Nơi chắp cánh cho tình yêu âm nhạc Beethoven của tôi

Trương Thị An Na

 Ở Huế, quán café Sông Xanh là quán café để lại cho tôi rất nhiều những yêu thương và kỷ niệm nhất. Đó là một quán café nằm bên bờ sông Hương, mặc dù quán không ở vị trí có đoạn sông đẹp nhất mà chỉ là chỗ khúc sông nhìn ra Đập Đá nhưng lại là nơi mà thời đó chúng tôi có thể vừa ngồi nhấp từng ngụm nhỏ café vừa đung đưa chân trên mặt nước. Lũ học sinh, sinh viên chúng tôi, lúc tan học thích lui tới đây vì nó rất phù hợp với chúng tôi và có một điều đặc biệt là các bản nhạc ở đây lại rất hay. Cũng chính tại quán café này, lần đầu tiên tôi đã được nghe nhạc của Ludwig van Beethoven, nhà soạn nhạc người Đức (1770-1827), đó là bản Für Elise. Fur Elise là một trong những bản nhạc dành cho piano nổi tiếng nhất của Beethoven. Für Elise có nghĩa là Thư gửi Elise, với những giai điệu ngọt ngào, dịu dàng, tha thiết, bản nhạc là những cảm xúc tinh tế, trong sáng và tràn đầy lãng mạn. Bức thư bằng âm nhạc này là khúc tình ca đã mang lại cho chúng tôi, những cô cậu mới chạm vào ngưỡng cửa tình yêu một sự cuốn hút, một niềm say mê thật lạ lùng, khó tả.

Bản nhạc chỉ có một khúc ngắn và cũng chỉ là một tác phẩm nhỏ trong di sản âm nhạc đồ sộ của Beethoven nhưng với tôi nó lại có ý nghĩa vô cùng lớn. Thời đó tôi chỉ mới học những chữ đầu tiên tiếng Pháp và khi thầy cô hỏi “Vous connaissez les compositeurs?” thì ngay lập tức tôi trả lời “Oui, je connais Beethoven, Mozart”. Và nếu thầy cô hỏi “Vous conaissez les musiciens?” thì tôi cũng vẫn trả lời một cách nhanh chóng “Oui, je connais Beethoven, Chopin” trong khi vốn hiểu biết của tôi về Beethoven mới chỉ vẻn vẹn có mỗi bản Für Elise mà thôi.

Cũng nhờ khởi nguồn từ quán café Sông Xanh đó mà sau này tôi đã có thói quen thích đến các quán café cùng bạn bè, thậm chí là cả khi chỉ có một mình. Đi đâu tôi cũng muốn tìm hiểu, khám phá về những sự kiện liên quan đến các quán café được nhiều người yêu thích. Sở thích đó đã giúp tôi biết được những quán café nổi tiếng ở Paris như Les deux Magots, Le café de la Paix, Le café de Flore, La Closerie des Lilas, Le Procope… Dù rằng các quán đó sang chảnh, nổi tiếng đến mấy tôi cũng đã cố để đến đó ít nhất một lần không phải để nghe nhạc như khi còn ở Huế mà đến để tìm lưu dấu của các nhạc sỹ, nhà thơ, nhà văn, hoạ sỹ, ca sỹ nổi tiếng đã từng đến đây. Nhắm mắt lại nhâm nhi li café và tưởng tượng ra nơi đây, tại chỗ này Simoine de Beauvoir và Jean Paul Sartre đang chuyện trò hay Picasso, Jacques Prévert, Appolinaire… đã từng ngồi chỗ kia, chỉ giản dị vậy thôi nhưng điều đó cũng đã mang đến cho tôi những cảm giác vui vui, những niềm thích thú khó tả.

