con bản Kéo cho.
– Mặc kệ! Ở đây chẳng có ai, tôi nhổ thử một gốc xem sao…
– Đừng! – Sa lắc đầu – Họ mà biết là họ bắn bằng súng kíp đấy.
Nhưng Sa chưa nói hết câu, Phan đã quẳng gánh măng nhảy vào nương sắn. Anh men theo hàng rào đảo mắt tìm một gốc vừa ý rồi cúi xuống dùng cả hai tay nhổ. Cụm sắn có đến sáu bảy củ bằng bắp tay, củ nào cũng có lớp vỏ ngoài ram ráp màu vàng nhạt. Không kịp chặt gốc, Phan vác cả cây lên vai định nhảy qua hàng rào cho nhanh. Vừa chạy được mấy bước, bất chợt thấy tối tăm mặt mũi. Anh có cảm giác như xung quanh mình tối om, và, trong trạng thái hốt hoảng, anh thấy mình cứ rơi, rơi mãi xuống một cái hang hoàn toàn không đáy.
Phải khó khăn lắm Sa mới tìm cách đưa được Phan lên khỏi hố. Đó là chiếc bẫy lợn rừng của đồng bào dân tộc. Hố khá sâu, Dưới đáy toàn là cọc tre vạt nhọn, lởm chởm như chông. Một mũi chông cắm vào bắp chân trái sâu cả đốt ngón tay. Anh phải cắn răng chịu để Sa nhắm mắt, lấy hết can đảm mới rút ra được. Vết thương tuy chỉ ở phần mềm nhưng bị nhiễm trùng, phải điều trị gần một tuần mới khỏi. Riêng chuyện nhổ trộm sắn thì hai người giấu biệt.
Lán tập thể được xây cất theo kiểu “nhà dài” của người thiểu số Tây Nguyên, vách trát toóc xi, mái lợp phên nứa, ngăn thành từng gian quay mặt ra bờ suối. Con suối vừa rộng, vừa nông, nếu trời không mưa có thể lội qua được. Hai bờ, ngoài những bạch đầu ông mọc lưa thưa trên sườn dốc, hoa chỉ bằng đồng xu màu tím phớt trắng, còn lại toàn là sim mua ken dày thành một đường viền xanh đôi chỗ lốm đốm như rắc phấn. Hè về, hoa sim tím nhạt, hoa mua tím sẫm ngời lên dưới ánh ban mai. Những giọt sương sớm ngập ngừng đậu trên cánh hoa sáng long lanh như kim cương ngũ sắc. Nắng vùng biên ải có cái vẻ nhạt nhoà nhưng mây trời lại xanh đến vô cùng. Cả một vòm không gian thanh khiết, cao thăm thẳm bất ngờ rơi xuống, vỡ ra, hoà vào ngàn vạn con sóng nhỏ. Mặt suối dập dềnh đưa đẩy những mảnh ánh sáng thanh thiên ấy làm chúng chạm vào nhau khẽ rung lên chuỗi âm thanh mơ hồ. Ban đêm nước chảy nhẹ hơn, nhưng vì đêm của rừng già thật yên ắng nên thanh âm có vẻ mạnh hơn, mệt mỏi hơn. Những đêm hè, nằm nghe nước rền rĩ dưới chân cầu, lòng Phan chợt bâng khuâng nỗi nhớ vu vơ. Phải nói thật nỗi bâng khuâng ấy là trạng thái tâm hồn rất khó tìm cho rõ ngọn ngành của lớp thanh niên mới vào đời trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động.
CHƯƠNG 2
C22 phần lớn ở huyện Kim Xuyên. Khoảng một phần sáu là dân thị xã. Số còn lại đông hơn cả thuộc các tỉnh Nam Định, Thái Bình và Bắc Ninh, Hưng Yên. Công việc hàng ngày của anh chị em là mở rộng, nâng cấp con đường từ thị xã Cao Bằng đi thị trấn Trà Lĩnh. A4 của Phan được giao phần đất ở chân dốc Đá Trắng. A trưởng là anh Túc, A phó là chị Đài. chị Đài người xã Hoàng Long, tóc quăn, da bánh mật trông như người lai. Chị ít nói mà sống rất tình cảm.
Non nước Cao Bằng gây ấn tượng rất mạnh trong tâm hồn lớp thanh niên miền xuôi lần đầu tiên rời lũy tre làng đến một vùng địa đầu Tổ quốc với vô vàn những điều mới lạ. Cũng như nhiều đồng đội khác, Phan sung sướng đến ngây ngất trước khung trời tự do, đôi lúc còn phảng phất chút cảm xúc lãng mạn của một anh học sinh tỉnh lẻ, mặc dù nhiệm vụ hàng ngày chẳng lãng mạn chút nào. Thời gian biểu có thể phác qua như thế này: Năm giờ sáng tập thể dục. Lỡ ra, anh nào có nằm quá một chút cũng chẳng sao, miễn là xuống ăn sáng cho nhanh rồi vác dụng cụ ra đường vào lúc sáu giờ ba mươi. Dốc Đá Trắng nằm trong một cua vòng cao mười tám mét, cấu tạo địa tầng phức tạp chủ yếu là đá sít[3]phong hoá bị sụt lún, xô nghiêng thành từng vỉa rất khó đào. Những tay choòng khoẻ, có kinh nghiệm mới được bố trí lên đỉnh talus[4], đứng sắp hàng, xả đất xuống. Chị em nữ phía dưới dùng xẻng xúc lên xe cút kít[5] hoặc xe ba gác đẩy ra đổ xuống vực. Công việc khá nặng nhọc nhưng thật vui, cái vui của những người tuổi trẻ đang háo hức khám phá thế giới xung quanh mình.
Sau chuyện nhổ trộm sắn bị sập bẫy, Phan hơi ngại dàn mặt Sa. Trong thâm tâm Phan cảm thấy ngượng mỗi khi nghĩ đến cái buổi chiều lẽ ra không đáng có ấy, vì thế, lúc từ đỉnh dốc xuống, khi đẩy xe ba gác, anh tìm cách nhập vào nhóm chị Đài, cô Thục. Thấy thái độ của Phan có vẻ không bình thường, nhân lúc giải lao, Sa lại gần hỏi:
– Sợ không dám đi xe với Sa à?
