Ái Điểu
Căn hầm trú ẩn của nhà nội có từ lúc ba tôi còn nhỏ.
Những năm đó, thỉnh thoảng đêm khuya mấy ổng ở bên kia sông pháo kích vào thị trấn.
Ông nội tôi nhát gan hơn bà nội. Có tiếng còi hụ rền vang của tiểu khu báo động ông vội hối thúc cả nhà xuống hầm.
Bà nội tôi không chịu đi tránh đạn. Bà lầm bầm: Nó mà pháo trúng nhà thì có xuống hầm cũng chết, mấy thằng cậu, dượng tụi nhỏ bắn chớ ai. Rồi bà tiếp tục ngủ.
Quê bà nội ở bên kia sông.
Gọi là hầm nhưng đó là một căn phòng. Chung quanh vách xếp những bao chứa cát, nóc gác hai bộ ván ngựa, có chồng bao cát lên trên.
Ông nội tôi là thầy giáo tiểu học. Trường ở làng biển xa. Đôi ba lần ông đưa về những người khách bí ẩn. Khách ở dưới hầm vài ngày rồi đi.
Ba tôi thứ tư, bác Hai, bác Ba đều là sĩ quan. Hai bác đồn trú, lấy vợ ở tỉnh khác, lâu lâu mới về thăm nhà.
Chú Năm bịnh, mất lúc mới hai tuổi, ba tôi xử dụng khai sanh của chú nên chưa đến tuổi quân dịch.
Xóm nhỏ, nhưng không ai biết bác Hai, bác Ba sĩ quan cấp bậc gì, vì ông nội không cho mặc quân phục, đeo lon khi về phép. Ông nội nói: Nhiệm vụ không làm không được, chớ hay ho gì mà khoe.
Chú Sáu không muốn đi lính. Chú nói với ông nội: Con không muốn bắn nhau với cậu Năm, dượng Bảy.
Khi dân vệ xã ruồng bắt những người trốn lính, chú Sáu ẩn trong hầm. Không được ra ngoài, chú đọc sách cả ngày.
Ông nội chỉ là thầy giáo nghèo, nhưng được xóm làng kính trọng. Chức sắc, lính tráng đều biết ông nội, kiêng nể “nhà có chữ”, có con là sĩ quan nên không dòm ngó, lục soát.
Ông nội tôi có rất nhiều sách. Nhà có ba cái tủ thì hai tủ gương lớn chứa đầy sách. Quần áo cả nhà cất trong cái tủ gỗ nhỏ.
Sách còn để trong mấy cái rương lớn bằng ván ép, màu xanh, lấy ra từ căn cứ quân đội Mỹ.
Sách học của anh em ba tôi xếp trên các giá sách, trên bàn.
Ông nội quý trọng chữ đến độ chỉ đốt, không cho bỏ bất cứ trang giấy nào có chữ vào thùng rác, chỗ ô uế.
*_
Hết chiến tranh, có lịnh tịch thu sách.
Ông nội tôi lần thần như người không có hồn. Những đêm nghe pháo kích mà ông còn bình tĩnh, linh hoạt hơn lúc này.
Ba tôi và chú Sáu lặng lẽ chọn một số sách, xếp chật hai cái rương lớn, đem giấu dưới hầm trú ẩn.
Một ít sách khác, ông nội không cho giao nộp, cũng không cho đem xuống hầm. Ông đem lên cất vào hai ngăn tủ của bàn thờ tổ tiên.
Chờ đến đêm khuya, ông nội, ba tôi và chú Sáu đem hết những giấy tờ, hình ảnh có liên quan đến quân đội để lên bàn thờ cùng với số sách mà ông đã chọn.
Ông nội nghẹn ngào: Sách, chữ nghĩa là điều linh thiêng mà thần linh, thánh hiền đã ban cho con người để khỏi u mê, có đạo đức. Cha con mình không bảo trọng được sách, được chữ nghĩa; mình phải tạ lỗi với tổ tiên.
Những cuốn sách này là lời của tiền nhân dưỡng dục nhân cách. Không thể giấu sách xuống hầm là nơi không tôn nghiêm. Không thể giao sách để người ta huỷ hoại, chà đạp.
Nhà mình phải hoả táng sách để hồn của chữ tồn tại vĩnh hằng.