 Khi bước qua tuổi 40 thì tôi chuyển vào sống ở Sài Gòn và niềm yêu thích được ngồi trong những quán café với tôi đã không hề giảm đi mà trái lại ngày càng tăng thêm. Ở Sài Gòn tôi đã từng đến rất nhiều quán café nhưng chỗ mà tôi yêu thích nhất vẫn là quán Thềm Xưa, một cái quán mang hơi hướng của Sài Gòn xưa đúng như tên gọi của nó. Rồi đến quán Cát Đằng (gần nhà tôi) có những cây đại thụ rất to lúc nào cũng có gió mơn man thổi trên vòm lá, tỏa bóng râm mát rượi trong khuôn viên của quán… Du Miên, Miền Đồng Thảo thì phải đi xa hơn nên thỉnh thoảng tôi mới ghé qua nhưng lần nào cũng cảm thấy thích thú bởi ở đó âm nhạc và không khí vẫn đậm chất Sài Gòn một thuở. Và một điều quan trọng là ở đây thường xuyên được nghe lại bản Für Elise của Beethoven. Tôi hiểu thêm là bản nhạc này không quá phức tạp về mặt kỹ thuật, thậm chí người nghệ sỹ có thể chơi nó bằng một tay trên phím đàn piano. Và tôi cũng hiểu rằng, để đạt được những tình cảm dạt dào, sâu lắng, tinh tế và đặc biệt rất trong sáng mà Beethoven đã gửi vào trong bản nhạc là điều không hề đơn giản bởi ông phải có những trải nghiệm đau đớn trong cuộc đời, những cay đắng và nghiệt ngã, những dồn nén tâm tư mới tạo nên được một thứ men đặc biệt để cho ra đời bản nhạc xao xuyến lòng người đến như vậy. Có lẽ vì thế mà lúc này tôi với tư cách người nghe nhạc có một chút trải nghiệm ở tuổi 40 cũng mới bắt đầu hiểu ra rằng, để thể hiện sự hào nhoáng, phô trương thì rất dễ dàng với nhiều người còn để làm nên điều giản dị, trong sáng và khiêm nhường thì thật sự quá khó khăn không phải ai cũng làm được. Phải chăng đó là nguyên nhân để càng ngày tôi càng thấy yêu và thấm thía bản nhạc này hơn. Quả thật, khoảng năm 1810, Beethoven đã sáng tác Thư gửi Elise, khi ông đã ở độ tuổi 40, lúc đó ông đã hoàn toàn bị điếc. Thư gửi Elise đã ra đời trong cái sự hoàn toàn “lặng im” của người nhạc sĩ, đó là giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời ông. Nhưng đúng như bản chất của tình yêu, tình yêu luôn có chiều sâu hơn, đằm thắm hơn, chín chắn và trách nhiệm hơn khi người ta đến một độ tuổi nhất định nào đó. Phải chăng vì thế mà Thư gửi Elise là bản nhạc mang đến sự sâu sắc cũng như sự chiêm nghiệm của người đàn ông đã trải qua bao thăng trầm, cay đắng nhưng vẫn còn nguyên vẹn một tình yêu mãnh liệt và trong sáng trước một cô gái. Một bản nhạc vừa ngắn, vừa đơn giản nhưng người nghệ sỹ dương cầm phải cần rất nhiều thời gian tìm hiểu, học hỏi, tích lũy, cảm nhận mới thể hiện được những dòng âm thanh tuôn trào, mạnh mẽ nhưng vẫn vô cùng sâu lắng, dịu nhẹ và đặc biệt là trong sáng một cách kỳ lạ. Được biết năm 2002, Nas, một ca sĩ nhạc Rap đã dùng Für Elise để làm nhạc nền cho ca khúc rap I Can của mình. Trong album Whitney’s Greatist Hits của ca sĩ Whitney Houston và Deborah Cox, Für Elise cũng đã xuất hiện ở bài Same Script, Different Cast.

Năm 1986-1987, tôi học tại một ngôi trường ở Besançon, chỉ cách Citadelle (Thành Nội) vài bước chân, nằm ngay trung tâm một thành phố nhỏ bên bờ sông Doubs. Citadelle này là một kiệt tác của kiến trúc Vauban đã được UNESCO xếp hạng di sản văn hoá thế giới. Nó chạy bao quanh ôm lấy khúc ngoằn ngoèo của dòng sông Doubs và khi leo lên đó thì sẽ nhìn bao quát được toàn cảnh thành phố xinh đẹp. Tại thành phố này đại văn hào Victor Hugo đã được sinh ra, vì vậy nơi đây là một trong những điểm du lịch khá nổi tiếng của Pháp. Thời gian học ở đây, để trợ giúp cho việc luyện tiếng Pháp tôi đã tậu cho mình một cái radio hình cục gạch và thế là ngày cũng như đêm tôi nghe trên đấy đủ các chương trình. Thời đó ở Pháp các chương trình phát thanh trên radio người ta thường nói nhiều về bản nhạc Symphonie N°9 của Beethoven bởi một năm trước đó, năm 1985 các nhà lãnh đạo EU đã thống nhất dùng bản nhạc này để làm quốc ca chính thức của Liên minh châu Âu. Tôi đã nghe và biết đến bản Symphonie N°9 en ré mineur op 125 cũng chính từ cái radio cục gạch của mình.

Đó là bản nhạc thường được sử dụng trong những dịp nghi lễ trang trọng, nghi lễ quốc gia hay quốc tế. Nó là biểu tượng cho sự sẻ chia, tình đoàn kết, cho khát vọng tự do, hòa bình và thống nhất giữa những con người. Từ khi ra đời đến nay, nhiều thế hệ các nhà soạn nhạc đã luôn luôn xem nó như là một hình mẫu (modèle) tuyệt đối về thể loại này. Bản giao hưởng số 9 có sự độc đáo về hình thức (được ghép thêm một màn đồng ca trong Đoạn kết). Nó đã thực sự gây xúc động mạnh cho người nghe bởi vì nó đã diễn tả được những nỗi khổ đau của con người, đã đưa đến sức mạnh, niềm an ủi, sự khích lệ, động viên cho những ai đang cần nó. Toàn bộ tác phẩm này chính là sự thể hiện tình yêu cuộc sống của nhà soạn nhạc, nó được xem là một trong những kiệt tác của Beethoven nói riêng và của toàn bộ lịch sử âm nhạc thế giới nói chung.