Phan liếc nhanh về phía sau, giọng hơi mất tự nhiên:
– Ai bảo chị thế?
Sa nguýt dài:
– Nhìn thì biết cần gì người bảo. Thôi đi, mặt đừng khó đăm đăm nữa. Chuyện ở bãi sắn không ai biết đâu.
Việc Phan lánh mặt Sa, nói cho cùng không hẳn là chuyện vài củ sắn. Anh có cảm giác cặp mắt của cô gái mỗi khi nhìn mình có cái gì hơi bất bình thường. Đó là đôi mắt đen sâu thẳm, thông minh nhưng lúc nào cũng như phảng phất nỗi u uẩn. Sau giờ nghỉ, Phan lại đẩy xe với Sa. Đến bờ vực, lúc hai người nâng càng xe cho đất đá rơi xuống, chẳng biết do vô tình hay hữu ý mà mái tóc quăn loà xoà của Sa phủ lên má Phan. Anh sững người vội ngả đầu sang một bên nhưng vẫn cảm thấy hương vị nồng nàn của mùi bồ kết, mùi hương nhu và cả thứ mùi gì nữa rất khó định danh tỏa ra từ những búp tóc bồng bềnh như sóng.
Chiều chiều, khi hết giờ làm việc, tắm rửa, cơm nước xong là con trai con gái lại ra ngồi hai bên bờ suối ngắm nhìn nhau và trêu nhau. Những đêm hè, gió nam từ núi Phù Đinh thổi về thoang thoảng hương hoa mận dại trái mùa. Loại mận dại mọc rải rác khắp các sườn đồi Đá Trắng, quả chỉ bằng ngón tay vừa chát vừa chua nhưng lại hấp dẫn với chị em phụ nữ. Chiều chủ nhật, chẳng ai bảo ai, hầu như tất cả mọi người, đều xách túi vào rừng. Một số lên núi hái mận. Số khác tìm dâu da đất. Cánh con trai đi dọc các bờ khe tìm vả. Vả rừng nhác trông giống cây ngái nhưng thân cành không có lông tơ. Quả vả chín có khi bằng cả chiếc bát ăn cơm, vỏ đỏ sẫm, ruột chứa lớp mật dày trong như thạch, ngọt sắc tựa đường phèn. Có lần Phan gặp may tìm được gần chục quả. Anh để dành mấy quả cho Sa. Cô bửa đôi đưa cho Phan một nửa rồi nheo mắt bảo: “Con trai chỉ háo của ngọt”. Phan thần mặt ra chẳng biết cô gái nói thật hay đùa. Nói chung, các cô gái trong C22 của Phan đều thuộc loại không vừa và chẳng phải lúc nào họ cũng hoàn toàn… kín đáo. Một lần tình cờ vào rừng Phan sợ hết hồn đến mức chỉ còn nước lặng lẽ rút lui. Như đã nói ở trên, rừng trúc có một vùng nước lặng, là nơi hợp lưu của hai dòng suối, trong vắt và khá kín đáo. Hôm ấy cũng vào trưa chủ nhật, Phan xách dao đi lang thang tìm cây trúc làm cần câu. Từ sườn dốc bên này Phan nghe như có tiếng người. Đi thêm một đoạn nữa, nhô đầu lên anh chợt sững người không thể tin ở mắt mình. Hơn chục cô gái trong đó có cả cô Vân A4, trên mình không mảnh vải che thân, trắng nõn nà như một bầy thiên nga đang vùng vẫy rất vô tư trong làn nước xanh màu ngọc bích. Anh bất chợt nhắm mắt nhưng rồi lại vội mở ra chớp chớp tưởng như mình vừa lạc vào cõi thiên thai. Những thân hình uyển chuyển, những đường cong bí ẩn, những khuôn ngực căng tròn, hoàn mỹ đầy tràn sức sống đang lượn lờ trong làn nước bạc tựa như những nàng tiên cá huyền thoại dưới lòng đại dương làm tâm trạng chàng trai đồng chiêm trũng bất giác xốn xang. Anh bần thần đến mấy giây rồi thở dài, lặng lẽ quay về. Chuyện hệ trọng như thế Phan không nói với ai kể cả Nhàn là bạn rất thân. Anh nghĩ, những thân hình tuyệt vời ấy là do Tạo hoá ban cho cõi nhân sinh. Nó vừa trần tục vừa thiêng liêng. Những người có chút văn hoá như anh không được phép xúc phạm dù chỉ là trong ý nghĩ. Vậy mà không hiểu sao Sa lại biết. Sáng thứ hai, cũng vào lúc nghỉ giải lao, cô nửa đùa nửa thật:
– Trưa hôm qua có người “bổ mắt” đấy nhỉ?
– Chị nói gì? Ai… bổ mắt?
– Thôi đi! – Sa cười khẽ. – Còn ai vào đây nữa, nhưng cấm tung tin thất thiệt đấy nhé.
Đến nước ấy thì Phan đành chịu. Anh chỉ nói được một câu chống chế:
– Chị như ma xó ấy…
Sa có đôi bàn tay tuyệt đẹp mà mãi gần đây Phan mới biết vì lúc làm việc cô luôn mang găng. Cái lần Phan bị rơi xuống hố mà Sa phải xé áo lót băng cho thì chân đau quá, người bị choáng nên không để ý. Tình cờ, một lần anh được nhìn rõ bàn tay ấy.