Còn hai rương sách lớn, là lời hay ý đẹp của người đương thời, mình tạm cho lánh nạn dưới hầm.
Chú Sáu lấy một dải vải trắng bịt lên đầu nói: Con xin để tang cho sách, cho chữ.
Ông nội thắp nhang cắm lên bàn thờ. Ba người quỳ xuống vái lạy.
Chú Sáu khóc rống lên uất ức như loài gia súc trong lò sát sanh.
Rồi ba người đem sách, đem chữ xuống bếp, đốt từng quyển một.
Vài hôm sau có dân quân xã, thanh niên tự vệ và mấy em học sinh đeo khăn quàng đỏ đến tịch thu sách.
Sách của ông nội nộp nhiều đến nỗi chở ba xe ba gác không hết.
Tối hôm đó, ở trụ sở xã, họ đốt một sân đầy sách. Mấy em thiếu niên gõ trống, thổi kèn trong tiếng loa kêu gọi mọi nhà đem sách ra giao nộp, thiêu huỷ.
Văn hoá, kiến thức bị đốt như rác dơ.
*_
Tôi sinh năm 1980, biết được những chuyện trên qua hồi ức của những người lớn trong gia đình.
Tôi có cảm giác là họ nhắc lại một thời đã qua như kể chuyện cổ tích. Không thấy ý hận thù, oán trách.
Căn hầm trú ẩn có hai cái rương sách vẫn còn suốt thời niên thiếu của tôi.
Không hiểu tại sao hết chiến tranh lâu rồi mà ông nội vẫn giữ lại căn hầm chống đạn. Để giấu hai rương sách, hay vì lý do nào khác?
Hình như tôi là người sử dụng căn hầm này nhiều nhất nhà.
Khi còn thơ ấu, đó là chỗ tôi trốn ba tôi khi sắp bị ăn đòn vì mê chơi.
Thường thường là xuống hầm ẩn núp chơi trò trốn tìm. Hoặc rủ mấy đứa gần nhà, tưởng tượng ra đó là cái nhà riêng; chơi trò nấu ăn, giả làm vợ chồng. Có khi tưởng tượng căn hầm là chiếc xe tăng hay con tàu vũ trụ…
Ở trong hầm như sống nơi một thế giới khác, tách biệt với thực tế.
Khi biết đọc sách, tôi tò mò lén lấy sách trong rương ra xem. Sách có cuốn không hợp với lứa tuổi của tôi. Nhưng không có gì để giải trí, tôi vẫn đọc, chỗ nào không hiểu bỏ qua. Đọc nhiều, tôi ghiền chữ, thấy tờ giấy có chữ là tôi nhặt lên đọc.
Ngẫu nhiên mà tâm hồn tôi trộn lẫn hai luồng ý thức khác nhau. Một bên từ bài học, từ trường lớp, từ xã hội đương thời. Một bên từ những câu chuyện thời trước do người lớn kể và từ những cuốn sách cũ, lánh nạn trong căn hầm trú ẩn.
Tôi hiểu biết, suy nghĩ có phần không giống với lứa tuổi của tôi. Tôi như có sống trong thời đại tôi chưa sanh ra.
Nhiều người nói tôi già trước tuổi, có lẽ vì lý do này.
*_
Bao nhiêu năm chiến tranh, bom đạn, chết chóc mà gia đình ông nội tôi, một thầy giáo nghèo, được sống bình an, thấy có tương lai.
Hết chiến tranh, bất hạnh lại bủa vây.
Ông nội tôi bị nghỉ dạy, mất hết mọi khoản thu nhập khi chỉ còn vài năm nữa về hưu.
Bác Ba đồn trú ở Mỹ Tho, quê vợ. Học cải tạo tận ngoài Bắc, tám năm sau mới được thả về nhà. Trải qua nhiều năm khắc nghiệt, gia đình bác đi Mỹ theo diện H.O.
Bác Hai là đại uý quân y, cải tạo chưa đến hai năm. Gia đình bên vợ bác ở Sài Gòn rất giàu, lo vàng cho ông được vượt biên bán hợp pháp. Ghe chưa rời bãi đã bị nổ. Chỉ tìm thấy một phần di thể của bác Hai trên bờ biển.
