Chủ nghĩa tư bản, một mình (kỳ 6 – hết)

Branko Milanovic

Nguyễn Quang A dịch

image

5.1 Tính Phi Đạo đức Không thể tránh khỏi của Chủ nghĩa tư bản được siêu-Thương mại hóa

5.1a Chủ nghĩa tư bản của Max Weber

Chủ nghĩa tư bản có một mặt sáng và một mặt tối.

Những quan sát về mặt sáng quay lại ít nhất đến [luận đề] “doux commerce (thương mại ôn hòa)” của Montesquieu và được lặp lại, trong hình thức tương tự, bởi các tác giả khác nhau như Adam Smith, Joseph Schumpeter, Friedrich Hayek, và John Rawls.1 Ý tưởng chung là bởi vì trong các xã hội thương mại thành công (tức là, việc kiếm tiền) phụ thuộc vào việc làm hài lòng những người khác, đưa ra cho họ cái gì đó họ vui lòng để mua hay để trao đổi lấy, đặc điểm của sự dễ chịu tỏa khắp tất cả hành vi con người và lan từ các thương vụ kinh doanh vào các tương tác cá nhân. Mặt sáng, “adoucissement des moeurs” (làm dịu cách cư xử), trở nên thậm chí mạnh hơn với sự hàng hóa hóa đời sống bình thường của người dân. Trong các xã hội tư bản chủ nghĩa đã phát triển, nhiều trong số các giao dịch hàng ngày của chúng ta có một động cơ thúc đẩy hám lợi, thầm kín. Và trong khi điều này là cái gì đó đôi khi làm trống rỗng ý nghĩa truyền thống của các giao dịch như vậy (và như thế có thể là mặt tối của các xã hội được thương mại hóa), nó cũng làm cho chúng ta ứng xử đối với những người khác với sự cân nhắc và tôn trọng. Khi phạm vi của các quan hệ giao dịch mở rộng, cũng thế là phạm vi của sự dễ chịu—sự thỏa hiệp và sự nhận biết các sở thích và các lợi ích của những người khác. Trong một xã hội được thương mại hóa, chúng ta tương thuộc vào nhau: chúng ta không thể thỏa mãn các lợi ích của mình mà không cũng thỏa mãn các lợi ích của những người khác. Người làm bánh mỳ của Adam Smith không thể bán bánh mỳ của mình trừ phi thuyết phục các khách hàng của mình rằng nó là tốt hơn các bánh mỳ khác. Tất cả điều này làm chúng ta lịch sự hơn và biết rõ về những người khác và nhu cầu của họ.

Các xã hội thương mại thuần túy theo định nghĩa là các xã hội nơi các hệ thống thứ bậc, hay những sự phân biệt giữa những người dân, không dựa vào các tiêu chuẩn ngoài-kinh tế như bối cảnh gia đình của người ta hay tư cách thành viên trong một trật tự xã hội (thí dụ, tầng lớp quý tộc hay giới tăng lữ), hay thậm chí kiểu công việc người ta làm (mà, chẳng hạn, trong đạo Hindu được dùng để phân tầng dân cư). Hệ thống thứ bậc dựa đơn giản vào thành công tiền tệ, và thành công như vậy về nguyên tắc là mở cho tất cả mọi người. Như tôi đã lập luận trong Chương 2, nó không mở ngang bằng cho mọi người trong thực tiễn, nhưng về mặt ý thức hệ nó là. Chẳng gì sẽ làm mất tư cách của những người bắt đầu từ dưới đáy của kim tự tháp xã hội và tìm được cách để trở nên giàu khỏi việc nhận được sự tôn trọng từ những người ngang hàng của họ nhiều như nếu giả như họ bắt đầu từ giữa hay từ đỉnh. Họ thậm chí nhận được sự công nhận nhiều hơn bởi vì những khó khăn họ đã vượt qua. Tiền là một bộ san bằng vĩ đại, và các xã hội thương mại cung cấp ví dụ hay nhất về sức mạnh của nó.

Sự làm ngang bằng cơ hội từ từ cho những người có giới tính, sở thích tính dục khác nhau, những người khuyết tật, và các chủng tộc làm cho có thể thêm nữa cho các thành viên của các nhóm thiệt thòi trước kia để đạt được các vị trí đỉnh cao. Còn quan trọng hơn cho các mục đích của chúng ta, các cá nhân này không mang theo bất cứ điều sỉ nhục nào từ vị trí thiệt thòi trước đó của họ: một khi họ đã trở nên giàu họ là tốt như bất kể ai khác. Điều này, tôi nghĩ, là rõ rệt nhất ở Hoa Kỳ, nơi đôi khi được nói rằng sự giàu có hoạt động như một hình thức tẩy sạch. Tiền “rửa” tất cả “các tội lỗi” trước.

Khi hệ thống thứ bậc được xác định chỉ bởi sự giàu có, một cách tự nhiên nó dẫn người dân tập trung vào việc kiếm của cải. Như Rawls viết: “Hệ thống xã hội định hình các nhu cầu và khát vọng mà các công dân của nó sẽ có. Nó xác định một phần loại người họ muốn trở thành cũng như loại người họ là” (1971, 229). Sự theo đuổi mang tính hệ thống, duy lý của sự giàu có kể từ Max Weber đã được định nghĩa như thế, một trong những đặc trưng xã hội học then chốt của chủ nghĩa tư bản. Ngay cả “sự mưu cầu hạnh phúc,” một sự thêm vào quan trọng cho Tuyên ngôn Độc Lập Mỹ (mà Jefferson đưa vào thay cho tài sản trong thành ngữ phổ biến hơn “cuộc sống, tự do, và sự bảo vệ tài sản”), đã có thể được xem như một lời kêu gọi cho sự theo đuổi sự giàu có không bị cản trở— không bị cản trở bởi những sự đánh bẫy phong kiến lỗi thời của địa vị và dòng dõi—bởi vì của cải, không phải không hợp lý, được xem như một proxy [đại diện] (hay một đòi hỏi chính) cho hạnh phúc.2 Rằng một sự theo đuổi của cải như vậy sẽ làm tan rã hệ thống thứ bậc ngoài-kinh tế giữa nhân dân đã được Adam Smith lưu ý sớm trong Theory of Moral Sentiments. Smith cũng đã lưu ý, trong cùng công trình, rằng có một mối nguy hiểm là sự chuyên tâm theo đuổi của cải này có thể kết thúc trong việc khuyến khích hành vi phi đạo đức. Đấy là vì sao Smith đã bất đồng kịch liệt, nhưng không hoàn toàn thuyết phục với quan điểm của Bernard Mandeville về kinh tế học, được tóm tắt khéo trong tiêu đề của cuốn sách của ông “private vices, publick benefits (tật xấu tư nhân, lợi ích công)”—mà không phủ nhận rằng hệ thống của “Dr. Mandeville … trong một số khía cạnh giáp ranh sự thật.”3

Và việc này dẫn chúng ta đến mặt tối.

“Tật xấu tư nhân, đức hạnh công cộng”

Trong thực tế, Mandeville đã để ý rất sớm và rất giỏi cái là đặc điểm phân biệt của các xã hội được thương mại hóa mới. Thành công phụ thuộc vào việc khích thích trong các cá nhân hành vi ích kỷ và tham lam nhất—hành vi đã được “làm dịu đi” và che giấu qua nhu cầu để là dễ thương đối với những người khác, nhưng có khuynh hướng tạo ra sự lừa dối và đạo đức giả. Như thế sự tham lam và đạo đức giả đi đôi với nhau. Smith đã thấy mối nguy hiểm, lo rằng một sự hiểu theo nghĩa đen về tinh thần của chủ nghĩa tư bản có thể dẫn đến sự thoái hóa đạo đức hay sự tương đương đạo đức của cách kiếm được của cải—mà đối với một triết gia đạo đức như Smith là ghê tởm. Ông đã thử bác bỏ Mandeville. Nhưng tôi không chắc ông đã thành công—không chỉ bởi vì ông đã thiếu lý lẽ thuyết phục, mà bởi vì (tôi nghĩ) bản thân Smith, chí ít khi ông đội mũ nhà kinh tế học của ông trong Wealth of Nations, đã không hoàn toàn tin rằng sự thấu hiểu then chốt của Mandeville là sai (xem cả thảo luận trong Phụ lục B).4

Đối với Marx, sự tham lam là một sản phẩm của một “sự phát triển xã hội cá biệt”; nó mang tính lịch sử, không phải tự nhiên. Nó liên kết gắn bó với sự tồn tại của tiền. Trong đoạn đáng chú ý từ Grundrisse [Đề cương (phê phán kinh tế chính trị học] trong đó Marx định nghĩa sự tham lam như “chủ nghĩa khoái lạc trừu tượng” đáng được trích đầy đủ:

Bản thân sự tham lam, như một hình thức cá biệt của một nỗ lực, tức là, như khác biệt với một sự khao khát cho một hình thức của cải cá biệt, thí dụ, cho quần áo, vũ khí, phụ nữ, rượu vang là có thể chỉ khi sự giàu có chung … được cá nhân hóa trong một thứ cá biệt … tiền. Vì thế tiền không chỉ là đối tượng mà là cội nguồn của sự tham lam. Thói cuồng sở hữu là có thể mà không có tiền; nhưng bản thân sự tham lam là một sản phẩm của một sự phát triển xã hội cá biệt, không phải tự nhiên, như trái ngược với tính lịch sử.… Chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) trong hình thức chung của nó và tính keo kiệt là hai hình thức cá biệt của sự tham tiền. Chủ nghĩa khoái lạc trong sự trừu tượng giả định trước một đối tượng mà có tất cả sự khoái lạc trong tiềm năng. Chủ nghĩa khoái lạc trừu tượng thực hiện chức năng của tiền mà trong đó nó là đại diện vật chất của sự giàu có.… Nhằm để duy trì nó như thế, nó phải hy sinh tất cả mối quan hệ với các đối tượng của các nhu cầu cá biệt, phải kiêng, nhằm để thỏa mãn nhu cầu của sự tham tiền với tư cách như thế. (Marx 1973, 222–223)

Có ít sự hoài nghi, tôi nghĩ, rằng Marx sẽ coi sự tham lam như một sự đi cùng cần thiết của sự hàng hóa hóa tăng lên của đời sống.

Một thay thế khả dĩ (alternative) mà bảo toàn tinh thần hám lợi cần cho sự hưng thịnh của các xã hội được thương mại hóa nhưng sẽ giữ tinh thần đó trong sự kiểm soát là để nội hóa (internalize) các hình thức nào đó của hành vi có thể chấp nhận được qua tôn giáo. Đấy là vì sao Đạo Tin Lành, trong sự hiểu của Weber về nó, không chỉ tương quan với thành công tư bản chủ nghĩa mà là không thể thiếu được cho việc duy trì các cố gắng mặt khác không thể hiểu nổi của các nhà tư bản (sự làm việc và sự kiếm được của cải của họ mà không tiêu thụ nó), sự đúng mực của các giai cấp thượng lưu, và sự chấp nhận các kết cục bất bình đẳng bởi quần chúng.5 Nó tránh sự phô trương và hành vi thô thiển mà đã đặc trưng cho các elite trước đó. Nó đã khắc khổ: nó đã hạn chế sự tiêu dùng của các elite và đã áp đặt các giới hạn về bao nhiêu của cải được phô trương. Nó nội hóa các quy luật chi tiêu của quá khứ.6 Như John Maynard Keynes nhận xét trong Ecomomic Consequences of the Peace [Các Hệ quả Kinh tế của Hòa Bình] (1919), chủ nghĩa tư bản thế kỷ thứ mười chín ở nước Anh đã bảo đảm sự chấp nhận dân chúng đủ về hệ thống thứ bậc địa chủ-người lao động tư bản chủ nghĩa nên xã hội đã không nổ tung trong một cuộc cách mạng thuộc loại đã nhấn chìm các xã hội phong kiến, hết xã hội này đến xã hội khác, ở Pháp, Trung Quốc, Nga, Đế chế Habsburg, và Đế chế Ottoman.7 Chừng nào các nhà tư bản sử dụng hầu hết thu nhập thặng dư của họ để đầu tư thay cho tiêu thụ, khế ước xã hội có hiệu lực.8 Sự nội hóa hành vi đáng mong muốn, hành vi mà, theo lời của John Rawls, khẳng định lại các niềm tin chính của một xã hội trong các hành động hàng ngày của nó, đã là có thể nhờ các ràng buộc của các xã hội và khế ước xã hội ngầm. Là không rõ nếu các xã hội tận tâm đến vậy cho việc đạt được của cải, hầu như bằng bất cứ phương tiện nào, sẽ không nổ tung thành hỗn loạn giả như không có các ràng buộc này.9

5.1b Đạo lý Thuê ngoài (Outsourcing Morality)

Chẳng cái nào trong hai ràng buộc này (tôn giáo và một khế ước xã hội ngầm) có hiệu lực trong chủ nghĩa tư bản được toàn cầu hóa ngày nay.

Không phải là mục đích của cuốn sách này để giải thích vì sao thế giới đã trở nên ít mộ đạo hơn, ít nhất liên quan đến hành vi kinh tế, tôi cũng chẳng có đủ hiểu biết để làm vậy. Nhưng không nghi ngờ gì nó đã ít hơn. Trong hầu hết các nước tiên tiến, sự tham dự tại các nhà thờ Kitô giáo đã giảm đều đặn, và số người nói họ không có tôn giáo nào đã tăng lên.10 Điều này không để nói rằng bản thân sự tham dự ở nhà thờ sẽ bảo đảm hành vi có đạo đức, đặc biệt bởi vì các tôn giáo ngày nay nói tương đối ít về cái gì tạo thành hành vi kinh tế đúng đắn. Một số mục sư, như Billy Graham, thậm chí ca ngợi sự tham lam như một đức hạnh.11 Nhà thuyết giáo Mỹ Pat Robertson đã bình luận ngay sau vụ giết kinh khủng nhà báo Saudi Jamal Khashoggi trong năm 2018 rằng người ta không nên quá cứng rắn với chế độ Saudi (được cho là những kẻ giết người) bởi vì “chúng ta đã có một thương vụ vũ khí mà mọi người đều muốn một mẩu của [nó] … sẽ có rất nhiều việc làm, rất nhiều tiền đến két của chúng ta. Nó không phải là cái gì đó bạn muốn nổ tung dù muốn hay không.”12 Thí dụ này là hết sức cực đoan bởi vì sự kêu gọi bỏ qua sự giết người được đưa ra nhân danh thu nhập lớn hơn từ sự bán vũ khí. Nhưng nó là đại diện của một tôn giáo đặt sự kiếm tiền, bằng bất cứ phương tiện nào, vào giữa các giá trị cao nhất của nó.

Là khó để xem, ngay cả về mặt lý thuyết, các ràng buộc của tôn giáo và một khế ước xã hội sẽ hoạt động thế nào trong một khung cảnh được toàn cầu hóa, không chỉ bởi vì các tôn giáo là đa dạng và nhiều đã nội hóa các mục tiêu của chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa, mà cả bởi vì các cá nhân cảm thấy bối rối từ các khung cảnh xã hội của họ.

Các hành động của chúng ta không còn “được theo dõi” bởi những người sống quanh chúng ta nữa. Các hành động kinh doanh phi đạo đức của người làm bánh mì của Adam Smith đã được các hàng xóm của ông quan sát. Nhưng các hành động phi đạo đức của những người làm việc ở một nơi và sống ở một nơi hoàn toàn khác—với thế giới của những người cùng làm việc và thế giới của các hàng xóm và bạn bè chẳng bao giờ tương tác—là không thể quan sát được. Trong cuốn sách của ông Capital: The Eruption of Delhi [Tư bản: sự Phun trào của Delhi] (2015), Rana Dasgupta kể một câu chuyện về một bác sĩ đáng kính sinh-ở-Ấn Độ, sống trong một khu giai cấp-trung lưu ở Toronto, đầy đủ với một vườn xinh đẹp và một garage hai xe—nhưng thu nhập chính của ông đến từ việc giám sát việc thu hoạch bằng vũ lực các cơ quan nội tạng từ dân nghèo sống ở khu ổ chuột gần Delhi xa hàng ngàn dặm. Ông bác sĩ có thể được xem như một thành viên trung thực của cộng đồng, hoàn toàn đúng, từ những gì các hàng xóm của ông biết về ông, còn trong thực tế ông là một kẻ phạm tội.

Vì các cơ chế ép buộc bên trong đã teo đi hay chết hay không hoạt động trong môi trường được toàn cầu hóa, chúng đã được thay thế bởi các ràng buộc bên ngoài, trong hình thức của các quy tắc và luật. Tôi không muốn nói rằng các luật đã không tồn tại trước đó. Nhưng trong khi các ràng buộc được nội hóa lên hành vi là quan trọng, cả các luật và các hạn chế tự-áp đặt đã tác động đến hành vi của người dân. Tình hình hiện thời được đặc trưng bởi sự biến mất của cái sau. Trong những trường hợp nơi chúng ta không thể kỳ vọng những người giàu cư xử hợp với đạo lý hay với sự thận trọng đủ để không kích động sự giận dữ trong những người có ít hơn, sự thực thi luật rõ ràng là một thứ tốt.13 Trong một bài giảng 2017, sử gia chính trị Pierre Rosenvallon đề xuất rằng các nước nên đưa vào một phiên bản được hiện đại hóa của các luật chi tiêu mà hoặc đánh thuế nặng hay cấm một số kiểu nào đó của hành vi và tiêu dùng. Vấn đề là thay cho hai tay vịn để giúp giữ các hoạt động của những người giàu (hay bất kể ai, liên quan đến điều đó) trên con đường đúng, bây giờ chúng ta chỉ có một tay vịn—các luật. Đạo đức, đã bị moi ruột bên trong, đã trở nên hoàn toàn được ngoại hiện. Nó đã được bản thân chúng ta thuê ngoài cho xã hội nói chung.

Không quy tắc được nội hóa nào về hành vi

Nhược điểm của việc thuê ngoài (outsourcing) đạo đức là nó làm trầm trọng thêm vấn đề gốc về sự vắng mặt của những sự kiềm chế hay các ràng buộc bên trong. Tất cả mọi người hoặc sẽ thử giữ cân bằng giữa sự hợp pháp và sự bất hợp pháp (làm các thứ phi đạo đức nhưng hợp pháp về mặt kỹ thuật) hay sẽ vi phạm luật trong khi cố để không bị bắt. Việc vi phạm luật không phải là độc nhất cho các xã hội được thương mại hóa ngày nay. Nhưng cái độc nhất là cho người dân để cho rằng họ đã làm mọi thứ theo cách đạo đức nhất có thể nếu họ đã vẫn chỉ ở bên đúng của luật, hay, nếu họ đã lạc vào sự bất hợp pháp, thì là việc của những người khác để tóm họ và chứng minh họ đã vi phạm luật. Những sự kiểm soát bên trong, xuất phát từ niềm tin riêng của người ta vào cái gì là hợp đạo lý và cái gì là không, có vẻ không đóng vai trò nào.

Điều này là rõ ràng nhất trong thể thao được thương mại hóa, nơi quan niệm kiểu-cổ về chơi đẹp, mà đã nội hóa cách cư xử có thể chấp nhận được, gần như đã biến mất và đã được thay thế bằng hành vi mà trong một số trường hợp công khai vi phạm các quy tắc. Hành vi như vậy hoàn toàn được chấp nhận và thậm chí được khuyến khích, vì người ta tin rằng phụ thuộc một mình vào các trọng tài để thi hành các quy tắc. Hãy xét thí dụ 2009 về bàn thắng bóng đá nổi tiếng bằng tay của Thierry Henry, mà đã cho phép đội tuyển Pháp đủ tiêu chuẩn vào World Cup và đưa đội tuyển Irish về nước. Không ai, từ Henry đến cổ động viên Pháp cuối cùng, phủ nhận rằng bàn thắng đã là bằng tay, rằng nó là bất hợp pháp, và rằng nó không được phép có giá trị. Nhưng họ không rút ra các hệ quả hiển nhiên. Theo ý kiến của tất cả mọi người vấn đề đã không được quyết định bởi Henry (chẳng hạn, bằng việc anh nói cho trọng tài rằng bàn thắng là không hợp pháp) hay bởi các đồng đội của anh (làm cùng thứ), mà chỉ bởi trọng tài. Một khi trọng tài, không thấy bàn thắng được ghi thế nào, đã chấp nhận nó, bàn thắng là hợp pháp như nó có thể là, và không có sự xấu hổ nào trong việc ăn mừng nó. Hay thậm chí sự khoe khoang về nó.

Sự xung đột giữa cái hợp pháp và cái hợp đạo đức được minh họa khéo trong một câu chuyện được Cicero kể, và gần đây được Nassim Taleb kể lại trong Skin in the Game (2018). Nó liên quan đến Diogenes xứ Babylon và học trò của ông Antipater xứ Tarsus, những người bất đồng về vấn đề sau đây: Nhà buôn đang đưa ngũ cốc đến Rhodes vào lúc khan hiếm và giá cao có nên tiết lộ rằng một tàu khác từ Alexandria, cũng chở ngũ cốc, sắp đến Rhodes? Từ quan điểm thuần túy pháp lý, Diogenes biện hộ, là hoàn toàn có thể chấp nhận được để không tiết lộ thông tin riêng tư—hơn nữa, thông tin mà không ai có thể chứng minh người sở hữu nó. Nhưng từ quan điểm đạo đức, Antipater biện hộ, là không [thể chấp nhận được]. Tôi nghĩ, có ít nghi ngờ rằng lập trường trước được tất cả những người trong thế giới kinh doanh ngày nay chấp nhận. Cho dù họ có thể nói bằng miệng rằng họ theo Antipater, thực ra họ cư xử như Diogenes. Và hành vi là cái quan trọng, không phải những gì chúng ta nói về chúng ta nên cư xử thế nào.

Việc thuê ngoài đạo đức qua sự dựa chỉ vào luật có nghĩa rằng tất cả mọi người đều thử chơi xỏ hệ thống. Bất kể luật nào được đưa ra để trừng phạt các hình thức mới của hành vi trái đạo đức hay phi đạo đức sẽ luôn luôn là một bước đằng sau những người có khả năng tìm được cách lách chúng. Sự giải điều tiết (deregulation) tài chính và sự tránh thuế cung cấp các thí dụ tuyệt vời. Không có quy tắc đạo đức nội tại nào, như chúng ta đã thấy dư dả, mà sẽ kiểm soát hành vi của các ngân hàng chóp bu và các quỹ tự bảo hiểm (hedge fund), hay của các công ty như Apple, Amazon, và Starbucks, khi liên quan đến trốn thuế hay tránh thuế; hay hành vi của những người giàu, mà che giấu của cải của họ khỏi các nhà chức trách thuế, một phần hợp pháp và một phần bất hợp pháp, tại Đảo Caribbea hay các Đảo Channel. Mục tiêu của họ là để chơi trò chơi càng sát các quy tắc càng tốt, và nếu các quy tắc cần bị bẻ cong hay bỏ qua, để thử tránh bị tóm. Và nếu bị tóm, để thử, bằng việc dùng đội luật sư, tìm những giải thích tối nghĩa và có vẻ hợp lý nhất cho hành vi này. Và nếu điều đó thất bại, thì dàn xếp.

Những sự dàn xếp tài chính truyền bá tính phi đạo đức xa hơn: bên bị hại phải chọn giữa, một mặt, niềm vui của sự tức giận chính đáng và sự thỏa mãn trong việc trừng trị kẻ côn đồ, và, mặt khác, nuốt sự tự hào của họ và chấp nhận một sự đền bù tiền bạc mà làm cho họ thành các tòng phạm ở chừng mực nào đó trong hành vi sai trái. Đấy là thủ tục chuẩn mà bằng cách đó những người bị cáo buộc về quấy rối tình dục, trốn lậu thuế, vận động hàng lang phi pháp, và một số tội phạm khác “giải quyết” các vấn đề của họ—tức là, nếu họ có bao giờ đến giai đoạn nơi hình thức trừng phạt nào đó đe dọa bị đòi hỏi. Việc mua bên bị thiệt hại, thường bằng việc mua sự im lặng của họ, là một lựa chọn mà là khó cho những người được chào mời để bác bỏ. Vì sự lựa chọn là gì: sự thỏa mãn đạo đức mà trong vòng vài ngày sẽ bị quên đi, hay có nhiều tiền hơn? Hơn nữa, sự dàn xếp không phải không được tán thành về mặt xã hội: nó được coi như một nước đi duy lý, như chúng ta sẽ kỳ vọng trong một xã hội được thương mại hóa.

Tôi đã gặp những người vui vẻ chấp nhận “bị sa thải”—dù bởi vì họ đã tạo ra các vấn đề cho người sử dụng lao động của họ hay là quá nổi bật để bị sa thải thẳng thừng—với điều kiện rằng họ được trả hậu hĩnh và sẽ không bao giờ tiết lộ các chi tiết của thỏa thuận. Có vài thứ gây khó chịu hơn khi một người bạn nói một sự dối trá rành rành về các lý do vì sao và dưới các điều kiện nào anh đã rời việc làm của mình; nhưng anh ta không có lựa chọn nào trừ để nói dối bởi vì sự dàn xếp đòi hỏi anh ta lặng thinh về cái gì đã xảy ra. Hay khi một người viết toàn bộ một cuốn sách ác ý với một tổ chức nhưng không với tổ chức khác rất giống tổ chức cô ta đã làm việc cho, bởi vì cô ta được trả một khoản dàn xếp mà cấm cô thảo luận bất cứ thứ gì về việc làm trước kia của cô.

Nhưng là sai để phê phán hành vi như vậy trong các cầu thủ bóng đá, các ngân hàng, các hedge fund, các cá nhân giàu, hay thậm chí bản thân chúng ta bằng việc cho rằng những người tham gia vào nó là khiếm khuyết về đạo đức. Cái những người đưa ra một phê phán như vậy không thấy là họ đang phê phán triệu chứng và không phải căn bệnh. Trong thực tế, hành vi đạo đức như vậy là cần thiết cho sự sống sót trong một thế giới nơi mọi người thử kiếm được càng nhiều tiền càng tốt và để leo lên cao hơn trên kim tự tháp xã hội. Bất kể hành vi thay thế nào có vẻ tự-chuốc lấy thất bại.

Khi tiền đã trở thành tiêu chuẩn duy nhất theo đó thành công được đánh giá (như đúng thế trong các xã hội được siêu-thương mại hóa), các dấu hiệu thứ bậc (hierarchical marker) khác biến mất (mà nói chung là một thứ tốt), nhưng xã hội cũng gửi thông điệp rằng “là giàu là vinh quang,” và rằng các phương tiện được dùng để đạt vinh quang phần lớn là không quan trọng—chừng nào người ta không bị tóm khi làm cái gì đó bất hợp pháp. Như thế, việc phê phán những người giàu hay các ngân hàng vì những gì họ đang làm là vô ích và ngây thơ. Vô ích bởi vì họ sẽ không thay đổi hành vi của họ, vì làm vậy sẽ có thể bị rủi ro mất của cải của họ. Ngây thơ bởi vì nguồn gốc của vấn đề là mang tính hệ thống và không phải riêng lẻ. Một ngân hàng có thể trở thành một diễn viên hợp đạo lý nhất và cẩn trọng, nhưng khi đó nó sẽ thua cuộc đua thương mại với các đối thủ cạnh tranh của nó. Ngay khi các kết quả tài chính của nó xấu đi, chẳng ai sẽ muốn mua cổ phiếu của nó, những người giỏi nhất của nó sẽ bỏ đi vì việc làm ở nơi khác, và cuối cùng nó sẽ phá sản. Các cổ đông của ngân hàng, mà trong đời sống bình thường của họ có thể cho bản thân họ là những người có đạo đức nhất, tuy nhiên sẽ bán cổ phiếu của họ hay thử thay đổi ban quản lý của ngân hàng.

Tất nhiên, là có thể để áp đặt các ràng buộc đạo đức mạnh lên bản thân mình, nhưng chỉ nếu người ta có kế hoạch để bỏ ra ngoài xã hội, hay chuyển đến cộng đồng nhỏ xíu nào đó bên ngoài thế giới được toàn cầu hóa và được thương mại hóa. Bất kể ai vẫn ở bên trong thế giới được toàn cầu hóa và được thương mại hóa phải chiến đấu vì sự sống sót sử dụng cùng các phương tiện và cùng các công cụ (phi đạo đức) như mọi người khác.

5.1c “Không có Thay thế (Alternative) Nào”

Người ta có thể đồng ý với phân tích cho đến đây và sau đó lập luận như sau: Chẳng phải tình hình này là một lời khẩn cầu cho sự thay đổi về hệ thống kinh tế-xã hội? Chẳng phải suy ra rằng chúng ta phải tống khứ thế giới tư bản chủ nghĩa được siêu-thương mại hóa để ủng hộ một hệ thống thay thế? Vấn đề với lý lẽ mặt khác có lý này là chúng ta không có bất kể thay thế khả thi nào cho chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa. Các thay thế mà thế giới đã thử tỏ ra là tồi hơn—vài trong số chúng tồi hơn nhiều. Ngoài ra, việc loại bỏ tinh thần cạnh tranh và hám lợi được gắn cứng vào chủ nghĩa tư bản sẽ dẫn đến một sự suy giảm về thu nhập của chúng ta, sự nghèo tăng lên, sự giảm tốc hay sự đảo ngược của tiến bộ công nghệ, và sự mất các lợi thế khác (như các hàng hóa và các dịch vụ mà đã trở thành một phần không thể tách rời của cuộc sống của chúng ta) mà chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa cung cấp. Người ta không thể hy vọng để duy trì những điều này trong khi phá hủy tinh thần hám lợi hay việc trục xuất của cải như marker (cái đánh dấu) duy nhất của thành công. Chúng đi với nhau. Có lẽ, đấy có thể là một trong các đặc điểm then chốt của thân phận con người: rằng chúng ta không thể cải thiện cách sống vật chất của chúng ta mà không để cho vài trong số các đặc điểm khó chịu nhất của bản chất con người phát triển đầy đủ. Về bản chất, điều này là sự thật mà Bernard Mandeville đã lượm lặt hơn ba trăm năm trước.

Việc rút khỏi hệ thống không phải là một lựa chọn thực tế

Cố gắng để nghĩ ra một thay thế khả thi là nơi nhiều đề xuất gần đây để giảm nhẹ các đặc điểm được cho là đen tối của chủ nghĩa tư bản được thương mại hóa lầm lỗi. Ý tưởng rằng sự nhàn rỗi nhiều hơn sẽ làm cho thế giới của chúng ta là một chỗ tốt hơn là một trong những ý tưởng có vẻ có lý nhưng hoàn toàn sai (xem Raworth 2018; Bregman 2017). Nó giả thiết rằng nếu bằng cách nào đó chúng ta có thể thuyết phục một số người đủ lớn rằng họ sẽ khấm khá hơn bằng làm việc ít hơn, thì các đặc điểm siêu-cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản sẽ được chữa khỏi. Chúng ta sẽ sống cuộc sống nhàn rỗi, xem các triển lãm nghệ thuật và ngồi trong các quán café thảo luận các tác phẩm sân khấu mới nhất. Nhưng những người quyết định đi theo cách sống nhàn hạ hơn này sẽ mau chóng hết tiền để theo đuổi nó (trừ phi họ có một lượng đủ của cải đã kiếm được trước đó). Con cái họ sẽ tức giận họ vì thích sống cuộc sống nhàn hạ và lười biếng thay cho việc đảm bảo rằng con cái có tất cả các vật dụng mà những đứa ngang hàng của chúng hưởng thụ và đi học ở các trường tốt nhất và đắt nhất. Đấy là vì sao các cha mẹ không thể ngừng leo lên cao hơn bao giờ hết và thử truyền cho con cái họ tất cả các đặc ân mà, như chúng ta đã thấy trong Chương 2, dẫn đến sự tạo ra một giai cấp thượng lưu tồn tại mãi trong chủ nghĩa tư bản tự do. Đấy là vì sao Barack Obama, bất chấp tất cả sự trang điểm hoa mỹ về giáo dục công trong các bài phát biểu của ông, đã gửi cả hai con gái của ông vào một trường trung học tư elite và muộn hơn vào các đại học tư đắt đỏ nhất. Lần nữa, chúng ta thấy rằng một đời sống nhàn nhã là có thể chỉ cho những người đã thừa kế của cải đáng kể hay vui lòng lui về các cộng đồng độc lập và phần lớn tự-túc. Những sự rút lui khỏi chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa quả thực là có thể, nhưng chúng ta có thể bảo đảm rằng chúng sẽ vẫn là rất hiếm.

Chúng ta hãy tưởng tượng rằng những người biện hộ cho một thay thế thoải mái hơn bằng cách nào đó đã thành công trong việc thuyết phục toàn bộ một quốc gia để thay đổi cách [sống] của nó. Chẳng hạn, dân cư của một nước giàu ở châu Âu có thể quyết định rằng mức phúc lợi họ có được bây giờ đúng là đủ và rằng nó có thể được duy trì nhờ tiến bộ công nghệ với đầu vào lao động nhỏ hơn nhiều. Họ có thể quyết định để làm việc chỉ mười lăm giờ một tuần, số giờ mà John Maynard Keynes, trong “The Economic Possibilities for Our Grandchildren (Khả năng Kinh tế cho các Cháu của Chúng ta)” (1930), tin sẽ là đủ để “thỏa mãn Adam cổ trong hầu hết chúng ta.” Nhưng rất mau một nước như vậy và dân cư của nó sẽ phát hiện ra rằng họ đã bị những người khác vượt qua. Có lẽ, vui vẻ trong phong cách sống thoải mái của mình, thoạt tiên họ không lo quá nhiều về xếp hạng kinh tế toàn cầu. Nhưng người dân từ các nước thành công hơn và ngày càng giàu sẽ bắt đầu mua các bất động sản trong nước đó, chuyển đến các địa điểm hấp dẫn nhất, ăn trong các quán ăn ngon nhất, và từ từ thay thế dân cư địa phương. Rằng đấy không phải là một hình ảnh tưởng tượng có thể thấy ở Italy ngày nay. Các thành phố như Venice và Florence có thể, trong tương lai không quá xa nào đó, hầu như sẽ được cư trú hoàn toàn bởi các thành viên giàu của các nước khác, dù là Đức, Mỹ, hay Trung quốc. (Điều này phần lớn là thế rồi ở trung tâm Venice và các phần của Tuscany.) Trong một thế giới được toàn cầu hóa và được thương mại hóa đầy đủ, nếu thu nhập Italia tiếp tục sụt giảm tương đối với thu nhập ở các nước và vùng khác, vẻ đẹp của Italy sẽ không còn được dân cư gốc của nó hưởng thụ. Và không có lý do nào vì sao nó phải vậy. Mọi thứ có một cái giá trong một thế giới được thương mại hóa. Nếu một người Trung quốc có thể trả nhiều cho một quang cảnh của Grand Canal hơn người chủ Italia hiện thời của nó có thể trả, thì người Trung quốc đó sẽ có sự tiếp cận đến quang cảnh đó.