Hôm đó, chẳng rõ buồn vì chuyện gì, Phan mang cây guitare đi dọc bờ suối, ngược lên mãi dốc Bàn Cờ ngồi chơi vẩn vơ mấy bài không đầu không cuối. Được một lúc, anh chợt nhớ hôm cùng với Nhàn leo lên tận ngọn Phù Đinh, gặp mấy cô người Sán Dìu đi chợ Sàn. Các cô gái dân tộc da trắng như trứng gà bóc, mặc váy áo thêu nhún nhảy theo nhịp bước trông thật duyên dáng. Anh đã đi cùng họ một đoạn đường nhưng vì ngôn ngữ bất đồng nên chẳng biết ở bản nào mà đi chợ xa đến thế. Đúng là những nàng sơn nữ. Phan thuận tay nhấn phím đàn rồi bắt vào phần cao trào của bản “Sơn nữ ca”. Có thể nói, “Sơn nữ ca” là bản nhạc ưa thích của Phan. Hồi giữa kỳ một năm lớp chín anh đã trình diễn khá thành công trong đêm liên hoan lửa trại. Cây đàn guitare này là từ nhà mang lên công trường. Nó vốn là vật kỷ niệm của một nhạc sỹ già tặng anh vào dịp ông về điền dã làng Yên sưu tầm những làn điệu dân ca đang có nguy cơ bị mai một. Có đàn nhưng Phan không dám để ở nhà mà phải gửi tận nhà anh Lâm cuối xóm, thỉnh thoảng mới đến tập gảy. Ông bố anh mà nhìn thấy là đập ngay. Ông Phó Đát đã từng bắt các con trai, con gái học thuộc lòng quyển “Tam tự kinh”[6], nhất là những câu: “Gia trung hữu kỳ, nam tử tắc suy; Gia trung hữu cầm, nữ tử tắc dâm”. Nghĩa là, trong nhà có bàn cờ con trai sẽ bại hoại, trong nhà có đàn con gái sẽ hư hỏng. Đang thả hồn phiêu diêu theo tâm trạng bâng khuâng của chàng lữ khách khi nhìn thấy nàng sơn nữ trong rừng vắng với những tiết tấu dồn dập
đầy hứng khởi thì Phan nghe có tiếng động nhẹ. Từ dưới suối, Sa bưng chậu quần áo bước lên bảo:
– Phan đàn hay lắm. Từ trước đến giờ Sa chưa từng nghe ai solo bản “Sơn nữ” có nhiều biến tấu phức tạp như vậy.
Phan hơi bất ngờ về cuộc gặp gỡ này:
– Sao chị đi giặt xa thế?
Sa đặt chậu quần áo xuống, lắc nhẹ cho mái tóc gọn về một bên rồi nói như không có chuyện gì xảy ra:
– Ở trên này nước trong hơn. Với lại, chốc nữa Sa còn hái dâu da.
Lúc ấy, chẳng biết ma quỷ nào xui khiến, Phan buột miệng bảo:
– Chị có đôi bàn tay đẹp thật.
Nghe vậy, mặt Sa thoáng biến sắc. Cô nhìn tay mình, ngập ngừng một lúc rồi khẽ bảo:
– Phan có muốn xem không?
Phan hơi hoảng. Anh muốn nói thật rành mạch rõ ràng nhưng nói không thành lời, giọng lí nhí:
– Chị Sa… Tôi…
Nhưng Sa đã đến sát bên Phan, người cúi xuống, đặt đôi bàn tay lên tay anh, hỏi:
– Thế này mà đẹp à?
Phan được nhìn người con gái trong một khoảnh khắc rất gần, gần đến mức hơi thở của Sa phả nóng một bên tai. Đó là đôi bàn tay búp măng với những ngón thon thon như hình tháp búp màu trắng hồng lần đầu tiên anh thấy trong đời. Nhìn đôi cổ tay tròn có ngấn và bàn tay mềm mại đẹp như một tác phẩm nghệ thuật mà Tạo hóa ban cho, bất giác Phan chạnh lòng:
– Bàn tay này mà đẩy xe ba gác thì phí quá…
Sa rút tay lại khẽ hỏi:
– Phan có thích không?
Phan thật thà bảo:
– Thích cũng chẳng được vì đó là tay chị kia mà.
Sa đứng dậy bê chậu quần áo bước đi, được mấy bước quay lại, giọng lửng lơ:
– Nếu thích, Sa cho đấy…
Phan sững sờ nhìn theo bóng cô gái khuất dần sau lùm cây chút chít. Quả thật, anh chưa bao giờ hiểu được Sa ngay cả những lúc tưởng như sự việc hoàn toàn đơn giản.
Thời kỳ mới lên công trường Sa chưa được vào Đoàn vì lý lịch có vấn đề. Đây là thời kỳ mà các nhà tổ chức rất ngại những gì không rõ ràng minh bạch. Phan cùng Nhàn, Vân và một số bạn bè đã đưa chuyện này ra cuộc họp chi đoàn nhưng rốt cuộc đành phải chịu phép trước lý lẽ của anh Lê Thông, bí thư. Anh Thông bảo: “Về cá nhân, tôi rất quý mến đồng chí Sa. Nói cho công bằng, cô ấy không có khuyết điểm gì, lại còn lao động tích cực nữa, có điều phần lý lịch gia đình chưa được tổ chức xác minh nên tạm thời phải để lại”. Với Sa, việc được hay không được vào Đoàn không quan trọng. Nói cách khác, cô ít quan tâm đến những thứ phù phiếm, đôi khi chẳng có ý nghĩa lắm đối với cuộc sống riêng tư. Với bạn bè Sa vừa như rất cởi mở lại vừa như bí hiểm. Có lúc cô sống ào ào, nhập vào các cuộc vui hết mình để rồi sau đó lại lặng lẽ âm thầm như một người mắc chứng trầm cảm. Cả C22, trừ Phan, không một ai biết, Sa đã tốt nghiệp lớp mười. Cô vừa xinh đẹp lại vừa giỏi giang, tương lai còn ở phía trước, vậy mà chẳng hiểu vì sao tự nhiên bỏ nhà lên mãi vùng biên ải xa xôi này làm nghề xúc đất, đẩy xe ba gác.