Sau này, bác Hai gái dẫn hai đứa con nhỏ vượt biên bằng đường bộ, cũng cư trú tại Mỹ.
Chuyện của mỗi người trong gia đình nội tôi, cũng như hầu hết mỗi người trong thời đó đều có thể viết nên một câu chuyện bi ai.
Như mọi gia đình làm viên chức, sống thanh bạch, ông nội tôi không có của cải, ruộng đất.
Tương lai của mọi nhà trông chờ con cái. Đứa lớn đi học, rồi đi làm có lương, nuôi em ăn học tiếp.
Tai trời, ách nước đã huỷ diệt đường sống của mọi nhà.
Ba tôi thất nghiệp một thời gian dài nên vào An Giang, quê của má tôi kiếm kế sinh nhai.
Trước ngày gia đình nhỏ của tôi ra đi, ông nội nói với ba tôi: Nhà mình không có ruộng đất, tài sản gì. Chỉ còn hai rương sách, ba cho con một rương, giữ cái chữ để mà sống lương thiện.
*_
Hơn một năm sau ba tôi về thăm nhà.
Bà nội tôi xoay xở làm bánh, nấu chè gánh đi bán rong theo vỉa hè, ngõ xóm.
Chú Bảy, cô Tám, cô Út đã lớn. Theo tập quán của gia đình, chú Bảy và hai cô vẫn đi học. Hết giờ học hai cô phụ làm bánh cùng bà nội.
Những người phụ nữ thời đó có đức tánh cam chịu, không suy nghĩ sâu xa nhiều.
Nhưng những người đàn ông không được vậy.
Có nhiều ngày ông nội tôi im lặng không nói gì. Lại có lúc ông giận dữ vì những chuyện nhỏ. Ông như nửa điên, nửa tỉnh.
Một gia đình thanh bần nhưng an lạc, bị dòng cuồng lưu lịch sử cuốn trôi vào cảnh bi thương khiến tinh thần ông không thể nào bình yên.
Cái giá phải trả cho hoà bình quá đắt. Những người đàn ông sống sót sau chiến tranh tiếp tục chết trẻ. Không có bom rơi, đạn lạc mà mái ấm gia dình bị tan nát, tiêu điều.
Đã quá lâu rồi ông nội không còn đọc sách, làm thơ nữa.
Sách và chữ không còn là nơi trú ẩn giữa thời bình mà ly loạn này.
Chú Sáu đi làm công nhân đo đạc trên vùng núi cao. Cứ đi vài tháng lại được nghỉ năm, mười ngày.
Về nhà, cả ngày chú ở trong căn hầm trú ẩn.
Hình như chú không ngủ, viết suốt đêm.
Ba tôi về thăm nhà được mấy ngày, thấy vậy không an tâm. Nhưng cũng phải trở vào An Giang, vì ông cũng không thể nào thay đổi được.
*_
Vài năm sau, chú Sáu mất. Tự tử bằng thuốc sốt rét. Chú gục đầu ôm lấy cái rương sách còn lại trong căn hầm trú ẩn, rồi vật vã chạy trốn khỏi cuộc nhân gian.
Từ ngày chú Sáu mất, không ai xuống hầm nữa.
Bà nội gọi người đến tháo dỡ căn hầm để làm nơi nấu chè, làm bánh kẹo.
Ông nội tôi không ngó ngàng đến sách, đến chữ.
Sách bị tịch thu đốt hết nên giấy cũ khan hiếm. Các cô tôi lén ông nội xé sách làm giấy gói xôi, bánh kẹo.
Chữ nghĩa phải mất đi để cái bụng khỏi đói.
Người và chữ không còn nơi dung thân, lánh nạn.
*_
Ba tôi giữ những cuốn giấy vở học trò đầy chữ viết của chú Sáu. Tôi đọc, nhớ có mấy câu:
“Hai bàn tay tôi cong như dấu hỏi
cấu cào vào trang sách
hỏi những con chữ: hạnh phúc ở nơi đâu”.
**********
NGOÀI TRUYỆN
Nhiều năm sau, sách bị tịch thu, đốt được ấn hành lại.
Chữ nghĩa được tái sinh từ bụi tro tàn.
Lại có thêm Internet, mạng xã hội.
Hầm trú ẩn cho người và chữ được phục sinh?