Như thế lần nữa chúng ta đi đến kết luận rằng cách duy nhất để thách đố thế giới được thương mại hóa là bằng việc rút khỏi nó hoàn toàn, hoặc qua sự lưu vong cá nhân vào một cộng đồng hẻo lánh, hay, trong trường hợp của các nhóm lớn hơn như các quốc gia, bằng việc chấp nhận tự cung tự cấp. Nhưng là một nhiệm vụ không thể để thuyết phục các số người đủ lớn để rút khỏi thế giới này, từ bỏ các tiện nghi của sự thương mại hóa, và chấp nhận một tiêu chuẩn sống thấp hơn nhiều, nếu họ đã hội nhập xã hội vào tinh thần hám lợi và đã nội hóa tất cả các mục tiêu của nó. Có một số cộng đồng, như các cư dân Hà Lan Pennsylvania và kibbutzim [công xã] Israeli (cả hai đang giảm sút), mà có thể không bị làm kiệt sức bởi của cải lớn hơn nhiều hiện diện trong hàng xóm của họ, nhưng rất ít nhóm khác chứng tỏ một mong muốn thúc bách để bắt chước họ.

Những người viết về nhu cầu cho sự nhàn hạ nhiều hơn không nhận ra rằng các xã hội khắp thế giới được cấu trúc theo cách để ca tụng thành công và sức mạnh, rằng thành công và sức mạnh trong một xã hội được thương mại hóa được bày tỏ chỉ bằng tiền, và rằng tiền nhận được qua công việc, quyền sở hữu các tài sản, và, đặc biệt, tham nhũng. Đấy cũng là vì sao tham nhũng là một thành phần không thể tách rời của chủ nghĩa tư bản được toàn cầu hóa.

5.2 Nguyên tử hóa và Hàng hóa hóa

5.2a Tính Hữu ích Giảm đi của Gia đình

Các xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại gồm hai đặc điểm đại diện hai mặt của cùng đồng xu: (a) sự nguyên tử hóa và (b) sự hàng hóa hóa.

Sự nguyên tử hóa nhắc đến sự thực rằng các gia đình phần lớn đã mất lợi thế kinh tế của chúng khi một số ngày càng tăng của các hàng hóa và các dịch vụ thường được sản xuất tại gia, bên ngoài thị trường và không chịu sự trao đổi tiền tệ, bây giờ có thể được mua hay thuê trên thị trường. Các hoạt động như chuẩn bị bữa ăn, quét dọn, làm vườn, và chăm sóc trẻ sơ sinh và người ốm yếu và những người già đã được cung cấp “miễn phí” ở nhà trong các xã hội truyền thống và, cho đến rất gần đây, trong các xã hội hiện đại (trừ phi người ta đã rất giàu). Nó chắc chắn đã là một trong các lý do chính cho sự hôn nhân đã tồn tại chút nào. Nhưng với của cải tăng lên chúng ta có thể mua hầu như tất cả các dịch vụ này từ bên ngoài, và có nhu cầu ngày càng ít để chia sẻ cuộc sống của chúng ta với những người khác. Là không ngẫu nhiên rằng các xã hội giàu nhất ngày nay có khuynh tướng tới một gia đình có kích thước một. Na Uy, Đan Mạch, và Thụy Điển hầu như ở đó rồi, với kích thước hộ gia đình trung bình giữa 2,2 và 2,4. Ngược lại, trong các xã hội nghèo nhất ở trung Phi có kích thước hộ gia đình trung bình 8 hay 9.14 Không nhất thiết bởi vì người dân ở các nước nghèo hơn thích ở cùng nhau hơn, mà bởi vì họ không đủ khả năng để sống một mình. Việc sống cùng nhau “nội hóa” các hoạt động này (nấu ăn, quét dọn, và vân vân) và cũng cung cấp sự tiết kiệm theo quy mô trong mọi thứ từ dầu ăn đến điện (tức là, các chi phí tiện ích và nấu ăn là thấp cho hai người sống với nhau hơn chi phí cho mỗi người sống một mình nhân với hai).15 Nhưng trong các xã hội giàu, tất cả các hoạt động này bây giờ có thể được thuê ngoài (outsourced). Đi đến một kết luận khủng khiếp (dystopian), thế giới sẽ gồm các cá nhân sống và thường làm việc một mình (trừ trong thời kỳ khi họ chăm sóc con cái), những người không có các liên kết hay quan hệ thường xuyên nào với những người khác và nhu cầu của họ tất cả đều được các thị trường cung cấp, theo cùng cách mà hầu hết người dân ngày nay không làm giày của riêng họ nhưng mua chúng trong một cửa hàng. Không có lý do tương tự nào vì sao bất cứ ai (trừ những người nghèo nhất) sẽ phải rửa bát hay chuẩn bị thức ăn của riêng họ.

Sự xâm nhập pháp lý vào đời sống gia đình đẩy mạnh sự nguyên tử hóa

Sự nguyên tử hóa (mà, ở mức cực độ, ngụ ý sự kết thúc của gia đình) cũng bị tăng tốc bởi những sự xâm nhập pháp lý vào đời sống gia đình. Lý do vì sao gia đình đã là đơn vị chăm sóc người già và người trẻ, và trao đổi các hàng hóa và các dịch vụ giữa các thành viên của nó, bất chấp ai là một “người thắng” hay “kẻ thua” ròng, là bởi vì các quy tắc tồn tại bên trong các gia đình là khác với các quy tắc có hiệu lực ở bên ngoài. Gia đình và phần còn lại của thế giới, theo một nghĩa đạo đức và thậm chí vật lý, là hai thế giới riêng biệt (hay đúng hơn, đã thường là hai thế giới riêng biệt). Trong cuốn sách của Rana Dasgupta (2015) về Delhi hiện đại, tính hai mặt đạo đức và vật lý này được minh họa bởi cuộc sống kiểu tu viện mà các mẹ và các bà (và kỳ vọng từ các con dâu của họ) sống và mục tiêu của nó là để tối thiểu hóa sự tiếp xúc với bất kể ai không phải là thành viên gia đình. Về mặt vật lý, sự phân chia giữa hai thế giới được bày tỏ trong việc thay giày vài lần trước khi bước vào nhà, để không mẩu nào (hạt bụi? cỏ?) của thế giới bên ngoài có thể lọt vào chốn linh thiêng của gia đình.

Trong khi sự tách biệt cùng cực này giữa gia đình và không-gia đình có thể có vẻ kỳ lạ với nhiều người ngày nay, nó là cái gì đó hầu hết xã hội trên thế giới đã nuôi dưỡng cho đến gần đây. Và nó đã là chỉ bởi vì một sự tách biệt như vậy giữa “chúng ta” và “họ” mà nhiều hoạt động gia đình—cả việc vặt trong nhà và các điều vui thú—có thể được các thành viên của hộ gia đình chia sẻ. Nói cách khác, sự chia sẻ đã dựa vào sự loại trừ.16

Mô hình bị thương mại hóa của ngày nay nằm ở thái cực khác. Thế giới bên ngoài được phép đột nhập vào bên trong dưới hình thức giao các bữa tối và các dịch vụ quét dọn mà cả dưới hình thức của sự xâm nhập pháp lý. Những sự xâm nhập này—như những thỏa thuận trước hôn nhân, và khả năng của các tòa án để đưa trẻ con đi và để kiểm soát hành vi của vợ chồng đối với nhau—trong khi trong nhiều trường hợp là những sự phát triển đáng mong muốn (thí dụ, trong việc ngăn cản sự ngược đãi vợ chồng), khoét rỗng thêm hiệp ước ngầm bên trong mà giữ các gia đình lại với nhau. Sự xâm nhập pháp lý này của xã hội vào đời sống gia đình chỉ là một ví dụ khác về sự thuê ngoài (outsourcing). “Bộ quy tắc” nội bộ gia đình đơn giản được thuê ngoài cho xã hội nói chung, cùng cách mà việc nấu một bữa ăn được thuê ngoài cho quán ăn ở gần. Cả hai kiểu thuê ngoài phải nêu ra câu hỏi cuối cùng: Cái gì là lợi thế của gia đình hay của sự sống thử như vợ chồng trong một thế giới giàu, được thương mại hóa nơi mọi dịch vụ có thể mua được?

Người ta có thể nhận diện ba kiểu tương tác lịch sử giữa các lĩnh vực (kinh tế) tư và công. Thứ nhất là kiểu tiền-tư bản chủ nghĩa, nơi sản xuất được tiến hành bên trong hộ gia đình. Như chúng ta đã thấy ở Chương 3, “phương thức sản xuất hộ gia đình” này đã là đặc trưng lâu đời của Trung Quốc, cho đến tận thế kỷ thứ mười chín, khi tây Âu đã chuyển rồi sang việc sử dụng lao động ăn lương phổ biến hơn nhiều mà xác định kiểu lịch sử thứ hai.17 Kiểu thứ hai này gồm việc sử dụng lao động ăn lương bên ngoài gia đình (tức là, không phải hệ thống gia công-tại nhà trong đó người dân làm theo sản phẩm cho những người khác ở bên trong nhà riêng của họ). Nó là phần của một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa điển hình với một sự phân biệt sắc nét giữa sự sản xuất và các lĩnh vực gia đình—một sự phân biệt mà Weber nghĩ đã là hoàn toàn cơ bản cho chủ nghĩa tư bản. Cuối cùng, chủ nghĩa tư bản mới được siêu-thương mại hóa lại hợp nhất sự sản xuất và gia đình nhưng làm vậy bằng việc lùa hộ gia đình vào phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng ta có thể thấy điều này như một kết cục hợp logic trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, khi chủ nghĩa tư bản dịch chuyển để “chinh phục” các lĩnh vực mới và để hàng hóa hóa các hàng hóa và các dịch vụ mới. Giai đoạn này cũng ngụ ý những sự cải thiện đáng kể về năng suất lao động bởi vì chỉ các xã hội đủ giàu có mới có thể có đủ khả năng để hàng hóa hóa hoàn toàn tất cả các quan hệ cá nhân mà về mặt truyền thống đã bị bỏ ngoài thị trường.

5.2b Cuộc sống Riêng tư như Chủ nghĩa Tư bản hàng Ngày

Mặt đối lập của sự nguyên tử hóa là sự hàng hóa hóa. Trong sự nguyên tử hóa, chúng ta trở thành một mình bởi vì tất cả nhu cầu của chúng ta có thể được thỏa mãn bởi cái chúng ta mua từ những người khác, trên thị trường. Trong một trạng thái của sự hàng hóa hóa đầy đủ, chúng ta trở thành người khác: chúng ta thỏa mãn các nhu cầu của người dân qua sự hàng hóa hóa cực đại của các tài sản của chúng ta, kể cả thời gian rảnh rỗi của chúng ta.18

Sự tạo ra các hàng hóa mới

Cái chủ nghĩa tư bản toàn cầu làm là cho chúng ta, như những người tiêu dùng, khả năng để mua các hoạt động đã từng được gia đình, bạn bè, hay cộng đồng cung cấp bằng hiện vật. Nhưng đối với chúng ta như các nhà sản xuất, nó cũng đưa ra một lĩnh vực hoạt động rộng (chính xác cùng các hoạt động) mà chúng ta có thể cung cấp cho những người khác. Như thế, sự nguyên tử hóa và sự hàng hóa hóa đi cùng với nhau.

Trường hợp hiển nhiên nhất là sự hàng hóa hóa các hoạt động mà đã thường được tiến hành bên trong các gia đình mở rộng và sau đó, khi người dân trở nên giàu hơn, bên trong các gia đình hạt nhân. Việc nấu ăn bây giờ đã được thuê ngoài, và các gia đình thường không ăn các bữa ăn cùng nhau. Việc dọn dẹp, sửa chữa, làm vườn, và nuôi dạy con cái đã được thương mại hóa nhiều hơn trước hay có lẽ hơn bao giờ hết. Việc viết các tiểu luận về nhà, mà từng được “thuê ngoài” cho cha mẹ, bây giờ có thể được thuê ngoài cho các công ty thương mại.

Sự tăng trưởng của nền kinh tế gig (gig economy [trong đó công ty thuê lao động tự do tạm thời và người lao động làm công việc tạm thời]) thương mại hóa thời gian nhàn rỗi của chúng ta và các thứ chúng ta sở hữu nhưng đã không được dùng cho các mục đích thương mại trước đây. Uber được tạo ra chính xác trên ý tưởng về sử dụng thời gian rỗi tốt hơn. Các lái xe limousine đã thường có thời gian dư giữa các việc làm; thay cho việc lãng phí thời gian đó, họ bắt đầu đưa người ta đi loanh quanh để kiếm tiền. Bây giờ bất kể ai có một số thời gian rỗi có thể “bán” nó bằng làm việc cho một công ty chia sẻ-chuyến đi hay giao pizza. Một phần của thời gian nhàn rỗi mà chúng ta không thể thương mại hóa (đơn giản bởi vì các việc làm đã “lổn nhổn” và không thể được ép vào những đoạn rất ngắn của thời gian rảnh rỗi) đã trở nên có thể bán được. Tương tự, một chiếc xe tư nhân mà đã là “vốn chết” trở thành vốn thật nếu được dùng để lái cho Lyft hay Uber. Việc giữ chiếc xe để không trong gara hay chỗ đậu xe có một chi phí cơ hội rõ ràng. Tương tự, các nhà ở mà trong quá khứ có thể đã được cho gia đình hay bạn bè mượn trong một tuần mà không có đền bù gì bây giờ trở thành các tài sản được cho các du khách thuê vì một phí. Ngay khi điều này xảy ra, các tài sản như vậy trở thành các mặt hàng; chúng có được một giá thị trường. Việc không sử dụng chúng là một sự lãng phí nguồn lực rõ ràng. Trong khi trong quá khứ chi phí cơ hội của chúng đã là zero, bây giờ nó là dương.

Điều này không có nghĩa rằng tất cả mọi người sẽ dùng mọi khoảnh khắc nhàn rỗi của mình để làm một gig [việc tạm thời], hay sẽ cho thuê nhà của họ mỗi ngày mà nó để trống. Tương tự chúng ta không sử dụng mỗi phút của cuộc sống chúng ta để thử kiếm tiền. Tuy vậy, một khi chi phí cơ hội của các hoạt động tự do cho đến nay trở thành dương, cuối cùng khiến chúng ta nghĩ về các hoạt động này như các hàng hóa hay dịch vụ thương mại. Khi đó cần cố gắng lớn hơn của ý chí để cho các cơ hội đi qua và không cưỡng lại được việc kiếm lợi từ chúng.

Hệt như có một logic trong cách chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa xóa sạch sự phân chia giữa các lĩnh vực sản xuất và gia đình, cũng thế có một logic lịch sử nào đó trong sự tiến của cái được hàng hóa hóa. Thứ nhất, nông nghiệp đã được hàng hóa hóa qua sự thương mại hóa của sản xuất thặng dư, tức là, qua một sự chuyển ra khỏi nông nghiệp tự cung tự cấp. Rồi đến sự hàng hóa hóa của các hoạt động chế tác, nhất là sản xuất quần áo. Các thị trường mới nổi lên khi các hàng hóa theo truyền thống được các hộ gia đình sản xuất bắt đầu được sản xuất thương mại. Ở gốc của Cách mạng Công nghiệp [Industry] (và industrious [cần cù]) ở châu Âu đã là công việc ăn lương bên ngoài gia đình và, cùng với nó, tập quán dùng tiền lương kiếm được như vậy để mua các mặt hàng mà trước đây được sản xuất bên trong hộ gia đình bởi cùng những người lao động (với năng suất cao hơn nhiều dưới hệ thống mới).19 Đấy chính xác là cùng quá trình mà chúng ta quan sát ngày nay đối với các dịch vụ. Sự hàng hóa hóa của các dịch vụ, và cuối cùng của thời gian rỗi, chỉ là một bước hợp logic thêm trên con đường phát triển. Các dịch vụ cá nhân là khó hơn để hàng hóa hóa bởi vì sự tăng năng suất trong việc này là chậm hơn trong sản xuất hàng hóa (như thế các lợi thế của sự hàng hóa hóa là ít rõ ràng hơn), và lợi lộc từ sự phân công lao động là ít hơn: lợi thế của một bữa ăn được giao so với bữa ăn được nấu ở nhà là không rõ như lợi thế của việc mua giày được sản xuất hàng loạt so với việc làm giày ở nhà.

Sự hàng hóa hóa cái trước kia đã không là hàng thương mại có khuynh hướng khiến cho mọi người làm nhiều việc và thậm chí, như trong việc cho thuê các căn hộ, để biến họ thành các nhà tư bản hàng ngày. Nhưng việc nói rằng những người lao động làm nhiều việc làm là cùng thứ như việc nói rằng những người lao động không giữ các việc làm cá nhân lâu dài và rằng thị trường lao động là hoàn toàn “linh hoạt,” với người dân tham gia và bỏ việc làm với một tỷ lệ rất cao. Như Max Weber nhận xét, “Công việc không đều, mà người lao động bình thường thường buộc phải có, thường là không thể tránh khỏi, nhưng luôn là một trạng thái quá độ khó chịu. Một người mà không có một nghề như thế thiếu cá tính có hệ thống, có phương pháp.”20 Nói cách khác, kiểu công việc mà chắc có khả năng tồn tại trong thế kỷ thứ hai mươi mốt không phải là loại công việc mà Weber xem như đáng mong muốn bởi vì nó thiếu ý thức nghề nghiệp, hay sự tận tụy, đối với một nghề.

Như thế những người lao động, từ quan điểm của những người sử dụng lao động, quả thực trở thành “các đại lý (agent)” có thể thay cho nhau hoàn toàn. Mỗi người làm một việc làm trong vài tuần hay vài tháng: mọi người là khoảng tốt hay xấu như mọi người khác. Chúng ta đang đến gần thế giới mơ ước của kinh tế học tân cổ điển nơi các cá nhân, với các cá tính độc nhất của họ, không còn tồn tại nữa; họ đã bị thay thế bởi các đại lý—các avatar có thể thay thế cho nhau mà nhiều nhất có thể khác nhau về vài đặc điểm chung như mức giáo dục, tuổi, hay giới. Một khi các đặc điểm này được tính đến, các cá nhân, thiếu bất kể đặc điểm cá nhân nào, là có thể thay thế cho nhau hoàn toàn.

Như thế trở nên rõ ràng rằng ba sự phát triển này liên hệ với nhau: (i) sự thay đổi về sự hình thành gia đình (sự nguyên tử hóa), (ii) sự mở rộng của hàng hóa hóa sang các hoạt động mới, và (iii) sự nổi lên của các thị trường lao động linh hoạt hoàn toàn với các việc làm tạm thời. Nếu chúng ta có một, chúng ta buộc phải có cả ba.

Khuyết điểm của sự hàng hóa hóa

Vấn đề với loại này của sự hàng hóa hóa và “sự linh hoạt hóa” là nó làm xói mòn các quan hệ con người và sự tin cậy mà là cần thiết cho nền kinh tế thị trường hoạt động suôn sẻ. Nếu người dân làm cùng việc làm trong một thời kỳ dài, họ thử thiết lập các mối quan hệ tin cậy với những người họ thường xuyên tương tác với. Tức là, họ tham gia vào cái các nhà kinh tế học gọi là “các trò chơi lặp lại.” Nhưng nếu mọi người chuyển từ một chỗ sang chỗ khác với tần suất cao và thay đổi việc làm mỗi vài tháng, thì không có trò chơi lặp lại nào bởi vì mọi người luôn luôn tương tác với những người khác nhau. Nếu không có trò chơi lặp lại nào, người dân điều chỉnh hành vi của họ để phản ánh sự kỳ vọng rằng họ sẽ chỉ chơi một trò chơi duy nhất, có một tương tác duy nhất. Và hành vi mới này là rất khác.

Sau khi ở xa New York trong vài tháng, tôi quay lại để phát hiện ra rằng nhiều người mà với họ tôi nghĩ tôi đã chơi các trò chơi lặp lại, trong các quán ăn tôi hay lui tới và trong chung cư nơi tôi sống, đơn giản đã thay đổi. Những người mới đã xuất hiện và đối xử với tôi (một cách có thể hiểu được) như một người lạ hoàn toàn. Khi điều này xảy ra, bạn không có nhiều khuyến khích để cư xử “một cách dễ thương,” để gửi các tín hiệu về hành vi hợp tác, bởi vì bạn biết rằng những người mới này sẽ sớm thay đổi. Việc đầu tư vào để là dễ thương là tốn kém; sự cố gắng cần được biện minh bởi sự kỳ vọng rằng tính dễ thương này sẽ là có đi có lại. Nhưng nếu người mà bạn tương tác với sẽ không ở đó trong một tháng nữa, thì là tử tế có nghĩa gì? Nó chỉ là sự lãng phí nỗ lực. Tất nhiên, cùng lập luận được bên kia đưa ra: vì sao người đó phải quan tâm đến bạn nếu họ đang để mắt đến gig (việc làm tạm thời) tiếp theo của họ?

Bây giờ sẵn có vô số sự xét lại về cả các nhà cung cấp và những người dùng dịch vụ là một cách để thử đảm bảo “tính dễ thương” bất chấp sự thiếu các mối quan hệ lâu bền. Việc này quả thực là một sự cải thiện so với không có hệ thống xét lại nào. Nhưng hệ thống có thể bị chơi xỏ. Và điểm chính là trong một thế giới được toàn cầu hóa với một lực lượng lao động linh hoạt, các mối quan hệ kinh doanh lâu bền sẽ là rất hiếm; sự hiểu biết cá nhân về người khác và trách nhiệm đối với cá nhân đó được thay thế bằng một hệ thống (chấm) điểm, mà, dù theo một số cách cung cấp nhiều thông tin hơn, là vô cảm.

Vì sao chúng ta thay đổi hành vi của chúng ta khi các tương tác của chúng ta bị hàng hóa hóa? Tôi không thể làm tốt hơn việc trích bình luận của một người bạn: “Bởi vì chúng ta bị quy giản thành hành động kinh tế, bởi vì chúng ta không thể nghĩ bất kể cách khác nào, bởi vì trở nên dễ thương là một sự đầu tư, bởi vì logic của việc trở nên dễ thương vượt ra ngoài logic thị trường.” Vì sự hàng hóa hóa đã bước vào lĩnh vực cá nhân của chúng ta, chúng ta có thể nghĩ hầu như chẳng gì tồn tại và vượt ra ngoài hay bên ngoài nó.21

Sự lan ra của sự hàng hóa hóa loại bỏ sự xa lánh (alienation). Để bị xa lánh, chúng ta cần biết về một sự phân đôi giữa bản thân chúng ta như con người bản thể học và bản thân chúng ta như các tác nhân kinh tế. Nhưng khi năng lực hành động kinh tế là ở bên trong chúng ta, trật tự của các thứ được nội hóa theo cách mà chẳng có gì chói tai nữa.

Sự biến đổi bản thân chúng ta thành các đối tượng quản lý và cực đại hóa được giáo sư luật Daniel Markovits thấu tóm rất khéo trong bài phát biểu trước khóa tốt nghiệp 2015 Trường Luật Yale: “Tài năng, sự đào tạo và các kỹ năng riêng của bạn—chính xác con người bạn—ngày nay tạo thành tài sản lớn nhất của chúng ta, nguồn chi phối áp đảo của sự giàu có và địa vị của chúng ta.… [Bạn phải] hoạt động như các nhà quản lý-tài sản mà danh mục đầu tư của họ chứa bản thân chúng ta.22

Sự hàng hóa hóa tăng lên của nhiều hoạt động cùng với sự lên của nền kinh tế gig và của một thị trường lao động linh hoạt triệt để, tất cả đều là phần của cùng sự tiến hóa; chúng phải được xem như những sự dịch chuyển tới một nền kinh tế duy lý hơn, nhưng cuối cùng phi-cá nhân hóa hơn, nơi hầu hết các tương tác sẽ là các liên hệ-một lần. Tại mức nào đó, như trong “doux commerce (thương mại ôn hòa)” của Montesquieu, sự thương mại hóa hoàn toàn sẽ làm cho người dân hành động dễ thương hơn đối với nhau. Nhưng mặt khác, độ ngắn của các tương tác làm cho việc đầu tư vào hành vi hợp tác cực kỳ đắt đỏ đến mức không thể đầu tư nổi. Đấy là vì sao sự siêu-thương mại hóa có thể không đưa chúng ta tới một xã hội nơi người dân hành động tử tế hơn. Sự tử tế (dễ thương) bị xói mòn từ hai hướng: sự nguyên tử hóa khoét rỗng đời sống gia đình, và độ ngắn của các tương tác làm giảm hành vi “dễ thương” tiềm tàng được Montesquieu ca ngợi. Và tất cả điều này xảy ra dựa vào một nền của tính phi luân lý (amorality) cơ bản.

Người dân như các trung tâm sản xuất tư bản chủ nghĩa

Thành công cuối cùng của chủ nghĩa tư bản là đã biến đổi bản chất con người sao cho mỗi người trở thành một bàn tính (calculator) tuyệt hảo về sự đau khổ và niềm vui thích, lãi và lỗ—nhiều đến mức cho dù sản xuất nhà máy tư bản chủ nghĩa giả như có biến mất ngày nay chúng ta sẽ vẫn bán các dịch vụ cho nhau vì tiền; cuối cùng bản thân chúng ta sẽ trở thành các công ty. Hãy tưởng tượng một nền kinh tế (giống bề ngoài với một nền kinh tế rất nguyên thủy) nơi tất cả sự sản xuất được tiến hành ở nhà hay bên trong gia đình mở rộng. Đấy sẽ có vẻ là một mô hình hoàn hảo của một nền kinh tế tự cung tự cấp phi-thị trường. Nhưng nếu giả như chúng ta có một nền kinh tế như vậy ngày nay, nó sẽ là tư bản chủ nghĩa hoàn toàn bởi vì chúng ta sẽ bán tất cả các hàng hóa và các dịch vụ này cho nhau: một hàng xóm sẽ không để mắt đến con cái bạn miễn phí, không ai sẽ chia sẻ thức ăn với bạn mà không có sự trả tiền, bạn sẽ khiến cho vợ chồng bạn trả tiền vì tình dục, và vân vân. Đấy là thế giới chúng ta di chuyển tới, và lĩnh vực của các hoạt động tư bản chủ nghĩa như thế chắc có khả năng trở nên vô hạn bởi vì nó sẽ gồm mỗi trong chúng ta và hầu hết các hành động hàng ngày trần tục của chúng ta. Để trích từ sách của Paul Mason Postcapitalism (Hậu-chủ nghĩa tư bản) về chủ nghĩa tư bản của nền kinh tế “phi trọng lượng” mới, “Cái ‘nhà máy’ trong chủ nghĩa tư bản nhận thức là toàn bộ xã hội” (2016, 139).

Mason cho rằng sự hàng hóa hóa bị áp đặt lên chúng ta bởi các công ty mà muốn tìm các nguồn lợi nhuận mới. Nhưng điều này là sai. Sự thật là chúng ta vui lòng, thậm chí háo hức tham gia vào sự hàng hóa hóa bởi vì, qua sự hòa nhập xã hội dài vào chủ nghĩa tư bản, người dân đã trở thành các máy tính toán tư bản chủ nghĩa. Mỗi người chúng ta đã trở thành một trung tâm nhỏ của sự sản xuất tư bản chủ nghĩa, gán các giá ngầm định cho thời gian của chúng ta, các cảm xúc của chúng ta, và các quan hệ gia đình của chúng ta.

Các tác giả khác cũng lưu ý đến sự hàng hóa hóa tăng lên mà “đang đi xuống,” như Nancy Fraser diễn đạt, “xuống đến tận” lĩnh vực cá nhân của chúng ta. Vì các lý do khác với Mason, họ cũng xem sự hàng hóa hóa như dẫn đến một khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, hay thậm chí sự kết thúc của nó: “kết quả [của sự hàng hóa hóa] có thể chỉ là khủng hoảng được tăng cường” (Fraser 2012, 10). Fraser có thấy các mặt tốt của sự hàng hóa hóa lao động, và quả thực phê phán Karl Polanyi vì việc bỏ qua “hàng tỷ nô lệ, nông nô, nông dân, những người bị phân biệt chủng tộc và những cư dân của các khu nhà ổ chuột và các khu tồi tàn mà đối với họ một tiền lương [sự thị trường hóa các hoạt đọng không được trả tiền trước đó] đã hứa hẹn sự giải phóng khỏi tình trạng nô lệ, sự chinh phục phong kiến, sự lệ thuộc chủng tộc, sự loại trừ xã hội, và sự đô hộ đế quốc, cũng như khỏi phân biệt giới tính và chế độ gia trưởng” (Fraser 2012, 9). Tuy nhiên, bà tin rằng sự hàng hóa hóa hiện thời của lĩnh vực cá nhân là sự phát triển phi-tự nhiên, báo trước cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản.

Quan điểm này, theo ý kiến của tôi, là sai. Đúng hơn, điều hoàn toàn ngược lại là đúng. Sự hàng hóa hóa “xuống đến tận” là một quá trình hàng hóa hóa mà trong đó các cá nhân tham gia vào một cách tự do, và, hơn nữa, nó là cái gì đó mà họ thấy sự giải phóng và có ý nghĩa. Một số người có thể xem điều này như nông cạn (Khả năng để lái xe riêng của bạn vì lợi nhuận hay giao pizza vào bất kể thời gian nào phù hợp với bạn có mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của bạn không?), nhưng nó ăn khớp hoàn hảo với hệ thống các giá trị mà duy trì chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa và mà các cá nhân đã nội hóa. Hệ thống này, như tôi đã nhắc tới ở trước, đặt sự kiếm tiền lên bệ thờ. Khả năng để buôn bán không gian và thời gian riêng của người ta vì lợi nhuận như thế được xem cả như một hình thức của sự trao quyền và như một bước tiến theo hướng mục tiêu cuối cùng của sự kiếm được của cải. Vì thế nó là chiến thắng lớn của chủ nghĩa tư bản.23

Sự hàng hóa hóa lĩnh vực riêng tư là điểm cao nhất của chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa. Nó không báo trước một khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Một khủng hoảng sẽ nảy sinh chỉ nếu giả như sự hàng hóa hóa lĩnh vực riêng tư được xem như sự xâm phạm vào các lĩnh vực mà các cá nhân muốn bảo vệ khỏi sự thương mại hóa, và khi đặt áp lực lên họ để tham gia vào các hoạt động họ không muốn tham gia. Nhưng hầu hết người dân cảm thấy nó như ngược lại: một bước tiến tới sự làm giàu thêm và tự do.

Chúng ta có thể đưa ra các kết luận sau đây. Thứ nhất, về mặt thực tế thuần túy, không có lý lẽ nghiêm túc nào tranh cãi rằng khi các xã hội trở nên giàu hơn, lĩnh vực của sự hàng hóa hóa mở rộng.24

Thứ hai, trong khi sự hàng hóa hóa lớn hơn đã làm cho cuộc sống của chúng ta tốt hơn trong nhiều trường hợp và đáp ứng cho một sự lựa chọn rõ ràng của người dân, nó cũng thường đã làm yếu các mối quan hệ cá nhân và đôi khi khiến chúng ta nhẫn tâm hơn, bởi vì sự hiểu biết của chúng ta, rằng bất kể vấn đề nhỏ gây khó chịu nào đều có thể được giải quyết bằng việc quăng tiền vào nó, đã khiến chúng ta ít quan tâm hơn đến các hàng xóm và gia đình của chúng ta.

Vì thế, khi chúng ta sống trong một môi trường ngày càng bị hàng hóa hóa nơi các giao dịch là ngắn và rời rạc, không gian nơi chúng ta có thể thực hiện hành vi hợp tác “dễ thương” co lại. Khi chúng ta đến điểm nơi tất cả chúng ta đều trở thành chỉ các tác nhân trong các giao dịch một lần, sẽ không còn bất kể chỗ nào cho sự dễ thương được cho không nữa. Điểm cuối đó sẽ là cả một utopia về sự giàu có và một dystopia về các mối quan hệ cá nhân.

Chủ nghĩa tư bản đã biến đổi thành công con người thành các máy tính toán được ban cho các nhu cầu vô tận. Cái David Landes, trong Sự Giàu có và Nghèo của các Quốc gia [Wealth and Poverty of Nations] (1998), đã xem như một trong các đóng góp chính của chủ nghĩa tư bản, rằng nó khuyến khích việc sử dụng tốt hơn thời gian và năng lực để bày tỏ mọi thứ liên quan đến sức mua trừu tượng, bây giờ đã chuyển vào đời sống riêng tư của chúng ta. Để sống trong chủ nghĩa tư bản, chúng ta không cần phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nhà máy nếu bản thân tất cả chúng ta trở thành các trung tâm tư bản chủ nghĩa.

5.2c Quyền Thống trị của Chủ nghĩa tư bản

Ưu thế của chủ nghĩa tư bản như cách tốt nhất, hay đúng hơn duy nhất, để tổ chức sản xuất và phân phối có vẻ là tuyệt đối. Không kẻ thách thức nào xuất hiện trong tầm nhìn. Chủ nghĩa tư bản đã giành được vị trí này nhờ khả năng của nó, qua sự lôi cuốn của tư lợi và mong muốn sở hữu tài sản, để tổ chức người dân sao cho họ tìm được cách, theo cách phân tán, để tạo ra của cải và tăng nhiều lần tiêu chuẩn sống của con người trung bình trên hành tinh—cái gì đó mà chỉ một thế kỷ trước đã được xem là hầu như không tưởng.