Quê Sa ở một huyện vùng trung du nơi có ngọn núi Voi bên ngã ba sông, một dòng đục, một dòng trong. Hồi còn nhỏ, chừng mười một mười hai, mỗi khi cắt cỏ, Sa thường ngồi hàng giờ ngắm nhìn hai dòng nước nghĩ vẩn vơ. Chuyện về gia đình Sa toàn những điều không vui. Ông nội Sa, thời kỳ những năm 1944, 1945 từng làm Phó lý ở làng Hạ. Làng Hạ vốn đất nghịch khiến người Pháp cũng phải gờm nên sự kiểm soát cũng có phần lỏng lẻo. Đêm đêm, Việt Minh thường bí mật vượt sông về móc nối với cơ sở để thu thập tin tức chuẩn bị đánh đồn Báng, một căn cứ quân sự của Pháp ở núi Voi. Ông Phó lý có người con trai tên là Điền đang học trường huyện. Anh Điền người tầm thước, tóc cắt ngắn thường đóng áo the, quần trắng, đội mũ cát sáu múi trông rất ra dáng thư sinh. Anh Điền từ lâu đã phải lòng cô Trầm con gái bà Lạp người xóm Bãi. Cô Trầm xinh đẹp nhất làng nhưng ông bố làm mõ[7], gia cảnh nhếch nhác, thành ra con trai trong vùng chẳng anh nào dám ngỏ lời. Ở làng Hạ, không biết từ bao giờ, ngay cả những kẻ cùng đinh, nghèo rớt mồng tơi cũng coi trọng mấy chữ “môn đăng hộ đối” trong quan hệ hôn nhân. Những thân phận bọt bèo như cô Trầm chỉ có cách bỏ làng ra đi mới mong kiếm tìm được hạnh phúc gia đình. Nhưng Trầm biết đi đâu trong khi ông bố đã sớm quy tiên còn bà mẹ lại thường xuyên đau yếu, sống lay lắt như ngọn đèn tàn trước gió. Hai mẹ con tần tảo nuôi nhau ở bãi sông trong căn nhà một gian hai chái. Những đêm tối trời, sau cơn mưa nặng hạt đầu mùa, ếch nhái ộp oạp, côn trùng nỉ non cùng với tiếng gọi đò lúc nhặt lúc khoan của một lữ khách muốn sang ngang càng làm cho khung cảnh bến sông thêm đìu hiu, cô quạnh. Nhưng buồn lòng hơn cả đối với Trầm là những đêm trăng suông. Ánh trăng bàng bạc se lạnh vờn trên mặt nước. Dòng sông lúc ấy tự nhiên chảy ngược lên trời, khi mờ khi tỏ, trôi lãng đãng trong một không gian đầy những hình thù kỳ quái. Đôi lúc Trầm cảm thấy như đang bơi giữa đôi bờ ảo giác.
Trầm đang mòn mỏi trong sự nghiệt ngã của số phận thì anh Điền đến ngỏ lời. Chị không thể tin hạnh phúc có thể đến với mình ngay trên mảnh đất làng Hạ. Chị đón nhận tình yêu một cách nồng nàn, cuồng nhiệt nhưng trong lòng vẫn nơm nớp cho kết cục bi thảm có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Một lần Trầm nói với anh Điền giọng buồn rầu:
– Anh thương em nhưng có thương được số phận của em không? Nhà anh là chức sắc trong làng, chắc chắn ông Phó lý chẳng bao giờ ưng một đứa con gái mõ về làm dâu.
Anh Điền là người có học, đầu óc tân tiến, nghe Trầm giãi bày tâm sự, bèn gạt phắt:
– Thời thế sắp thay đổi rồi, em chẳng nên băn khoăn với những thứ định kiến hẹp hòi ấy làm gì. Hạnh phúc gia đình là phải có tình yêu. Quan niệm môn đăng hộ đối dẫn đến tình trạng cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy là vô nhân đạo. Nó làm cho người phụ nữ chết dần chết mòn trong bốn bức tường của thứ luân lý phong kiến cổ hủ.
– Không đâu anh ơi! – Trầm thở dài. – Có biết bao nhiêu hàng rào hữu hình và vô hình ngăn cách mà chúng ta khó lòng vượt qua được. Anh còn lạ gì lệ làng Hạ này. Hơn nữa, bố anh từ trước đến nay vốn là người nghiêm cẩn trong công việc.
Điền khẽ gật đầu tỏ vẻ thông cảm với Trầm:
– Về bố, anh sẽ lựa lời để ông ấy chấp nhận. Nếu không anh đã có cách.
– Cách gì?
– Bỏ làng đi và chúng ta sẽ cưới nhau.
– Chết! – Trầm lắc đầu – Còn mẹ em, ai trông nom?
– Em lo xa quá. – Điền bảo. – Cứ biết thế, đến lúc ấy sẽ hay.
Chuyện rồi cũng đến tai ông Phó lý. Ngay buổi tối hôm ấy, ông gọi Điền vào hỏi:
– Tôi nghe người ta nói, anh phải lòng cái Trầm con lão Mới ngoài bãi phải không?
– Con cũng định thưa với bố mẹ chuyện ấy… – Điền chắp tay cúi đầu nói nhỏ nhẹ.
– Cái gì? – Ông Phó lý tưởng mình nghe lầm, hỏi gần như quát.
– Dạ thưa… Mấy năm trước bố mẹ giục lấy vợ nhưng con chưa tìm được người tâm đầu ý hợp. Nay con đã lớn. Làng ta có cô Trầm con bà Lạp. Cô ấy tuy nhà nghèo nhưng được cả người lẫn nết. Con muốn bố mẹ sắm cơi trầu sang nói chuyện với gia đình bên ấy.
Ông Phó lý quát:
– Mày định bỉ mặt tao mang tao ra làm trò cho thiên hạ nó cười phải không?
– Thưa bố, con nói thật lòng.
– Mày biết lệ làng Hạ này chứ?
– Dạ, con biết lệ làng là hay nhưng trong đó có một số điều cổ hủ, lạc hậu cần phải loại bỏ.
– Cút ngay! – Ông Phó lý điên tiết cầm chiếc ấm tích quật mạnh xuống nền gạch Bát Tràng. Nước và bã chè bắn tung tóe. – Tao cho mày đi học trường huyện tốn bao nhiêu là tiền để rồi mày hỗn láo dám bắt bẻ lệ làng, phép nước đấy hả? Muốn cưới con Trầm làm vợ thì hãy bước khỏi nhà tao, không học hành gì nữa.
– Kìa bố…
– Câm ngay!
Sự việc diễn ra đúng như Trầm dự đoán. Hai người thất vọng. Hạnh phúc lứa đôi đang có nguy cơ tan vỡ thì dịp may đến. Ấy là sự biến tháng tám năm bốn nhăm. Cướp chính quyền xong, cả Điền và Trầm đều tham gia hoạt động đoàn thể. Ông Phó lý, vốn tính thủ cựu, vẫn không chấp nhận Trầm làm con dâu. Vận động, thuyết phục mãi không được, chính quyền mới và đoàn thể đứng ra tổ chức lễ thành hôn cho hai người. Cưới nhau được hơn một năm thì một tiểu thư mũm mĩm đẹp như trong tranh ra đời. Đứa bé gái ngày ấy chính là Sa bây giờ.