Bản nhạc được Beethoven sáng tác từ năm 1823 cho đến tháng 2 năm 1824 mới kết thúc và được trình diễn lần đầu tại Théâtre an der Wien cùng năm đó. Đây là một bản giao hưởng thật sự gây ấn tượng bởi cấu trúc có một màn đồng ca ở cuối để khép lại tác phẩm. Tất cả các chương đều được quy tụ về một đích chung, đó là niềm vui sẽ trở thành cao trào ở Đoạn cuối (Finale). Chắc chắn đây không phải là một bản giao hưởng “thông thường”, bởi nếu theo dạng truyền thống của thể loại này sẽ được tuân thủ (cấu trúc thành 4 chương) thì độ dài các chương dành cho một bản giao hưởng ở đây lại là gấp đôi. Riêng Đoạn kết đã chiếm một độ dài đáng kể trong cả bản nhạc.

Thời điểm bản giao hưởng này ra đời thì Beethoven đã gần như bị điếc hoàn toàn nhưng ông vẫn có mong muốn mãnh liệt được xuất hiện trong màn trình diễn ra mắt bản nhạc này. Buổi hòa nhạc hôm đó đã được miêu tả lại: “Khán phòng đầy ắp, và đây là Beethoven, ngồi quay lưng lại với công chúng, bên cạnh là Ignaz Schuppanzigh, chỉ huy dàn nhạc vì do việc mất thính giác của thầy. Tác phẩm đã được reo hò náo nhiệt. Khi màn diễn bản giao hưởng kết thúc, Beethoven vẫn đối mặt với dàn nhạc vì ông không nghe thấy tiếng vỗ tay như sấm của khán giả. Caroline Unger, nghệ sĩ đơn ca giọng nữ cao, phải gõ nhẹ vào cánh tay để ông quay lại và có thể nhìn thấy sự tán thưởng của thính giả. Nhiều người kể cả Unger, đã ứa nước mắt khi nhận ra chứng khiếm thính của Beethoven”.

Trong một vài tài liệu khác thì lại cho rằng chính người chỉ huy dàn nhạc hôm đó đã giúp Beethoven quay người lại để ông nhìn thấy sự chào đón của công chúng đối với bản nhạc của mình. Có quá nhiều giả thuyết cho câu chuyện này nên tôi đã tự lý giải cho mình bằng chính việc xem bộ phim có tiêu đề Copyright Beethoven. Đây là bộ phim tâm lý tiểu sử của Mỹ ra mắt năm 2006 của đạo diễn Agnieszka Holland. Bộ phim là sự tiểu thuyết hóa từ cuộc đời của Beethoven, một nhà soạn nhạc lỗi lạc. Phim kể về quá trình gian khổ khi Beethoven sáng tác bản giao hưởng số 9. Trong phim xuất hiện một cô gái trẻ có tên Anna Holtz, là người đến giúp nhà soạn nhạc chép nhạc để hoàn thành bản giao hưởng số 9 và chuẩn bị cho buổi diễn đầu tiên. Không những giúp ông hoàn thành việc chép bản nhạc mà cô còn giúp ông bằng cách ẩn mình trong dàn nhạc và làm điệu bộ của người nhạc trưởng để cho ông nhìn vào các động tác nhịp nhàng theo đôi tay của cô và như thế cô đã giúp Beethoven chỉ huy dàn nhạc và giữ cho dàn nhạc không hề bị lỗi nhịp trong suốt buổi biểu diễn. Khi bản nhạc kết thúc, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt của khán giả cô đã đứng lên, tiến về phía Beethoven rồi xoay người ông lại để ông nhìn thấy những thân thương và quý trọng mà khán giả đang dành cho mình. Anna Holtz là người hâm mộ cuồng nhiệt Beethoven và Beethoven cũng hiểu rõ điều đó khi đã nói với cô rằng «cô muốn trở thành một người như tôi». Cuối cùng bằng sự trân trọng và niềm say mê âm nhạc mà cô dành cho Beethoven thì cô đã chinh phục được ông và ông đã tận tình dạy cho cô về chủ nghĩa lãng mạn, âm nhạc và cho phép cô tự do phát triển theo cách riêng của mình. Cô chính là người ở bên cạnh ông trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời.

Tôi say mê bộ phim này không chỉ bởi sự diễn xuất tuyệt vời của hai diễn viên chính, mà bởi ở đó tôi đã “tận mắt” thấy được thành công cuối cùng và sự cống hiến không biết mệt mỏi cho nền âm nhạc thế giới trong suốt đời mình của Beethoven. Bởi tôi biết rằng ông đã phải trải qua những giờ phút cay đắng, tuyệt vọng, đau thương cả thể xác lẫn tinh thần nhưng với nghị lực phi thường ông đã vượt lên tất cả và để lại cho đời những bản nhạc bất hủ. Sau này, Anna Holtz đã trở thành một nghệ sỹ có phong cách, độc đáo, riêng, khác biệt không giống với bất cứ nhà soạn nhạc nào khác, ngay cả với Beethoven. Từ chi tiết đó, có lẽ bộ phim muốn mang đến cho người xem thông điệp giản dị, một nhà soạn nhạc đúng nghĩa (hay bất cứ ai) thì cũng phải luôn luôn giữ cho được bản sắc của riêng mình như thế.