Nhưng thành công kinh tế này làm cho sự trái ngược nhau gay gắt hơn giữa khả năng để sống tốt hơn và lâu hơn và sự thiếu một sự tăng tương xứng về đạo đức, hay thậm chí về hạnh phúc. Sự sung túc vật chất càng lớn đã có làm cho cách cư xử và hành vi của người dân với nhau tốt hơn: vì các nhu cầu cơ bản, và nhiều hơn thế nhiều, được thỏa mãn, người ta không còn cần tham gia vào một cuộc đấu tranh Hobbesian tất cả chống lại tất cả nữa. Cách cư xử trở nên tao nhã hơn, mọi người trở nên ân cần hơn.

Nhưng sự tao nhã bên ngoài này đạt được với cái giá của việc mọi người ngày càng được một mình tư lợi thúc đẩy, ngay cả trong nhiều chuyện bình thường và cá nhân. Tinh thần tư bản chủ nghĩa, một chứng cớ cho thành công khái quát của chủ nghĩa tư bản, đã thấm sâu vào cuộc sống cá nhân của người dân. Vì sự mở rộng chủ nghĩa tư bản vào gia đình và đời sống thân tình đã là đối chọi với các quan điểm cổ hàng thế kỷ về sự hy sinh, sự mến khách, tình bạn, các mối quan hệ gia đình, và những thứ tương tự, đã là không dễ để công khai chấp nhận rằng tất cả các chuẩn mực như vậy đã bị tư lợi thay thế. Sự khó chịu này đã tạo ra một lĩnh vực mênh mông nơi đạo đức giả ngự trị. Như thế, cuối cùng, thành công vật chất của chủ nghĩa tư bản được liên kết với một sự ngự trị của nửa-sự thật trong đời sống riêng tư của chúng ta.

5.3 Nỗi sợ Vô căn cứ về Tiến bộ công nghệ

5.3a Cả mớ Ngụy biện Lao động và sự Bất lực của Chúng ta để Hình dung Tương lai

Chúng ta có hai trăm năm kinh nghiệm về việc đưa vào các máy thay thế lao động con người. Mỗi lần sự tự động hóa quy mô lớn của các hoạt động trước kia do con người thực hiện xảy ra hay lù lù trên đường chân trời, đã có những nỗi sợ về sự thất nghiệp hàng loạt, sự xáo trộn xã hội, và, nói ngắn gọn, bi quan và tuyệt vọng. Và mỗi lần, các nỗi sợ này đã được coi là duy nhất và hoàn toàn mới. Và mỗi lần, sau khi các cú sốc qua đi, hóa ra là chúng đã bị thổi phồng.

Các robot và niềm đam mê với thuyết nhân hóa

Những thảo luận gần đây về sự đến của các robot tập trung vào mối đe dọa của các robot thay thế con người như cái gì đó thật sự mới mà có thể làm thay đổi cơ bản nền văn minh và cách sống của chúng ta. Nhưng một sự phát triển như vậy chẳng có gì mới cả. Các máy đã thay thế lao động lặp đi lặp lại (và đôi khi lao động sáng tạo) trên quy mô quan trọng kể từ sự bắt đầu của Cách mạng Công nghiệp. Các robot là không khác với bất kể máy khác nào.

Sự ám ảnh với, hay nỗi sợ về, các robot liên quan đến sự mê hoặc của chúng ta với thuyết nhân hóa (anthropomorphism) của chúng. Một số người nói về các lợi nhuận to lớn được gặt hái bởi “những người chủ của các robot,” cứ như những người chủ này là các chủ nô lệ (xem, chẳng hạn, Freeman 2014 và Rotman 2015). Nhưng không có những người chủ nào của các robot cả; chỉ có các công ty mà đầu tư vào và thực hiện các đổi mới công nghệ này, và chính các công ty này gặt hái các lợi ích. Có thể xảy ra rằng sự tự động hóa tăng lên sẽ làm cho phần vốn trong thu nhập quốc gia tăng thêm nữa, với tất cả các hậu quả lên bất bình đẳng giữa cá nhân được thảo luận trong Chương 2, nhưng lần nữa điều này không khác với các tác động của việc đưa các máy mới thay thế lao động vào—một thứ đã ở với chúng ta trong ít nhất hai thế kỷ.

Robotics (robot học) dẫn chúng ta đối mặt trực tiếp với ba ngụy biện.

Thứ nhất là ngụy biện về cả mớ học thuyết lao động, mà cho rằng tổng số việc làm là cố định và rằng khi các máy mới này tiếp quản các việc làm, chúng sẽ khiến nhiều người lao động đối mặt với sự thất nghiệp vĩnh viễn. Đường chân trời của chúng ta càng ngắn, lời tuyên bố đó càng có vẻ có lý. Đấy là bởi vì trong ngắn hạn, số việc làm quả thực là hạn chế; cho nên nếu nhiều việc làm hơn được máy thực hiện, thì ít việc làm hơn còn lại cho mọi người. Nhưng ngay khi chúng ta mở rộng tầm nhìn của mình tới các chân trời thời gian dài hơn, số việc làm không còn cố định nữa; chúng ta không biết bao nhiêu việc làm sẽ bị mất hay bao nghiêu việc làm mới sẽ được tạo ra. Chúng ta không thể xác định các việc làm mới là gì, hay bao nhiêu việc làm mới, có thể bởi vì chúng ta không biết các công nghệ mới sẽ mang lại những gì.25 Nhưng kinh nghiệm của hai thế kỷ tiến bộ công nghệ có thể giúp chúng ta. Chúng ta biết rằng các nỗi sợ tương tự đã luôn luôn tồn tại và đã chẳng bao giờ thành sự thật. Các công nghệ mới cuối cùng đã tạo ra đủ việc làm mới, và thực sự nhiều việc làm hơn và việc làm tốt hơn những việc làm đã bị mất. Điều này không có nghĩa rằng không ai mất vì kết quả của sự tự động hóa. Các máy mới (được gọi là “các robot”) sẽ thay thế một số người lao động, và tiền lương của một số người sẽ bị giảm. Nhưng dù các sự mất mát này có bi thảm đến đâu cho các cá nhân liên quan, chúng không tác động đến xã hội như một toàn bộ.

Ước lượng về tỷ lệ việc làm bị tự động hóa đe dọa rất khác nhau, cả giữa các nước và bên trong các nước, phụ thuộc vào phương pháp luận được dùng. Đối với Hoa Kỳ, các ước lượng về tỷ lệ việc làm bị rủi ro thay đổi giữa 7 và 47 phần trăm; đối với Nhật Bản, giữa 6 và 55 phần trăm.26 Các giá trị cao nhận được khi các nghề được hơn 70 phần trăm “chuyên gia” nghĩ rằng chắc có khả năng bị tự động hóa tác động; nhưng khi cùng bài tập được tiến hành ngó tới sự phân biệt chi tiết hơn giữa các nhiệm vụ bên trong các nghề, tỷ lệ phần trăm là nhỏ hơn nhiều, trải giữa 6 và 12 phần trăm cho các nước OECD (Hallward-Driemeier and Nayyar 2018). Các con số này ước lượng chỉ sự mất việc làm; chúng không (chúng cũng chẳng thể) gồm số không biết về các việc làm mới sẽ được tạo ra bởi cùng các công nghệ mà đã thay thế những người lao động trước tiên và đã tạo ra các nhu cầu mới.

Từ đó “cả mớ” ngụy biện thứ hai: các nhu cầu con người là hạn chế. Ngụy biện thứ hai liên kết với ngụy biện thứ nhất—cụ thể là, sự bất lực của chúng ta để xác định công nghệ mới sẽ mang lại cái gì—bởi vì nhu cầu của chúng ta, đến lượt, bị công nghệ sẵn có và biết rõ xác định. “Các nhu cầu” mà công nghệ hiện thời không thể thỏa mãn, theo một nghĩa kinh tế, không phải là các nhu cầu thực tế. Nếu ngày nay chúng ta cảm thấy nhu cầu để bay đến sao Pluto (Diêm Vương), nhu cầu đó không thể được thỏa mãn và không có tầm quan trọng kinh tế nào. Tương tự, nhu cầu của một thượng nghị sĩ La mã để ghi (âm) bài phát biểu của mình—nếu có bất cứ ai quả thực đã có một nhu cầu như vậy—đã không thể được thỏa mãn và đã không quan trọng. Nhưng ngày nay nó là quan trọng.

Hai ngụy biện này liên hệ theo cách sau đây: chúng ta có khuynh hướng tưởng tượng rằng nhu cầu con người bị hạn chế ở cái chúng ta biết là có ngày nay và cái người dân mong mỏi ngày nay, và chúng ta không thể thấy các nhu cầu mới nào sẽ nổi lên với các công nghệ mới (bởi vì bản thân các công nghệ là chưa được biết). Vì thế, chúng ta không thể hình dung các việc làm mới nào sẽ cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu mới được tạo ra. Lần nữa, lịch sử đến cứu nguy. Chỉ mới mười lăm năm trước chúng ta đã không thể hình dung nhu cầu cho một điện thoại thông minh (bởi vì chúng ta đã không thể hình dung sự tồn tại của nó), và như thế chúng ta đã không thể hình dung các việc làm mới được tạo ra bởi các áp (app) điện thoại thông minh: từ Uber đến các áp bán vé máy bay hay kết nối những người sở hữu chó với những người đang dắt chó đi đạo. Bốn mươi năm trước, chúng ta đã không thể hình dung ra nhu cầu để có môt máy tính trong nhà riêng của chúng ta, và chúng ta đã không thể hình dung ra hàng triệu việc làm mới được máy tính cá nhân tạo ra. Khoảng một trăm năm trước, chúng ta đã không thể tưởng tượng nhu cầu cho một ô tô cá nhân, và như thế đã không thể hình dung về Detroit và Ford và GM và Toyota và thậm chí các thứ như hướng dẫn quán ăn Michelin. Khoảng hai trăm năm trước, Jean-Baptiste Say, một trong những nhà kinh tế học ban đầu trứ danh nhất, đã cho rằng “không máy nào sẽ có bao giờ có khả năng thực hiện cái ngay cả những con ngựa tồi nhất có thể làm—dịch vụ vận chuyển người và hàng hóa qua sự náo động và đông đúc của một thành phố lớn.”27

Các nhà kinh tế học nổi tiếng khác, như David Ricardo và John Maynard Keynes (trong “Các Khả năng Kinh tế cho các Cháu của Chúng ta”), đã nghĩ rằng nhu cầu con người là hạn chế. Ngày nay chúng ta phải biết tốt hơn: nhu cầu của chúng ta là vô hạn, và bởi vì chúng ta không thể dự đoán chuyển động chính xác trong công nghệ, chúng ta không thể dự đoán các nhu cầu như vậy sẽ lấy hình thức cá biệt nào.

Ngụy biện “cả mớ” thứ ba là ngụy biện “cả mớ nguyên liệu và năng lượng”, ý tưởng về cái gọi là khả năng chịu đựng (carrying capacity) của trái đất. Tất nhiên có các giới hạn địa chất cuối cùng của cung nguyên liệu, đơn giản bởi vì trái đất là hữu hạn. (Tuy vậy lưu ý rằng, chí ít từ triển vọng con người, vũ trụ nhỏ của chúng ta, quả thực là vô tận.) Nhưng kinh nghiệm dạy chúng ta rằng các giới hạn trên mặt đất là rộng hơn chúng ta thường nghĩ vào bất kể thời gian nào rất nhiều bởi vì sự hiểu biết của chúng ta về trái đất chứa gì, và nó có thể được dùng thế nào cho nhu cầu của chúng ta, bản thân nó bị hạn chế bởi mức công nghệ hiện hành. Công nghệ càng tốt hơn, chúng ta khám phá càng nhiều trữ lượng của mọi thứ, và chúng ta sử dụng chúng càng hiệu quả. Việc chấp nhận rằng X là một nguồn năng lượng hay nguyên liệu có thể cạn kiệt, và rằng ở mức độ sử dụng hiện thời nó sẽ hết trong Y năm, chỉ là một phần của câu chuyện. Nó bỏ qua sự thực rằng khi X trở nên khan hiếm và tăng về giá, thì các khuyến khích sẽ tăng để tạo ra các thay thế (như những phát minh về đường củ cải, cao su nhân tạo, và công nghệ khai dầu đá phiến [fracking] cho thấy) hay để sử dụng hỗn hợp khác nhau của đầu vào để sản xuất hàng hóa cuối cùng mà bây giờ đòi hỏi X như đầu vào. Giá của hàng hóa cuối cùng có thể tăng lên, nhưng đấy chỉ là một sự thay đổi về giá tương đối, không phải một sự kiện tai biến. Khái niệm về khả năng chịu đựng, mà không bao gồm sự phát triển công nghệ và sự định giá trong phương trình của nó, chỉ là một “mớ” ngụy biện khác.

Một số nhà kinh tế học lỗi lạc, như Stanley Jevons, người đã thu thập hàng tấn giấy ở thế kỷ thứ mười chín khi kỳ vọng rằng cây gỗ sẽ cạn kiệt, đã ấp ủ cùng những nỗi sợ phi logic.28 Không chỉ đã hóa ra rằng, với nhiều ngàn (hay triệu?) lần sử dụng giấy lớn hơn, thế giới đã không cạn kiệt cây gỗ, nhưng ngoài ra, có thể hiểu được, Jevons đã không thể tưởng tượng nổi rằng công nghệ sẽ cho phép tái chế giấy và sự trồng lại rừng hiệu quả, hay rằng truyền thông điện tử cắt bớt nhu cầu giấy của chúng ta trước tiên. Chúng ta không thông minh hơn Jevons. Chúng ta cũng không thể hình dung cái gì có thể thay thế dầu nhiên liệu hay magnesium hay quặng sắt. Nhưng chúng ta phải có khả năng để hiểu quá trình nhờ đó sự thay thế xảy ra và để lập luận bằng sự tương tự.

Các nỗi sợ về robotics và công nghệ nảy sinh, tôi nghĩ, từ hai điểm yếu con người. Một là nhận thức: chúng ta đơn giản không biết sự thay đổi công nghệ tương lai sẽ là gì và như thế không thể nói các việc làm mới nào sẽ được tạo ra, các nhu cầu tương lại của chúng ta là gì, hay các nguyên liệu sẽ được sử dụng thế nào. Thứ hai là tâm lý: chúng ta cảm thấy hồi hộp từ sự sợ hãi điều chưa biết—trong trường hợp này, triển vọng gây kinh hoàng và vẫn quyến rũ của các robot kim loại thay thế những người lao động bằng xương bằng thịt trên sàn nhà máy. Sự mong muốn này cho một sự hồi hộp đáp ứng cho cùng nhu cầu mà làm cho chúng ta xem các phim rùng rợn và cho cái Keynes gọi là “sự sẵn sàng để bị hoảng sợ và bị kích động” của chúng ta. Chúng ta thích làm kinh hãi bản thân mình với suy nghĩ về sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, các giới hạn cho sự tăng trưởng, và việc các robot thay thế con người. Có thể là vui, hay có lẽ nó khiến chúng ta cảm thấy đầy đức hạnh vì không ngây thơ và lường trước điều tồi nhất, nhưng lịch sử dạy chúng ta rằng thế giới của các lao động robot không phải là cái gì đó chúng ta phải sợ một cách duy lý.

5.3b Các Vấn đề với Thu nhập Cơ bản Phổ quát

Sự phản ứng lại với các nỗi sợ như vậy về thất nghiệp hàng loạt đã cho sự nổi bật đột ngột cho khái niệm thu nhập cơ bản phổ quát (Universal Basic Income-UBI).29 UBI có bốn đặc điểm: nó là phổ quát, tức là, nó cung cấp một thu nhập cho mỗi công dân; nó là vô điều kiện, tức là, nó được trao cho mọi người với không đòi hỏi nào; nó được phân phát bằng tiền mặt; và nó là một nguồn thu nhập, tức là, luồng liên tục hơn là một trợ cấp một lần. (Một trợ cấp có thể cũng có ba đặc điểm đầu tiên nhưng chỉ được trả cho một cá nhân chỉ một lần.) Ý tưởng về một UBI đã trở nên phổ biến bên cánh tả bởi vì nó có vẻ hào phóng và, nếu đặt ở mức đủ cao, sẽ giảm nghèo và có lẽ giảm bất bình đẳng. Nó có vẻ để giải quyết vấn đề bất bình đẳng từ dưới lên: thay cho việc hạn chế các thu nhập cao nhất, nó nâng các thu nhập thấp nhất. Và nếu các thu nhập thấp nhất được làm cho đủ cao, nó cũng ngụ ý sự đánh thuế tương đối cao những người giàu (để tài trợ UBI), mà, theo một cách vòng quanh, sau đó làm giảm bất bình đẳng thu nhập. Quan niệm cũng hấp dẫn cho cánh hữu vì các lý do chính xác ngược lại. Nó có vẻ là một cách để thoát khỏi những than phiền vô tận về các thu nhập quá cao và về các nỗ lực để hạn chế chúng, và để dẹp bỏ một lần và mãi mãi sự chắp vá liên miên hệ thống thuế và chuyển giao. Một khi những người giàu đồng ý cung cấp cho mỗi người, bất chấp công trạng hay điều lầm lỗi của họ, một thu nhập đủ cho cuộc sống tử tế, sự bất bình đẳng tiếp sau có thể là bất cứ gì mà sự cạnh tranh thị trường và cạnh tranh độc quyền cho phép nó là. Cánh hữu vì thế xem UBI như một phương kế để tối đa hóa thu nhập cao trong khi cho họ một hào quang của khả năng chấp nhận xã hội.

Rõ ràng, nếu cái gì đó hấp dẫn cho hai khối cử tri mà các mục tiêu của chúng là hoàn toàn trái ngược, thì nó nhất thiết làm thất vọng ít nhất một trong hai, hay có lẽ cả hai. Nhưng trong khi UBI đang được tranh luận, mỗi bên có thể tin rằng nó sẽ cuối cùng được chứng minh là đúng, mà có nghĩa rằng sự hấp dẫn chính trị của khái niệm có thể không giảm cho cả hai bên. Đấy chính xác là tình hình chúng ta ở trong đó bây giờ.

Nhưng, dù sự hấp dẫn chính trị của nó thế nào, UBI có những vấn đề quan trọng làm cho việc áp dụng nó khó khăn.

Thứ nhất, chúng ta hầu như không có kinh nghiệm nào với nó. Báo cáo Phát triển Thế giới 2019 của World Bank, mà phần lớn dành cho các vấn đề tự động hóa và UBI, liệt kê chỉ hai kinh nghiệm toàn quốc với UBI. Một ở Mông Cổ, nơi một UBI bằng 16,50$ một tháng đã kéo dài hai năm, cho đến khi tiền từ đó nó được tài trợ (một giá thế giới cao cho các khoáng sản hiếm) cạn kiệt. Kinh nghiệm khác đã ở Iran, nơi các trợ cấp năng lượng được thay thế bằng một sự chuyển giao tiền mặt được trả cho 96 phần trăm dân cư. Khoản tiền đã là 45$ trên đầu người trên tháng, và chương trình đã kéo dài một năm.30 Thế thôi.

Các chương trình tương tự khác là nhỏ một cách thảm hại. Phần Lan đã có một thử nghiệm gồm hai ngàn người thất nghiệp, và Oakland, California, đã thí nghiêm với chỉ một trăm gia đình. Ngoài ra, lưu ý rằng tiền trong trường hợp Phần Lan đã được phát cho chỉ những người thất nghiệp; như thế chương trình đã không phổ quát cũng chẳng vô điều kiện. Bang Alaska phân chia các trợ cấp hàng năm cho tất cả công dân từ tiền lời của một quỹ tài nguyên thiên nhiên. Nhưng đấy là một trợ cấp trời cho mà thay đổi với vận may của quỹ và không phải một thu nhập hàng tháng được bảo đảm, được cho là về nguyên tắc để thanh toán các chi phí sinh hoạt. Khi người ta đặt tất cả các kinh nghiệm này lại với nhau, có giá trị hầu như không gì cả—và chẳng hề đến gần cái một UBI thật, theo những người ủng hộ nó, phải là: tức là, một chương trình phổ quát và bền vững cung cấp một thu nhập tối thiểu “chấp nhận được” bởi chính nó, và được trả hàng tháng cho đến vô tận (từ quan điểm của xã hội) hay cho đến chết (từ quan điểm của các cá nhân).

Thế nhưng, có thể cho rằng chỉ bởi vì cái gì đó chưa được thử không có nghĩa rằng nó không thể hoạt động. Đó là một điểm hợp lệ—nhưng cũng đúng rằng, cho đến nay, chúng ta không có kinh nghiệm nào cho thấy UBI sẽ thực sự hoạt động ra sao.

Vấn đề thứ hai là chi phí. Tình hình ở đây là phức tạp hơn một chút. Vì các lý do tài chính, là rõ rằng UBI không thể được cho là vận hành song song với tất cả các chương trình hiện có khác, từ trợ cấp trẻ em đến bảo hiểm khuyết tật. Như thế câu hỏi là: Nếu UBI là trung lập về tài khóa, các chương trình khác nào sẽ bị cắt và cắt bao nhiêu? Rõ ràng là có thể làm cho UBI trung lập về tài khóa bằng việc giảm hay cắt bớt các chương trình hiện có và định khoản tiền mặt do UBI chi trả ở một mức tương đương thích hợp. Câu hỏi là khi đó liệu một mức như vậy có được xem là đủ cho một tiêu chuẩn sống “tử tế” không. Những người bên cánh tả sẽ không nao núng nếu nó không đủ; họ đơn giản chủ trương các thuế cao hơn. Tính trung lập tài khóa không nhất thiết là cái gì đó họ quan tâm đến. Tuy vậy, là không hiển nhiên rằng cánh hữu sẽ thoải mái chút nào với một chương trình tốn kém như vậy và các thuế cao nó sẽ ngụ ý.

UBI phải có một cơ chế được cấy sẵn nhờ đó không chỉ lượng tiền của nó tăng với lạm phát, mà có sự liên kết nào đó giữa mức của nó và tăng trưởng GDP thực tế. Thí dụ, mỗi hai hay ba năm, UBI có thể tăng cùng (hay có lẽ thấp hơn?) tỷ lệ phần trăm GDP trên đầu người đã tăng. Hay nó có thể bị giảm khi GDP trên đầu người giảm.

UBI ngụ ý một triết lý mới về nhà nước phúc lợi

Vấn đề thứ ba mang tính triết lý. Hệ thống phúc lợi như đang tồn tại ở các nước giàu được tạo ra quanh ý tưởng về bảo hiểm xã hội. Offer and Söderberg (2016) cho rằng nguyên tắc bảo hiểm xã hội là xương sống của nền dân chủ xã hội. Nó bảo hiểm các cá nhân (và trong một số trường hợp, chỉ những người được thuê làm việc) chống lại các sự bất ngờ có thể tiên đoán được mà dẫn đến sự không có khả năng làm việc và để duy trì tiêu chuẩn sống của người ta. Nó bảo hiểm người dân chống lại bệnh tật và sự tàn tật, chống lại sự mất thu nhập do sinh đẻ, chống lại tuổi già, và chống lại sự mất việc làm. Nó cần phải là “xã hội,” tức là, phổ quát, nhằm để tránh loại tự-lựa chọn (self-selection) mà sẽ làm cho hệ thống không thể quản lý được về mặt tài chính: nếu những người mà nghĩ rằng rủi ro của họ về thất nghiệp là thấp có thể quyết định không đóng góp, thì chỉ còn lại các trường hợp rủi ro cao và phí bảo hiểm sẽ quá cao. Đấy là vì sao chủ nghĩa phổ quát và sự tái phân phối là phần không thể tách rời của hệ thống. Ngoài ra, cho những người bị bỏ sót và vẫn không có thu nhập có thể chấp nhận được bất chấp các chương trình bảo hiểm xã hội này, hệ thống đưa ra các trợ cấp xã hội được thẩm tra điều kiện được hưởng (means-tested) và mục tiêu của chúng, không giống bảo hiểm xã hội, là đơn giản ngăn ngừa nghèo.

Triết lý làm cơ sở cho nhà nước phúc lợi sẽ bị đại tu bởi việc đưa vào một hệ thống thu nhập cơ bản phổ quát. UBI không bảo hiểm chống lại các rủi ro; nó hoàn toàn bỏ qua chúng. Nó phân phối tiền cho tất cả mọi người ngang nhau, mặc dù tiền nhận được bởi các cá nhân khá giả bị lấy lại qua sự đánh thuế muộn hơn. Đấy không nhất thiết là một lý lẽ quyết định chống lại UBI. Triết lý mà trên đó một hệ thống phúc lợi dựa vào có thể, và có lẽ phải, thay đổi. Tuy nhiên nó nhắc nhở chúng ta rằng việc chuyển từ hệ thống hiện thời sang UBI sẽ không chỉ là một sự thay đổi kỹ thuật và tài chính; nó sẽ dẫn đến một sự thay đổi toàn bộ về triết lý mà đã chi phối nhà nước phúc lợi trong hơn một thế kỷ.

Vấn đề thứ tư cũng mang tính triết lý nhưng liên quan đến câu hỏi rộng hơn về sự đưa UBI vào sẽ khuyến khích loại xã hội nào. Cánh tả và cánh hữu như chúng ta đã thấy, có vẻ mường tượng hai thế giới rất khác nhau sẽ nảy sinh: cánh tả tin rằng UBI sẽ đưa vào các giới hạn trên các thu nhập cao nhất và sẽ kiềm chế bất bình đẳng; cánh hữu tin rằng nó sẽ làm ngược lại. Ngoài ra, chúng ta không biết UBI sẽ có tác động nào lên thiên hướng của người dân để tìm việc làm và để làm việc. Một mặt, một sự chuyển đều đặn một số tiền như UBI sẽ không tác động đến các quyết định về sự làm việc (tác động thay thế như giữa sự nhàn rỗi và sự làm việc sẽ là zero, vì UBI nhận được theo bất kể cách nào, và ở các mức thu nhập đủ thấp nó có thể không bị lấy lại qua đánh thuế). Mặt khác, người ta nhận được thu nhập cao hơn, khi so sánh với không thu nhập chút nào hay sự trợ giúp xã hội ở các mức thấp hơn nhiều, có thể khiến họ tiêu thụ nhiều sự nhàn rỗi hơn, tức là để làm việc ít hơn.

Là có thể rằng xét cho cùng tác động của UBI lên sự làm việc sẽ là nhỏ; nhưng cũng có thể rằng xã hội có thể trở nên rất phân cực, với, chẳng hạn, khoảng 20 phần trăm dân cư ở tuổi lao động chọn không làm việc chút nào. Đối với những người sẽ chọn không làm việc bởi vì họ thấy UBI là đủ, chúng ta phải cộng thêm những người có thể không cần làm việc bởi vì các khoản thu nhập vốn cao họ thừa kế (như đươc thảo luận trong Tiết đoạn 2.4). Việc này sẽ cho chúng ta một xã hội ba phần nơi những người ở dưới đáy và nhiều người ở trên đỉnh sẽ không làm việc chút nào, trong khi giai cấp trung lưu sẽ làm việc. Một xã hội như vậy, nơi sự làm việc không được xem như cái gì đó tốt và đáng mong muốn nội tại và nơi có lẽ một phần ba những người trẻ sẽ thường ở bên ngoài lực lượng lao động, có được xem là một xã hội tốt?

Đấy là những câu hỏi nên được đề cập trước khi chúng ta quyết định ủng hộ UBI hay chống lại nó. Chẳng cái nào trong số các sự phản đối mà tôi nêu lên tự nó là đủ để bắn hạ ý tưởng; mỗi trong số chúng có thể hoặc được giải quyết, né tránh, hay có lẽ bỏ qua như ít có khả năng. Nhưng tất cả chúng cùng nhau nêu ra các câu hỏi về tính khôn ngoan của việc chuyển nhanh tới UBI.

5.4 Luxe et Volupté (Xa hoa và Thú vị)

5.4a Hai Kịch bản: Chiến tranh và Hòa Bình

Khi chúng ta vẽ hải đồ sự tiến hóa thêm của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, chúng ta phải nghiêm túc tính đến khả năng của một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn cầu mà, nếu nó không phá hủy tất cả sự sống trên địa cầu, sẽ làm thay đổi triệt để tương lai của thế giới so với cái nó sẽ là dưới hoàn cảnh hòa bình hơn. Sẽ có, để nói ít nhất, một sự gián đoạn đột ngột trong sự phát triển—mặc dù chúng ta không nên trở thành con mồi của việc xem một cuộc chiến tranh như vậy như ngoại sinh đối với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Một sự tương tự với Chiến tranh Thế giới I là hữu ích. Đại Chiến đã làm thay đổi đáng kể quỹ đạo của lịch sử thế giới, so với bất kể phản thực tế (counterfactual) có lý nào. Nó đã trực tiếp gây ra cách mạng cộng sản 1917 và như thế đã dẫn đến sự thành lập một hệ thống kinh tế-xã hội thay thế mà, trong phần lớn của thế kỷ thứ hai mươi, đã là một thách thức nghiêm trọng và tin được đối với chủ nghĩa tư bản. Nó cũng tạo ra—với một độ trễ khoảng hai mươi năm, sự tiếp tục của nó được biết đến như Chiến tranh Thế giới II—một sự giảm tầm quan trọng toàn cầu của châu Âu và sự lên của Hoa Kỳ đến địa vị của một bá chủ toàn cầu. Và nó hầu như chắc chắn đã tăng tốc quá trình phi thực dân hóa, một phần bằng việc làm yếu các cường quốc thực dân Âu châu và một phần bằng việc làm mất tính hợp pháp sự cai trị của chúng.

Chiến tranh Thế giới I đã không chỉ đến từ trời xanh: các mầm của nó được chứa trong các điều kiện thịnh hành trước chiến tranh. Như John Hobson (1902) ban đầu đã lập luận, chủ nghĩa đế quốc Âu châu mà cuối cùng dẫn tới chiến tranh đã xuất hiện bởi vì sự bất bình đẳng cao trong nước về thu nhập và của cải được tạo ra bởi chủ nghĩa tư bản được toàn cầu hóa. Rất nhiều thu nhập trong tay những người giàu (mà thiên hướng trung bình của họ để tiêu thụ là thấp) đã gây ra một sự thiếu cân đối giữa khoản tiết kiệm (cao) và sự sẵn có của các khoản đầu tư trong nước sinh lời. Những người giàu như thế đã chuyển sang đầu tư nước ngoài như cách sử dụng tốt nhất cho các khoản tiết kiệm của họ. Các lĩnh vực hoạt động mới này cho chủ nghĩa tư bản toàn cầu có thể được làm an toàn cho vốn hoặc bằng sự xâm chiếm thuộc địa hay bằng sự kiểm soát chính trị de facto. Vài nhà nước lớn tất cả đều tìm cách để mở rộng tầm với của chúng theo cách này cùng một lúc, và sự cạnh tranh đế quốc nảy sinh. Tình hình này, khi chuyển thành chính trị Âu châu, đã gây ra chiến tranh.31

Như thế đã có một liên kết mạnh giữa các điều kiện kinh tế thịnh hành trước chiến tranh và “sự tất yếu” của chiến tranh. Như tôi đã lập luận trong Chương 3, Chiến tranh Thế giới I có lẽ là sự bác bỏ có lẽ mạnh nhất luận đề rằng chủ nghĩa tư bản cần hòa bình (hay thúc đẩy hòa bình) bởi vì sự tương thuộc kinh tế mạnh mà nó tạo ra giữa các quốc gia. Tất cả mọi người đã nghĩ thế trước 1914: đã là sự sáng suốt thông thường rằng một cuộc chiến tranh sẽ có các tác động tàn phá lên tất cả các bên, và thế nhưng, khi phải đưa ra các quyết định cuối cùng, tất cả mọi người đã vượt qua vách núi đá với mắt nhắm chặt.

Cùng logic áp dụng ngày nay. Ai cũng biết rằng một cuộc chiến tranh giữa các cường quốc lớn sẽ có một tác động thảm họa lên tất cả các nhà nước liên quan, với chỉ một tác động ít hơn một chút lên các nhà nước khác. Trong thế kỷ thứ hai mươi, thế kỷ giết chóc nhất trong lịch sử, một ước lượng về 231 triệu người đã chết như một kết quả của các cuộc chiến tranh; con số này là khoảng 2,6 phần trăm của khoảng 8,9 tỷ người đã sinh ra trong thế kỷ.32 Một cuộc chiến tranh trong thế kỷ thứ hai mươi mốt có thể là giết chóc hơn nhiều cả về số tuyệt đối, và có lẽ cả về số tương đối nữa. Suy nghĩ u sầu là chủ nghĩa tư bản tại điểm truyền bá và sức mạnh toàn cầu cao nhất trước của nó đã gây ra xung đột tàn phá nhất trong lịch sử cho đến lúc đó; và có một cơ hội nhiều hơn mức có thể bỏ qua rằng các cơ chế bên trong tương tự có thể dẫn đến một xung đột khác như vậy.

Một cuộc chiến tranh như vậy, nếu không dẫn tới sự tuyệt chủng của loài người, sẽ không phủ định tất cả những tiến bộ công nghệ đã được tạo ra trong vài trăm năm qua. Lý do là toàn cầu hóa đã truyền bá hiểu biết về công nghệ ra xa và rộng. Cho dù giả như Bắc Mỹ, châu Âu, và Nga ít nhiều bị phá hủy hoàn toàn và làm cho không thể sống được (với những sự giảm mạnh về thu nhập trên đầu người và có lẽ sự di cư hàng loạt của dân cư sống sót tới Mỹ Latin, châu Phi, và châu Á), sự hiểu biết công nghệ—từ sản xuất xe hơi và máy tính đến thực phẩm biến đổi gen—sẽ không mất đi. Sức mạnh tương đối của các nhà nước khác nhau sẽ bị thay đổi cơ bản (như sau hai cuộc Chiến tranh Thế giới của thế kỷ thứ hai mươi), nhưng, mặc dù tiến bộ công nghệ sẽ chịu một bước lùi lớn, nó sẽ không bị ngừng lại. Chính nhờ chủ nghĩa tư bản được toàn cầu hóa mà những sự phát triển công nghệ đã lan ra toàn thế giới, và (một cách mỉa mai) nhờ chủ nghĩa tư bản được toàn cầu hóa mà chúng sẽ được giữ gìn ngay cả tiếp sau một holocaust khổng lồ.33 Dưới kịch bản u ám này chủ nghĩa tư bản toàn cầu sẽ là cả một nguyên nhân của sự tàn phá và vị cứu tinh của nền văn minh. Nói cách khác, lời châm biếm được cho là của Einstein rằng Chiến tranh Thế giới thứ Tư sẽ chiến đấu với đá sẽ không tỏ ra là đúng. Cho dù giả như một nửa loài người bị tiêu diệt, hiểu biết công nghệ sẽ không bị xóa sạch.