Cuối năm 1947, khi con gái vừa đầy năm anh Điền gia nhập Vệ Quốc Đoàn. Chị Trầm ở nhà tham gia Hội phụ nữ Cứu quốc. Ông Phó lý cựu vẫn còn giận con trai nhưng rất quý cháu, thỉnh thoảng lại sai cô út mang quà bánh cho bé Sa.
Năm 1952, làng Hạ phá tề lập chính quyền nhân dân. Đồn Báng đã bị diệt, suốt một dải sông từ ngã ba Voi đến Kim Xuyên, Cẩm Thượng đều thuộc vùng tự do nên cuộc sống của nhân dân địa phương có nhiều thay đổi. Thỉnh thoảng có những đơn vị Vệ Quốc có dịp hành quân qua xóm Trại báo tin chiến thắng. Riêng anh Điền đã hơn hai năm không thấy tin tức gì làm cho chị Trầm lòng dạ thấp thỏm. Đầu năm 1953, một tin sét đánh từ mặt trận báo về, trong một trận chống càn ở Kim Khê, anh Điền đào ngũ chạy sang phía địch. Việc ấy chẳng biết hư hay thực, làm xôn xao cả làng Hạ, ít lâu sau lại có thêm những chi tiết bổ sung, anh Điền đã đóng lon quan hai ngụy quân, ngày ngày dẫn lính đi càn quét vùng Phố Châu. Tin dữ làm chị Trầm ngất đi, ốm liền mấy tháng. Từ chuyện anh Điền, dân làng kháo nhau: “Đúng là bố nào con ấy. Bố làm Phó lý hét ra lửa, khinh người như rác thì con theo lũ bán nước, đóng lon sĩ quan bắn giết dân làng cũng là hợp lẽ”. Chị Trầm không chịu nổi cơn sốc tâm lý cùng với danh dự bị hoen ố, đành xin thôi chức bí thư phụ nữ, về sống âm thầm trong ngôi nhà nát. Niềm vui duy nhất của chị bây giờ chỉ còn là bé Sa. Nếu không có nó chắc chị đã gieo mình xuống dòng sông để khỏi phải nghe những lời đàm tiếu của những kẻ độc miệng.
Hoà bình lập lại. Những chiến binh từ các mặt trận, nhất là mặt trận Điện Biên trở về. Mẹ con Sa chờ mãi, chờ mãi… Thế là hết. Tuy chẳng có văn bản bằng giấy trắng mực đen nào khẳng định anh Điền phản bội đầu hàng giặc, nhưng hoà bình đã mấy tháng mà vẫn không về thì, dù là người thận trọng đến đâu cũng phải đặt dấu hỏi nghi ngờ. Lại một tin chết người chẳng biết từ đâu tung ra cứ chờn vờn gieo rắc nỗi hoài nghi trong cộng đồng làng Hạ: Gã quan hai Điền đã theo địch vào Nam làm quận phó ở Thừa Thiên. Có ai đó còn bảo, tin này là do “người của ta” cài trong đám dân di cư báo ra.
Cũng năm ấy, làng Hạ thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất. Người đầu tiên được Đội Cải cách đưa ra cho nông dân đấu tố là ông Phó lý cựu. Ông Cựu vốn là nông dân gốc được học chữ Hán từ bé nên chịu ảnh hưởng khá nặng tư tưởng Nho giáo, nhất là trong việc dạy dỗ con cái. Tính ông hơi khoảnh nhưng trung thực, sống theo kiểu độc thiện kỳ thân. Cái gì không phải của mình, dù có ép cũng không bao giờ ông nhận nhưng cái gì của ông, ông đấu tranh đến cùng để bảo vệ. Làm Phó lý đương nhiệm, ông không hề tơ hào một xu công quỹ. Ngày giỗ, tết, một số bà con chịu ơn mang lễ vật biếu ông không nhận, bắt mang về, không mang về, ông sai con quẳng ra đường. Điều cần nói ở ông là thói khinh người, coi thường Hội đồng Kỳ hào, đôi lúc còn chơi xỏ cả Chánh tổng vì ông này không biết chữ, chức Chánh tổng là do ông ta bán ruộng lo lót quan phủ.
Hôm ấy, ông Phó lý cựu bị trói giật cánh khuỷu cùng một số địa chủ ngồi thu lu ở góc sân đình. Mỗi ông bị cột vào một chiếc cối đá thủng chuẩn bị lên vành móng ngựa. Vành móng ngựa làm bằng những đoạn chuối đóng cọc giống như chiếc cũi lợn. Cán bộ cải cách phát động quần chúng rất khéo, nên khi phiên toà vừa bắt đầu đã có ba bà cố nông và lão Chuột thọt, quanh năm đánh giậm ở đồng Mả Vực tranh nhau lên đấu. Ông Phó lý có một mẫu sáu sào ruộng với một con trâu. Một năm hai vụ, người nhà cày cấy không phải mướn người, cũng không phát canh thu tô, thế mà cô Chút, con bà Chẽo Toét, lười chảy thây, chuyên ăn bánh đúc riêu cua chịu ở chợ Đình, tự nhiên đứng lên tố phó lý Cài giấu bớt diện tích ruộng để tránh bị quy địa chủ. Đúng ra, thửa ruộng ấy phải là ba mẫu sáu sào. Cô Chút nói xong, mặt vênh váo, hai tay chống nạnh, mắt đảo tứ phía ra vẻ đắc thắng.
Bà Cả Vinh nghe chướng tai quá, chỉ tay vào mặt Chút mắng:
– Con đĩ kia, mày vu oan giá hoạ cho người ta không sợ thánh thần vật cho hộc máu mồm à?
Chút đang say sưa với thành tích tố khổ của mình, bị bà thím chặn họng, cô ta như phát khùng:
– Thím nói thế là bao che cho bọn địa chủ, cường hào chống lại đường lối Cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ. Tôi mà “bá cáo” với anh Đội trưởng thì nhà thím tù mọt gông.