Đó là bản Symphonie N°9 thế còn bản Symphonie N° 5 và N°7 thì sao?

Vào một dịp nghỉ hè, tôi không nhớ rõ năm nào nhưng chắc chắn là lâu lắm rồi, tôi đến thăm một ngôi làng nằm dưới chân dãy núi Pyrénées của Pháp. Ở đây dân làng thường có thói quen chơi bulle ở các công viên trong khi lũ trẻ con thì chạy nhảy và nô đùa xung quanh. Một hôm đang dạo quanh công viên dưới ánh nắng vàng như mật ong rắc trên vòm lá rồi dừng chân đứng lại xem người ta chơi bulle, bỗng nhiên tôi thấy lũ trẻ con bắt đầu một trò chơi cùng với điệu nhạc Tatatata, Tatatata, Tatatata… nghe rất hân hoan và hồ hởi, điệu nhạc này đã gây được sự chú ý cho tôi. Trở về sau chuyến đi tôi đã tìm hiểu và biết đó là một giai điệu trong bản giao hưởng N°5 của Beethoven. Trời ơi, một bản nhạc cổ điển đã được trình diễn nhiều nhất và ở nhiều nơi trên thế giới kể cả những vùng hẻo lánh người ta cũng biết tới bởi đã có không biết bao nhiêu mĩ từ dành để ca ngợi bản giao hưởng tuyệt vời này, là một trong năm bản được xem là tiên phong, là dẫn đường trong danh mục nhạc cổ điển thế giới cùng với Bốn mùa của Vivaldi, Le Requiem của Mozart, Boléro của Ravel, và Le premier Concerto pour piano của Tchaikovski vậy mà tôi không biết, lúc ấy tôi thấy mình thật kém cỏi về âm nhạc nhưng dù sao tôi cũng kịp hiểu ra vì sao mà những đứa trẻ trong rặng núi Pyrénnées ở một vùng xa xôi hẻo lánh đó cũng có thể biết và hiểu để chơi trò chơi với những giai điệu ở phần mở đầu của bản nhạc, qua đó để thấy được sức hút và sự lan tỏa của nó lớn biết nhường nào.

 Bản Symphonie N° 5 en ut mineur, op 67 (Định mệnh) là tác phẩm được Beethoven sáng tác trong thời kỳ phải nói là khó khăn nhất trong cuộc đời ông, bởi lúc này thính lực của ông đã bắt đầu suy giảm rồi dẫn đến điếc hoàn toàn. Đúng như lời một tác giả đã mô tả về bản nhạc: “Như ánh sánh rực rỡ chiếu xuyên qua màn đêm thăm thẳm, và lúc ấy ta mới nhận ra bóng tối khổng lồ đang lắc lư tới lui đã bao trùm lên ta, huỷ diệt mọi thứ bên trong ta chỉ trừ nỗi đau của niềm khắc khoải vô tận – cái khắc khoải mà trong đó mọi sự ngân lên trong cung bậc hân hoan đều bị dìm xuống và chết lịm, và chỉ qua nỗi đau ấy – cái thống trị nhưng không huỷ diệt tình yêu, hy vọng và niềm vui – ngực ta như muốn nổ tung bởi hơi thở dồn dập trong những hoà âm tràn ngập âm thanh của niềm đam mê, chúng ta bám lấy cuộc sống và trở thành người nắm giữ linh hồn”.

 Quả thực, trong bản giao hưởng số 5 này, Beethoven không cố tìm một cậu chuyện kiều diễm, lãng mạn, vui tươi để kể cho chúng ta nghe mà trái lại Beethoven muốn gửi đến cho người nghe những trạng thái đau đớn của tâm hồn, một niềm đau khắc khoải không thể nguôi dứt cùng với những điều mông lung, diệu vợi không thể nắm bắt được. Đúng như Berlioz đã từng viết “những nỗi đau thầm kín, sự giận dữ cô đọng, những mơ màng đầy buồn bã, một cái nhìn về đêm, những cái đà hăng hái”.

Bản nhạc gồm bốn chương: Nếu như chương thứ nhất gợi ra sức mạnh của định mệnh đang dày vò, đè nén tầm hồn, thì chương thứ hai lại được phát triển trong sự lắng dịu, óng ánh nhưng rồi qua từng giai điệu lại làm cho người ta cảm nhận được sự mạnh mẽ, dường như sắp đến đoạn cao trào. Chương thứ 3 cao lên dần dần trong một dòng xoáy hổn hển, giao động giữa cái nhẹ nhàng và cái trầm lắng trong sự nối kết với việc lặp lại của đoạn thứ nhất. Nhưng vào những phút cuối, lại có cảm giác như tâm hồn đang được toả sáng với sự hân hoan trong niềm vui say sưa của sự chiến thắng. Đó chính là sự hấp dẫn, sự lôi cuốn và điều kỳ diệu của bản giao hưởng này. Nó đã làm cho người nghe không thể cưỡng lại được và cứ thế bị cuốn vào các cao trào từ khúc này đến khúc khác để rồi sau cùng đưa thính giả vươn đến một vũ trụ tinh thần bao la và đầy sự kì bí.