Để kết luận, vấn đề của một cuộc chiến tranh toàn cầu xoay quanh câu hỏi liệu loài người đã đạt sự trưởng thành đủ để nhận ra rằng một tai họa như vậy sẽ nhạo báng khái niệm về “những người thắng” và “những kẻ thua,” hay nếu sẽ phải cần một chứng minh thực tế cho con người để nhận ra điều này.

Nếu một cuộc chiến tranh toàn cầu không xảy ra, chủ nghĩa tư bản toàn cầu có thể đi theo quỹ đạo nào trong các thập niên tới? Câu hỏi này dẫn chúng ta đến xem xét sự cạnh tranh giữa hai kiểu chủ nghĩa tư bản mà tôi đã xem xét trong cuốn sách này.

5.4b Chủ nghĩa Tư bản Chính trị vs. Chủ nghĩa Tư bản Tự do

Tôi đã thảo luận trong Chươngs 23 các vai trò mà Hoa Kỳ và Trung Quốc đóng như các nước tiêu biểu của chủ nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa tư bản chính trị một cách tương ứng. Ở mức trừu tượng hơn, chúng ta phải xem xét các lợi thế của hai kiểu chủ nghĩa tư bản một cách độc lập với các nước khởi xướng chính của chúng. Lợi thế của chủ nghĩa tư bản tự do nằm trong hệ thống chính trị dân chủ của nó. Nhiều người (nhưng không phải tất cả) coi dân chủ như một “cái tốt cơ bản (primary good)”—đáng mong muốn tự nó và như thế không cần sự biện minh bởi các tác động của nó lên, chẳng hạn, sự tăng trưởng kinh tế hay tuổi thọ kỳ vọng. Đấy là một lợi thế. Nhưng cũng có một lợi thế phương tiện của dân chủ. Bằng việc đòi hỏi sự tham vấn liên miên của dân cư, dân chủ cũng cung cấp một sự điều chỉnh mạnh mẽ cho các xu hướng kinh tế và xã hội mà có thể là có hại cho phúc lợi của dân chúng. Cho dù các quyết định của nhân dân đôi khi có thể dẫn đến các chính sách làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, tăng ô nhiễm, hay giảm tuổi thọ kỳ vọng, việc ra quyết định dân chủ, bên trong một thời kỳ tương đối ngắn, phải đảo ngược chúng. Để tin rằng dân chủ không quan trọng như một sự kiểm soát sự phát triển có hại, ta sẽ phải cho rằng đa số nhân dân sẽ đưa ra các lựa chọn sai (hay phi lý) trong một thời gian dài. Điều này có vẻ không chắc xảy ra.

Sự đánh đổi giữa thu nhập và quyền tự do chính trị

Ngược lại các lợi thế này của chủ nghĩa tư bản tự do, chủ nghĩa tư bản chính trị hứa hẹn sự quản lý nền kinh tế hiệu quả hơn nhiều và các tỷ lệ tăng trưởng cao hơn. Đấy không phải là một lợi thế nhỏ, đặc biệt nếu thu nhập cao và của cải được xếp hạng như các mục tiêu cuối cùng—một sự xếp hạng không chỉ bén rễ về mặt ý thức hệ vào chính ý tưởng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, mà cũng được bày tỏ hàng ngày trong hoạt động của hầu như tất cả những người tham gia vào kinh tế toàn cầu hóa (mà có nghĩa hầu như toàn bộ địa cầu). Rawls đã cho rằng các hàng hóa cơ bản [primary goods] (các quyền tự do cơ bản và thu nhập) được xếp thứ tự theo từ điển: nhân dân trao ưu tiên tuyệt đối cho các quyền tự do cơ bản trên của cải và thu nhập và như thế không chấp nhận một sự đánh đổi.34 Nhưng kinh nghiệm hàng ngày có vẻ cho thấy rằng nhiều người sẵn sàng đánh đổi các phần của việc ra quyết định dân chủ lấy thu nhập lớn hơn. Người ta cần đơn giản quan sát rằng bên trong các công ty sự sản xuất nói chung được tổ chức theo cách có thứ bậc nhất, không phải dân chủ nhất. Những người lao động không bỏ phiếu về các sản phẩm họ thích sản xuất hay họ thích sản xuất chúng như thế nào (chẳng hạn, với hay không với các máy). Lý do có vẻ là hệ thống thứ bậc dẫn đến hiệu quả cao hơn và lương cao hơn. Như Jacques Ellul (1963, 209) diễn đạt hơn nửa thế kỷ trước, “Kỹ thuật là ranh giới của dân chủ. Cái kỹ thuật thắng, dân chủ thua. Nếu chúng ta có các kỹ sư mà là nổi tiếng với những người lao động, họ sẽ dốt nát về máy móc.” Cùng sự tương tự có thể được mở rộng ra xã hội như một toàn thể: các quyền dân chủ khác có thể bị (và đã bị) từ bỏ tự nguyện vì thu nhập cao hơn. Chính vì lý do như vậy mà chủ nghĩa tư bản chính trị khẳng định tính ưu việt của nó.

Tuy vậy, vấn đề là nhằm để chứng minh tính ưu việt của nó và tránh một thách thức tự do (tức là, để được nhân dân chọn ưu tiên hơn chủ nghĩa tư bản tự do), chủ nghĩa tư bản chính trị cần liên tục đạt tỷ lệ tăng trưởng cao hơn. Như thế trong khi các lợi thế của chủ nghĩa tư bản tự do là “tự nhiên,” hay diễn đạt khác đi, được cấy vào sự cài đặt hệ thống, các lợi thế của chủ nghĩa tư bản chính trị mang tính phương tiện: chúng phải liên tục được chứng minh. Chủ nghĩa tư bản chính trị như thế bắt đầu với một khuyết tật. Nó cần chứng minh tính ưu việt của nó theo lối kinh nghiệm. Ngoài ra, nó đối mặt hai vấn đề nữa: (i) sự khó khăn để thay đổi hướng nếu một hướng sai đã được chọn bởi vì sự vắng mặt của những kiểm soát dân chủ, và (ii) một xu hướng nội tại tới tham nhũng bởi vì sự vắng mặt của luật trị. So với chủ nghĩa tư bản tự do, chủ nghĩa tư bản chính trị có một xu hướng lớn hơn để tạo ra các chính sách tồi và các kết cục xã hội xấu mà không thể được đảo ngược bởi vì những kẻ nắm quyền không có khuyến khích để thay đổi hướng. Khá dễ dàng nó cũng có thể gây ra sự bất mãn dân chúng do tham nhũng mang tính hệ thống của nó. Cả hai trong số “các tai họa” này là ít hệ trọng hơn trong chủ nghĩa tư bản tự do.

Chủ nghĩa tư bản chính trị vì thế cần bán mình trên cơ sở cung cấp sự quản lý xã hội tốt hơn, các tỷ lệ tăng trưởng cao hơn, và quản trị hiệu quả hơn (kể cả quản trị tư pháp). Không giống chủ nghĩa tư bản tự do, mà có thể có một thái độ thư thái hơn đối với các vấn đề tạm thời, chủ nghĩa tư bản chính trị, nếu muốn thành công, phải thường xuyên sẵn sàng đối phó. Tuy vậy, điều này có thể được xem như một lợi thế từ một quan điểm Darwinist xã hội: bởi vì áp lực liên tục để cung cấp nhiều hơn cho các cử tri của nó, chủ nghĩa tư bản chính trị có thể mài nhọn khả năng của nó để quản lý lĩnh vực kinh tế và để tiếp tục cung cấp, năm này qua năm khác, nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn đối tác tự do của nó. Như thế, cái thoạt tiên có vẻ là một khiếm khuyết có thể tỏ ra là một lợi thế.

Ba kịch bản

Trong cuốn sách của họ Dân chủ và Chủ nghĩa tư bản, được xuất bản trong năm 1986, Samuel Bowles và Herbert Gintis đã đoán trước ba hướng khả dĩ mà theo đó toàn cầu hóa có thể tiến hóa. Thứ nhất là hướng tân tự do, được phương Tây áp đặt và xoay quanh chủ nghĩa tư bản tài năng tự do. Thứ hai là tân-Hobbesian, được định nghĩa như “sự mở rộng của địa hình trên đó các quyền tài sản ngự trị, sự co lại của lĩnh vực các quyền cá nhân, và sự xây dựng các định chế nhà nước vô trách nhiệm” (198–199). Biến thể này là rất giống cái tôi định nghĩa như chủ nghĩa tư bản chính trị. Bowles và Gintis đã mô tả thêm biến thể này như “Burkean trong việc nó chấp nhận các giá trị truyền thống, [nhưng cũng] gần giống với kỹ nghệ xã hội (social engineering) nhìn vào tương lai của [Henri de] Saint-Simon” (198). Chủ nghĩa tư bản tân-Hobbesian kết hợp các giá trị xã hội tương đối bảo thủ, sự mở rộng các quyền tài sản trong nhiều lĩnh vực (cái tôi nhắc đến như sự hàng hóa hóa tăng lên) và các cố gắng để “cải thiện” xã hội qua kỹ nghệ xã hội. Các thứ này đều là các đặc trưng của chủ nghĩa tư bản chính trị thành công.

Biến thể thứ ba mà Bowles và Gintis xem xét gồm một xã hội của các rentier những người cho thuê hay cho vay vốn của họ cho các công ty được tổ chức một cách dân chủ. Kiểu này của chủ nghĩa tư bản hiện thời không tồn tại ở bất cứ đâu, mặc dù không phải là không thể để tưởng tượng rằng sự dồi dào vốn lớn hơn và một sự dừng tăng dân số, chúng ta có thể thấy các xã hội nơi quá trình thuê các nhân tố sản xuất có thể bị đảo ngược: tức là, nơi lao động sẽ thuê vốn thay cho ngược lại. Sự đảo ngược này đã chưa xảy ra cho đến nay không chỉ bởi vì vị thế mặc cả mạnh hơn của các chủ sở hữu vốn (tức là, sự khan hiếm tương đối của vốn so với lao động), mà cũng bởi vì các vấn đề phối hợp giữa những người lao động. Là dễ để phối hợp các lợi ích của một vài nhà tư bản hơn để phối hợp lợi ích của hàng ngàn người lao động—một sự thực mà Adam Smith đã lưu ý rồi. Một trở ngại khác là sự thiếu tài sản thế chấp giữa những người lao động, mà làm cho các nhà tư bản thận trọng về việc cho họ vay tiền. Hơn nữa, một công ty được tổ chức một cách dân chủ sẽ không, theo định nghĩa, dưới sự kiểm soát của các nhà cung cấp vốn, mà là một lý do nữa các nhà tư bản sẽ thận trọng cho vay tiền của họ.35 Thế nhưng, bất chấp tất cả các vấn đề này, người ta không thể loại trừ rằng một sự thay đổi về sức mạnh mặc cả tương đối giữa lao động và vốn có thể xảy ra trong thế kỷ thứ hai mươi mốt (khi nhiều vốn hơn được tích tụ và dân số toàn cầu ngừng tăng) và rằng một chỗ làm việc được tổ chức một cách dân chủ có thể xuất hiện như một thay thế cho chủ nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa tư bản chính trị. Nó sẽ vẫn là tư bản chủ nghĩa theo nghĩa rằng các chủ sở hữu tư nhân của các tư liệu sản xuất sẽ được giữ lại, nhưng sẽ không có lao động ăn lương nào. Sử dụng định nghĩa chuẩn của chủ nghĩa tư bản mà đòi hỏi cả hai phải hiện diện, thì rõ ràng rằng chúng ta không còn có thể gọi một xã hội như vậy là “tư bản chủ nghĩa” nữa.

5.4c Bất bình đẳng Toàn cầu và Các Thay đổi Địa chính trị

Suốt các chương trước, tôi đã cho thấy các tác động của những thay đổi kinh tế và địa chính trị mà đã làm giảm đầy kịch tính các khoảng cách (gap) thu nhập giữa một châu Á trỗi dậy và phương Tây. Nếu các xu hướng này tiếp tục, mà chúng ta có thể kỳ vọng một cách khá hợp lý, chúng sẽ đưa các mức thu nhập ở Trung Quốc và muộn hơn ở các nước Á châu khác như Thái Lan, Indonesia, Việt Nam, và Ấn Độ, gần với thu nhập của các nước Tây phương. Sự hội tụ này sẽ đưa thế giới trở lại sự ngang hàng tương đối của các mức thu nhập mà đã tồn tại trước Cách mạng Công nghiệp, khi thu nhập của Trung Quốc và Ấn Độ đã giống thu nhập của tây Âu. Hình mẫu này có thể thấy trong Hình 5.1, mà cho thấy GDP trên đầu người Trung quốc và Ấn Độ như một tỷ lệ phần trăm của GDP trên đầu người Anh, bắt đầu trong năm 1820 cho Trung Quốc và 1870 cho Ấn Độ và sau đó tập trung vào bốn điểm thời gian cốt yếu: (i) đầu các năm 1910, ngay trước Chiến tranh Thế giới I, (ii) cuối các năm 1940, vào thời gian của cách mạng cộng sản ở Trung Quốc và độc lập ở Ấn Độ, (iii) cuối các năm 1970, khi các cải cách Trung quốc bắt đầu, và cuối cùng (iv) ngày nay. Hình cũng cho thấy Indonesia so sánh theo cùng cách, và tại các điểm thời gian tương tự, với Hà Lan. Trong cả ba trường hợp, hình mẫu là như nhau. Vào thời Cách mạng Công nghiệp, thu nhập trên đầu người ở các nước Á châu đã là khoảng 40 phần trăm của thu nhập trên đầu người ở nước Anh (nước phát triển nhất châu Âu lúc đó). Các mức thu nhập tương đối Á châu sau đó đã giảm nhanh, đến mức từ giữa thế kỷ thứ hai mươi suốt cho đến cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, thu nhập trên đầu người của các nước Á châu đã ít hơn một phần mười thu nhập của Anh hay Hà Lan. Nhưng trong bốn mươi năm qua, tình hình đã thay đổi đột ngột, đặc biệt cho Trung Quốc, mà bây giờ đã quay lại hầu như cùng mức thu nhập tương đối mà nó đã có trong đầu thế kỷ thứ mười chín. Theo một nghĩa chúng ta đang chứng kiến sự hủy các tác động của Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất. Hình 5.1 minh họa câu chuyện của hai thế kỷ qua một cách ngắn gọn.

Sự hội tụ này về thu nhập cũng chịu trách nhiệm về sự giảm liên tục về bất bình đẳng thu nhập toàn cầu kể từ 1820 (xem Hình 1.1).36 Trong hai thập niên cuối của thế kỷ thứ hai mươi, sự tăng cơ bản về bất bình đẳng toàn cầu đã được kiềm chế nhờ hoàn toàn sự tăng trưởng Trung quốc (Milanovic 2012). Trong thời kỳ đó, một mình sự tăng trưởng ở Trung Quốc không chỉ đã ngăn sự tăng bất bình đẳng toàn cầu, mà nó cũng giải thích cho hơn 95 phần trăm sự giảm về số người trên thế giới sống dưới mức nghèo tuyệt đối (Chen and Ravallion 2007). Vào khoảng lúc chuyển sang thế kỷ thứ hai mươi mốt, Ấn Độ đã gia nhập với Trung Quốc trong vai trò đó, bởi vì dân số lớn, sự nghèo tương đối, và tỷ lệ tăng trưởng cao của Ấn Độ, bây giờ cũng đóng góp đáng kể cho một sự giảm về cả bất bình đẳng thu nhập toàn cầu và giảm nghèo toàn cầu.

clip_image002

HÌNH 5.1. GDP trên đầu người cho Trung Quốc và Ấn Độ như một tỷ lệ phần trăm của GDP trên đầu người Anh, và cho Indonesia như một tỷ lệ phần trăm GDP trên đầu người Hà Lan, từ Cách mạng Công nghiệp đến nay

Nguồn dữ liệu: Được tính từ Maddison Project (2018); tất cả dữ liệu GDP trên đầu người bằng PPP 2011 (biến số cgdppc, mà là biến số GDP thực tế được dùng cho các so sánh ngang quốc gia tại một điểm thời gian cho trước).

Tầm quan trọng của sự bất bình đẳng toàn cầu giảm không nằm ở sự giảm về một con số duy nhất (hệ số Gini về bất bình đẳng), mà đúng hơn ở sự hội tụ về thu nhập thực tế ngang các nhóm người to lớn. Có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, như thế chúng ta có thể nói về sự nổi lên của một giai cấp trung lưu toàn cầu. Tuy nhiên, là không rõ các hệ quả chính trị của sự phát triển này sẽ là gì. Trong các quốc gia riêng lẻ, một giai cấp trung lưu lớn đã được xem là quan trọng cho sự bảo vệ các quyền tài sản và sự ổn định chính trị (vì giai cấp này đã có khuynh hướng bảo vệ tài sản của nó khỏi bị tịch thu bởi những người nghèo và để ngăn những người giàu khỏi đòi độc quyền cai trị); nhưng là không hề rõ liệu vai trò cá biệt đó có thể được đóng bởi giai cấp trung lưu toàn cầu hay không, vì sự thiếu một chính phủ toàn cầu. Chắc có khả năng hơn là sự hội tụ thu nhập và sự nổi lên của một giai cấp trung lưu toàn cầu đơn giản có nghĩa rằng nhiều người hơn sẽ chia sẻ các hình mẫu hành vi và tiêu thụ giống nhau—cái gì đó mà chúng ta có thể dễ dàng quan sát rồi nhưng điều đó sẽ trở nên phổ biến hơn nhiều và gồm nhiều người hơn nhiều, khi thu nhập trong các nước Á châu đông người khác đuổi kịp các nước ở châu Âu và Bắc Mỹ. Như một chỉ báo về sự hội tụ đó đã tiến triển xa đến đâu rồi, lưu ý rằng trong năm 2017, về mặt GDP thực tế trên đầu người (hiệu chỉnh cho các sự khác biệt về các mức giá), Trung Quốc đã chỉ 10 phần trăm dưới Bulgaria, nước nghèo nhất trong Liên Âu, và ở 41 phần trăm của GDP trên đầu người EU được tính trọng số-dân số. Tuy vậy, với một giả thiết bảo thủ về sự tăng trưởng GDP trên đầu người Trung quốc là 6 phần trăm trên năm versus một sự tăng trưởng khắp-EU là 2 phần trăm, thì Trung Quốc sẽ chỉ cần khoảng một thế hệ (hai mươi tư năm) để đạt GDP trên đầu người trung bình toàn-EU. Như thế, vào 2040, toàn bộ Bắc Bán cầu của thế giới, gồm Bắc Mỹ, châu Âu (trừ Nga), Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc có thể có thu nhập gần như nhau, trong khi Nam Á và Đông Nam Á sẽ không xa đằng sau. Đó sẽ là một sự thay đổi mang tính thời đại.

Một ẩn số lớn liên quan đến bất bình đẳng toàn cầu là cái gì sẽ xảy ra ở châu Phi. Châu Phi là quan trọng vì hai lý do. Thứ nhất, châu Phi, cho đến nay, đã cho thấy rất ít dấu hiệu về khả năng để khởi động một quá trình hội tụ một cách bền vững, tức là, để có các tỷ lệ tăng trưởng thu nhập trên đầu người cao hơn các tỷ lệ tăng trưởng Tây phương trong một thời kỳ dài (chẳng hạn, hai mươi năm) trong hầu hết các nước. Thứ hai, châu Phi cho đến nay có sự tăng dân số kỳ vọng cao nhất thế giới. Nếu châu Phi không đuổi kịp thế giới giàu (phải được nhấn mạnh, về mặt trên đầu người [tức là tăng trưởng thu nhập trên đầu người không lớn hơn tăng trưởng thu nhập trên đầu người của thế giới giàu) và nếu dân số của nó tiếp tục tăng về số tuyệt đối và với một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ của phần còn lại của thế giới, thì không phải là không thể để hình dung một kịch bản mà dưới đó xu hướng tới một sự giảm về bất bình đẳng thu nhập toàn cầu đầu tiên ngừng lại và rồi đảo ngược. Đấy sẽ là một sự tiến triển đáng tiếc. Có thể rằng chúng ta khi đó sẽ phải đợi một giai đoạn tăng trưởng khu vực đáng chú ý thứ ba, Phi châu (giai đoạn đầu tiên là Tây phương và thứ hai là Á châu) để tạo ra một sự hội tụ toàn thế giới của thu nhập trung bình quốc gia.

Để kết luận, trong vài thập niên tới chúng ta có thể kỳ vọng sự hội tụ thu nhập ngang các mảng rộng của Âu-Á và Bắc Mỹ, các vùng hiện gồm hơn nửa dân số thế giới. Vẫn còn chưa biết liệu châu Phi hạ-Sahara, hiện nay chiếm khoảng 14 phần trăm dân số thế giới nhưng chắc có khả năng chiếm 20 phần trăm vào 2040, sẽ gia nhập sự hội tụ đó hay không.37

Trong khung cảnh này mà chúng ta phải đề cập đến vai trò mà Trung Quốc có thể đóng trong sự phát triển kinh tế của châu Phi. Nếu cách tiếp cận Trung quốc đến châu Phi, mà nhấn mạnh đến đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển đất (bất động sản), và tăng sản lượng thực phẩm và tài nguyên thiên nhiên, có dẫn đến sự tăng trưởng nhanh hơn ở các nước Phi châu quan trọng, thì sự hội tụ thu nhập khắp thế giới sẽ được tăng tốc. Ngoài ra, sự tăng trưởng nhanh hơn ở các nước Phi châu có thể làm giảm sự di cư của những người châu Phi mà điểm đến mong muốn của họ là các nước Âu châu giàu. Thành công của chiến lược kinh tế Trung quốc ở châu Phi sẽ giúp đáng kể châu Âu, mà, như tôi đã chỉ ra trong Chương 4, là vùng của thế giới có nhu cầu lớn nhất về lao động nước ngoài thế nhưng miễn cưỡng nhất để mở cửa chính mình cho các dòng lớn của những người di cư thêm. Như thế theo kinh nghiệm chúng ta thấy sự tương thuộc tăng lên của các phần khác nhau của thế giới: thành công của Trung Quốc và Ấn Độ không chỉ là tốt cho dân cư của chúng và cho giai cấp trung lưu toàn cầu mà cũng có thể khởi động sự phát triển của châu Phi và làm nhẹ bớt các áp lực di cư trực tiếp lên châu Âu.

Sự hội tụ của thu nhập toàn thế giới có thể cũng làm giảm rủi ro của một cuộc chiến tranh toàn cầu thảm khốc. Sau khi đã lưu ý rằng sức mạnh vượt trội của những người Âu châu trong thế kỷ thứ mười tám đã cho phép họ phạm mọi loại bất công, Adam Smith nghĩ rằng sự bình đẳng lớn hơn về của cải và sức mạnh giữa các phần khác nhau của thế giới có thể duy trì hòa bình nhờ sự sợ lẫn nhau: “Người bản xứ của các nước đó có thể trở nên mạnh hơn, hay người Âu châu có thể trở nên yếu hơn, và cư dân của các phần khác nhau của thế giới có thể đạt được sự ngang nhau về lòng can đảm và sức mạnh mà, bằng việc gây ra sự sợ hãi lẫn nhau, một mình có thể quá sợ sự bất công của các quốc gia độc lập và biến nó thành loại nào đó của sự tôn trọng các quyền của nhau.”38

5.4d Các Ghi chú Kết thúc về Hệ thống Xã hội mà Tới đó Cuốn sách này Có thể Dẫn đến

Hãy để tôi kết thúc bằng việc tóm tắt sự phát triển vừa qua của các xã hội tư bản chủ nghĩa Tây phương và suy đoán về tương lai sẽ ra sao. Đầu tiên tôi phác họa ba kiểu chủ nghĩa tư bản tự do hiện tồn (được định nghĩa trong Chương 2) và hai kiểu mang tính giả thuyết khác, chủ nghĩa tư bản nhân dân và chủ nghĩa tư bản bình quân chủ nghĩa, mà chưa bao giờ tồn tại trong thực tế. Sau đó tôi trình bày các chính sách mà có thể giúp chúng ta đạt một trong hai kiểu này.

   Chủ nghĩa tư bản cổ điển. Những người lao động chỉ có thu nhập từ lao động, các nhà tư bản chỉ có thu nhập từ vốn, và tất cả các nhà tư bản là giàu hơn tất cả những người lao động, tức là, các phân bố thu nhập của những người lao động và của các nhà tư bản không gối lên nhau. Chỉ có sự tái phân phối rất tối thiểu qua thuế và chuyển giao. Bất bình đẳng giữa các cá nhân là cao. Các lợi thế của sự giàu có được truyền ngang các thế hệ. Hình thức này cũng được gọi là chủ nghĩa tư bản Ricardo-Marx.

   Chủ nghĩa tư bản dân chủ-xã hội. Những người lao động có thu nhập chỉ từ lao động và các nhà tư bản có thu nhập chỉ từ vốn, nhưng không phải tất cả các nhà tư bản là giàu hơn tất cả những người lao động. Có sự tái phân phối đáng kể qua hệ thống thuế và chuyển giao, kể cả chăm sóc sức khỏe và giáo dục công miễn phí hay có thể tiếp cận được. Bất bình đẳng giữa cá nhân là vừa phải. Sự tiếp cận tương đối bình đẳng đến giáo dục cho phép tính di động thu nhập giữa thế hệ.

   Chủ nghĩa tư bản tài năng tự do. Hầu hết người dân có thu nhập nào đó từ cả lao động và vốn. Phần của thu nhập vốn tăng lên với mức thu nhập, thế nên những người cực giàu có hầu hết thu nhập vốn. Nhưng những người giàu có nhất (chẳng hạn, 5 phần trăm trên đỉnh) cũng có thu nhập lao động đáng kể. Sự tăng về phần vốn khi các xã hội trở nên giàu hơn, và sự liên kết của thu nhập vốn và thu nhập lao động cao trong cùng các cá nhân, chuyển thành bất bình đẳng giữa cá nhân lớn hơn. Hệ thống thuế và chuyển giao tái phân phối một phần đáng kể của tổng thu nhập, nhưng chủ nghĩa phân lập xã hội, bởi đó những người giàu thích đầu tư vào các hệ thống giáo dục tư và sức khỏe tư nhân, trở nên quan trọng hơn. Tính di động giữa thế hệ là ít hơn chủ nghĩa tư bản dân chủ-xã hội.

    Chủ nghĩa tư bản nhân dân. Mỗi người có các phần xấp xỉ bằng nhau của thu nhập vốn và lao động. Thu nhập của người dân vẫn khác nhau; một số người có cả thu nhập vốn và lao động nhiều hơn. Phần vốn tăng lên không chuyển thành bất bình đẳng lớn hơn giữa cá nhân, như thế bất bình đẳng không có xu hướng tăng. Sự tái phân phối trực tiếp là hạn chế, nhưng chăm sóc sức khỏe và giáo dục miễn phí giúp tính di động thu nhập giữa thế hệ.

   Chủ nghĩa tư bản bình quân chủ nghĩa. Mỗi người có các lượng xấp xỉ bằng nhau của cả thu nhập vốn và lao động, thế nên một sự tăng lên lớn về phần vốn không chuyển thành bất bình đẳng lớn hơn. Bất bình đẳng giữa cá nhân là thấp. Vai trò của nhà nước trong tái phân phối được hạn chế ở bảo hiểm xã hội. Bình đẳng tương đối về thu nhập bảo đảm bình đẳng cơ hội. Chủ nghĩa tự do (libertarianism), chủ nghĩa tư bản, và CNXH đến gần với nhau.

Theo một cách rất trừu tượng, câu hỏi về chủ nghĩa tư bản sẽ tiến hóa thế nào phụ thuộc vào liệu chủ nghĩa tư bản tài năng tự do sẽ có khả năng để di chuyển tới một giai đoạn tiên tiến hơn, giai đoạn của chủ nghĩa tư bản nhân dân, nơi (1) sự tập trung của thu nhập vốn (và sự tập trung của các chủ sở hữu của cải) sẽ nhỏ hơn, (2) bất bình đẳng thu nhập sẽ thấp hơn, và (3) tính di động thu nhập giữa thế hệ sẽ lớn hơn. Điểm cuối cũng sẽ ngăn chặn sự hình thành của một elite lâu bền. Nhằm để di chuyển đến đó—nếu thấy rằng một sự di chuyển như vậy là đáng mong muốn—là không đủ để có các chính sách gia tăng (incremental), dù chúng có ý nghĩa tốt và được thiết kế khéo thế nào. Là quan trọng để có một mục tiêu rõ ràng và có thể đo được trong đầu. Nếu hoặc chủ nghĩa tư bản nhân dân hay bình quân chủ nghĩa là mục tiêu, sự đo lường của sự tiến bộ hướng tới mục tiêu sẽ trở nên tương đối đơn giản và có thể được làm sử dụng kiến thức và kỹ thuật chúng ta có ngày nay. Hai cột gôn (goalpost) quan trọng nhất cho việc giám sát sự tiến bộ là liệu sự tập trung của cải và thu nhập từ vốn có được giảm bớt không, và liệu tính di động thu nhập (tương đối) giữa thế hệ có cải thiện không. Cả hai đều là các chỉ báo dài hạn, như thế những thay đổi hàng năm có thể không có ý nghĩa mấy. Nhưng sẽ là có thể để đặt một mục tiêu theo cách này và đo ở các khoảng cách dăm ba năm xem liệu có sự tiến bộ không.

Các chính sách mà sẽ dẫn đến sự tiến bộ tới mục tiêu đó, tất cả đã được tôi thảo luận trong các chương trước, là tương đối đơn giản và có thể được tóm tắt dưới bốn tiêu đề:

1.  Các lợi thế thuế cho giai cấp trung lưu, đặc biệt trong các lĩnh vực tiếp cận đến của cải tài chính và nhà ở, và một sự tăng tương ứng về đánh thuế những người giàu; cộng với, sự quay lại việc đánh thuế cao sự thừa kế. Mục tiêu là để làm giảm sự tập trung của cải vào tay những người giàu.

2.  Một sự tăng đáng kể về tài trợ cho và cải thiện chất lượng của các trường công, mà chi phí phải đủ thấp để có thể tiếp cận được cho không chỉ giai cấp trung lưu mà cho cả những người trong ba thập phân vị đáy của phân bố thu nhập. Mục tiêu là để giảm sự truyền các lợi thế ngang các thế hệ và làm cho bình đẳng cơ hội thực tế hơn.

3.  “Quan niệm tư cách công dân,” mà sẽ dẫn đến sự kết thúc phân chia nhị phân nghiêm ngặt giữa các công dân và không-công dân. Mục tiêu là để cho phép sự di cư mà không gây ra sự phản ứng dân tộc chủ nghĩa dữ dội.

4.  Sự tài trợ công hạn chế nghiêm ngặt và dành riêng cho các cuộc vận động chính trị. Mục tiêu là để giảm khả năng của những người giàu để kiểm soát quá trình chính trị và hình thành một giai cấp thượng lưu lâu bền.

Hay sự hội tụ của chủ nghĩa tư bản tự do và chính trị? Một sự tiến hóa hoàn toàn khác của chủ nghĩa tư bản tự do có thể là sự chuyển động tới một chủ nghĩa tư bản tài phiệt và cuối cùng chủ nghĩa tư bản chính trị. Kịch bản này là cũng có thể—và các đặc điểm trong chủ nghĩa tư bản tự do ngày nay trở thành tài phiệt càng mạnh, thì một sự tiến hóa như vậy càng chắc có khả năng. Nó là một sự tiến hóa tương thích ở một mức độ lớn với các lợi ích của elite mới mà đang được hình thành dưới chủ nghĩa tư bản tự do. Nó sẽ cho phép elite trở nên tự trị hơn nhiều khỏi phần còn lại của xã hội. Thực ra, như đã cho thấy trong Chương 2, sự duy trì elite đòi hỏi nó kiểm soát lĩnh vực chính trị, cái tôi đã gọi là “việc thắt chặt nút trên của cải và quyền lực.” Quyền lực kinh tế và chính trị trong chủ nghĩa tư bản tự do càng được thống nhất, chủ nghĩa tư bản tự do càng trở nên tài phiệt và càng trở nên giống chủ nghĩa tư bản chính trị. Trong cái sau, sự kiểm soát chính trị là cách để kiếm được các lợi ích kinh tế; trong chủ nghĩa tư bản tài phiệt, tự do trước kia, quyền lực kinh tế được dùng để chinh phục chính trị. Điểm cuối của hai hệ thống trở thành như nhau: sự thống nhất và sự bền bỉ của các elite.

Các elite cũng có thể tin họ có khả năng vận hành xã hội hiệu quả hơn bằng việc dùng bộ công cụ kỹ trị của chủ nghĩa tư bản chính trị. Một sự quá độ tới chủ nghĩa tư bản chính trị có thể được tăng nếu những người trẻ ngày càng bị các đảng dòng chính theo các chính sách ít nhiều như nhau làm vỡ mộng, và vì thế mất hy vọng rằng các quá trình dân chủ có thể dẫn đến sự thay đổi có ý nghĩa. Mục tiêu của chủ nghĩa tư bản chính trị là đưa chính trị ra khỏi tâm trí của người dân, mà có thể được làm dễ hơn khi sự vỡ mộng và thiếu quan tâm vào chính trị dân chủ là cao.