Bà Cả Vinh tức lắm, đỏ mặt tía tai, định chạy lại vả vào mồn con chẽo choẹt điêu toa thì ông Đội Hoát nghiêm giọng chấn chỉnh thái độ:
– Bà Cả Vinh trật tự, phải tôn trọng ý kiến nông dân. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp không khoan nhượng giữa bần cố nông với bọn địa chủ cường hào, ác bá. Tôi đề nghị bà con phải thẳng thắn vạch mặt những kẻ ăn trên ngồi trốc, bóc lột đến tận xương tận tủy gia đình mình từ nhiều năm nay.
Có ai đó từ phía cuối đình đứng lên hô lớn:
– Đả đảo Phó lý Cài! Đả đảo địa chủ Xứng cùng bè lũ Việt gian, phản động!
– Đả đảo!
Cả mấy gian đình đồng thanh dậy lên hàng loạt tiếng hô hưởng ứng ồn ào như một cái chợ.
– Cuộc đấu tố bọn cường hào ác bá bắt đầu – Đội Hoát thét to vào chiếc loa sắt tây – Đề nghị bà Nguyễn Thị Nhút là cố nông lên vạch mặt tên Phó lý Cài.
Ông Phó lý đứng trong vành móng ngựa, hai tay buông thõng, cặp mắt già nua mệt mỏi thỉnh thoảng ngước lên nhìn đám bần cố quá khích rồi lại âm thầm cúi đầu, có vẻ như mặc kệ số phận đến đâu thì đến, dù sao ông cũng già rồi, chết cũng cam lòng. Cố nông Nhút, tròn như chiếc thùng tô nô, ngước cặp mắt viền vải tây[8] chĩa vào ông Phó lý:
– Phó lý Cài, có biết tao là ai không?
– Thưa bà! – Ông Cài cúi đầu lễ phép. – Bà là bà Nhút con cụ Nhiêu Nguyễn Hữu Nhuề ở xóm Đông ạ.
– Mày đã biết tội của mày đối với nhà tao chưa? – Thị Nhút vừa dằn giọng vừa lấy ngón tay ấn vào trán ông Phó lý cựu.
– Dạ thưa… con biết.
– Tội gì? Thú nhận đi, đừng để tao phải kể ra.
Ông Phó lý ngẩng lên nhìn Thị Nhút một thoáng rồi thong thả nói:
– Thưa bà, tội của con là vào các năm Canh Thìn, Quý Mùi nước lũ làm vỡ đê bối, cụ Nhuề đến kêu nhà sắp chết đói, vay con tổng cộng hai lần mười một thùng thóc tẻ. Năm Giáp Thân cụ bà mới gánh trả con bảy thùng. Số còn lại…
– Nói láo! – Thị Nhút biết mình bị hớ, nhảy lên như thượng đồng. – Nhà tao mà lại thèm vay thóc của thứ địa chủ cường hào như mày.
Ông Phó lý vẫn từ tốn:
– Thưa bà, việc cụ nhà vay thóc có văn tự để lại. Văn tự viết bằng chữ Quốc ngữ có cả người làm chứng và dấu tay điểm chỉ.
– Thật không biết dơ – Có ai đó từ cánh gà bên hậu cung lẩm bẩm chửi. – Lúc đói sắp chết người ta cho vay không lấy lãi, đã ăn quỵt mấy thùng giờ lại còn giở ngô giở ngọng.
– Quân nặc nô!
– Thời buổi dân chủ mà, muốn vu oan cho ai chẳng được.
Thị Nhút không biết chữ, mắt toét, chân đất, lần đầu tiên trong đời lên trước đám đông toàn nói dại khiến ngay cả cán bộ trong Đội Cải cách cũng thấy chối tai. Một ông Đội tức mình, lách từ dưới lên bảo nhỏ:
– Cô Nhút ra ngoài có người cần gặp.
Nhút vừa bước khỏi bục thì lão Chuột Thọt lập tức xuất hiện. Kể cũng lạ, một chân lão bị rắn độc cắn thành tật, mỗi khi đi, bàn chân trái cứ kéo lê như vạt tép, vậy mà khi cần, lão chạy đố ai đuổi kịp. Lão Chuột tuy là dân đánh giậm kinh niên, trưa nào cũng mang tôm tép lên bán chợ Đình nhưng không phải là hạng ấm ớ. Lão ăn nói có bài bản và lý luận ra phết. Lão biết thừa ông Cựu là người có uy tín trong làng, bị quy oan lên địa chủ nhưng không thể tìm được các tội danh có sức thuyết phục để khép vào hình phạt nặng. Mà vu oan giá hoạ cho người ta như con đĩ Nhút thì lão không muốn, tuy rằng từ nhiều năm nay vẫn canh cánh bên lòng mối thù với ông Cài. Đó là vào tháng hai năm Đinh Sửu. Dịp ấy ông Ba Vếnh làm tế đám mời các chạ ăn khao ở đình Cả này. Lão là dân ngụ cư, chẳng vai vế gì trong làng nên không được mời. Lão tức mình tu nửa chai rượu trắng rồi đóng khố vác giậm lảng vảng gần ao đình. Trai đinh đang líu ríu tay dao tay thớt. Mấy bác trương tuần thì bận xua lũ trẻ con. Bọn này hiếu động, chỉ lơ đi một tí là chúng xông vào tranh cướp pháo. Trong lúc nhốn nháo, chẳng ai để ý, thế là lão đánh giậm lẻn vào hậu cung nẫng nhẹ chiếc thủ lợn trên ban thờ Thành hoàng rồi biến đi như có phép lạ. Mất thủ lợn tế đám, cánh chức sắc nháo lên chạy ngược chạy xuôi. Ông Ba Vếnh mặt nhăn như bị, cực chẳng đã, phải sai người nhà thịt con lợn khác lấy đầu tế thần. Buổi tối, ông Phó lý bảo người nhà sửa mâm rượu, cho gọi cánh trương tuần đến. Ông mời họ ngồi vào chiếu rồi nói:
– Anh em uống rượu xong giúp tôi một việc. Tôi cho rằng chiếc thủ lợn không thể đi xa được mà nó chỉ luẩn quẩn ở xóm Đình. Tên ăn trộm nhất định phải pha chặt, nấu nướng trong đêm nay. Anh em hãy bí mật theo dõi một số kẻ khả nghi, nếu phát hiện được thì bắt mang về đình để làng phạt vạ.