Người ta còn cho rằng, nếu Beethoven còn sống đến ngày nay, chắc ông sẽ là người giàu có vì ông sẽ được hưởng tiền bản quyền cho các tác phẩm âm nhạc của mình. Bởi rất lâu rồi thì từ nhạc chuông điện thoại, cho đến bản in âm nhạc trên các loại túi xách, trên cốc, ô, mũ…, đều được người ta lấy cảm hứng và sử dụng từ các bản nhạc của ông.

Có một điều thú vị và làm tôi vô cùng ngạc nhiên và thích thú, đó là trong cuốn sách Pinok et Barbie của Jean-Claude Grumberg, do Nxb Flammmation phát hành mà tôi vừa dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt có chi tiết liên quan đến bản nhạc này của Beethoven! Cuốn sách nói về một cô gái bé nhỏ nghe theo lời yêu cầu của Tổng thống nước Cộng hoà, người đã kêu gọi và tổ chức “Ngày thế giới chia sẻ toàn cầu”. Đây là ngày mà những đứa trẻ gom góp đồ chơi của mình để gửi tặng cho những em bé ở xứ sở của những người nghèo khổ, nơi mà mỗi khi vỗ lên bụng thì những chiếc răng của họ lại va vào nhau canh cách! Khi cô bé tập hợp tất cả các đồ chơi lại để giải thích và thông báo ai trong số bạn bè của cô sẽ ra đi tham gia “Ngày thế giới chia sẻ toàn cầu” thì Pinok khoái chí biết mình là đồ chơi được cô bé yêu thương nhất nên chắc sẽ không phải ra đi. Cậu ta đắc thắng ngâm nga một điệu nhạc trong bản Symphonie N° 5 en ut mineur, op 67 (Định mệnh) của Beethoven trước buổi họp toàn thể tất cả các đồ chơi. Đó là điệu quen thuộc Tatatata! Tatatata đã hằn sâu trong kí ức tôi! Nhưng rồi giai điệu vui nhộn, đầy khí thế ấy đã không làm cho nó được tiếp tục ở lại với cô chủ nhỏ thân yêu mà nó phải ra đi, dấn thân vào sứ mạng cao đẹp khác là đem niềm vui đến cho những đứa bé đầy bất hạnh ở nơi xa xôi kia, bởi “người ta chỉ cho đi cái mà người ta tự mình muốn nhận”! Lúc dịch đến đoạn này tôi đã vô cùng thích thú nghĩ đến cậu Pinok (chú người gỗ Pinocchio) phải “am hiểu” Symphonie n°5 của Beethoven đến độ nào mới thốt lên được giai điệu Tatatata! Tatatata! Tatatata… tự tin như thế.

Trong đĩa nhạc mà tôi đang nghe, còn có thêm bản Symphonie n°7 en la majeur, op 92. La symphonie n°7 đã thành công rực rỡ cả hai khía cạnh: là xuất sắc về nghệ thuật và nhận được sự yêu thích ngay từ khi mới sáng tác xong của công chúng yêu nhạc. Riêng chương II trong bản giao hưởng này thường được trích ra để biểu diễn riêng biệt. Bản nhạc đã cho thấy một sự táo bạo phi thường của Beethoven về ngôn ngữ. Sự táo bạo đó vừa làm ngạc nhiên rồi chinh phục được những người đương thời vừa góp một phần rất quan trọng tầm ảnh hưởng của Beethoven đối với nhiều thế hệ nhà soạn nhạc trẻ sau ông.

Bản nhạc gồm bốn chương: Chương thứ nhất dài nhất trong tất cả các bản giao hưởng của Beethoven. Nó là bằng chứng cho tài năng và kĩ thuật điêu luyện cũng như việc nắm vững tuyệt đối về cấu trúc của ông. Chương thứ 2 là một trong những đoạn nổi tiếng nhất trong tất cả các tác phẩm của Beethoven. Ở chương này với giai điệu lúc thì toát lên vẻ quý phái, lúc lại làm người nghe như chao đảo, lúc lại mang vẻ âm u của đoạn Allegretto nó như một khúc nhạc của nỗi buồn và sự nhớ nhung. Sang đến chương ba Beethoven lại cho thính giả tìm thấy niềm vui vì đã vượt qua đau khổ, tìm thấy sự thoải mái về tinh thần. Cũng như bản giao hướng số 5, chương cuối tập hợp tất cả tài năng, sức lực của dàn nhạc trong một sự tươi vui hào hứng. Lúc này tất cả hình như chỉ còn là một sự nhẹ tênh, uyển chuyển và say đắm của con tim!