Nếu giả như chủ nghĩa tư bản tự do tiến hóa tới chủ nghĩa tư bản chính trị, nó sẽ phô bày tất cả hay hầu hết các đặc điểm mà tôi đã thảo luận ở Chương 3. Một sự quản lý rất hiệu quả của nền kinh tế sẽ đòi hỏi để tạo ra các tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao mà sẽ giữ dân cư thỏa mãn; một bộ máy quan liêu hiệu quả sẽ cần để thực hiện các biện pháp như vậy; và sẽ có một sự tăng về tham nhũng nội tại mà có thể luôn luôn, trong dài hạn, là một mối đe dọa cho sự sống sót của một chế độ.


————

PHỤ LỤC B: SIÊU-THƯƠNG MẠI HÓA VÀ “BÀN TAY VÔ HÌNH” CỦA ADAM SMITH

Trong Chương 5 tôi đã thảo luận tương tác giữa toàn cầu hóa được siêu-thương mại hóa và các giá trị và hành vi của chúng ta. Tại đây tôi xem xét cùng vấn đề được Adam Smith giải quyết ra sao, vào thời đầu của chủ nghĩa tư bản, và chỗ của “bàn tay vô hình” trong lý lẽ của Smith.

Kiểu lý lẽ bàn tay vô hình dựa vào sự chấp nhận cái, trong thời trước-Khai Sáng, được cho là các đam mê tàn phá và tham lam vô độ của quyền lực, khoái lạc, và lợi nhuận (để sử dụng sự phân loại của David Wootton [2018]) chừng nào, khi được kiểm soát, chúng có khả năng dẫn đến một lợi ích xã hội. Đi trệch khỏi đạo đức học Aristotelian và đạo lý Kitô, nơi sự nhấn mạnh là đến các đức hạnh cá nhân như sự dũng cảm, sự tự chủ, và tính chân thật, David Hume, Adam Smith, và những người khác thấy rằng nếu người ta trao một vai trò cho cái thông thường được xem là các tật xấu con người, như tư lợi và tham vọng, người ta có thể khai thác chúng cho dự án cải thiện xã hội. Nếu một người không thể trở nên giàu trừ bằng việc làm cho ai đó khác khấm khá hơn, hay không thể đạt quyền lực lớn hơn trừ bằng việc quyền lực đó được ủy quyền một cách tự do và tạm thời cho mình, thì các tật xấu quy ước có thể được dùng như các động cơ để làm tăng hạnh phúc, của cải, và an ninh xã hội. Cái “ma lực,” mà biến đổi các tật xấu cá nhân thành các đức hạnh xã hội, là bàn tay vô hình của Smith.

Summum bonum (điều tốt lớn nhất cho) xã hội có thể đạt được chỉ bằng việc dựa vào các lợi ích cá nhân, mà tự-chúng không luôn luôn đáng ca ngợi. Các phần thưởng cũng chẳng luôn luôn đổ dồn cho người có đức hạnh. Sự tương phản này giữa mức cá nhân và mức xã hội được Mandeville phơi bày một cách rõ ràng, và ở một mức độ còn lớn hơn bởi Machiavelli, nhưng được Smith trình bày theo cách có sắc thái hơn, có lẽ bởi vì thuyết hữu thần của ông. Điều này có vẻ đặc biệt là thế trong Theory of Moral Sentiments (Lý thuyết về Tình cảm Đạo đức), nơi Smith đến gần Leibniz và lập trường bị Voltaire chế nhạo khi ông chế giễu ý tưởng về “cái tốt nhất trong tất cả các thế giới khả dĩ” trong Candide:

Hạnh phúc của loài người, cũng như của tất cả các sinh vật duy lý, có vẻ đã là mục đích gốc có định ý của Tác giả của tự nhiên, khi ngài tạo ra chúng. Không mục đích khác nào có vẻ xứng đáng với minh triết tối cao và lòng nhân từ thánh thiện đó mà chúng ta nhất thiết quy cho ngài; và ý kiến này, mà chúng ta có được từ sự xem xét trừu tượng về những sự hoàn hảo vô tận của ngài, vẫn được xác nhận nhiều hơn bởi sự xem xét các công trình tự nhiên, mà có vẻ đều có ý định để thúc đẩy hạnh phúc, và để bảo vệ chống lại sự khốn khổ. (Theory of Moral Sentiments, book 3, chap. 5, §7)

Không có sự mâu thuẫn nào giữa cái người ta nhận được và cái người ta xứng đáng, Smith tiếp tục:

Nếu chúng ta xem xét các quy tắc chung mà theo đó sự thịnh vượng và tai ương bên ngoài thông thường được phân bố trong cuộc đời này, chúng ta sẽ thấy, rằng bất chấp sự lộn xộn mà trong đó mọi thứ xuất hiện trên thế giới này, tuy nhiên ngay cả ở đây đức hạnh gặp một cách tự nhiên với phần thưởng thích hợp của nó. (book 3, chap. 5, §8)

Và nếu có một mâu thuẫn như vậy giữa công trạng và phần thưởng, điều này là một tai nạn tương tự như một trận động đất hay một lũ lụt (mặc dù chúng ta không biết vì sao Tác giả của tự nhiên lại cho phép các tai nạn như vậy):

Vào hoàn cảnh rất khác thường và không may nào đó, một người tốt có thể bị nghi ngờ về một tội ác mà ông ta hoàn toàn không có khả năng phạm, và dựa vào lý do đó bị đặt vào thế oan ức nhất trong phần còn lại của đời ông với sự ghê rợn và ác cảm của loài người. Do tai nạn thuộc loại này ông ta có thể được nói là mất tất cả, bất chấp sự liêm chính và lẽ phải của ông; theo cùng cách như một người thận trọng, bất chấp sự thận trọng hết sức của ông, có thể bị phá hủy bởi một trận động đất hay một trận lụt. (book 3, chap. 5, §8)

Các lý lẽ tôi đưa ra trong Chương 5 về toàn cầu hóa được siêu-thương mại hóa tác động thế nào đến các giá trị và hành vi của chúng ta, và có đi có lại, các giá trị của chúng ta định hình các xã hội được thương mại hóa hiện tồn thế nào, là phù hợp cơ bản với cách nhìn của Smith về tư lợi cá nhân chuyển hóa thành một lợi ích xã hội như thế nào. Nhưng chúng không phù hợp hoàn toàn và vô điều kiện.

Quan điểm của tôi đi trệch kết luận cuối cùng lạc quan của Smith theo hai cách. Thứ nhất, tôi cho rằng một sự hàng hóa hóa lớn hơn bao giờ hết của đời sống chúng ta dẫn đến sự sử dụng của, và thường sự dựa không hạn chế vào, các đam mê quyền lực, khoái lạc, và lợi nhuận. Vì các đam mê này khi đó tạo ra các tác động xã hội thuận lợi người ta phải áp đặt “hàng rào” chính phủ lớn hơn bao giờ hết, thử ngăn chặn, qua các ràng buộc pháp lý và pháp luật cứng rắn, một bước đi trước những sự lạm dụng có thể. Điều này là không dễ đạt được dưới hoàn cảnh tốt nhất có thể tưởng tượng được, và còn khó khăn hơn đê đạt khi những người nắm quyền không có một khuyến khích để cho phép các ràng buộc chính phủ như vậy được đưa vào. Thứ hai, một số hình thức cực đoan, mà các đam mê như vậy có thể lấy, không thể được thuần hóa bởi bất kể phương pháp nào. Điều này áp dụng cho các hoạt động mà ngay từ đầu là bất hợp pháp hay vô đạo đức, và tầm quan trọng của chúng có lẽ là lớn hơn trong các xã hội có đầu óc thương mại hơn. Đấy là hai ví dụ nơi sự chuyển hóa Smithian của các tật xấu thành các đức hạnh trở nên khó để có kết quả trong các xã hội được siêu-thương mại hóa.

Khi đó người ta có thể tự hỏi trong chừng mực nào các định đề then chốt về sự chuyển hóa Smithian có hiệu lực ngày nay. Nếu tại một điểm các sự kiểm soát cả bên trong lẫn bên ngoài đều không đủ mạnh để kiểm soát và hướng các đam mê cá nhân vào các kênh hữu ích về mặt xã hội, thì sự sử dụng tự do của chúng quả thực có thể dẫn đến các kết cục tàn phá. 


PHỤ LỤC C:  VÀI VẤN ĐỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ ĐỊNH NGHĨA

Trong phụ lục này tôi cung cấp chi tiết hơn về vài chủ đề được thảo luận trong cuốn sách này: bất bình đẳng toàn cầu được đo như thế nào (Tiết đoạn 1.2 và Hình 1.1), phần của vốn trong tổng thu nhập ròng được ước lượng ra sao (Tiết đoạn 2.2a), và vì sao sự hội tụ thu nhập giữa các nước giàu và nghèo được kỳ vọng (Tiết đoạn 3.2b và Hình 3.2).

Đo Bất bình đẳng Toàn cầu

Bất bình đẳng toàn cầu nhắc đến bất bình đẳng thu nhập giữa tất cả các công dân thế giới, được đo tại một điểm thời gian cho trước. Về mặt phương pháp luận nó không khác với bất bình đẳng thu nhập bên trong một nước, chẳng hạn, Hoa Kỳ. Sự khác biệt duy nhất là diện tích mà trên đó chúng ta tính bất bình đẳng toàn cầu là lớn hơn. Nhưng phương pháp luận và các công cụ đo lường (thí dụ, việc sử dụng hệ số Gini, số đo bất bình đẳng nổi tiếng nhất) là như nhau.1

Dữ liệu về bất bình đẳng toàn cầu bình thường đến từ các khảo sát hộ gia đình đại diện quốc gia mà sau đó được kết hợp thành một phân bố thu nhập thế giới tổng thể. (Rõ ràng, nếu giả như chúng ta có một khảo sát hộ gia đình toàn cầu, việc tạo ra một phân bố thu nhập toàn cầu sẽ là dễ dàng hơn.) Các khảo sát quốc gia cung cấp các thu nhập hộ gia đình được tính bằng đồng tiền quốc gia. Các số tiền này được chuyển đổi thành cái gọi là dollar quốc tế (cũng gọi là dollar PPP, hay ngang sức mua) mà về nguyên tắc có cùng sức mua trong bất kể nước nào. Việc này được làm nhằm để điều chỉnh thu nhập kiếm được trong các nước nghèo hơn, mà mức giá của chúng nói chung thấp hơn mức giá của các nước giàu hơn (thí dụ, cùng số lượng thực phẩm là rẻ Ấn Độ hơn ở Na Uy). Thủ tục này làm cho dữ liệu thu nhập quốc gia có thể so sánh được với nhau.

Phương pháp luận vừa được mô tả có thể được dùng chỉ cho thời kỳ sau giữa- đến cuối những năm 1980 bởi vì khảo sát hộ gia đình cho một số phần quan trọng của thế giới đã không tồn tại trước lúc đó. Khảo sát hộ gia đình đã không được đưa vào trong nhiều nước Phi châu cho đến những năm 1980, các khảo sát của Trung Quốc chỉ sẵn có bắt đầu trong 1984, và các khảo sát được tiến hành ở Liên Xô đã không được công bố cho đến cuối những năm 1980. Như thế trong các thời kỳ sớm hơn, quay lại đến tận 1820, các ước lượng thô hơn nhiều phải được dùng. Trong công trình tiên phong của họ, François Bourguignon and Christian Morrisson (2002) đã chia thế giới thành ba mươi ba khối vùng và bên trong mỗi khối này áp dụng cùng phân bố thu nhập được ước lượng cho tất cả các nước, ở các khoảng thời gian gần hai mươi-năm. Như thế tất cả các nước được gồm trong một khối vùng (trong một năm cho trước) được giả sử có cùng phân bố thu nhập. Điều này dẫn đến một sự đơn giản hóa đáng kể, nhưng đã là tốt nhất mà có thể được làm vì sự thiếu dữ liệu chung về các phân bố thu nhập lịch sử. Một số công trì mới hơn, sử dụng các phân bố lịch sử hơi khác một chút, đã xác nhận các kết quả chính của Bourguignon and Morrisson (van Zanden et al. 2014; Milanovic 2011).

Cho các thu nhập trung bình quốc gia (mà là cần nhằm để neo một phân bố cho trước), Bourguignon and Morrisson đã sử dụng các ước lượng GDP 1990 trên đầu người của Angus Maddison (2007) cho hầu hết các nước trên thế giới từ 1820 đến cuối thế kỷ thứ hai mươi.

Trong Hình 1.1 của tôi, cho thời kỳ đến 1988, tôi lấy các phân bố Bourguignon-Morrisson và các định nghĩa của khối vùng gốc nhưng thay thế GDP 1990 trên đầu người của Maddison bằng các ước lượng GDP trên đầu người mới được tạo ra bởi Maddison Database Project sử dụng các ước lượng PPP 2011, mà là các ước lượng sẵn có gần đây nhất.2 Cái sự tính toán lại này làm là để áp đặt các phân bố gốc lên các ước lượng được cải thiện hơn nhiều của GDP trên đầu người lịch sử. Cho thời kỳ sau 1988, tôi dùng khảo sát hộ gia đình quốc gia (như được giải thích ở trước) và chuyển đơn vị tiền tệ quốc gia thành dollar quốc tế 2011 (PPP).

Là quan trọng để lưu ý rằng bất bình đẳng được tính về mặt thu nhập khả dụng (sau thuế) và được tính ngang tất cả các cá nhân, nơi mỗi cá nhân được gán thu nhập trung bình trên đầu người cho hộ gia đình của người đó (thí dụ, nếu tổng thu nhập hộ gia đình sau thuế là 400, và có bốn thành viên hộ gia đình, thì mỗi người được gán một thu nhập 100). Cách tiếp cận này được duy trì cho tất cả các tính toán, từ 1820 đến 2013.

Đo Phần Vốn trong Tổng thu nhập ròng

Thu nhập quốc gia được chia giữa các chủ sở hữu tài sản hay vốn (các nhà tư bản) và những người cung ứng lao động (những người lao động). Phân bố thu nhập quốc gia giữa vốn và lao động được gọi là phân bố chức năng của thu nhập để phân biệt với phân bố giữa cá nhân, được thảo luận, chẳng hạn, trong tiết đoạn trước liên quan đến phân bố thu nhập toàn cầu. Thu nhập vốn gồm tất cả thu nhập nhận được từ tài sản mà một người sở hữu: cổ tức, lãi, và tiền cho thuê (rent). Thu nhập quốc gia có thể được bày tỏ về mặt tổng (kể cả sự khấu hao của vốn) hay về mặt ròng (trừ khấu hao). Do đó phần của vốn trong thu nhập quốc gia có thể là hoặc ròng hay tổng (gross [hay gộp]). Các nghiên cứu kinh nghiệm thường dùng phần vốn tổng, mà gần đây đã được chứng tỏ biểu hiện một sự tăng dốc hơn phần ròng ở Hoa Kỳ (Rognlie 2015). Tuy vậy, trong hai thập niên qua, sự sử dụng cả hai số đo có khuynh hướng cho thấy một phần vốn tăng lên (như được thảo luận trong Tiết đoạn 2.2a). Điều này đúng cho cả các nền kinh tế tiên tiến và các nền kinh tế thị trường mới nổi, mặc dù tác động là mạnh hơn trong cái trước (Dao et al. 2017).

Có ba vấn đề đo lường hay kế toán khó khăn cần được giải quyết nhằm để tính phần vốn. Thứ nhất là sự phân chia thu nhập tự-kinh doanh (doanh nghiệp nhỏ) giữa vốn và lao động. Người tự-kinh doanh thực hiện một thu nhập ròng, nhưng vì bản thân họ là những người cung cấp vốn và cũng là những người lao động, là không rõ thu nhập của họ phải được phân ra thế nào giữa hai nhân tố sản xuất. Sự phân chia này thường được làm như một nửa-một nửa hay như hai phần ba cho lao động, một phần ba cho vốn. Là rõ ràng rằng sự phân chia như vậy là tùy ý, hay theo quy ước, nhưng cũng có khả năng rằng, khi phần của thu nhập tự-kinh doanh không thay đổi nhiều, quy tắc phân chia sẽ có một tác động tối thiểu lên những sự thay đổi về các phần lao động và vốn được tính toán. Vấn đề là quan trọng hơn khi bản thân thu nhập tự-kinh doanh thay đổi. Khi đó quy tắc phân chia có thể ảnh hưởng đến sự tiến hóa của phần vốn được tính toán.

Vấn đề thứ hai là một vấn đề gần đây hơn và liên quan đến các lương rất cao và các thu nhập giống-cổ phần nhận được bởi các nhà quản lý chóp bu. Vì các CEO hay các nhà quản lý khác, dù được trả cao thế nào, họ vẫn là những người lao động, có vẻ rõ rằng thu nhập của họ phải được bao gồm trong phần lao động. Tuy vậy, không có sự thống nhất nào về điểm này, như một số các nhà kinh tế học lập luận rằng bởi vì thu nhập CEO bắt chước thành tích thị trường chứng khoán (chẳng hạn, nếu tiền lương hay phần thưởng được liên kết với giá cổ phiếu), chúng phải được đối xử như thu nhập vốn. Đấy là một vấn đề chưa được giải quyết. Lý lẽ ngược lại, ủng hộ việc đối xử với tiền lương như vậy như thu nhập lao động, là một lý lẽ mạnh, bởi vì tiền lương được giải ngân chỉ trong trường hợp sự hiện diện thân thể và sự làm việc của một người. Sự thực, rằng các thu nhập như vậy là cao, là không quan trọng: chúng có thể là cao bởi vì quyền lực độc quyền hay những sự vi phạm khác về cạnh tranh, nhưng đấy là một vấn đề tách biệt không liên quan đến các quy tắc phân chia.

Vấn đề thứ ba là sự đối xử với thu nhập được quy cho từ nhà ở. Điều này là đặc biệt quan trọng bởi vì nhà ở là một phần lớn của tổng của cải (ở Hoa Kỳ, giữa một phần tư và 30 phần trăm [Wolff 2017]), và cho nhiều gia đình giai cấp-trung lưu, nhà ở là tài sản đáng kể duy nhất họ sở hữu (Kuhn, Schularick, and Steins 2017, 37). Thu nhập được gán cho từ nhà ở, tức là, tiền thuê mà những người chủ “trả” cho bản thân họ vì một căn hộ hay căn nhà, là một thu nhập rõ ràng từ tài sản và được bao gồm trong thu nhập vốn. Tuy vậy, không phải tất cả các nước báo cáo các giá trị được quy cho nhà ở. Ngoài ra, giá trị được quy cho nhà ở là khó để xác định: các hộ gia đình có thể có khuynh hướng đánh giá thấp nó, và các hồi quy hedonic dựa vào sự quan sát một số tham số nhà ở chính có thể không luôn luôn đáng tin cậy. Nhưng nếu phần vốn được tính chỉ từ bên sản xuất (tức là, dựa vào phân bố của thu nhập ròng giữa vốn và lao động của các công ty phi tài chính và tài chính), thu nhập được quy cho từ nhà ở có thể được bỏ ra.

Sự hội tụ thu nhập

Một trong những kết quả lý thuyết và kinh nghiệm chuẩn trong kinh tế học tăng trưởng là tỷ lệ tăng trưởng của một nền kinh tế tương quan âm với mức thu nhập của nó.3 Điều này có nghĩa rằng chúng ta kỳ vọng, tại một thời kỳ cho trước, chẳng hạn trong một đến năm năm, rằng các nền kinh tế giàu sẽ có khuynh hướng tăng trưởng chậm hơn các nền kinh tế nghèo. Kết quả cũng được biết đến trong kinh tế học thực nghiệm như sự hội tụ vô điều kiện. Khi các tỷ lệ tăng trưởng của các nước được hồi quy trên một số biến tác động đến sự tăng trưởng, như các tỷ lệ vốn-lao động, mức giáo dục của dân cư, các thể chế (dân chủ, luật trị, hệ thống chính trị tỷ lệ hay đa số), và sự tham gia của phụ nữ trong lực lượng lao động, hệ số trên mức thu nhập là hầu như luôn luôn âm—ngụ ý rằng các nước giàu hơn sẽ, ceteris paribus (các thứ khác không đổi), có khuynh hướng tăng trưởng chậm hơn. Kết luận là nếu hai nước có tất cả các đặc trưng khác giống nhau nhưng khác chỉ bởi mức thu nhập của chúng, nước nghèo hơn sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Đấy được gọi là sự hội tụ có điều kiện.

Một sự hiểu trực giác về kết quả đó là khi các nước chuyển gần hơn đến biên giới (giới hạn) công nghệ (technological frontier) cho trước bởi công nghệ tốt nhất tồn tại ở bất kể thời điểm nào, sự tăng trưởng của chúng ngày càng phụ thuộc vào các phát minh mới trong công nghệ và các đổi mới trong tổ chức sản xuất. Các đổi mới và phát minh là khó để làm, và thường được cho rằng các nhà đổi mới nâng cao-năng suất như vậy không thể tạo ra nhiều hơn 1 đến 1,5 phần trăm tăng trưởng hàng năm. Nhưng các nước nghèo hơn có nhiều dư địa hơn nhiều để tăng trưởng bởi vì chúng có thể sử dụng, sao chép, hay bắt chước các công nghệ đã tồn tại rồi.

Mối quan hệ này giữa tỷ lệ tăng trưởng và mức thu nhập có một áp dụng trực tiếp cho cách chúng ta xem các tỷ lệ tăng trưởng nhanh của các nước như Trung Quốc và Việt Nam, khi so với các tỷ lệ tăng trưởng chậm của Hoa Kỳ và Nhật Bản (như được minh họa trong Hình 3.2). Quả thực có thể cho rằng khi Trung Quốc và Việt Nam trở nên giàu hơn và trở thành các nền kinh tế trưởng thành hơn, thành tích tăng trưởng của chúng sẽ chậm lại. Các ví dụ lịch sử của Nhật Bản và Hàn Quốc cho sự ủng hộ thêm nào đó cho giả thuyết đó. Việc này làm cho các so sánh tăng trưởng trực tiếp giữa các nền kinh tế Á châu nghèo hơn và các nền kinh tế Tây phương giàu hơn thiên vị ủng hộ các nền kinh tế trước.

Mặt khác, người ta có thể cho rằng cái quan trọng về mặt chính trị là các tỷ lệ tăng trưởng so sánh trong thời gian thực và không phải cái có thể xảy ra một cách giả thuyết trong tương lai. Ngoài ra, cho dù các nền kinh tế Á châu tăng trưởng nhanh hiện thời giảm tốc xuống tỷ lệ tăng trưởng của phương Tây trong khoảng hai mươi đến bốn mươi năm, nó sẽ không tác động đến sự hấp dẫn của các nền kinh tế này đối với các nước khác mà có thể muốn loại bỏ khoảng cách thu nhập tách chúng khỏi thế giới giàu nhanh như Trung Quốc, Việt Nam, Singapore, và các nước khác đã làm. Để kết luận, các nền kinh tế Á châu, cho dù sự tăng trưởng của chúng có giảm tốc trong tương lai, có thể là mô hình tốt nhất cho các nước khác thử để đuổi kịp.

———-

1. Trong Spirit of Laws, Montesquieu viết, “Le commerce guérit des préjugés destructeurs: et c’est presque une règle générale que, partout où il y a des moeurs douces, il y a du commerce; et que, partout où il y a du commerce, il y a des moeurs douces” (Spirit of the Laws, book 20, chap. 1). [“Thương mại là một phương thuốc cho các thành kiến tàn phá nhất: vì hầu như là một quy tắc chung rằng bất cứ đâu chúng ta tìm thấy những cách cư xử dễ chịu, thương mại thịnh hành ở đó; và rằng bất cứ đâu có thương mại, ở đó chúng ta bắt gặp những cách cư xử dễ chịu.” Từ Online Library of Liberty, https://oll.libertyfund.org/titles/montesquieu-complete-works-vol-2-the-spirit-of-laws#a _1820107.] Michael Doyle, một trong những tác giả chính của giả thuyết hòa bình tự do, thảo luận chủ nghĩa hòa bình thương mại của Adam Smith và Schumpeter trong Ways of War and Peace (1997).

 2. Tại bất cử thời điểm nào, các nghiên cứu ngang quốc gia cho thấy một tương quan dương mạnh giữa GDP trên đầu người và hạnh phúc được báo cáo trung bình (Helliwell, Huang, and Wang 2017, 10) và cả ở một mức cá nhân bên trong các nước, giữa thu nhập riêng và hạnh phúc riêng được báo cáo (Clark et al. 2017, bảng 5.2). Trong số tất cả các yếu tố tương quan về sự hài lòng với cuộc sống, được tính ngang nhiều nước, thì thu nhập là mạnh nhất (Graham, Laffan, and Pinto 2018, fig. 1).

 3. “Nhưng dù hệ thống này có thể tỏ ra hủy hoại đến thế nào, nó đã chưa bao giờ có thể áp đặt lên rất nhiều người, cũng đã chẳng gây ra một sự báo động chung đến vậy giữa những người là các bạn của các nguyên lý tốt hơn, giả như về một số khía cạnh nó đã không tiếp giáp với sự thật” (The Theory of Moral Sentiments, part 7, section 2, chap. 4).

 4. David Wootton viết: “Hai tác phẩm [The Theory of Moral SentimentsThe Wealth of Nations] không khớp rất khéo với nhau, vì một tác phẩm là về chúng ta nên hành xử thế nào đối với gia đình, bạn bè, và các hàng xóm của chúng ta (những người gợi lên các cảm giác nhân từ của chúng ta), và tác phẩm kia là về chúng ta phải tương tác thế nào với những người lạ chúng ta gặp trong thương trường (đối với họ chúng ta không có bổn phận chăm sóc cá biệt nào—caveat emptor (hãy là người mua thận trọng) là một thái độ chúng ta có thể chấp nhận một cách chính đáng đối với những người lạ, nhưng không phải với gia đình, bạn bè, và các hàng xóm). … [Có] một sự căng thẳng giữa thế giới phi luân lý của các lực lượng thị trường, và thế giới đạo đức của các tương tác con người. The Wealth of Nations thiết lập mức độ mà các lựa chọn của chúng ta bị các lực lượng thị trường ràng buộc, và các ràng buộc này hạn chế các cơ hội của chúng ta cho hành vi đạo đức đáng ngưỡng mộ” (Wootton 2018, 174–175; nhấn mạnh của tôi).

 5. “Kinh doanh với công việc tiếp tục của nó đã trở thành một phần cần thiết của đời sống của họ [các nhà tư bản]. Thực ra đó là động cơ thúc đẩy khả dĩ duy nhất, nhưng đồng thời nó bày tỏ cái, được nhìn từ quan điểm của hạnh phúc cá nhân, là thật phi lý về loại việc này, nơi một người tồn tại vì lợi ích của việc kinh doanh của mình, thay cho điều ngược lại” (Weber 1992, 70).

 6. Có thể là hữu ích để làm rõ rằng Weber đã không xem Đạo Tin lành như ex post (hậu-kiến) đến để thuần hóa sự tham lam của các nhà tư bản, mà rằng các giá trị tôn giáo của nó kích thích loại ứng xử này. Như thế hướng nhân quả, theo Weber, là từ tôn giáo đến các giá trị tư bản chủ nghĩa; các giá trị không nảy sinh vì các lý do công cụ.

 7. “Thực ra, sự biện hộ chính của Hệ thống Tư bản chủ nghĩa nằm ở đây. Nếu giả như những người giàu đã tiêu của cải mới của họ vào những sự hưởng thụ riêng của họ, thì thế giới từ lâu đã thấy một chế độ như vậy không thể chịu đựng nổi. Nhưng giống những con ong họ đã tiết kiệm và tích tụ, không kém hơn cho lợi thế của toàn cộng đồng bởi vì bản thân họ đã giữ các mục đích hẹp sắp tới” (The Economic Consequences of the Peace, chap. 2, section 3).

 8. “Khi sự hạn chế tiêu dùng được kết hợp với sự thả hoạt động hám lợi này, kết quả thực tiễn không thể tránh khỏi là hiển nhiên: sự tích tụ vốn qua sự cưỡng bách khổ hạnh để tiết kiệm” (Weber 1992, 172).

 9. Một thí dụ đương thời hơn về một khế ước ngầm, hiện thời bị nguy hiểm sổ tung ra, được thấy ở các nước Bắc Âu, nơi sự nén tiền lương được kết hợp với một phần cao của vốn trong thu nhập ròng—nhưng với một sự hiểu biết rằng lợi nhuận được tái đầu tư để duy trì tổng cầu cao và công ăn việc làm đầy đủ (Moene 2016).

 10. Harriet Sherwood, “‘Christianity as Default Is Gone’: The Rise of a Non-Christian Europe,” Guardian, March 21, 2018.

 11. Một ngoại lệ có thể là các cố gắng gần đây của Giáo hội Công giáo dưới Giáo Hoàng Francis để tăng cường những cân nhắc đạo đức trong đời sống kinh doanh. Xem, chẳng hạn, Hannah Brockhaus, “Pope Francis: The Church Cannot Be Silent about Economic Suffering,” April 12, 2018, Crux, https://cruxnow.com/vatican/2018/04/12/pope-francis-the-church-cannot-be-silent-about-economic-suffering/.

 12. Được trích trong Tara Isabella Burton, “Prominent Evangelical Leader on Khashoggi Crisis,” Vox, October 17, 2018, https://www.vox.com/2018/10/17/17990268/pat-robertson-khashoggi-saudi-arabia-trump-crisis.

 13. Rawls đã nghĩ rằng hành vi không khoa trương của những người khấm khá đã là quan trọng cho những sự bất bình đẳng không thể tránh khỏi về thu nhập và của cải để được chấp nhận bởi những người nghèo hơn mà không khiêu khích sự ghen tỵ hay sự phẫn uất phi lý: “Trong đời sống hàng ngày các bổn phận tự nhiên được vinh danh sao cho những người có lợi thế hơn đừng phô trương sản nghiệp được tính của họ để hạ thấp phẩm giá của những người có ít hơn” (1971, 470).

 14. Dữ liệu từ khảo sát hộ gia đình được tiến hành trong đầu những năm 2000. Cùng phát hiện được phản ánh trong tỷ lệ phần trăm của các con trên hai mươi lăm tuổi sống với cha mẹ họ: là ít hơn 10 phần trăm ở Đan Mạch, ít hơn 20 phần trăm trong các nước Bắc Âu (rất giàu) khác, và khoảng 30 phần trăm ở Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, và Đức, và nó tăng lên khi người ta chuyển về phương nam và đông. Tại Italy, Tây Ban Nha, Đài Loan, và Hy Lạp, nó là giữa 70 và 80 phần trăm (được tính từ dữ liệu Luxembourg Income Study, khoảng năm 2013, https://www.lisdatacenter.org/).

 15. Sự nội hóa (internalization) các hoạt động này thường đặt hầu hết gánh nặng lên phụ nữ.

 16. Một cách khác để thấy sự chia sẻ và sự loại trừ được liên kết như thế nào là để nhớ lại lời châm biếm của Montesquieu rằng một người đầy đủ phẩm hạnh có thể không có bạn bè nào bởi vì tình bạn, giống sự chia sẻ, ngụ ý một sự ưu tiên đặc biệt cho ai đó, một sự ưu tiên mà không thể được trải ra ngang toàn bộ cộng đồng.

 17. Được ước lượng rằng trong nửa-thế kỷ thứ mười chín chỉ 5 đến 15 phần trăm của những người làm việc ở Đồng Bằng Dương Tử, phần phát triển nhất của Trung Quốc, đã là những người lao động ăn lương, trong khi hầu như ba phần tư những người làm việc ở nông thôn Anh vào cùng thời kỳ đã là những người lao động ăn lương (Vries 2013, 340).

 18. Trong Postcapitalism, Paul Mason giải thích sự lên của các hành hóa mới (như sự thương mại hóa của thời gian nhàn rỗi) bằng một xu hướng lợi nhuận giảm xuống zero và sự bất lực để bảo vệ đầy đủ các quyền tài sản của một số mặt hàng mới (như phần mềm). Khi lợi nhuận tiêu tan, chủ nghĩa tư bản biến mất. Giải pháp duy nhất còn lại cho các nhà tư bản, theo Mason, là thương mại hóa đời sống hàng ngày. Điều này cho họ một “địa bàn hoạt động” mới. Cuối cùng, mọi tương tác con người sẽ phải được hàng hóa hóa; các bà mẹ, chẳng hạn, sẽ đòi lẫn nhau một xu cho việc đẩy con của nhau trên một xích đu sân chơi. Nhưng điều này không thể tiếp tục, Mason lập luận. Có một giới hạn tự nhiên đối với cái con người sẽ chấp nhận về mặt sự hàng hóa hóa các hoạt động hàng ngày: “Bạn sẽ phải xử lý những người hôn nhau miễn phí theo cách họ đã xử lý những người săn trộm trong thế kỷ thứ mười chín” (Mason 2016, 175). Như sẽ trở nên rõ ràng muộn hơn trong chương này, tôi ít được thuyết phục hơn Mason rằng kiểu thương mại hóa này đối mặt các hạn chế tự nhiên. Các hoạt động, mà phong tục công đã nghĩ là nằm ngoài các giới hạn của hành vi có thể chấp nhận được để được thương mại hóa, đã dần dần trở thành như vậy, và bây giờ điều này được xem như bình thường. Không có lý do nào điều này sẽ không tiếp tục trong tương lai.

 19. Jan de Vries (2008) đã đưa vào từ “siêng năng (industrious)” để cho biết rằng sự di chuyển từ sản xuất hộ gia đình đến lao động ăn lương đã làm tăng đột ngột số giờ làm việc hàng năm. Như thế, Cách mạng Công nghiệp đã được đặc trưng không chỉ bởi đầu ra (sản lượng) lớn hơn trên giờ làm việc, mà cả bởi đầu vào lao động lớn hơn nhiều. Xem cả Pomeranz (2000, 94) và Allen (2009, 2017).

 20. Weber (1992, 161).

 21. Tôi cảm ơn Carla Yumatle vì bình luận này.

 22. Daniel Markovits, “A New Aristocracy,” Bài Phát biểu Khai giảng Trường Luật Yale, tháng Năm 2015, https://law.yale.edu/system/files/area/department/studentaffairs/document/markovitscommencementrev.pdf (italics trong bản gốc).