Suốt đêm, mấy bác trương tuần rình mò mệt nhoài nhưng chẳng thấy dấu hiệu gì chứng tỏ tang vật vẫn còn ở xóm Đình. Ông Phó lý bực mình sai anh em Binh Sức điệu mấy gã chuyên nghề ăn sương trong làng đến lục vấn nhưng anh nào cũng chối phắt. Không tìm ra chiếc thủ lợn thì cánh hào lý trong làng bẽ mặt. Mà rồi tiếng đồn lên đến tổng đến huyện, thiên hạ người ta cười cho. Câu chuyện khôi hài tưởng đã đến hồi kết thúc không kèn không trống thì bất ngờ, một thằng bé chăn trâu ở bãi sông phát hiện ra lão Chuột Thọt say khướt nằm cong queo trong lều. Lúc mọi người đến mới hay, đêm qua, lão quá chén bị cảm lạnh nếu không chạy chữa kịp thời chắc chết. Điều lạ hơn cả là, trong chiếc nồi bắc chỏng chơ trên mấy hòn gạch vỡ ám khói còn cả mấy mảnh xương sọ lợn. Ngay lập tức, lão Chuột bị điệu đến đình Cả. Trước mặt các bậc hào trưởng trong làng, lão đã thú nhận hành vi trộm cắp của mình. Ông Phó lý ra lệnh cho tuần đinh, bắt lão nằm sấp, dùng hèo mây vụt đúng mười lăm roi. Về khoản phạt vạ, lão là dân ngụ cư, nghèo kiết xác, làng miễn cho nhưng phải bán xới khỏi xóm Trại, nếu còn lảng vảng ở bãi sông sẽ bắt trình quan. Sau vụ ấy, lão Chuột thù ông Cài đến tận xương tận tủy nhưng thân cô thế cô không làm gì được thành thử phải cắp nón, vác giậm ra đi. Chẳng biết Chuột thọt lánh nạn nơi đâu, nhưng sau Cách mạng, người làng Hạ lại thấy lão xuất hiện ở bãi sông, vẫn nghề đánh giậm. Lão thuộc loại cố nông đến ba đời nên được chia nhà “quả thực” ngay đợt đầu. Tự nhiên có nhà, có ruộng lão thích lắm, nghe đâu lão còn tính chuyện cưới vợ nữa.
Dạo này Chuột thọt rất chăm đi họp. Hình như càng đi họp trình độ lý luận của lão càng được nâng lên, ý thức đấu tranh giai cấp ngày càng cao dù rằng lão chưa bao giờ đi học và hoàn toàn không biết chữ. Lão hếch mặt lên, cái cằm nhọn hoắt hơi trễ xuống, lừ mắt nhìn ông Phó lý:
– Phó lý Cài, mày có một đứa con trai tên là thằng Điền đi bộ đội năm bốn bảy phải không?
– Thưa ông, vâng.
– Thằng Điền ở bộ đội được mấy năm thì mày viết thư xui nó chạy sang hàng ngũ địch làm tay sai cho chúng, có đúng không?
Ông Cài lắc đầu:
– Thưa ông, từ khi thằng Điền đi bộ đội đến giờ không có tin tức gì và gia đình tôi cũng chưa bao giờ viết thư cho nó.
– Hừ! Lại còn chối hả. – Lão Thọt hậm hực mắng. – Thế mày có biết nó đóng lon quan hai, dẫn lính đi càn giết hại đồng bào không?
Ông Cài từ lâu đã dự kiến sự việc này không chóng thì chày sẽ diễn ra, nên khi nghe lão cố nông hạch sách cũng chẳng lấy gì làm lạ. Có điều, từ trong sâu thẳm đáy lòng ông vẫn không tin anh Điền đầu hàng địch, chống lại nhân dân. Vì thế ông từ tốn nói:
– Thưa ông, việc thằng Điền nhà tôi đầu hàng địch, đóng lon sỹ quan chỉ là những lời đồn không có căn cứ. Từ năm Nhâm Ngọ đến nay đơn vị của cháu không thấy gửi giấy về địa phương. Tôi nghĩ chắc là cháu đã hy sinh không tìm được xác chứ chẳng thể chạy sang phía bên kia.
Lão Chuột cười gằn, túm mớ tóc bạc lưa thưa trên đầu ông Cựu giật mạnh:
– Thằng cường hào ác bá, thằng phản động! Sự việc rành rành như thế mà còn cãi hả? Thật là cà cuống chết đến đít vẫn còn cay.
– Thưa ông, tôi nghĩ, việc của thằng Điền, Đội Cải cách nên cử người về đơn vị cũ điều tra cho rõ thực hư…
– Mọi người đã biết rõ, cần gì phải xác minh. Chả lẽ bà con bần cố nông ở làng Hạ này lại đổ oan cho mày. – Lão vừa nói vừa khậm khoạc ho. – Chúng tôi đề nghị Toà xử tên Việt gian Cài tội tử hình.
Cuộc đấu tố trong đình đang đến đoạn gay cấn nhất thì ở ngoài xóm Bãi, một cán bộ Cải cách tên là Đảm đến nhà chị Trầm. Vừa bước vào cửa anh ta đã lên giọng nạt nộ:
– Chị kia! Đã có lệnh của Đội vì sao nhà chị không ra đình đấu tranh vạch mặt bọn địa chủ cường hào?
Chị Trầm biết, người của Đội Cải cách đến nhà là có chuyện chẳng lành. Gã Đội Đảm vốn háo sắc, thấy dung nhan người phụ nữ một con, mắt anh ta sáng lên nhìn chị hau háu như mèo đói vờn chuột. thoáng thấy cử chỉ ấy, chị Trầm rùng mình, định lách ra nhưng tay Đảm đã xoạc chân chắn ngang buông giọng cợt nhả:
– Này cô em! Muốn yên ổn làm ăn nuôi con thì hãy nghe anh bảo đây.
Chị Trầm lùi lại đưa mắt nhìn quanh, thấy không còn cách thoát thân đành ngồi xuống chiếc chõng tre nơi bé Sa đang ốm đắp tấm chăn chiên bợt màu.