Với âm nhạc của Beethoven thì đàn piano đã trở thành như một dàn nhạc (orchestre) là một nhạc cụ kỳ diệu, một nhân vật thật sự, nó một mình trên sân khấu trước lúc cả dàn nhạc bắt đầu. Đàn Piano có sự uy nghi, oai vệ, luân phiên thống trị và êm dịu, mạnh mẽ và mơ màng, nó hiện diện trong mọi lúc của bản nhạc. Nhờ vào độ vang giàu màu sắc, nó đã thể hiện được những thay đổi của tâm hồn và những nỗi thống khổ của con người. Nó mang sứ mệnh sinh ra và nó cũng tự mình kết thúc âm thanh. Bản concerto pour piano et orchestre n°4 en sol majeur, op 58 et bản Concerto pour piano et orchestra n°5 “l’Empereur” en mi bémol majeur op.73 là minh chứng cho sự tuyệt vời đó.

Bản Concerto pour piano et orchestre số 4 của Beethoven được sáng tác vào năm 1805-1806. Concerto N°4 là bản hay nhất dành cho Piano bởi tính độc đáo của nó nhưng cũng phức tạp nhất từ trước đến nay trong nghệ thuật biểu diễn đối với tất cả các bản Concerto dành cho Piano. Beethoven là nghệ sĩ độc tấu cho bản nhạc này trong buổi ra mắt công chúng năm 1808 tại Théâtre an der Wien. Đó cũng là ​​sự xuất hiện cuối cùng của Beethoven với tư cách là một nghệ sĩ độc tấu với dàn nhạc. Tuy nhiên, sau màn trình diễn đầu tiên đó tác phẩm này gần như đã bị lãng quên. Mãi cho đến năm 1836, bằng tài năng của mình Felix Mendelssohn đã hồi sinh một cách mạnh mẽ đến kinh ngạc cho bản nhạc này.

 Bản Concerto N°4 này gồm 3 chương: Chương 1 cho thấy mối quan hệ gắn bó, bện xoắn, luân chuyển và bổ sung lẫn nhau giữa độc tấu và dàn nhạc đến mức mà người ta không thể nói được bên nào hoà âm cho bên nào. Âm thanh của hai bên hoà quyện vào nhau, làm tăng tầm giá trị cho nhau. Thanh điệu sáng rực, nhịp điệu hăng say, khoáng đạt và thanh thản, những đường nét giai điệu của đàn piano dài và nhẹ càng làm cho sự hài hòa của bản nhạc được nâng lên gấp bội phần. Tất cả đã góp phần làm cho chương này có một sự duyên dáng đến khó tả.

Chương hai, ngắn hơn rất nhiều so với chương một. Nếu trong chương một dàn nhạc chơi dồi dào phong phú, say sưa bao nhiêu thì đến đây chỉ còn một loại đàn dây (cả dàn nhạc ngừng chơi). Giai điệu toát ra một không khí thê lương, u uẩn và tang tóc, tất cả như trầm xuống, trần trụi và đau đớn. Sau cùng đàn Piano đã cất lên với một sự dịu dàng đầy tính thuyết phục. Mặc dù chương này kết thúc trong nỗi buồn nhưng vẫn mang nặng một sự bình yên sâu thẳm ở bên trong.

 Thông thường âm nhạc của Beethoven bao giờ ở chương cuối cũng làm sống lại không khí của sự hào hứng, hăng hái. Chủ đề nêu ra có tính nhanh nhạy, các dàn dây bắt chước piano một cách rộn rã, rồi được piano lặp lại, tô điểm thêm, cuối cùng chia nhau thể hiện một cách vui vẻ những tiết nhạc mỗi lúc mỗi ngắn cho đến khi hoà quyện vào nhau, khi dàn nhạc kết thúc những tiết nhạc của piano và ngược lại! Chương cuối sẽ được triển khai trên cùng một không khí nhẹ nhàng, tươi vui, cho đến đoạn kết rực rỡ.

Bản Concerto số 5 là bản cuối cùng mà Beethoven sáng tác cho Piano từ năm 1809 đến 1811 tại Vienne. Buổi biểu diễn đầu tiên vào năm 1812 tại Vienne. Trong bản concerto này người ta không thể nói dàn nhạc hay đàn piano là “Hoàng đế” thực sự. Bản Concerto số 5, cũng như bản Concerto số 4, khởi đầu bằng màn trình diễn piano một cách bất ngờ. Tuy nhiên được phát triển bằng một khúc dạo đầu dài, tráng lệ, mạnh mẽ làm cho người nghe như đang phải nín thở để theo dõi cho đến khi dàn nhạc phát ra chủ đề của đoạn thứ nhất.