 23. Một phản lý lẽ khả dĩ là để xem các lực phi-hàng hóa hóa được phản ánh trong đòi hỏi cho phần mềm nguồn mở và chăm sóc sức khỏe miễn phí (người chi trả-duy nhất) ở Hoa Kỳ, các xu hướng mà trở nên quan trọng hơn trong tương lai. Nó là một khả năng: không ai biết cái gì sẽ xảy ra trong tương lai. Tuy vậy, tôi nghĩ rằng các lý lẽ được trình bày ở đây, dựa vào logic bên trong của hệ thống (đặc biệt trên bộ giá trị nó thúc đẩy), chỉ theo hướng ngược lại.

 24. Tôi thấy tác động của sự giàu có lên sự hàng hóa hóa tực tiếp khi tôi làm việc về khảo sát hộ gia đình Phi châu, nơi một số hoạt động mà thường được tiền tệ hóa trong các nền kinh tế giàu được thực hiện “miễn phí” ở nhà và các giá trị của chúng đã phải được gán cho; khác đi thì chúng ta sẽ đánh giá quá thấp mức tiêu dùng của các hộ gia đình ở nhiều nước Phi châu.

 25. Theo lời của Nassim Taleb: “Nếu bạn là một nhà tư tưởng lịch sử Thời Đồ Đá được yêu cầu để tiên đoán tương lai trong một báo cáo toàn diện cho kế hoạch gia, trưởng bộ lạc của bạn, bạn phải dự đoán sự phát minh ra bánh xe hay bạn sẽ bỏ lỡ khá nhiều hoạt động. Thế mà, nếu bạn có thể tiên tri sự phát minh ra bánh xe, bạn biết rồi một bánh xe trông giống cái gì, và như thế bạn biết rồi làm thế nào để xây dựng một bánh xe” (Taleb 2007, 172).

 26. World Bank (2019, p. 22, fig. 1.1). Các việc làm được phân loại như “bị rủi ro” nếu xác suất của việc bị tự động hóa được ước lượng là nhiều hơn 0,7.

 27. Jean-Baptiste Say, Cours complet d’économie politique, 2:170, được trích trong Braudel (1979, 539).

 28. Xem mô tả của Keynes về Jevons trong Essays in Biography (1972, 266) của ông “Kết luận của [Jevons] bị ảnh hưởng … bởi một đặc điểm tâm lý, thường mạnh trong ông, mà nhiều người khác chia sẻ, một bản năng tích trữ nào đó, một sự sẵn sàng để bị báo động và bị kích thích bởi ý tưởng cạn kiệt nguồn lực. Mr. H. S. Jevons [con trai ông] đã thông báo cho tôi một minh họa tức cười về điều này. Jevons đã có các ý tưởng tương tự về sự khan hiếm giấy đang đến … ông đã hành động trên nỗi sợ của ông và đặt trong nhà kho lớn như vậy không chỉ giấy viết, mà cả giấy bọc mỏng màu vàng, mà ngay cả ngày nay, hơn năm mươi năm sau khi ông chết, các con ông đã vẫn chưa sử dụng hết kho dự trữ ông để lại.”

 29. Xem van Parijs and Vanderborght (2017) và Standing (2017).

 30. World Bank (2019, 110). Về lượng UBI hàng tháng ở Mông Cổ và Iran, xem World Bank, World Development Report 2019, “The Changing Nature of Work,” working draft, April 20, 2018, p. 89, https://mronline.org/wp-content/uploads/2018/04/2019-WDR-Draft-Report.pdf.

      Saudi Arabia, giống vài sheikdom (chế độ tộc trưởng) vùng Vịnh khác, đang phân phối một phần rent dầu hỏa cho các công dân của nó dưới các sơ đồ chuyển giao tiền mặt khác nhau. Tôi không chắc liệu các của trời cho như vậy, mà phụ thuộc vào giá dầu và tính nhân từ của nhà cai trị, có thể được đồng hóa đầy đủ với các khoản chuyển giao vô điều kiện đều đặn hơn mà UBI ngụ ý.

 31. Trong một bài báo gần đây, Hauner, Milanovic, and Naidu (2017) đã thấy bằng chứng mạnh rằng tất cả các thành phần riêng lẻ được nhắc đến bởi các tác giả của lý thuyết tân-Marxist Hobson về chủ nghĩa đế quốc (John Hobson, Rosa Luxemburg, và Vladimir I. Lenin) quả thực đã hiện diện trong thời gian dẫn đến Chiến tranh Thế giới I: bất bình đẳng thu nhập và của cải trong các nước tham chiến chủ chốt đã ở đỉnh lịch sử của chúng: các nước đế quốc chủ nghĩa “cốt lõi” đã nhanh chóng thu được các tài sản nước ngoài, mà hầu hết hay toàn bộ được sở hữu bởi 1 đến 5 phần trăm giàu có nhất của dân cư; các tài sản này mang lại các lợi tức vượt trội so sánh với các tài sản trong nước; và các nước mà đã có các lượng lớn nhất của chúng đã có quân đội lớn nhất (theo tỷ lệ với dân số của chúng). Như thế tất cả các thành phần của một cuộc chiến tranh đã hiện diện.

 32. Số những người chết liên quan-đến-chính trị được tính từ dự án Correlates of War (COW) (http://www.correlatesofwar.org/). Giữa 1901 và 2000, khoảng 166,5 triệu người đã chết trong các cuộc chiến tranh giữa-nhà nước, gần 64 triệu trong các cuộc nội chiến, và ít hơn 1 triệu trong các cuộc chiến tranh đế quốc và thuộc địa. Dự án COW gọi cái sau là “các cuộc chiến tranh ngoài-hệ thống” bởi vì chúng gồm một diễn viên mang tính hệ thống được công nhận (chẳng hạn, Vương quốc Anh hay Nga) đánh nhau với một diễn viên không-mang tính hệ thống (chẳng hạn, những kẻ phiến loạn Sikh hay Ba Lan). “Mang tính hệ thống” đơn giản có nghĩa rằng cả hai diễn viên là các nhà nước được công nhận về mặt quốc tế. Số sinh gần đúng trong thế kỷ thứ hai mươi được tính từ một ước lượng được US Population Reference Bureau đưa ra; xem bảng 1 trong “How Many People Have Ever Lived on Earth,” https://www.prb.org/howmanypeoplehaveeverlivedonearth/.

 33. Nếu điều đó xảy ra, nhận xét của Marx mà xuất hiện như đề từ cho Chương 4 sẽ được xác nhận.

 34. Rawls viết: “Hãy tưởng tượng … rằng người dân có vẻ sẵn sàng để bỏ qua các quyền chính trị nào đó khi lợi tức kinh tế là đáng kể. Chính loại trao đổi này, mà loại trừ hai nguyên tắc [tự do cá nhân rộng rãi tương thích với cùng sự tự do cho tất cả mọi người, và bất bình đẳng kinh tế có thể chấp nhận được chỉ nếu cho lợi ích của những người nghèo nhất]; được dàn xếp theo thứ tự nối tiếp chúng không cho phép những sự trao đổi giữa các quyền tự do cơ bản và các lợi ích kinh tế và xã hội” (1971, 55).

 35. Dựa vào Leijonhufvud (1985) và Bowles and Gintis (1986).

 36. Sự sụt giảm này về bất bình đẳng là rõ ràng không chỉ khi chúng ta sử dụng các chỉ báo bất bình đẳng tổng hợp như hệ số Gini, mà xem xét các mức thu nhập ngang toàn bộ phân bố thu nhập (như cho thấy trong Hình 1.1), mà ngay cả khi chúng ta tập trung vào phần của 1 phần trăm đỉnh toàn cầu. Bất chấp sự thực rằng phần thu nhập của 1 phần trăm đỉnh toàn cầu đã có khuynh hướng tăng trong khi bất bình đẳng thu nhập toàn cầu giảm xuống, gần đây nhất ngay cả phần của 1 phần trăm đỉnh toàn cầu đã giảm (xem World Inequality Report 2018, 56, hình 2.1.9).

 37. Vai trò của châu Phi trong bất bình đẳng toàn cầu cho đến nay đã hạn chế bởi vì dân số của nó đã ít hơn của châu Á. Khoảng năm 2005, đóng góp của châu Phi cho bất bình đẳng toàn cầu đã khoảng 10 phần trăm. Con số đó nhất thiết tăng lên với sự tăng về dân số, như thế sự tiến hóa của bất bình đẳng toàn cầu sẽ ngày càng phụ thuộc vào cái xảy ra ở châu Phi.

 38. Adam Smith, The Wealth of Nations, book 4, chap. 7.

————

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Acemoglu, Daron, and James A. Robinson. 2006. Economic Origins of Dictatorship and Democracy. Cambridge: Cambridge University Press.

Acemoglu, Daron, and James A. Robinson. 2012. Why Nations Fail: The Origins of Power, Prosperity, and Poverty. New York: Crown.

Achen, Christopher, and Larry Bartels. 2017. Democracy for Realists: Why Elections Do Not Produce Responsive Government. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Akcigit, Ufuk, Salomé Baslandze, and Stefanie Stantcheva. 2015. “Taxation and the International Mobility of Inventors.” NBER Working Paper No. 21024, National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA, March. Published 2016 in American Economic Review 106(10): 2930–2981.

Allen, Robert C. 2009. The British Industrial Revolution in Global Perspective. Cambridge: Cambridge University Press.

Allen, Robert C. 2011. “Technology and the Great Divergence.” Discussion Paper Series No. 548, Department of Economics, University of Oxford. https://www.economics.ox.ac.uk/materials/papers/5001/paper548.pdf. Published 2012 as “Technology and the Great Divergence: Global Economic Development since 1820.” Explorations in Economic History 49(1): 1–16.

Allen, Robert C. 2017. The Industrial Revolution: A Very Short Introduction. Oxford: Oxford University Press.

Alstadsaeter, Annette, Niels Johannesen, and Gabriel Zucman. 2017. “Who Owns the Wealth in Tax Havens? Macro Evidence and Implications for Global Inequality.” NBER Working Paper No. 23805, National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA, September.

Alvaredo, Facundo, Anthony B. Atkinson, and Salvatore Morelli. 2018. “Top Wealth Shares in the UK over More Than a Century.” Journal of Public Economics 162: 26–47.

Aristotle. 1976. The Politics, trans. and with an introduction by T. A. Sinclair. Harmondsworth, UK: Penguin Classics.

Arrighi, Giovanni. 2007. Adam Smith in Beijing: Lineages of the Twenty-First Century. London: Verso.

Atkinson, Anthony. 2015. Inequality: What Can Be Done? Cambridge, MA: Harvard University Press.

Atkinson, Anthony B. 2018. “Wealth and Inheritance in Britain from 1896 to the Present.” Journal of Economic Inequality 16(2): 137–169.

Atkinson, Anthony B., Thomas Piketty, and Emmanuel Saez. 2011. “Top Incomes in the Long Run of History.” Journal of Economic Literature 49(1): 3–71.

Avineri, Shlomo, ed. 1968. Karl Marx on Colonialism and Modernization. New York: Doubleday.

Azar, José, Ioana Marinescu, and Marshall Steinbaum. 2017. “Labor Market Concentration.” NBER Working Paper No. 24147, National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA, December.

Bai, Chong-En, Chang-Tai Hsieh, and Zheng (Michael) Song. 2014. “Crony Capitalism with Chinese Characteristics.” Unpublished manuscript, May. http://china.ucsd.edu/_files/pe-2014/10062014_Paper_Bai_Chong.pdf.

Bakija, Jon, Adam Cole, and Bradley T. Heim. 2010. “Jobs and Income Growth of Top Earners and the Causes of Changing Income Inequality: Evidence from U.S. Tax Return Data.” Unpublished manuscript. https://web.williams.edu/Economics/wp/BakijaColeHeimJobsIncomeGrowthTopEarners.pdf.

Baldwin, Richard. 2016. The Great Convergence: Information Technology and the New Globalization. Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press.

Barkai, Simcha. 2016. “Declining Labor and Capital Shares.” Unpublished manuscript. http://home.uchicago.edu/~barkai/doc/BarkaiDecliningLaborCapital.pdf.

Barro, Robert J. 1991. “Economic Growth in a Cross Section of Countries.” Quarterly Journal of Economics 106(2): 407–443.

Barro, Robert. 2000. “Inequality and Growth in a Panel of Countries.” Journal of Economic Growth 5(1): 5–32.

Baumol, William J. 1986. “Productivity Growth, Convergence, and Welfare: What the Long-Run Data Show.” American Economic Review 76(5): 1072–1085.

Becerra, Jorge, Peter Damisch, Bruce Holley, et al. 2009. “Delivering on the Client Promise.” Global Wealth 2009, Boston Consulting Group, September. Executive summary at https://www.bcg.com/documents/file29101.pdf.

Bekkouche, Yasmine, and Julia Cagé. 2018. “The Price of a Vote: Evidence from France, 1993–2014.” CEPR Discussion Paper No. 12614, Centre for Economic Policy Research, London, January. https://cepr.org/active/publications/discussion_papers/dp.php?dpno=12614#.

Berdyaev, Nikolai. 2006. The Meaning of History. New Brunswick, NJ: Transaction.

Black, Bernard, Reinier Kraakman, and Anna Tarassova. 2000. “Russian Privatization and Corporate Governance: What Went Wrong?” Stanford Law School John M. Olin Program in Law and Economics Working Paper No. 178. Published 2000 in Stanford Law Review 52(6): 1731–1808.

Bonica, Adam, Nolan McCarty, Keith T. Poole, and Howard Rosenthal. 2013. “Why Hasn’t Democracy Slowed Rising Inequality?” Journal of Economic Perspectives 27(3): 103–123.

Bonica, Adam, and Howard Rosenthal. 2016. “Increasing Inequality in Wealth and the Political Expenditures of Billionaires.” Unpublished manuscript.

Borjas, George. 1987. “Self-selection and the Earnings of Immigrants.” American Economic Review 77(4): 531–553.

Borjas, George J. 2015. “Immigration and Globalization: A Review Essay.” Journal of Economic Literature 53(4): 961–974.

Bourguignon, François, and Christian Morrisson. 2002. “Inequality among World Citizens: 1820–1992.” American Economic Review 92(4): 727–744.

Bournakis, Ionnis, Michela Vecchi, and Francesco Venturini. 2018. “Off-shoring, Specialization and R&D.” Review of Income and Wealth 64(1): 26–51.

Bowles, Samuel, and Herbert Gintis. 1976. Schooling in Capitalist America: Education Reform and the Contradictions of Economic Life. New York: Basic Books.

Bowles, Samuel, and Herbert Gintis. 1986. Democracy and Capitalism: Property, Community and the Contradiction of Modern Social Thought. New York: Basic Books.

Bowley, Arthur. 1920. The Change in the Distribution of National Income, 1880–1913. Oxford: Clarendon Press.

Bramall, Chris. 2000. Sources of Chinese Economic Growth: 1978–1996. Oxford: Oxford University Press.

Braudel, Fernand. 1979. Civilization and Capitalism 15th–18th Century, vol. 3: The Perspective of the World, trans. Sian Reynolds. New York: Harper and Row.

Bregman, Rutger. 2017. Utopia for Realists: How We Can Build the Ideal World. New York: Little, Brown.

Broadberry, Stephen, and Alexander Klein. 2008. “Aggregate and Per Capita GDP in Europe, 1870–2000: Continental, Regional and National Data with Changing Boundaries.” Unpublished manuscript. Published 2012 in Scandinavian Economic History Review 60(1): 79–107.

Broadberry, Stephen, and Alexander Klein. 2011. “When and Why Did Eastern European Economies Begin to Fail? Lessons from a Czechoslovak / UK Productivity Comparison, 1921–1991.” Explorations in Economic History 48(1): 37–52.

Brunori, Paolo, Francisco H. G. Ferreira, and Vito Peragine. 2013. “Inequality of Opportunity, Income Inequality and Economic Mobility: Some International Comparisons.” IZA Working Paper No. 7155, IZA Institute of Labor Economics, Bonn, January. http://ftp.iza.org/dp7155.pdf.

Calvino, Italo. 1994. “Apologo sull’onestà nel paese dei corrotti.” In Romanzi e racconti, ed. Mario Berenghi and Bruno Falcetto, vol. 3, 290–293. Milan: Mondadori.

Capussela, Andrea Lorenzo. 2018. The Political Economy of Italy’s Decline. Oxford: Oxford University Press.

Carlin, Wendy, Mark Schaffer, and Paul Seabright. 2012. “Soviet Power Plus Electrification: What Is the Long-Term Legacy of Communism?” Working Paper 43-212, Department of Studies on Economic Development, Universita degli studi de Macerata, June. Published 2013 in Explorations in Economic History 50(1): 116–147.

Chen, Shaohua, and Martin Ravallion. 2007. “Absolute Poverty Measures for the Developing World, 1981–2004.” Proceedings of the National Academy of Sciences of United States of America 104(43): 16757–16762.

Chetty, Raj, John N. Friedman, Emmanuel Saez, Nicholas Turner, and Danny Yagan. 2017a. “Mobility Report Cards: The Role of Colleges in Intergenerational Mobility.” NBER Working Paper No. 23618, National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA, rev. July.

Chetty, Raj, David Grusky, Maximilian Hell, Nathaniel Hendren, Robert Manduca, and Jimmy Narang. 2017b. “The Fading American Dream: Trends in Absolute Income Mobility since 1940.” Science 356(6336): 398–406.

Chi, Wei. 2012. “Capital Income and Income Inequality: Evidence from Urban China.” Journal of Comparative Economics 40(2): 228–239.

Chiappori, Pierre-André, Bernard Salanié, and Yoram Weiss. 2017. “Partner Choice, Investment in Children and the Marital College Premium.” American Economic Review 107(8): 2109–2167.

Chi Hsin. 1978. Teng Hsiao-ping: A Political Biography. Hong Kong: Cosmos Books.

China Statistical Yearbook. 2017. National Bureau of Statistics, Beijing.

Clark, Andrew, Sarah Flèche, Richard Layard, Nattavudh Powdthavee, and George Ward. 2017. “The Key Determinants of Happiness and Misery.” In World Happiness Report 2017, ed. John Helliwell, Richard Layard, and Jeffrey Sachs, 122–143. New York: Sustainable Development Solutions Network.

Congressional Budget Office. 2014. “The Distribution of Household Income and Federal Taxes, 2011.” CBO Report, Washington, DC, November 12. https://www.cbo.gov/publication/49440.

Corak, Miles. 2013. “Inequality from Generation to Generation: The United States in Comparison.” In The Economics of Inequality, Poverty, and Discrimination in the 21st Century, ed. Robert Rycroft. Santa Barbara, CA: Praeger.

Crabtree, James. 2018. A Billionaire Raj: A Journey through India’s New Gilded Age. New York: Tim Duggan Books of Crown Publishing.

Credit Suisse Research Institute. 2013. “Global Wealth Report 2013.” October. https://www.files.ethz.ch/isn/172470/global_wealth_report_2013.pdf.

Creemers, Rogier. 2018. “Party Ideology and Chinese Law.” Unpublished manuscript, July 30. https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3210541.

Dahrendorf, Ralf. (1963) 1978. “Changes in the Class Structure of Industrial Societies.” In Social Inequality, ed. André Béteille. Reprint. Harmondsworth, UK: Penguin.

Dalgaard, C. J., and H. Hansen. 2001. “On Aid, Growth and Good Policies.” Journal of Development Studies 37(6): 17–41.

Dao, Mai Chi, Mitali Das, and Zoka Koczan, and Weiching Lian. 2017. “Why Is Labor Receiving a Smaller Share of Global Income?” IMF Working Paper wp/17/169, International Monetary Fund, Washington DC, July. https://www.imf.org/en/Publications/WP/Issues/2017/07/24/Why-Is-Labor-Receiving-a-Smaller-Share-of-Global-Income-Theory-and-Empirical-Evidence-45102.

Dasgupta, Rana. 2015. Capital: The Eruption of Delhi. New York: Penguin.

Davis, Gerald F. 2016. The Vanishing American Corporation: Navigating the Hazards of a New Economy. N.P.: Berrett-Koehler.

Davis, Jonathan, and Bhashkar Mazumder. 2017. “The Decline in Intergenerational Mobility after 1980.” Federal Reserve Bank of Chicago Working Paper No. 17-21, revised January 29, 2019. https://www.chicagofed.org/publications/working-papers/2017/wp2017-05.

Decancq, Koen, Andreas Peichl, and Philippe Van Kerm. 2013. “Unequal by Marriage? Assortativeness and Household Earnings Inequality: A Copula-Based Decomposition.” Unpublished manuscript. http://economics.mit.edu/files/8479.

de Vries, Jan. 2008. The Industrious Revolution: Consumer Behavior and the Household Economy, 1650 to the Present. Cambridge: Cambridge University Press.

Ding, Haiyan, and Hui He. 2018. “A Tale of Transition: An Empirical Analysis of Income Inequality in Urban China, 1986–2009.” Review of Economic Dynamics 29: 108–137.

Ding, Haiyan, Zhe Fu, and Hui He. 2018. “Transition and Inequality.” Unpublished manuscript, IMF Seminar, August 22 version.

Doyle, Michael W. 1997. Ways of War and Peace: Realism, Liberalism, and Socialism. New York: Norton.

Easterly, Bill, and Stanley Fischer. 1995. “The Soviet Economic Decline.” World Bank Economic Review 9(3): 341–371.

Economy, Elizabeth C. 2018. “China’s New Revolution: The Reign of Xi Jinping.” Foreign Affairs 97(3): 60–74.

Ellul, Jacques. 1963. The Technological Society. New York: Vintage Books.

Elsby, Michael W. L., Bart Hobijn, and Ayşegül Şahin. 2013. “The Decline of U.S. Labor Share.” Brookings Papers on Economic Activity, Brookings Institution, Washington, DC, October 18 version. https://www.brookings.edu/bpea-articles/the-decline-of-the-u-s-labor-share/.

Feldstein, Martin, and Shlomo Yitzhaki. 1982. “Are High-income Individuals Better Stock Market Investors?” NBER Working Paper No. 948, National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA, July.

Ferguson, Niall, and Moritz Schularick. 2006. “The Empire Effect: The Determinants of Country Risk in the First Age of Globalization, 1880–1913.” Journal of Economic History 66(2): 283–312.

Fiorio, Carlo V., and Stefano Verzillo. 2018. “Looking in Your Partner’s Pocket before Saying ‘Yes!’ Income Assortative Mating and Inequality.” Working Paper 2 / 2018, Dipartmento di Economia, Università degli Studi di Milano, February. http://wp.demm.unimi.it/files/wp/2018/DEMM-2018_02wp.pdf.

Fisher, Irving. 1919. “Economists in Public Service: Annual Address of the President.” American Economic Review 9(1) supp.: 5–21.

Frank, André Gunder. 1966. “Development of Underdevelopment.” Monthly Review 18(4): 17–31.

Fraser, Nancy. 2012. “Can Society Be Commodities All the Way Down? Polanyian Reflections on Capitalist Crisis.” FMSH-WP-2012–18, Fondation Maison des sciences de l’homme, Paris, August. https://halshs.archives-ouvertes.fr/halshs-00725060/document. Published 2014 in Economy and Society 43(4): 541–558.

Freeman, Richard B. 2006. “People Flows in Globalization.” Journal of Economic Perspectives 20(2): 145–170.

Freeman, Richard B. 2014. “Who Owns the Robots Rules the World.” IZA World of Labor: 5, May. https://www.sole-jole.org/Freeman.pdf.

Freund, Caroline. 2016. Rich People Poor Countries: The Rise of Emerging Market Tycoons and Their Mega Firms. Washington, DC: Peterson Institute for International Economics.

Freund, Caroline, and Sarah Oliver. 2016. “The Origins of the Superrich: The Billionaire Characteristics Database.” PIE Working Paper 16-1, Peterson Institute for International Economics, February. https://pie.com/system/files/documents/wp16-1.pdf.

Fukuyama, Francis. 1992. The End of History and the Last Man. New York: Free Press.

Fukuyama, Francis. 2011. The Origins of Political Order. New York: Farrar, Straus and Giroux.

Gabriel, Satyananda J. 2006. Chinese Capitalism and the Modernist Vision. London: Routledge.

Gernet, Jacques. 1962. Daily Life in China on the Eve of Mongol Invasion, 1250–1276. New York: Macmillan; repr. Stanford University Press.

Gewirtz, Julian. 2017. Unlikely Partners: Chinese Reformers, Western Economists, and the Making of Global China. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Gilens, Martin. 2012. Affluence and Influence: Economic Inequality and Political Power in America. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Gilens, Martin. 2015. “Descriptive Representation, Money, and Political Inequality in the United States.” Swiss Political Science Review 21(2): 222–228.

Gilens, Martin, and Benjamin I. Page. 2014. “Testing Theories of American Politics: Elites, Interest Groups, and Average Citizens.” Perspectives on Politics 12(3): 564–581.

Goldin, Claudia, and Lawrence F. Katz. 2010. The Race between Education and Technology. Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press.

Gong, Honge, Andrew Leigh, and Xin Meng. 2012. “Intergenerational Income Mobility in Urban China.” Review of Income and Wealth 58(3): 481–503.

Grabka, Markus, and Christian Westermeier. 2014. “Anhaltend hohe Vermögensungleichheit in Deutschland.” DIW Wochenbericht 9: 151–164. https://www.diw.de/documents/publikationen/73/diw_01.c.438708.de/14–9.pdf.

Graham, Carol, Kate Laffan, and Sergio Pinto. 2018. “Well-being in Metrics and Policy.” Science 362(6412): 287–288.

Greenwood, Jeremy, Nezih Guner, Georgi Kocharkov, and Cezar Santos. 2014a. “Marry Your Like: Assortative Mating and Income Inequality.” American Economic Review 104(5): 348–353.

Greenwood, Jeremy, Nezih Guner, Georgi Kocharkov, and Cezar Santos. 2014b. “Corrigendum to ‘Marry Your Like: Assortative Mating and Income Inequality.’ ” http://pareto.uab.es/nguner/ggks_corrigendum.pdf.

Greenwood, Jeremy, Nezih Guner, and Guillaume Vandenbroucke. 2017. “Family Economics Writ Large.” NBER Working Paper No. 23103, National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA, January.

Gustaffson, Björn, Shi Li, and Hieroshi Sato. 2014. “Data for Studying Earnings, the Distribution of Household Income and Poverty in China.” IZA Working Paper 8244, IZA Institute of Labor Economics, Bonn, June. Published 2014 in China Economic Review 30: 419–431.

Hallward-Driemeier, Mary, and Gaurav Nayyar. 2018. Trouble in the Making? The Future of Manufacturing-Led Development. Washington, DC: World Bank Group. https://www.worldbank.org/en/topic/competitiveness/publication/trouble-in-the-making-the-future-of-manufacturing-led-development.

Harrington, Brooke. 2016. Capital without Borders: Wealth Managers and the One Percent. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Hauner, Thomas, Branko Milanovic, and Suresh Naidu. 2017. “Inequality, Foreign Investment and Imperialism.” Munich Personal RePEc Archive (MPRA), Working Paper 83068, 30 November. https://mpra.ub.uni muenchen.de/83068/1/MPRA_paper_83068.pdf.

Helliwell, John F., Haifang Huang, and Shun Wang. 2017. “Social Foundations of World Happiness.” In World Happiness Report 2017, ed. John Helliwell, Richard Layard, and Jeffrey Sachs, 8–47. New York: Sustainable Development Solutions Network.

Hirschman, Albert O. 1977. The Passions and the Interests: Political Argument for Capitalism before Its Triumph. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Hobson, John. 1902. Imperialism: A Study. London: J. Nisbet. Reprint Ann Arbor: University of Michigan Press, 1965.

Jacques, Martin. 2012. When China Rules the World, 2nd ed. London: Penguin.

Johannesen, Niels. 2014. “Tax Evasion and Swiss Bank Deposits.” Journal of Public Economics 111: 46–62.

Karabarbounis, Loukas, and Brent Neiman. 2013. “The Global Decline of the Labor Share.” NBER Working Paper No. 19136. National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA, June (rev. October). Published 2014 in Quarterly Journal of Economics 129(1): 61–103.

Kennan, John. 2014. “Freedom of Movement for Workers.” IZA World of Labor 2014: 86, September. https://wol.iza.org/uploads/articles/86/pdfs/freedom-of-movement-for-workers.pdf.

Keynes, John Maynard. 1919. The Economic Consequences of the Peace. London: Macmillan.

Keynes, John Maynard. 1930. “The Economic Possibilities for Our Grandchildren,” parts 1 and 2. The Nation and Athenaeum 48, October 11 and 18.

Keynes, John Maynard. 1972. Essays in Biography. London: Macmillan.

Kissinger, Henry. 2011. On China. New York: Penguin.

Kristov, Lorenzo, Peter Lindert, and Robert McClelland. 1992. “Pressure Groups and Redistribution.” Journal of Public Economics 48(2): 135–163.

Krouse, Richard W. 1982. “Polyarchy and Participation: The Changing Democratic Theory of Robert Dahl.” Polity 14(3): 441–463.

Kuhn, Moritz, Moritz Schularick, and Ulrike Steins. 2017. “Income and Wealth Inequality in America, 1949–2016.” Discussion Paper 20547, Centre for Economic Policy Research, London, September.

Kurz, Mordecai. 2018. “On the Formation of Capital and Wealth: IT, Monopoly Power and Rising Inequality.” Unpublished manuscript, dated June 25, 2017, rev. May 11, 2018. https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3014361.

Lakner, Christoph. 2014. “Wages, Capital and Top Incomes: The Factor Income Composition of Top Incomes in the USA, 1960–2005.” Chap. 2 of “The Determinants of Incomes and Inequality: Evidence from Poor and Rich Countries.” PhD diss., Oxford University.

Lakner, Christoph, and Branko Milanovic. 2016. “Global Income Distribution: From the Fall of the Berlin Wall to the Great Recession.” World Bank Economic Review 30(2): 203–232.

Landes, David. 1998. The Wealth and Poverty of Nations: Why Some Are So Rich and Some So Poor. New York: Norton.

Leijonhufvud, Axel. 1985. “Capitalism and the Factory System.” In Economics as a Process: Essays in the New Institutional Economics, ed. Richard N. Langlois. Cambridge: Cambridge University Press.

Levy, Harold O., and Peg Tyre. 2018. “How to Level the College Playing Field.” New York Times, April 7.

Li, Cheng. 2016. Chinese Politics in the Xi Jinping Era. Washington, DC: Brookings Institution Press.

Li, Chunling. n.d. “Profile of Middle Class in Mainland China.” Unpublished manuscript.

Lin, Justin Yufu, and Celestin Monga. 2017. Beating the Odds: Jump-starting Developing Countries. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Los, Bart, Marcel P. Timmer, and Gaaitzen de Vries. 2015. “How Global Are Global Value Chains? A New Approach to Measure International Fragmentation.” Journal of Regional Science 55(1): 66–92.

Lundberg, Jacob, and Daniel Walderström. 2016. “Wealth Inequality in Sweden: What Can We Learn from Capitalized Income Tax Data?” Unpublished manuscript, April 22. http://www.uueconomics.se/danielw/Research_files/Capitalized%20Wealth%20Inequality%20in%20Sweden%20160422.pdf. Published 2018 in Review of Income and Wealth 64(3): 517–541.

Luo, Xubei, and Nong Zhu. 2008. “Rising Income Inequality in China: A Race to the Top.” Policy Research Working Paper No. 4700, World Bank, Washington, DC, August.

Ma, Debin. 2011. “Rock, Scissors, Paper: The Problem of Incentives and Information in Traditional Chinese State and the Origin of Great Divergence.” Economic History Department Working Papers 152 / 11, London School of Economics. http://eprints.lse.ac.uk/37569/.

Machiavelli, Niccolò. 1983. The Discourses. Edited with an introduction by Bernard Crick, using the translation of Leslie J. Walker, S.J., with revisions by Brian Richardson. London: Penguin.

Maddison, Angus. 2007. Contours of the World Economy, 1–2030 AD: Essays in Macro-economic History. Oxford: Oxford University Press.

Maddison Project. 2018. See Jutta Bolt, Robert Inklaar, Herman de Jong, and Jan Luiten van Zanden, “Rebasing ‘Maddison’: New Income Comparisons and the Shape of Long-Run Economic Development,” Maddison Project Working Paper 10, https://www.rug.nl/ggdc/historicaldevelopment/maddison/research.

Daniel Markovits, “A New Aristocracy,” Yale Law School Commencement Address, May 2015. Available at https://law.yale.edu/system/files/area/department/studentaffairs/document/markovitscommencementrev.pdf (accessed August 31, 2018).

Marx, Karl. 1965. Pre-Capitalist Economic Formations, trans. Jack Cohen. New York: International Publishers.

Marx, Karl. 1973. Grundrisse: Foundations of the Critique of Political Economy, trans. Martin Nicolaus. London: Penguin.

Marx, Karl. 2007. Dispatches for the New York Tribune: Selected Journalism of Karl Marx, ed. James Ledbetter. London: Penguin.

Mason, Paul. 2016. Postcapitalism: A Guide to Our Future. New York: Farrar, Straus and Giroux.

Mazower, Mark. 2012. Governing the World: The History of an Idea. New York: Penguin.

Meade, James. 1964. Efficiency, Equality, and the Ownership of Property. London: Allen and Unwin.

Merette, Sarah. 2013. “Preliminary Analysis of Inequality in Colonial Tonkin and Cochinchina.” Unpublished manuscript, June.

Milanovic, Branko. 1989. Liberalization and Entrepreneurship: Dynamics of Reform in Socialism and Capitalism. Armonk, NY: M. E. Sharpe.

Milanovic, Branko. 2005. Worlds Apart: Measuring International and Global Inequality. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Milanovic, Branko. 2011. “A Short History of Global Inequality: The Past Two Centuries.” Explorations in Economic History 48(4): 494–506.

Milanovic, Branko. 2012. “Global Inequality Recalculated and Updated: The Effect of New PPP Estimates on Global Inequality and 2005 Estimates.” Journal of Economic Inequality 10(1): 1–18.