– Thưa ông Đội, cháu bé bị cảm, tôi không đi được mong ông buông tha…
Đảm nhếch môi cười nhạt:
– Thằng Điền đào ngũ làm tay sai cho giặc từ năm 1952 cô có biết không?
– Dạ, chuyện ấy tôi không được biết.
– Này, ngoan cố gớm nhỉ? Chuyện đã rõ rành rành mà còn cãi. – Đảm lên giọng răn đe. – Cô có biết tội phản bội Tổ quốc bị xử phạt thế nào không?
– Chồng tôi không phản bội Tổ quốc. – Trầm đã cố nén nhưng giọng vẫn gay gắt. – Anh ấy là người đàng hoàng. Các ông căn cứ vào đâu mà bảo chồng tôi đào ngũ?
– Căn cứ vào ý kiến của bà con bần cố nông cô hiểu chưa? – Đảm nói chắc như đinh đóng cột. – Họ là tai mắt của nhân dân. Nếu không có bần cố nông, cuộc Cách mạng ruộng đất không thể thành công. Tôi nói thật, tội của bố con thằng Điền, cô không những không chối được mà còn phải liên đới chịu trách nhiệm. Có điều, Đội Cải cách đã biết, từ lâu lão Cài đối xử với cô chẳng ra gì nên chúng tôi muốn giúp đỡ.
– Các ông tử tế quá nhỉ! – Chị Trầm buông giọng mát mẻ. – Thế định cứu mẹ con tôi bằng cách nào?
– Dễ thôi. – Đội Đảm nghĩ chị Trầm đã hiểu rõ tình thế bất lợi của mình đang cần một sự che chở bèn hạ giọng. – Chỉ cần cô ra đình tố cáo lão Cài…
– Tôi phải tố cáo như thế nào?
Đảm nhíu mày làm ra vẻ suy nghĩ một thoáng rồi thản nhiên bảo:
– Là lão Cài đã ra đây… cưỡng hiếp cô mấy lần.
– Rồi sau đó thì sao? – Mặt Trầm bỗng tái nhợt nhưng vẫn cố nén giận hỏi gã đàn ông.
Đảm nghĩ rằng anh ta đã chinh phục được người đẹp bèn từ từ ngồi xuống giường rồi bất ngờ phóng tay lên ngực người thiếu phụ.
Bốp! Chị Trầm nhanh như cắt tát vào mặt gã Sở Khanh. Trong lúc gã còn đang ngơ ngác chưa biết xử lý thế nào thì chị đã vớ con dao phay cài bên liếp giơ lên quát:
– Đồ khốn nạn! Cút khỏi nhà bà ngay! Mày mà còn giở trò đểu cáng thì bà sẽ ra đình tố cáo với cả làng.
Bị người đàn bà đáo để hạ nhục, Đảm nghiến răng trèo trẹo. Hắn ngượng vì mất cả thể diện, lủi thủi bước ra không nói một câu. Gã đi rồi, trong lòng chị Trầm vô cùng lo sợ. Một ngày, hai ngày, rồi cả tuần trôi qua chưa thấy du kích đến bắt. Chị không sợ cho mình mà chỉ sợ cho bé Sa. Chị bị đi tù thì con bé sẽ ở với ai? Khổ thân nó. Mấy hôm sau Trầm mới khẽ thở phào khi biết tin, Đội Đảm do mắc sai lầm trong việc phân chia quả thực đã bị kỷ luật chuyển đi nơi khác.
Ông Cựu bị giam ở một gian chuồng trâu nhà Phó hội Long. Ông Phó hội cũng bị quy thành phần địa chủ. Nhà ông kín cổng cao tường, Đội Cải cách trưng dụng làm nơi giam “kẻ thù giai cấp”. Bị nhốt mấy ngày, ông Cựu đói lắm nhưng người nhà không được mang cơm vào. Chị Trầm thương bố chồng, suốt một đời tằn tiện, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, nay bị hàm oan chịu cảnh cơ cực, bèn đánh liều nhờ một người bạn gái trong tổ du kích, chuyển một đùm khoai luộc cho ông. Đến đêm thứ ba thì cô du kích kia bị lão Chuột Thọt phát hiện. Chả là dạo này lão cùng với hai bà cốt cán được Ủy ban gọi lên nấu nướng phục vụ cho Đội Cải cách. Chẳng nể nang gì, lão “bá cáo” ngay với Đội. Kể từ hôm ấy, ông Cựu Phó lý bị bỏ đói. Sang ngày thứ ba, ông cùng với hai địa chủ nữa phải ra pháp trường. Chín du kích được bố trí bắn ông thì năm người nghếch nòng súng lên trời, hai người đạn bị thối, chỉ có hai viên găm vào ông, trong đó một trúng tim…
[1] Cơi là loại cây mọc bên bờ suối, lá có chất độc, đồng bào Thái Tây Bắc thường dùng ngâm xuống suối để bắt cá.
[2] Khốt ta bít: Nhân vật trong cuốn truyện nổi tiếng của nhà văn Nga Soviet L.I. Lagin. Đây là câu chuyện kể vui nhộn về những cuộc phiêu lưu của một ông thần từ xứ sở cổ tích lạc vào cuộc sống của một thành phố hiện đại; về tình bạn giữa ông già Khốt ta bít với cậu bé Vonka…
[3] Đá sít: Là một dạng đá chưa đủ thời gian để biến đổi thành than. Gốc tiếng Pháp của từ sít này là schiste. Sít than (tiếng Pháp: schistes houillers) là phụ phẩm của ngành công nghiệp than đá. Do hình dạng của đá sít, người Việt còn gọi nó là đá phiến / diệp thạch.
[4] Talus (tiếng Pháp) sườn dốc, mái dốc.
[5] Cút kít: Loại xe thô sơ hai càng có một bánh bằng gỗ để chở đất đá trong những cự ly ngắn do công nhân tự làm.
[6] Tam tự kinh: Sách nhập môn học chữ Hán, mỗi câu 3 chữ (Nhân chi sơ/ Tính bản thiện/ Tính tương cận/ Tập tương viễn…)
[7] Mõ: Người làm công việc phục dịch và thông tin giữa các chức sắc với dân làng, ở đẳng cấp xã hội thấp nhất, thường bị khinh rẻ.
[8] Viền vải tây: Bệnh đau mắt hột thường phải che mắt bằng miếng vải.