Bản nhạc gồm có ba chương: Chương thứ nhất với độ dài ngoại lệ khác hẳn bình thường, hầu như không có làn điệu, dấu hiệu này cho thấy Beethoven đang muốn nhắm tới cách biểu hiện một mối quan hệ khác giữa bên độc tấu và bên dàn nhạc. Chương thứ hai được phân biệt bởi nhịp điệu trong sáng và thanh bình. Đàn piano trở lại phía trước và những cách phân tiết du dương dường như vạch ra những đường nét tĩnh lặng của một chân trời đã bình yên, nó chứa đựng một niềm hạnh phúc miên man, sâu thẳm. Giống như trong bản Concerto số 4, kết thúc chương cũng gần như trong yên lặng để sau đó lại tiếp nối với chương sau. Phần đầu của chương cuối cùng được thể hiện như là một sự ngẫu hứng dường như đàn piano đã lần tìm mò mẫm bằng các giai đoạn liên tiếp, những nốt của các tiết nhạc hoà âm kết thúc bằng một sự bùng nổ rõ ràng của sự chiến thắng. Cuối cùng coda xuất hiện trên những hồi trống cái, nhanh và dồn dập.

Nếu bộ phim Copyright Beethoven đã phần nào thỏa mãn trí tò mò của tôi về việc ai là người đưa Beethoven quay lại chứng kiến phút giây thành công vang dội của bản Giao hưởng số 9, thì tôi lại thấy xúc động đến nghẹn ngào khi nghe bản Concerto số 5 trong bộ phim có tên Immortel Beloved của đạo diễn Bernard Roé người Mỹ, sản xuất năm 1995. Bộ phim kể lại câu chuyện đi tìm người tình bí ẩn, tình yêu bất diệt của Beethoven từ di nguyện cuối cùng trong bức thư mà ông để lại. Được xem Beethoven (do Gary Oldman thủ vai) chơi chương 1 và thấy được nỗi đau khi ông không còn khả năng chỉ huy và dẫn đến một dàn nhạc hỗn loạn, rồi đến cảnh cô gái là một trong số thính giả trong buổi hòa nhạc hôm đó đã đứng lên dẫn ông ra khỏi khán phòng và đưa ông về nhà. Một cảm giác thương xót đến nghẹt thở khi nghĩ đến việc người sáng tác ra khúc nhạc thiên thần đó lại không nghe được nó, không thưởng thức được nó bởi căn bệnh quái ác của mình.

Trong phần gần cuối của bộ phim, trên màn hình hiện lên bức thư tình bất tử của Beethoven cùng với âm nhạc của chương 2 bản Concerto N°5:

Hãy bình tâm lại đi em hãy yêu tôi như thực tại hôm nay như quá khứ đã qua. Những khát khao mong đợi đầy lệ tôi dành cho em, chỉ riêng em, và duy nhất, cuộc sống của tôi, tất cả của tôi. Tạm biệt em. Ôi em, xin cứ yêu tôi, xin đừng bao giờ trách lầm một trái tim yêu em và thuỷ chung đến thế.

Kết thúc phim người xem cũng không biết ai là người tình trong bức thư của Beethoven nhưng điều đó có còn quan trọng nữa đâu. Chỉ biết rằng hình ảnh người phụ nữ đứng trước ngôi mộ của Beethoven cùng với tiếng thổn thức của những câu cuối cùng trong bức thư kì diệu cùng với tiếng nhạc diệu kì của chương 3 bản Concerto số 5 đã làm lay động, bồi hồi, thổn thức hàng triệu con tim khán giả, hướng họ tới những ước mơ, khát vọng tươi đẹp trong cuộc đời.

Thiên thần của tôi, tất cả cuộc đời tôi, bản thân tôi nữa!

Mãi mãi của em

Mãi mãi của tôi

Mãi mãi của đôi ta.

Nhắc đến Beethoven không thể không nhắc đến những bản sonates tuyệt vời của ông. Ông là orchestrateur đầu tiên về piano. Trong cả ba mươi hai bản sonates dành cho Piano, khi sáng tác dường như ông đều tuân theo quy luật giống như vòng đời của một con người, đúng như Liszt đã nhận xét là “thiếu niên, đàn ông, về trời (le dieu)”. Các bản sonate đã được Beethoven sáng tác dàn trải gần như trong suốt cuộc đời mình, lúc hai mươi tuổi ông bắt đầu viết bản đầu tiên và ở tuổi năm mươi hai (năm năm trước khi mất) ông đã hoàn thành bản sonate cuối cùng (số 32, op 111). Từ khi còn là một chàng trai trẻ cho đến khi ông trở về với cát bụi, tất cả những bản giao hưởng của ông đều xoáy vào chủ đề CON NGƯỜI. Haydn, một người thầy của Beethoven đã từng nói với ông rằng “Cậu đã làm cho ta có cảm giác một con người có nhiều đầu, nhiều trái tim và nhiều tâm hồn”.

Tôi có bảy đĩa nhạc vidéo với tiêu đề là Les trésors du piano (Những kho báu của đàn piano) trong đó có hai đĩa là nhạc của Beethoven do Claudio Arau biểu diễn. Ông là một trong những nghệ sỹ dương cầm nổi tiếng trong thế kỷ 20.