Milanovic, Branko. 2015. “Global Inequality of Opportunity: How Much of Our Income Is Determined by Where We Live?” Review of Economics and Statistics 97(2): 452–460.

Milanovic, Branko. 2016. Global Inequality: A New Approach for the Age of Globalization. Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press. [Bất bình đẳng Toàn cầu, NXB Dân khí 2022]

Milanovic, Branko. 2017. “Increasing Capital Income Share and Its Effect on Personal Income Inequality.” In After Piketty: The Agenda for Economics and Inequality, ed. Heather Boushey, J. Bradford DeLong, and Marshall Steinbaum. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Mill, John Stuart. 1975. Three Essays. Oxford: Oxford University Press.

Moene, Kalle. 2016. “The Social Upper Class under Social Democracy.” Nordic Economic Policy Review 2: 245–261.

Novokmet, Filip, Thomas Piketty, and Gabriel Zucman. 2017. “From Soviets to Oligarchs: Inequality and Property in Russia 1905–2016.” WID.world Working Paper Series 2017 / 9, July. Published 2018 in Journal of Economic Inequality 16(2): 189–223.

OECD. 2011. Divided We Stand: Why Inequality Keeps Rising. Paris: OECD Publishing.

Offer, Avner. 1989. The First World War: An Agrarian Interpretation. Oxford: Oxford University Press.

Offer, Avner, and Daniel Söderberg. 2016. The Nobel Factor: The Prize in Economics, Social Democracy, and the Market Turn. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Okonjo-Iweala, Ngozi. 2018. Fighting Corruption Is Dangerous: The Story behind the Headlines. Cambridge, MA: MIT Press.

Orléan, André. 2011. L’empire de la valeur: refonder l’économie. Paris: Seuil.

Overbeek, Hans. 2016. “Globalizing China: A Critical Political Economy Perspective on China’s Rise.” In Handbook of Critical International Political Economy: Theories, Issues and Regions, ed. Alan Cafruny, Leila Simona Talani, and Gonzalo Pozo-Martin, 309–329. London: Palgrave Macmillan.

Pareto, Vilfredo. 1935. The Mind and Society, vol. 4 [Trattato di Sociologia Generale]. New York: Harcourt Brace.

Pei, Minxin. 2006. China’s Trapped Transition. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Pei, Minxin. 2016. China’s Crony Capitalism. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Piketty, Thomas. 2014. Capital in the Twenty-First Century, trans. Arthur Goldhammer. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Piketty, Thomas, Li Yang, and Gabriel Zucman. 2017. “Capital Accumulation, Private Property and Rising Inequality in China, 1978–2015.” WID.world Working Paper Series 2017 / 6, April. https://wid.world/document/t-piketty-l-yang-and-g-zucman-capital-accumulation-private-property-and-inequality-in-china-1978-2015-2016/.

Piketty, Thomas, and Emmanuel Saez. 2003. “Income Inequality in the United States, 1913–1998.” Quarterly Journal of Economics 118(1): 1–39.

Piñera, José. 2016. “President Clinton and the Chilean Model.” Cato Policy Report, Cato Institute, Washington, DC, January / February. https://www.cato.org/policy-report/januaryfebruary-2016/president-clinton-chilean-model.

Pomeranz, Kenneth. 2000. The Great Divergence: China, Europe and the Making of the Modern World Economy. Princeton NJ: Princeton University Press.

Pomfret, Richard. 2018. “The Eurasian Landbridge: Linking Regional Value Chains.” VoxEU, CEPR Policy Portal, Centre for Economic Policy Research, London, May 1. https://voxeu.org/article/eurasian-landbridge-linking-regional-value-chains.

Popper, Karl. (1957) 1964. The Poverty of Historicism. New York: Harper and Row.

Rajan, Raghuram G., and Arvind Subramanian. 2005. “Aid and Growth: What Does the Cross Country Evidence Really Show?” NBER Working Paper 11513, National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA, February, rev. 2007.

Rawls, John. 1971. A Theory of Justice. Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press.

Rawls, John. 1999. The Law of Peoples. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Raworth, Kate. 2018. Doughnut Economics: Seven Ways to Think Like a 21st Century Economist. White River Junction, VT: Chelsea Green.

Ray, Debraj. 2014. “Nit-Piketty: A Comment on Thomas Piketty’s Capital in the Twenty-First Century.” Unpublished manuscript, May 25, https://www.econ.nyu.edu/user/debraj/Papers/Piketty.pdf.

Rognlie, Matthew. 2015. “Deciphering the Fall and Rise in the Net Capital Share: Accumulation or Scarcity?” Brookings Papers on Economic Activity, Spring. https://www.brookings.edu/wp-content/uploads/2016/07/2015a_rognlie.pdf.

Rotman, David. 2015. “Who Will Own the Robots?” MIT Technology Review, June 16. https://www.technologyreview.com/s/538401/who-will-own-the-robots/.

Samuelson, Paul. 1976. Economics. New York: McGraw Hill.

Sapio, Flora. 2010. Sovereign Power and the Law in China. Leiden: Brill.

Sapir, André. 1980. “Economic Growth and Factor Substitution: What Happened to the Yugoslav Miracle?” Economic Journal 90(358): 294–313.

Sawhill, Isabel. 2017. “Post-Redistribution Liberalism.” Democracy: A Journal of Ideas 46, Fall.

Schäfer, Armin. 2017. “How Responsive Is the German Parliament?” Blog post, July 26. http://www.armin-schaefer.de/en/how-responsive-is-the-german-parliament/.

Shiroyama, Tomoko. 2008. China during the Great Depression: Market, State, and the World Economy, 1929–1937. Cambridge, MA: Harvard University Asia Center.

Solimano, Andres. 2018. “Global Mobility of the Wealthy and Their Assets in an Era of Growing Inequality.” Paper presented at the Investment Migration Council (IMC) Forum, Geneva, June 4–6.

Stamp, Josiah. 1926. “Inheritance as an Economic Factor.” Economic Journal 36(143): 339–374.

Standing, Guy. 2017. Basic Income: And How We Can Make It Happen. New York: Penguin.

Stewart, Matthew. 2018. “The 9.9% Is the New American Aristocracy,” Atlantic, June. (Published with the title “The Birth of a New American Aristocracy.”)

Swedberg, Richard, ed. 1991. The Economics and Sociology of Capitalism. Princeton, NJ: Princeton University Press.

Sweezy, Paul. 1953. The Present as History. New York: Monthly Review Press.

Taleb, Nassim Nicholas. 2007. The Black Swan: The Impact of the Highly Improbable. New York: Random House.

Taleb, Nassim Nicholas. 2018. Skin in the Game: Hidden Asymmetries in Daily Life. New York: Random House.

Thomas, Vinod, Yan Wang, and Xibo Fan. 2001. “Measuring Education Inequality—Gini Coefficients of Education.” Policy Research Working Paper No. WPS 2525, World Bank, Washington, DC, January. http://documents.worldbank.org/curated/en/361761468761690314/pdf/multi-page.pdf.

Tinbergen, Jan. 1975. Income Distribution: Analysis and Policies. Amsterdam: North-Holland.

Tooze, Adam. 2014. Deluge: The Great War, America and the Remaking of the Global Order, 1916–1931. New York: Penguin.

Torgler, Benno, and Marco Piatti. 2013. “Extraordinary Wealth, Globalization, and Corruption.” Review of Income and Wealth 59(2): 341–359.

Tucker, Robert C., ed. 1978. The Marx-Engels Reader, 2nd ed. New York: Norton.

van der Pijl, Kees. 2012. “Is the East Still Red? The Contender State and Class Struggles in China.” Globalizations 9(4): 503–516.

van der Weide, Roy, and Ambar Narayan. 2019. “China versus the United States: Different Economic Models but Similarly Low Levels of Socio-economic Mobility.” Unpublished manuscript.

van Parijs, Philippe, and Yannick Vanderborght. 2017. Basic Income: A Radical Proposal for a Free Society and a Sane Economy. Cambridge, MA: Harvard University Press.

van Zanden, Jan-Luiten, Joerg Baten, Peter Foldvari, and Bas van Leeuwen. 2014. “The Changing Shape of Global Inequality, 1820–2000: Exploring a New Dataset.” Review of Income and Wealth 60(2): 279–297.

Veyne, Paul. 2001. La société romaine. Paris: Seuil.

Vonyó, Tamas. 2017. “War and Socialism: Why Eastern Europe Fell Behind between 1950 and 1989.” Economic History Review 70(1): 248–274.

Vries, Peer. 2013. Escaping Poverty: The Origins of Modern Economic Growth. Göttingen: V & R Unipress.

Wang Fan-hsi. 1991. Memoirs of a Chinese Revolutionary, trans. Gregor Benton. New York: Columbia University Press.

Wang Hui. 2003. “Contemporary Chinese Thought and the Question of Modernity (1997).” In Wang, China’s New Order, ed. Theodore Huters. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Warren, Bill. 1980. Imperialism: Pioneer of Capitalism, ed. John Sender. London: New Left Books.

Weber, Max. 1978. Economy and Society, ed. Guenther Roth and Claus Wittich. Berkeley: University of California Press.

Weber, Max. 1992. The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, trans. Talcott Parsons. Reprint. London: Routledge.

Weitzman, Martin, and Colin Xu. 1993. “Chinese Township Village Enterprises as Vaguely Defined Cooperatives.” CEP Discussion Paper no. 155, Centre for Economic Performance, London School of Economics and Political Science, June. http://cep.lse.ac.uk/pubs/download/DP0155.pdf.

Wesseling, H. L. 1996. Divide and Rule: The Partition of Africa, 1880–1914, trans. Arnold J. Pomerans. Westport, CT: Praeger.

Wihtol de Wenden, Catherine. 2010. La question migratoire au XXI siècle: migrants, réfugiés et relations internationales. Paris: Presses de Sciences Po.

Wolff, Edward N. 2017. A Century of Wealth in America. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Wootton, David. 2018. Power, Pleasure, and Profit: Insatiable Appetites from Machiavelli to Madison. Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press.

World Bank. 2011. Inside Inequality in the Arab Republic of Egypt: Facts and Perceptions across People, Time, and Space. Report No. 86473. Washington, D.C. http://documents.worldbank.org/curated/en/707671468247494406/pdf/864730PUB0ISBN00Box385175B00PUBLIC0.pdf.

World Bank. 2017. “China: Systematic Country Diagnostic: Towards a More Inclusive and Sustainable Development.” Report No. 113092, Washington DC. http://documents.worldbank.org/curated/en/147231519162198351/pdf/China-SCD-publishing-version-final-for-submission-02142018.pdf.

World Bank. 2019. The Changing Nature of Work. World Development Report 2019. http://pubdocs.worldbank.org/en/816281518818814423/2019-WDR-Concept-Note.pdf.

World Inequality Report 2018, coordinated by Facunto Alvaredo, Lucas Chancel, Thomas Piketty, Emmanuel Saez, and Gabriel Zucman. Paris, December 2017.

Wu, Guoyou. 2015. The Period of Deng Xiaoping’s Reformation. Beijing: Xinhua Publishing House / Foreign Language Press.

Wu, Ximing, and Jeffrey Perloff. 2005. “China’s Income Distribution, 1985–2001.” Review of Economics and Statistics 87(4): 763–775.

Xia, Ming. 2000. The Dual Developmental State: Development Strategy and Institutional Arrangements for China’s Transition. Aldershot, UK: Ashgate.

Xie, Chuntao. 2016. Fighting Corruption: How the CPC Works. Beijing: New World Press.

Xie, Yu, and Xiang Zhou. 2014. “Income Inequality in Today’s China.” Proceedings of the National Academy of Sciences 111(19): 6928–6933.

Xu Chenggang. 2011. “The Fundamental Institutions of China’s Reforms and Development.” Journal of Economic Literature 49(4): 1076–1151.

Yang, Li, Filip Novokmet, and Branko Milanovic. 2019. “From Workers to Capitalists in Less than Two Generations: A Study of Chinese Urban Elite Transformation between 1988 and 2013.” Unpublished manuscript.

Yonzan, Nishant. 2018. “Assortative Mating and Labor Income Inequality: United States 1970–2017.” Unpublished manuscript.

Yonzan, Nishant, Branko Milanovic, Salvatore Morelli, and Janet Gornick. 2018. “Comparing Top Incomes between Survey and Tax Data: US Case Study.” LIS “Inequality Matters” Newsletter, Issue 6, pp. 10–11, LIS Cross-National Data Center in Luxembourg, June. https://www.lisdatacenter.org/newsletter/nl-2018-6-h-4/.

Zhang, Yi, and Ran Wang. 2011. “The Main Approach of the Proposed Integrated Household Survey of China.” Paper presented at the 4th meeting of the Wye City Group on Statistics of Rural Development and Agriculture Household Income, Rio de Janeiro, November 9–11.

Zhao Ziyang. 2009. Prisoner of the State. New York: Simon and Schuster. [Triệu Tử Dương, Tù nhân của Nhà nước, NXB Dân Khí 2019]

Zhuang Juzhong and Li Shi. 2016. “Understanding Recent Trends in Income Inequality in the People’s Republic of China.” ADB Economics Working Paper Series, No. 489, Asian Development Bank, July. https://www.adb.org/publications/understanding-recent-trends-income-inequality-prc.

Zucman, Gabriel. 2013. “The Missing Wealth of Nations: Are Europe and the U.S. Net Debtors or Net Creditors?” Quarterly Journal of Economics 128(3): 1321–1364.

Zucman, Gabriel. 2015. The Hidden Wealth of Nations: The Scourge of Tax Havens, trans. Teresa Lavender Fagan. Chicago: University of Chicago Press. [Sự Giàu có Giấu giếm của các Quốc gia, NXB Dân Khí 2019]

 

 


LỜI CẢM ƠN

Các chi tiết của việc viết sách, giống các chi tiết của nhiều hoạt động khác, là khó để nhớ lại sau khi xong. Người ta chỉ nhớ lơ mơ khi người ta có ý tưởng đầu tiên cho cuốn sách, các ý tưởng thay đổi thế nào, chúng bị bỏ đi hay xét lại, quá trình viết tiến triển ra sao, cái gì được viết khi nào. Mỗi lần khi kết thúc một bản thảo, tôi đã có cùng cảm giác đó: cuốn sách đã được viết hầu như một cách kỳ diệu.

Trong trường hợp này, tuy vậy, tôi nhớ rằng tôi thoáng thấy ý tưởng cho cấu trúc cuốn sách trong một đối thoại tôi có với Ian Malcolm, biên tập viên của cuốn sách này cho Harvard University Press, trong mùa hè 2017 ở London. Trước tôi đã muốn viết một cuốn sách ngắn về chỗ của chủ nghĩa cộng sản trong lịch sử toàn cầu, nhưng chỉ trong bữa ăn trưa của chúng tôi ở London tôi đã hiểu tôi có thể kết hợp ý tưởng này với các chủ đề khác mà tôi cũng đã muốn viết về. Sự diễn giải lại vai trò lịch sử của chủ nghĩa cộng sản bây giờ ở trong phần đầu của Chương 3.

Chương 3, mà đề cập đến chủ nghĩa tư bản chính trị và Trung Quốc, đã được đọc và bình luận bằng văn bản bởi (theo thứ tự abc) Misha Arandarenko, Christer Gunnarsson, Ravi Kanbur, Debin Ma, Kalle Moene, Mario Nuti, Henk Overbeek, Marcin Piatkowski, Anthea Roberts, John Roemer, Bas van Bavel, Peer Vries, Li Yang, và Carla Yumatle (người cũng bình luận về Chương 5).

Chương 2, mà đề cập đến chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và Hoa Kỳ, đã được đọc và bình luận bằng văn bản bởi (lại theo thứ tự abc) Misha Arandarenko, Andrea Capussela, Angus Deaton, Salvatore Morelli, Niels Planel, John Roemer, Paul Segal (người cũng bình luận về Chương 1), và Marshall Steinbaum.

Tôi vô cùng được lợi từ các bình luận của họ. Trong mỗi trường hợp, tôi đã đọc, tôi hy vọng cẩn trọng, từng bình luận cá nhân.

Tôi cũng hàm ơn vì sự cung cấp các dữ liệu khác nhau và những tính toán chưa được công bố của Minxin Pei, Marcin Piatkowski, Nishant Yonzan, và Chunlin Zhang. Tôi cũng thảo luận cấu trúc của cuốn sách với Glen Weyl nữa.

Toàn bộ bản thảo đã được hai phản biện nặc danh đọc, mà các bình luận của họ tôi đã hầu như phản ứng lại hoàn toàn. Tất nhiên nó được Ian Malcom đọc, người cho một số phê phán và cải thiện có giá trị nhất. Như trong cuốn sách trước của tôi, việc biên tập xuất sắc và việc chất vấn các tuyên bố của tôi đã được Louise Robbins thực hiện. Anne McGuire đã kiểm tra tất cả các dẫn chiếu. Tôi rất biết ơn và mang ơn tất cả họ.

Bản thảo cũng được hai học giả lỗi lạc về bất bình đẳng đọc (theo yêu cầu của họ), Jamie Galbraith và Thomas Piketty. Tôi rất biết ơn sự quan tâm của họ.

Cuốn sách được viết trong khi tôi dạy học tại Graduate Center, City University of New York, và làm việc mật thiết, bên trong Stone Center về Bất bình đẳng Xã hội-Kinh tế, với Janet Gornick. Như trước đây, sự ủng hộ và giúp đỡ của Janet đã là cực kỳ quan trọng. Bất cứ khi nào tôi đi xa tôi để lại phiên bản mới nhất của bản thảo cho Janet: tôi biết nó sẽ được xuất bản nếu có bất cứ gì xảy ra với tôi. Tôi rất đánh giá cao Janet và Graduate Center vì đã cho tôi nghỉ phép trong một phần thời gian tôi viết cuốn sách.

Như nhiều lần trước đây, tôi biết ơn vợ tôi và hai con trai (bây giờ) đã trưởng thành của tôi. Họ sẽ thấy kết cục của những điều mà về chúng tôi viết ở cuối Chương 5.

 

 


INDEX

Bản tiếng Việt này được dàn trang sao cho các số trang là khớp với số trang bản in giấy được dẫn chiếu trong Index này, tuy nhiên có thể có sự chênh lệch không quá ±1 trang. Chữ n sau số trang nào đấy chỉ ghi chú (note) ở trang đó, con số tiếp sau n là số ghi chú: thí dụ trong mục “Cam kết Hiến tặng (Giving Pledge), 242n44“ có nghĩa là ghi chú số 44 ở trang 242 trong bản in giấy [bạn đọc sẽ tìm thấy ghi chú số 44 này ở trang 242 trong bản tiếng Việt này], tuy nhiên có thể có sự sai lệnh về trang của các trang ghi chú gần cuối nhưng sự sai lệch không quá ±2 trang và khá dễ để tìm].  

 


A Century of Wealth in America (Wolff), 26

Acemoglu, Daron, 73

Achen, Christopher, 56

Adam Smith ở Bắc Kinh (Arrighi), 92–93, 113

Akcigit, Ufuk, 54

Alaska, annual grants in, 202

Albania, Trung Quốc và, 122

Algeria, chủ nghĩa tư bản chính trị ở, 96, 97

Allen, Robert, 149

Amazon (công ty), 183

American Community Survey, 37

American Economic Association (Hội Kinh tế Mỹ), 48

Ấn Độ: sự thay đổi về khoảng cách (gap) thu nhập và, 8; tham nhũng tiền trong chính trị ở, 58; đầu tư nước ngoài ở, 169; GDP trên đầu người, 211, 212; cách mạng ở, 82; phần của GDP toàn cầu, 9, 10

Angola, chủ nghĩa tư bản chính trị ở, 96, 97

Apple (công ty), 183

Aristotle, 4, 67, 119, 159

Arrighi, Giovanni, 92–93, 113, 115

Atkinson, Anthony, 48

B

Bai, Chong-En, 120

Baldwin, Richard, 150

“Bàn tay vô hình,” siêu-thương mại hóa và, 227–229

Barkai, Simcha, 25

Bartels, Larry, 56

Baslandze, Salomé, 54

Bất bình đẳng cơ hội: toàn cầu, 158–159; giữa thế hệ, 49, 50; giảm ~, 48

Bất bình đẳng có tính hệ thống trong chủ nghĩa tư bản tài năng tự do, 23–42; sự liên kết của thu nhập vốn cao và thu nhập lao động cao trong cùng các cá nhân, 34–36; sự đồng giao [homogamy] (ghép đôi lựa chọn) lớn hơn, 36–40; sự truyền lớn hơn của thu nhập và của cải ngang các thế hệ, 40–42; sự tập trung cao của quyền sở hữu vốn, 26–31; suất lợi tức cao hơn trên các tài sản của những người giàu, 31–34; phần gộp tăng lên của vốn trong thu nhập quốc gia, 23–26

Bất bình đẳng đô thị ở Trung Quốc, 100–102, 103

Bất bình đẳng nông thôn ở Trung Quốc, 100–102, 103

Bất bình đẳng thu nhập: ở Trung Quốc, 98–106; tính không thích đáng của các công cụ thế kỷ thứ hai mươi để giải quyết ~ thế kỷ thứ hai mươi mốt, 42–50; sự di cư và, 53–55; thu nhập cơ bản phổ quát và, 201. Xem cả Bất bình đẳng toàn cầu

Bất bình đẳng tiền lương: ở Trung Quốc, 102–103; giáo dục và, 50

Bất bình đẳng toàn cầu (Milanovic), 102

Bất bình đẳng toàn cầu, 6–9; giảm về~, 257n36; những thay đổi địa chính trị và, 211–214; lịch sử bất bình đẳng thu nhập, 6–9; đo ~, 231–233

Bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản tài năng tự do: thu nhập vốn và thu nhập lao động và, 18; toàn cầu hóa và, 22; bất bình đẳng về thu nhập lao động và, 27; sự truyền giữa thế hệ của, 19–20; hình mẫu kết hôn và, 18–19, 22; phần của vốn trong tổng thu nhập và ~ tăng lên, 15–16, 21–22; các nguyên nhân có tính hệ thống và không có tính hệ thống của, 21–23

Bất bình đẳng về thu nhập từ vốn và lao động, 26–27

Bất bình đẳng: ghép đôi lựa chọn và, 39; ở Trung Quốc, 98–112. Xem cả Bất bình đẳng thu nhập; bất bình đẳng mang tính hệ thống trong chủ nghĩa tư bản tài năng tự do; Bất bình đẳng tiền lương

Berdyaev, Nikolai, 68

Berlusconi, Silvio, 58

Biên giới (giới hạn) công nghệ (technological frontier), sự hội tụ thu nhập và, 235

Bình đẳng cơ hội giữa thế hệ, thuế thừa kế và, 49, 50

Bình đẳng tài năng (meritocratic equality), 12

Bình đẳng tự do (liberal equality), 12

Blavatnik, Leonid, 170, 253n34

Bộ Luật Hàng hải (Navigation Act), Smith nói về, 114, 248n45

Bộ máy quan liêu, chủ nghĩa tư bản chính trị và, 91, 95

Bong bóng nhà ở, 33

Borjas, George, 54–55, 140–141

Botswana, chủ nghĩa tư bản chính trị ở, 97

Bourguignon, François, 232

Bournakis, Ionnis, 152

Bowles, Samuel, 209–211

Bowley, Arthur, 14–15

Bush, George W., 60

C

Cá nhân, các, như các trung tâm sản xuất tư bản chủ nghĩa, 194–196

Cách mạng công nghệ, những thay đổi về bất bình đẳng thu nhập toàn cầu và, 7, 8–9

Cách mạng Công nghiệp, 7, 8, 150, 191

Cách mạng cộng sản, các cuộc, chủ nghĩa tư bản chính trị và, 67, 78–91

Cách mạng dân tộc, trong Thế giới thứ Ba, 79–82

Cách mạng xã hội trong Thế giới thứ Ba, 79–82

Cách nhìn mục đích luận (teleological view) về lịch sử, 68–69

Calvino, Italo, 121

Cam kết Hiến tặng (Giving Pledge), 242n44

Cân bằng tham nhũng, 121

Canada: chủ nghĩa tư bản bình quân chủ nghĩa và, 46; mua giấy phép cư trú ở, 134

Candide (Voltaire), 228

Capital (Tư bản luận) (Marx), 74

Capital in the Twenty-first Century (Piketty), 18, 27, 62

Capital without Borders (Harrington), 169

Capital: The Eruption of Delhi (Dasgupta), 181, 188

Cardoso, Fernando, 77

Carlin, Wendy, 85

Cấu trúc và kích thước công ty ở Hoa Kỳ, những thay đổi về, 25

Châu Á: toàn cầu hóa và thành công kinh tế của, 2, 5–11, 153–154; chủ nghĩa tư bản chính trị và, 5–6; sự ủng hộ toàn cầu hóa ở, 9; Phương Tây chinh phục ~, 76. Xem cả các nước riêng lẻ

Châu Âu, thành tích của các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vs. các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở, 84–85

Châu Phi: vai trò Trung quốc trong sự phát triển kinh tế ở, 125–126, 214; bất bình đẳng toàn cầu và, 9, 213–214, 257n37

Chế độ đầu sỏ (oligarchy), sự dịch chuyển từ dân chủ đến ~, 56

Chen Yun (Trần Vân), 92

Chi phí tham gia (entry costs), người giàu và, 33–34

Chi, Wei, 104

Chiappori, Pierre-André, 39

Chiến dịch chống-tham nhũng, ở Trung Quốc, 108–109

Chiến tranh hạt nhân toàn cầu, khả năng về, 205–207

Chiến tranh Thế giới I, 71, 72, 205–206, 221, 256–257n31

Chiến tranh Thế giới II, 205

Chiến tranh toàn cầu, sự hội tụ thu nhập và rủi ro giảm xuống của ~, 214

Chiến tranh, chủ nghĩa tư bản toàn cầu và, 205–207

Chính sách cộng sản nguyên thủy, 46

Chính sách kinh tế, các, quyền lực chính trị người giàu và, 59

Chính sách thuế để phi tập trung quyền sở hữu vốn, 47–48

Chính sách xã hội, các, chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và ~ mới, 42–55; giải quyết bất bình đẳng thu nhập thế kỷ thứ hai mươi mốt, 42–50; nhà nước phúc lợi trong thời đại toàn cầu hóa, 50–55

Chỗ làm việc được tổ chức một cách dân chủ, các rentier cho thuê các dịch vụ cho, 210–211

Chống-nhập cư, các chính sách, 156

Chủ nghĩa Bi quan Xuất khẩu, 149–150

Chủ nghĩa cấu trúc (structuralism), Mỹ Latin, 77–78, 170–171

Chủ nghĩa cộng sản thời chiến (war communism), 69

Chủ nghĩa cộng sản: làm rõ thuật ngữ, 69; sự sụp đổ của, 72; vai trò lịch sử của, 221–222; sự bất lực của các thế giới quan Marxist và tự do để giải thích chỗ của ~ trong lịch sử, 68–74; chỗ của ~ trong lịch sử, 68–78, 221–225; vai trò của ~ trong các chuyện kể lịch sử (historical narratives) Marxist và tự do, 69–73; đặt bên trong lịch sử thế kỷ thứ hai mươi, 74–78; Liên Xô và, 2; các biến thể của, 5; nơi nó đã thành công, 82–87; vai trò lịch sử-thế giới của ~, 75–78

Chủ nghĩa dân tộc phương pháp luận, 159

Chủ nghĩa đế quốc cao, 74

Chủ nghĩa đế quốc đạo đức, 126

Chủ nghĩa đế quốc, 148; Chiến tranh Thế giới I và, 206, 256–257n31

Chủ nghĩa độc đoán phi tập trung, ở Trung Quốc, 123–125

Chủ nghĩa duy vật lịch sử, 224

Chủ nghĩa khoái lạc (hedonism), trừu tượng, 179

Chủ nghĩa lịch sử (historicism), 244n3

Chủ nghĩa phân lập xã hội, hệ thống, 52

Chủ nghĩa phát xít, giải thích sự lên của, 70–72

Chủ nghĩa thực dân, 75, 148, 151, 245n8

Chủ nghĩa trọng thương, 150

Chủ nghĩa tư bản bình quân chủ nghĩa, 46, 216

Chủ nghĩa tư bản cánh hẩu (thân hữu), 120

Chủ nghĩa tư bản chính trị, 67–128; Trung Quốc và, 67, 87–91; cạnh tranh với chủ nghĩa tư bản tài năng tự do, 10–11; tham nhũng và, 120–121; các nước với các hệ thống ~, 96–98; tính lâu bền và sự hấp dẫn toàn cầu của, 112–128; sự lên kinh tế của châu Á và, 5–6; “xuất khẩu” ~ Trung quốc, 118–128; bất bình đẳng ở Trung Quốc và, 98–112; các đặc điểm chính của, 91–98; chủ nghĩa tư bản tự do vs. ~, 207–211; chỗ của chủ nghĩa cộng sản trong lịch sử và, 68–78; tài phiệt, 217–218; sự tiến hóa có thể của, 215–218; vai trò của các cuộc cách mạng cộng sản trong việc mang chủ nghĩa tư bản đến Thế giới thứ Ba và, 67, 78–91; các đặc trưng mang tính hệ thống và các mâu thuẫn mang tính hệ thống của, 91–96; khả năng chuyển giao của ~ Trung quốc, 123–125; khả năng sống sót của, 128

Chủ nghĩa tư bản chính trị do nhà nước-hướng dẫn. Xem Chủ nghĩa tư bản chính trị

Chủ nghĩa tư bản chính trị tài phiệt (plutocratic), 217–218

Chủ nghĩa tư bản cổ điển, 13–14, 215; thu nhập và giàu vốn trong, 17, 34–35; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do khác biệt với, 20

Chủ nghĩa tư bản dân chủ-xã hội, 13–14, 215; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do phân biệt với, 20

Chủ nghĩa tư bản độc đoán (authoritarian). Xem Chủ nghĩa tư bản chính trị

Chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa: tính phi đạo đức của, 176–187; thiếu sự thay thế khả dĩ cho, 185–187

Chủ nghĩa tư bản nhân dân, 48, 215, 216

Chủ nghĩa tư bản tài năng (meritocratic capitalism), 49. Xem cả Chủ nghĩa tư bản tài năng tự do

Chủ nghĩa tư bản tài năng tự do, 5, 12–66, 215; giải quyết bất bình đẳng thu nhập thế kỷ thứ hai mươi mốt, 42–50; lợi thế của, 11; sự liên kết của thu nhập vốn cao và thu nhập lao động cao trong cùng các cá nhân và, 34–36; ghép đôi lựa chọn và, 19, 36–40; thu nhập vốn và thu nhập lao động và, 17–18; các nguyên nhân của sự tăng bất bình đẳng trong, 21–23; cạnh tranh với chủ nghĩa tư bản chính trị, 10–11; bản chất phức tạp của, 20–21; định nghĩa, 12–13; như điểm kết thúc của sự tiến hóa con người, 70; sự truyền lớn hơn của thu nhập và của cải ngang các thế hệ và, 40–42; sự tập trung cao của quyền sở hữu vốn và, 26–31; suất lợi tức cao hơn trên các tài sản của những người giàu và, 31–34; các chủ nghĩa tư bản lịch sử, 13–21; phần gộp tăng lên của vốn trong thu nhập quốc gia và, 23–26; các đặc điểm chính của, 13–23; các chính sách xã hội mới và, 42–55; chủ nghĩa tư bản chính trị vs. ~, 207–211; sự tiến hóa khả dĩ của, 215–218; giai cấp thượng lưu tự-duy trì trong, 56–66; bất bình đẳng mang tính hệ thống trong, 20, 23–42; mối đe dọa cho, 11; nhà nước phúc lợi trong thời đại toàn cầu hóa và, 50–55

Chủ nghĩa tư bản toàn cầu, toàn cầu hóa và, 153–155

Chủ nghĩa tư bản toàn cầu, tương lai của, 176–218; tính phi đạo đức của chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa, 176–187; sự nguyên tử hóa và sự hàng hóa hóa, 187–197; sợ tiến bộ công nghệ và, 197–205; bất bình đẳng toàn cầu và những thay đổi địa chính trị, 211–214; dẫn tới chủ nghĩa tư bản nhân dân và chủ nghĩa tư bản bình quân chủ nghĩa, 215–218; chủ nghĩa tư bản chính trị vs. chủ nghĩa tư bản tự do, 207–211; chiến tranh và hòa bình, 205–207

Chủ nghĩa tư bản và toàn cầu hóa, tương tác của, 129–175; tư cách công dân như tài sản kinh tế, 134–136; phần thưởng hay rent tư cách công dân, 131–134; sự di chuyển tự do của các nhân tố sản xuất, 136–141; các chuỗi giá trị toàn cầu, 147–155; tính di động lao động và, 129–130; sự di cư lao động (xem Lao động, sự di cư); điều hòa các mối quan tâm của những người bản xứ với các mong muốn của những người di cư, 142–147; sự sống sót của nhà nước phúc lợi và, 155–159; tham nhũng khắp thế giới và, 159–175

Chủ nghĩa tư bản: sự liên kết của các mục tiêu cá nhân và hệ thống và, 4–5; định nghĩa, 12, 115; quyền thế của, 196–197; bình quân chủ nghĩa, 46, 216; toàn cầu hóa và, 3; các chủ nghĩa tư bản lịch sử , 13–21; dân chủ tự do và, 9; của Max Weber, 176–180; như hệ thống kinh tế-xã hội duy nhất, 2–5; ~ nhân dân, 48, 215, 216; đời sống riêng tư trong, 190–196. Xem cả Chủ nghĩa tư bản toàn cầu, tương lai của ; Chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa; Chủ nghĩa tư bản tài năng tự do; Chủ nghĩa tư bản chính trị

Chủ nghĩa tự do (libertarianism), 216

CNXH hiện thực, 69

CNXH, 216, 221–222; làm rõ thuật ngữ, 69

Chuỗi giá trị toàn cầu, các, 130, 147–155; phát triển kinh tế và, 148–149; chủ nghĩa bi quan xuất khẩu và, 149–150; toàn cầu hóa như sự phân đoạn sản xuất, 150–155; tầm quan trọng tăng lên của các định chế và, 151–152