Đĩa thứ nhất bao gồm các bản:

Sonate pour piano n°13 en mi bémol majeur, op 27 n°1 Quasi una fantasia

Sonate pour piano n°30 en mi majeur, op 109

Sonate pour piano n°23 en fa mineur, op 57 Appassionata

Sonate pour piano n°14 en do dièse mineur, op 27 n°2 Au Clair de Lune

Sonate pour piano n°26 en mi bémol majeur, op 81a Les Adieux

Đĩa thứ hai bao gồm:

Sonate pour piano n°21 en do majeur, op 53 Waldstein

Sonate pour piano n°3 en do majeur, op 2, n°3

Sonate pour piano n°32 en do mineur, op 111

Bản Sonata quasi una Fantasia được Beethoven sáng tác vào năm 1801, sau khi ông mất, một nhà thơ – nhà phê bình âm nhạc của Đức đã đặt cho nó một tên khác là bản sonate Ánh trăng, kể từ đó đây là tên gọi chính thức của bản nhạc này. Bố cục của bản nhạc rất khác biệt, không tuân theo kiểu sắp xếp nhanh–chậm–nhanh truyền thống của thể loại sonata của giai đoạn đó mà nó lại sử dụng các giai điệu có âm hưởng mạnh dần, giữ nhịp điệu nhanh cho đến tận cuối tác phẩm. Ngay khi mới ra đời nó đã là bản nhạc được rất nhiều người yêu thích. Theo một số tài liệu thì bản nhạc được nhiều người say mê và phổ biến đến mức làm cho Beethoven cũng phải bực mình. Ông đã từng nói với học trò Czerny của mình rằng: “Thầy còn viết nhiều bản hay hơn thế”, vậy tại sao người ta lại cứ phải nhắc mãi về bản sonate đó. Cho đến ngày nay, nó cũng vẫn là bản nhạc nổi tiếng và được yêu thích nhất của Beethoven dành cho đàn piano.

Tôi đã nghe bản sonate Ánh trăng rất nhiều lần, nhưng sẽ chẳng bao giờ quên được một buổi chiều trên bãi biển, cát trắng trải dài mênh mông, xung quanh vắng lặng, vầng trăng non bắt đầu nhô lên trên mặt nước, nhìn trăng trên biển bỗng dưng âm hưởng bản sonate Ánh trăng của Beethoven văng vẳng bên tai tôi. Rồi cứ thế lặng người với cảm giác ngất ngây, đê mê đến tê dại khi được ngụp lặn trong nước cùng giai điệu bản sonate Ánh trăng của nhà soạn nhạc thiên tài Beethoven đang tuôn chảy, lúc dịu dàng, lúc mạnh mẽ, lúc chậm rãi, lúc gấp gáp hoà quyện với tiếng sóng biển vỗ nhịp rì rào dưới ánh trăng mờ tỏ. Phải nói rằng, nghĩ đến âm hưởng của bản nhạc này với một khung cảnh biển trời thanh bình như thế, huyền ảo như thế mới thực sự cảm nhận được trọn vẹn giai điệu tuyệt vời của bản nhạc bất hủ đó.

Cứ mãi mơ màng, đắm chìm trong cảm giác lâng lâng hạnh phúc, âm hưởng của bản nhạc dừng lại trong tôi lúc nào tôi cũng không biết nữa, chỉ biết rằng lúc này mặt trăng đã lên cao, nước biển thì lấp lánh huyền ảo bởi ngập tràn với vô vàn ánh trăng dịu hiền đang tỏa xuống. Bỗng dưng tôi lại nhớ đến một đoạn trong tiểu luận triết học của tác giả Hamvas Béla đã viết: “Nhạc của Beethoven lừa âm thanh ra khỏi nơi ẩn nấp của chúng. Hung tợn xé tan giẫm đạp âm thanh từ nơi chúng trú ẩn và nuôi dưỡng, hớp hơi thở đầy ắp những âm thanh là âm thanh, lôi chúng lên từ vực thẳm, nơi chúng rơi xuống, từ đá, từ biển, từ đất, từ linh hồn, từ những ngôi sao, từ thế giới bên kia, một cách say đắm điên cuồng, căng thẳng, tan hoà chúng một cách tàn bạo, ngất ngây, xô đẩy, hất chúng về phía trước. Những gì còn lại sau đấy không đáng kể”.

Dẫu biết mình là kẻ ngoại đạo trong làng âm nhạc, chỉ biết nghe, biết cảm và biết yêu những bản nhạc theo cảm xúc của riêng mình. Nhưng âm nhạc của Beethoven với Concerto N°4, Concerto số 5, Symphonie n°7, Symphonie N°9, các bản sonates và đặc biệt là sonate Ánh trăng… đã giúp tôi – kẻ nguyện suốt đời làm hành khất cho âm nhạc – có những giây phút hạnh phúc được đắm hồn mình qua từng bản nhạc, theo từng giai điệu, với những cung bậc cảm xúc lãng mạn, vui, buồn, khổ đau, hạnh phúc, sung sướng. Có một điều vô cùng quý giá không thể đong đếm được, đó là, sau tất cả tôi đã nhận ra mọi thứ rõ ràng hơn, để biết yêu thương hơn, trân trọng hơn những con người, những cuộc đời xung quanh mình!

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.