Chuyển giao xã hội (social transfer) (khoản), cố gắng sửa lại bất bình đẳng và, 44, 45, 46

Cicero, 182

Clinton, Bill, 57

Clinton, Hillary, 58

Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương, 148

Cơ sở dữ liệu Luxembourg Income Study, 99

Columbus, Christopher, 122

Communist Manifesto, The (Marx & Engels), 114

Con cái, elite và đầu tư vào, 39, 40, 66

Con đường “tự nhiên” Smithian của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, 113–115

Con đường phát triển Marxian của chủ nghĩa tư bản, 113–115, 117

Con đường Phát triển Tây phương (Western Path of Development-WPD), 222, 223–224; Thế giới thứ Ba và, 74, 76, 78–79

Công đoàn, các, sự giảm về tư cách thành viên, 25, 42–43

Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT): thay đổi về bất bình đẳng thu nhập toàn cầu và, 8–9; các chuỗi giá trị toàn cầu và, 148; toàn cầu hóa thứ hai và, 150, 151–152

Công ty tư nhân, các, ở Trung Quốc, 88–89

Corak, Miles, 41

Correlates of War (COW), dự án, 257n32

Của cải được kế thừa, 62–63

Của cải giai cấp-trung lưu, 31–32

Của cải nhà ở, 31–32, 33

Của cải tư (private wealth), sự tăng lên ở Trung Quốc, 103–104

Của cải, sự giàu có (wealth): hệ thống thứ bậc và, 177–178; bất bình đẳng và sự tập trung của, 30–31; ~ được thừa kế, 62–63; sự truyền giữa thế hệ của, 158–159; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và sự tập trung của, 26–31; giảm sự tập trung của, 216, 217

Cuộc vận động chính trị, các, tài trợ công của, 217

D

Dahl, Robert, 119

Dao, Mai Chi, 24

Dasgupta, Rana, 181, 188

Davis, Gerald, 25

Davis, Jonathan, 41

Dân chủ: chủ nghĩa tư bản và, 9; ở Trung Quốc, 117–118; chủ nghĩa tư bản tự do và, 208–209; sự dịch chuyển tới chế độ đầu sỏ (oligarchy), 56; những người giàu và việc tài trợ quá trình chính trị trong, 57–58

Dân cư bản xứ, hòa giải các mối quan tâm của ~ với mong muốn của những người di cư, 142–147

Democracy and Capitalism (Bowles & Gintis), 209–210

Dependencia, lý thuyết (phụ thuộc con đường), 77–78, 148–149

Detroit, Hiệp ước (1949), 25

Dễ chịu, sự (niceness): xã hội được thương mại hóa và, 177; sự hàng hóa hóa và, 193, 194, 196

Di cư kinh tế, toàn cầu hóa, nhà nước phúc lợi, và, 52–55

Di cư, sự. Xem Lao động, sự di cư của

Di sản hóa (partimonialization) nhà nước, 120

Ding, Haiyan, 102

Doanh nghiệp sở hữu nhà nước (SOE) ở Trung Quốc, phần trong tổng việc làm đô thị, 90

Doanh nghiệp sở hữu nhà nước, các (SOE) ở Trung Quốc, phần của sản lượng công nghiệp, 87, 88

“Doux commerce,” 176, 194

Dự án Thu nhập Hộ gia đình Trung Quốc (CHIP), 99, 248n35

Dưới-tư cách công dân (subcitizenship), 135–136

Đ

Đại học Sư phạm Bắc Kinh, 99

Đại học, các, sự rửa tiền đạo đức và, 169–170

Đài Loan: bất bình đẳng thu nhập vốn và lao động ở, 27; chủ nghĩa tư bản bình quân chủ nghĩa và, 46

Đại Nhảy Vọt, 123

Đàn hồi đơn nhất (unitary elasticity), độ, tính, của sự thay thế giữa vốn và lao động, 23

Đảng cánh-tả, các, thái độ chống toàn cầu hóa của, 157

Đảng cộng sản Trung quốc (ĐCSTQ), 80–81, 82

Đặng Tiểu Bình, 91–92, 107, 113

Đánh thuế lũy tiến, sự, cố gắng để uốn nắm bất bình đẳng và, 45

Đánh thuế thừa kế, 40; các chủ nghĩa tư bản và, 13

Đánh thuế: thu nhập hiện hành, 44; lợi tức trên các tài sản, 33

Đạo đức giả, chủ nghĩa tư bản và, 178, 197

Đạo đức học của giai cấp cai trị, 66

Đạo đức vs. pháp lý, 182

Đạo đức, thuê ngoài (outsourcing), 180–184

Đạo Hindu, hệ thống thứ bậc trong, 177

Đạo Tin lành (Protestantism), chủ nghĩa tư bản và, 179

Đầu tư cố định ở Trung Quốc, 89–90

Đầu tư tư nhân, ở Trung Quốc, 89–90

Địa chính trị, những thay đổi, bất bình đẳng toàn cầu và, 211–214

Địa tô (land rent), tư cách công dân và, 132, 133–134

Điều thiện xã hội, các thói xấu xã hội được dùng cho, 227–229

Định chế bao hàm, các (inclusive institutions), 73

Định chế khai thác, các (extractive institutions), 73

Định chế, các, toàn cầu hóa và tầm quan trọng tăng lên của, 151–152

Đo, sự: phần vốn trong tổng thu nhập ròng, 233–234; bất bình đẳng toàn cầu, 231–233

Đổi mới, sự hội tụ thu nhập và, 235

Đời sống riêng tư, trong chủ nghĩa tư bản hàng ngày, 190–196

Đông Âu, thất bại của chủ nghĩa cộng sản ở, 83–84

Đức: trấn áp thẳng tay sự lẩn tránh thuế ở, 173; bất bình đẳng về thu nhập từ vốn và lao động ở, 26–27, 29; các hạn chế về tái phân phối thuế-và-chuyển giao ở, 44–45; sự di cư và, 137, 242n47; phần của GDP toàn cầu, 9, 10; dưới-tư cách công dân ở, 136

Đường giới hạn khả năng sản xuất (production possibility frontier), 87

Đứt gãy văn hóa, của sự di cư, 140–142

E

Economic Consequences of the Peace, The (Keynes), 179

Economic Possibilities for Our Grandchildren, The” (Keynes), 186, 200

Economics (Samuelson), 15

Economy and Society (Weber), 91

Einstein, Albert, 207

Elite: các đặc trưng của elite cai trị trong chủ nghĩa tư bản tự do, 65–66; tham nhũng và ~ Trung quốc, 107–112; giáo dục của, 59–62, 65–66; chủ nghĩa tư bản chính trị tài phiệt (plutocratic) và, 217–218; chủ nghĩa tư bản chính trị và, 93–94. Xem cả Người giàu; Giai cấp thượng lưu

Elite chính trị, các, sự tự trị của ~ trong chủ nghĩa tư bản chính trị, 11

Ellul, Jacques, 208–209

End of History and the Last Man, The (Fukuyama), 70

Engels, Friedrich, 1, 2, 3, 114, 224

Escaping Poverty (Vries), 115

F

Feldstein, Martin, 33

Ferguson, Niall, 72

Fischer, Fritz, 72

Fisher, Irving, 48

Frank, André Gunder, 148

Fraser, Nancy, 195

Freeman, Richard, 144, 198

Freund, Caroline, 50, 161–163

Fu, Zhe, 102

Fukuyama, Francis, 68, 70, 115, 120

G

Gallery nghệ thuật, các, sự rửa tiền đạo đức và, 169–170

GDP toàn cầu: phần của Trung Quốc trong, 9, 10; phần của Đức trong, 9, 10; phần của Ấn Độ trong, 9, 10; phần của Hoa Kỳ trong, 9, 10

GDP trên đầu người: cho Trung Quốc và Ấn Độ, 8, 211, 212; trong các nước với chủ nghĩa tư bản chính trị, 97; sự giảm về bất bình đẳng toàn cầu và, 213; tỷ lệ tăng trưởng ở Trung Quốc, Việt Nam, và Hoa Kỳ, 86; của cải ròng hộ gia đình và, 27, 30, 31; trong các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vs. các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở châu Âu trong năm 1950, 83–84; thu nhập cơ bản phổ quát và, 203

Gernet, Jacques, 105–106, 115

Ghép đôi lựa chọn (assortative mating), chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và, 18–19, 36–40

Ghetto hóa của những người di cư, 146–147

Gia đình, sự hữu ích giảm đi của, 187–190

Giấc Mơ Mỹ, 40–41

Giai cấp cai trị, đạo đức của, 66

“Giai cấp nhàn rỗi,” Veblen và, 17

Giai cấp thượng lưu: giáo dục elite và, 59–62; giáo dục đắt tiền và, 65–66; của cải được thừa kế và, 62–63; sự cởi mở với những người ngoài, 63–65, 66; quyền lực chính trị của, 56–59; vai trò của, 65; ~ tự-duy trì mãi mãi, 56–66. Xem cả Elite; Giàu

Giai cấp trung lưu: ở Trung Quốc, 104–105, 248n36, 249n48; chi phí giáo dục và, 59–60; sự nổi lên của ~ toàn cầu, 212–213; quyền lực chính trị của, 56; các chính sách thuế cho, 217

Giai cấp tư bản cán bộ, ở Trung Quốc, 116

Giai cấp tư bản, ở Trung Quốc, 104–105

Giai cấp tư bản-chính trị, ở Trung Quốc, 94, 116

Giai cấp tư sản, nhà nước Trung quốc và, 113–118

Giải điều tiết (deregulation) tài chính, 183

Giai đoạn thay thế nhập khẩu của sự phát triển, 153

Giao dịch hàng ngày, các, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các động cơ cho, 176–177

Giáo dục công: chủ nghĩa tư bản tự do và, 13, 43–44; sự cần cho sự tăng tài trợ và cải thiện ~, 217. Xem cả Giáo dục

Giáo dục: hệ thống ~ rẽ đôi ở Hoa Kỳ, 61; elite, 59–62, 65–66; hệ số Gini cho các năm ~, 241–242n40; phần thưởng giáo dục kết hôn, 39; bất bình đẳng tiền lương và, 50. Xem cả Giáo dục công

Giàu có, sự, xem của cải

Giàu, (người): sung túc-vốn và, 16; những người ~ kiểm soát quá trình chính trị trong nền dân chủ, 56–57; tạo ra các hệ thống tư nhân, 51–52; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và suất lợi tức cao hơn trên tài sản của những người ~, 31–34. Xem cả Elite

Giấy phép cư trú, 145

Gig, nền kinh tế, 190, 192, 194

Gilens, Martin, 56

Gini, các điểm, 6, 7, 239n22, 240n30

Gini, các hệ số, 6, 27, 231, 241–242n40

Gintis, Herbert, 209–211

Giới, giai cấp cai trị và, 66

Goldin, Claudia, 24

Goldman Sachs, Clinton và, 58

Goths, những người, 141

Graham, Billy, 180

Great Convergence, The (Baldwin), 150

Grundrisse (Marx), 178–179

H

Hà Lan, GDP trên đầu người, 211, 212

Hàng hóa hóa, sự (commodification): mặt trái của, 192–194; chủ nghĩa tư bản toàn cầu và, 190–197; lịch sử của, 191; nhân dân như trung tâm sản xuất tư bản chủ nghĩa, 194–196; quan hệ với sự nguyên tử hóa, 190, 192

Hàng hóa, các, sự tạo ra ~ mới, 190–192, 255n18

Hàng hóa, toàn cầu hóa và chi phí vận tải ~ giảm, 150–151

Harrington, Brooke, 169

Hayek, Friedrich, 176, 240n32

He Qinglian, 107

Hệ thống khoán hộ (responsibility system) ở Trung Quốc, 87, 90, 123, 249n53

Hệ thống kinh tế-xã hội, các, các quy luật chi phối sự lên và suy sụp của ~, 68–69

Hệ thống phúc lợi, thu nhập cơ bản phổ quát và, 203–205

Hệ thống thẻ xanh: ở Đức, 242n47; ở Hoa Kỳ, 146, 147

Hệ thống thứ bậc trong các xã hội thương mại, 177–178

He, Hui, 102

Hegel, Georg W. F., 68

Henry, Thierry, 182

Hidden Wealth of Nations, The (Zucman), 169

Hiệu quả nhà nước, sự, chủ nghĩa tư bản chính trị và, 118–119, 121, 127

Hiệu ứng đua đòi (demonstration effect) của toàn cầu hóa, 163, 170–173, 174

High-tech offshoring (chuyển sản xuất công nghệ cao ra nước ngoài), 152

Hình mẫu kết hôn, các, chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và, 18–19, 36–40

Hồ Cẩm Đào, 95

Hồ sơ Panama xem Panama Papers

Hồ sơ Thiên đường xem Paradise Papers

Hòa bình, chủ nghĩa tư bản và, 206–207

Hoa Kỳ: ghép đôi lựa chọn và sự tăng bất bình đẳng ở, 39; hệ thống giáo dục rẽ đôi ở, 59–62; thách thức các luật bí mật hoạt động ngân hàng Thụy Sĩ, 173; sự tập trung quyền sở hữu vốn ở, 26–31; sự tập trung của cải và quyền sở hữu trực tiếp cổ phần ở, 35–36; sự giảm về tính di động tuyệt đối ở, 42, 241n35; “xuất khẩu” chủ nghĩa tư bản tự do, 112–113; dòng người bên trong, 138; GDP trên đầu người tỷ lệ tăng trưởng ở, 86; tỷ lệ tăng trưởng ở, 235; sự nhập cư và, 52, 54–55, 145–146; bất bình đẳng thu nhập ở, 102; phần gộp tăng lên của vốn trong thu nhập quốc gia ở, 24, 25; bất bình đẳng và tính di động ở, 63–65; bất bình đẳng về thu nhập từ vốn và lao động ở, 26–27, 28; sự truyền giữa thế hệ của bất bình đẳng ở, 19; việc làm dưới sự đe dọa từ sự tự động hóa ở, 198; các tỷ lệ K/L ở, 149; tác dụng đòn bẩy (leverage) của sự giàu có giai cấp-trung lưu ở, 31–32; các hạn chế của tái phân phối thuế-và-chuyển giao ở, 44–46; tiền như bộ san bằng ở, 177; cảm nhận về bình đẳng cơ hội lớn hơn ở, 240n32; các quyền của những người di cư ở, 145–146; giai cấp cai trị kiểm soát vốn tài chính, 65; phần của thu nhập vốn trong tổng thu nhập, 15; phần của GDP toàn cầu, 9, 10; chủ nghĩa tư bản dân chủ-xã hội ở, 13; đánh thuế thừa kế ở, 49–50; thập phân vị đỉnh của các nhà tư bản theo thập phân vị đỉnh của những người lao động, 35

Hòa nhập xã hội (socialization) bên trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, 4

Hobsbawm, Eric, 224

Hobson, John, 206

Hội các Chủ Xưởng Bông Trung Quốc, 80

Hội nghị Nhân dân Phương Đông lần Thứ nhất, 223

Hội tụ thu nhập, sự, 211–214, 234–235

Hội tụ vô điều kiện, sự, 234

Hội tụ, sự, có điều kiện 234–235

Homogamy. Xem Ghép đôi lựa chọn

Homoploutia (cùng giàu vốn và giàu lao động), 34–36, 66

House, Edward, 80

Hsieh, Chang-Tai, 120

Hume, David, 227

I

Imperialism: Pioneer Capitalism (Warren), 76, 223

Indonesia: GDP trên đầu người, 211, 212; sự tăng về tăng trưởng kinh tế ở, 8

Iran, thu nhập cơ bản phổ quát ở, 202

Israel, dưới-tư cách công dân ở, 136

Italy: ghép đôi lựa chọn ở, 240n31; tham nhũng ở, 121; thay thế dân cư bản xứ bởi những người giàu từ các nước khác ở, 186

J

Jacques, Martin, 122, 126, 128

Jefferson, Thomas, 178

Jevons, Stanley, 200, 256n28

Jianhua, Xiao, 93

K

Karabarbounis, Loukas, 24

Katz, Lawrence, 24

Kẽ hở thu nhập, xem, khoảng cách thu nhập

Kế hoạch quyền sở hữu cổ phần nhân viên (ESOP), để phi tập trung hóa quyền sở hữu vốn, 48

Keynes, John Maynard, 23, 179, 186, 200, 201, 256n28

Khả năng chịu đựng (carrying capacity) của trái đất, 200

Khảo sát hộ gia đình, 239n24; ở Trung Quốc, 98–100, 232, 247n33; để đo bất bình đẳng toàn cầu, 231–232

Khảo sát hộ gia đình đại diện quốc gia. Xem Khảo sát hộ gia đình

Khảo sát Tài chính Hộ gia đình Trung Quốc (CHFS), 99

Khashoggi, Jamal, 180

Khế ước xã hội, hành vi tư bản chủ nghĩa và ngầm, 179–180, 254n9

Khoảng cách (kẽ hở) thu nhập (income gap), 6, 8, 101, 135, 145,

Khodorkovsky, Mikhail, 93, 170, 252n33

Không gian công (public sphere), tương tác với không gian tư, 189–190

Không gian riêng tư (private sphere): sự hàng hóa hóa ~, 194–196; tương tác với không gian công cộng, 189–190

Kiếm-tiền: toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa và ý thức hệ ~, 131; siêu toàn cầu hóa và, 163–168; như mục tiêu quan trọng nhất trong đời người dân, 3–4

Kiểm soát chính trị, sự, của giai cấp thượng lưu, 56–59

Kiều hối, sự gửi tiền về (remittances), 133, 136

Kohl, Helmut, 58

Kuhn, Moritz, 31–32

Kuznets, các làn sóng, 100, 102

L

Landes, David, 196

Lao động ăn lương bên ngoài chỗ ở, 189

Lao động được tổ chức, sự giảm quyền lực của, 25, 42–43

Lao động, sự di cư của, 131–147; các lý lẽ chống lại, 138–139, 140–141; tư cách công dân như tài sản kinh tế, 134–136; phần thưởng hay rent tư cách công dân, 131–134; dưới các điều kiện toàn cầu hóa, 137–139; định nghĩa, 137; sự di chuyển tự do của các nhân tố sản xuất và, 136–141; hòa giải các sự quan tâm của những người bản xứ với mong muốn của những người di cư, 142–147; các hệ thống giá trị của những người di cư, 140–141; nhà nước phúc lợi và, 156; vì sao lao động khác với vốn, 139–141; thu nhập thế giới và, 250n9

Lao động: trong nền kinh tế gig, 192; toàn cầu hóa và tính di động của, 129–130, 150, 154; sự tổ chức ~, 43; phần thưởng kỹ năng, 21; bất bình đẳng tiền lương và, 50

Law of Peoples, The (Rawls), 158

Lenin, Vladimir, 224

Li, Chunling, 104

Liên Xô: “xuất khẩu” hệ thống kinh tế và chính trị, 113; thất bại của chủ nghĩa cộng sản ở, 83; khảo sát hộ gia đình ở, 232. Xem cả Nga

Lin, Justin, 126–127

Lobbying, (vận động hành lang) 252n26

Lợi thế giữa thế hệ, giáo dục và, 61–62

Lỗi và sai sót (errors and omissions) ròng toàn cầu, 161

Lòng tham, trong các xã hội thương mại, 178–180

Lựa chọn đối nghịch (adverse selection), của những người di cư, 55

Luật “Athens”, 68

Luật “Jerusalem”, 68

Luật cấm xa hoa lãng phí, các (sumptuary laws), 181

Luật trị (rule of law): Trung Quốc và, 107–108, 117; chủ nghĩa tư bản chính trị và, 93–94, 95

Luật, thuê ngoài đạo đức (outsourcing morality) và, 181, 182

Luxemburg, Rosa, 222

Lyft, 190

M

Ma, Debin, 115

Machiavelli, Niccolò, 171, 228, 252n25

Maddison Comparison Project (Dự án So sánh Maddison), 232

Maddison, Angus, 232

Mafia, chủ nghĩa tư bản chính trị và, 94

Major, John, 57

Mandeville, Bernard, 178, 185, 228

Mao Trạch Đông, 79, 81, 245n12

Markovits, Daniel, 61, 193–194

Marx, Karl, 1, 2, 3, 129; về sự cai trị Anh ở Ấn Độ, 223, 245n10; bảo vệ chủ nghĩa đế quốc, 76; định nghĩa của ~ về chủ nghĩa tư bản, 12; định nghĩa của ~ về rent, 250n1; về chức năng của nhà tư bản, 22–23; về lòng tham như chủ nghĩa khoái lạc trừu tượng, 178–179; về vai trò của giai cấp cai trị, 65; về Nga, 245n6; về CNXH ở Nga, 74; về các giai đoạn phát triển kinh tế, 224–225; Thế giới thứ Ba và, 74

Mason, Paul, 194–195, 255n18

Mazumder, Bhashkar, 41

Meade, James, 48

Milanovic, Branko, 105

Mill, John Stuart, 57

Mớ ngụy biện lao động, 197–201

Mông Cổ, thu nhập cơ bản phổ quát ở, 202

Montagu, Edwin, 75

Montesquieu, 4, 176, 194, 241n38, 253n1, 255n16

Morrisson, Christian, 232

Mức thu nhập của nước, thành công của chủ nghĩa cộng sản và, 82–83

Mugabe, Robert, 125–126

Mỹ Latin: bất bình đẳng ở, 102; chủ nghĩa cấu trúc và lý thuyết dependecia, 77–78, 170–171

N

Na Uy, bất bình đẳng về thu nhập từ vốn và lao động ở, 26–27, 29

Napoleon, 112–113

National Bureau of Statistics (NBS-Tổng cục Thống kê Quốc gia) (Trung Quốc), 98

NBS, khảo sát, 104

Neiman, Brent, 24

Nền kinh tế “phi trọng lượng”, 194–195

nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, các, thành tích của các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vs. ~, 84–87

Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, các, 69; thành tích của các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vs. ~, 84–87

Neo-Hobbsian, chủ nghĩa tư bản, 210

Neoliberalism (chủ nghĩa tân-tự do), 209–210

Nga: tháo chạy vốn khỏi, 168–169; sự phát triển của CNXH ở, 74–75; sự cai trị của các tài phiệt ở, 108. Xem cả Liên Xô

Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Á châu, 127

Ngân hàng tạo thuận lợi cho chuyển tiền kiếm được một cách bất hợp pháp, 167–168, 169

Ngân hàng Thế giới xem World Bank

Ngân hàng Thụy sĩ, các tài khoản, 173, 251n20

Ngang sức mua (Purchasing Power Parity-PPP), 232

NGO (tổ chức phi chính phủ), các, sự rửa tiền đạo đức và, 169–170

Người di cư không có giấy tờ, ở Hoa Kỳ, 145–146

Người giàu-vốn, những, thu nhập của, 16–18

Người lao động, những, sự phân chia sản phẩm ròng giữa những người chủ và ~, 14–16

Ngụy biện (fallacy): của cả mớ học thuyết lao động, 198–199; về cả mớ nguyên liệu và năng lượng, 200–201; rằng nhu cầu con người bị hạn chế, 199

Nguyên liệu thô và năng lượng, ngụy biện về cả mớ, 200–201

Nguyên tử hóa, sự, (atomization): chủ nghĩa tư bản toàn cầu và, 187–190; quan hệ với sự hàng hóa hóa, 190, 192

Nhà nước pháp quyền xem luật trị

Nhà nước phúc lợi: toàn cầu hóa và, 50–55, 155–159; sự di cư và, 52–55, 133

Nhà ở, thu nhập từ, 234

Nhân hóa, thuyết (anthropomorphism), các robot và, 197–201

Nhập học thừa tự, sự (legacy admission), 60

Nhật Bản: tỷ lệ tăng trưởng ở, 235; việc làm dưới sự đe dọa từ tự động hóa ở, 198

Nhu cầu con người, ngụy biện rằng ~ là có giới hạn, 199

Người chủ, những, sự phân chia sản phẩm ròng giữa những người lao động và ~, 14–16

Người giàu-lao động, những, thu nhập của, 16–18

Nobel Factor, The (Offer & Söderberg), 51

Nông nghiệp, chủ nghĩa tư bản và Trung quốc, 87–88

Novokmet, Filip, 105, 168

Nước đã phát triển, các, thất bại của chủ nghĩa cộng sản trong, 83, 84

Nước kém phát triển, các, thành công của chủ nghĩa cộng sản ở, 82–87. Xem cả Thế giới thứ Ba

O

Oakland (California), thu nhập cơ bản phổ quát ở, 202

Obama, Barack, 57, 186

Offer, Avner, 51, 203

Offshoring (chuyển sản xuất ra nước ngoài), 152–153

On New Democracy [Về Nền dân chủ Mới] (Mao), 245n12

Origins of Political Order, The (Fukuyama), 115

Outsourcing (thuê ngoài), 136; ~ các hoạt động/dịch vụ gia đình, 190; ~ quy tắc pháp lý nội bộ gia đình, 189; ~ đạo đức, 180–184

Overbeek, Hans, 116

Ổn định xã hội, những người di cư và, 147

P

Page, Benjamin, 56

Panama Papers, 169

Paradise Papers, 169

Pareto, Vilfredo, 65

Paul (apostle-tông đồ), 155

Pei, Minxin, 109–111, 164

Phá hủy sáng tạo Schumpeterian, sự 120

Phân bố chức năng (functional distribution) của thu nhập, 233

Phân bố thu nhập giữa cá nhân, 233

Phần Lan, thu nhập cơ bản phổ quát ở, 202

Phần thưởng giáo dục kế hôn (marriage education premium), 39

Phần thưởng kỹ năng (skill premium): sự tăng, 21; giáo dục đại chúng và sự giảm ~, 43

Phần thưởng tư cách công dân (citizenship premium), 129; lao động sự di cư và, 156; như rent, 131–132

Pháp lý vs. đạo đức, 182

Pháp, nước: của cải được thừa kế ở, 62; sự ủng hộ thiểu số cho toàn cầu hóa ở, 9; phần của vốn như tỷ lệ phần trăm của thu nhập quốc gia ở, 15

Phát minh, các, sự hội tụ thu nhập và, 235

Phát triển kinh tế: Trung Quốc và ~ Phi châu, 125–126, 214; các chuỗi giá trị toàn cầu và, 148–150

Phát triển, sự, “phát triển của sự kém phát triển,” 148

Phạt tư cách công dân, sự, (citizenship penalty) 129; tham nhũng và, 173

Phê phán Kinh tế Chính trị (Marx), 224

Phi đạo đức, tính (amorality): chủ nghĩa tư bản được siêu-thương mại hóa và, 176–187; siêu toàn cầu hóa và, 163–164

Phi hàng hóa hóa, sự (decommodification), các lực của, 255–256n23

Phương Tây: nỗi khó chịu về toàn cầu hóa ở, 9–10; sự lên của châu Á và sự chấm dứt tính ưu việt quân sự, chính trị, và kinh tế của ~, 6

“phương thức sản xuất Á đông,” 74, 75, 245n7

Phương thức sản xuất hộ gia đình, 189

Piketty, Thomas: về sự đào thoát vốn khỏi Nga, 168; về các phần thu nhập của vốn và lao động, 15; về của cải được thừa kế, 62; về của cải tư nhân ở Trung Quốc, 103–104; về tỷ lệ giữa vốn và thu nhập, 27; về phần tăng lên của thu nhập lao động trong 1 phần trăm trên đỉnh, 18; các nhân tố mang tính hệ thống và ngẫu nhiên đẩy bất bình đẳng lên, 22, 23

Piñera, José, 167–168

Pinochet, Augusto, 167

Plato, 4, 68–69

Polanyi, Karl, 195

Polyarchy (nền Đa trị), 119

Popper, Karl, 244n3

Postcapitalism (Mason), 194, 255n18

Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, The (Weber), 91

Putin, Vladimir, 93, 170

Q

Quan chức đảng ở Trung Quốc, các, tham nhũng và, 108–112

Quan điểm Marxist về lịch sử, 221, 224; sự bất lực để giải thích chỗ của chủ nghĩa cộng sản trong lịch sử, 68–74

Quan niệm tư cách công dân (citizenship light), 217

Quốc dân Đảng, 81

Quốc gia, các, sự truyền giữa thế hệ của của cải giành được một cách tập thể giữa ~, 158–159

Quốc tế Cộng sản (Comintern), “sự quay sang đông” của, 223–224

Quy luật Bowley, 15, 23

Quy tắc ứng xử (rules of conduct), thiếu ~ được nội hóa, 181–184

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), 107, 127, 148, 161

Quyền lực chính trị, phân bố ~ ở Trung Quốc, 116

Quyền sở hữu cổ phần, quyền sở hữu cổ phần trực tiếp, 35–36

Quyền sở hữu vốn: phi tập trung hóa của, 46–50; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và sự tập trung cao của, 26–31

Quyền tài sản, các: ở Trung Quốc, 116–117; các chuỗi giá trị toàn cầu và, 148

Quyền tự do chính trị, sự đánh đổi giữa thu nhập và, 208–209

Quyền tự do tự nhiên (natural liberty), 12

Quyết định sản xuất và định giá ở Trung Quốc, 90–91

R

Race between Educaton and Technology, The (Goldin & Katz), 24

Rawls, John: về mặt sáng của chủ nghĩa tư bản, 176, 177; về các điều kiện cần cho sự ổn định của bất kể hệ thống nào, 4–5; về các ràng buộc của tôn giáo và khế ước xã hội ngầm về hành vi, 179–180; về các quyền chính trị đã nói ở trước cho lợi lộc kinh tế, 257n34; về bất bình đẳng, 158; về bình đẳng tài năng, 12; về hành vi không phô trương của những người giàu có, 254n13; về hàng hóa cơ bản (primary goods), 208; về đánh thuế sự thừa kế, 49

Ray, Debraj, 22

Rent (tô, tiền thuê): định nghĩa, 250n1; ~ đổi mới, 152. Xem cả Rent tư cách công dân

Rent đổi mới, 152

Rent tư cách công dân, 131–132, 133; như tài sản kinh tế, 134–136; bất bình đẳng cơ hội toàn cầu, 158–159

Rentier, các, xã hội của (những người hưởng rent), 210–211

Ricardo, David, 200

Ricardo-Marx, chủ nghĩa tư bản ~, 215

Rich People Poor Countries (Freund), 161–163

Robertson, Pat, 180

Robinson, James, 73

Robot, các, mối đe dọa của sự đến của ~, 197–201

Rosenvallon, Pierre, 181

Rửa tiền “đạo đức”, sự, 169–170

S

Saint-Simon, Henri de, 210

Salanié, Bernard, 39

Samuelson, Paul, 15

Sản xuất: phương thức ~ “Á châu”, 74, 75, 245n7; quây hộ gia đình vào phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, 189–190; sự di chuyển tự do của các nhân tố ~, 136–141; sự phân mảng toàn cầu của, 251n13; các chuỗi giá trị toàn cầu và sự tổ chức ~, 147–148; phương thức ~ hộ gia đình, 189; nhân dân như các trung tâm ~ tư bản chủ nghĩa, 194–196; lao động ăn lương bên ngoài nhà ở, 189

Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), 126–127

Sapio, Flora, 93

Sarkozy, Nicolas, 58

Say, Jean-Baptiste, 199–200

Schularick, Moritz, 31–32

Schumpeter, Joseph: về mặt sáng của chủ nghĩa tư bản, 176; định nghĩa của chủ nghĩa tư bản và, 12; định nghĩa của dân chủ và polyarchy (nền đa trị-sự cai trị của nhiều người), 119; về chủ nghĩa đế quốc đạo đức, 126; về chức năng của nhà tư bản, 23; về bất bình đẳng thu nhập, 40; về các lý do cho bùng nổ chiến tranh, 72

Seabright, Paul, 85

Shaffer, Mark, 85

Siêu thương mại hóa (hypercommercialization), “bàn tay vô hình” và, 227–229

Siêu toàn cầu hóa, ý thức hệ kiếm tiền và, 163–168

Singapore, chủ nghĩa tư bản chính trị ở, 96, 97

Skin in the Game (Taleb), 182, 240n33

Smith, Adam, 9; về mặt sáng của chủ nghĩa tư bản, 176, 177, 178; về tư cách công dân, 159; về phối hợp các lợi ích của các nhà tư bản, 210; về mặt tối của chủ nghĩa tư bản, 178; về bình đẳng của cải và quyền lực và sự duy trì hòa bình, 214; về chức năng của nhà tư bản, 22–23; siêu-thương mại hóa và “bàn tay vô hình” và, 227–229; về giữ đầu tư vốn ở gần, 148; về tính di động của con người và chứng khoán, 241n38; về Đạo luật Hàng hải, 114, 248n45; về tái cân bằng sức mạnh kinh tế, 1, 2; sự phân loại ba giai cấp và, 17

Söderberg, Daniel, 51, 203

Solow, Robert, 25

Song, Zheng (Michael), 120

Spirit of Laws, The (Montesquieu), 253n1

Stalin, Joseph, 81

Stalinist, các nhà, cách mạng ~ ở Trung Quốc và, 81

Stamp, Josiah, 158

Stantcheva, Stefanie, 54

Starbucks, 183

Steins, Ulrike, 31–32

Sức mạnh kinh tế (economic power), sự tái cân bằng giữa châu Á và châu Âu và Bắc Mỹ, 2, 5–11

T

Tác động chính trị, các, của thành công của chủ nghĩa tư bản chính trị ở Trung Quốc, 9

Tác động phân phối, các, của tham nhũng, ở Trung Quốc, 109–112

Tác động xã hội, các, của thu nhập cơ bản phổ quát, 204–205

Tài khoản vốn mở (open capital accounts), các, tham nhũng khắp thế giới và, 163, 168–170, 174

Tái phân phối thuế-và-chuyển giao (tax-and-transfer redistribution), các hạn chế của, 44–45

Tài sản có thể tiếp thị được, tư cách công dân như, 134–136

Tài sản tài chính, các, người giàu và suất lợi tức trên, 32–33

Tài sản: phi tập trung hóa quyền sở hữu của, 46; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và suất lợi tức cao hơn trên ~ của những người giàu, 31–34

Tài trợ các đảng và các cuộc vận động chính trị, sự kiểm soát quá trình chính trị bởi người giàu và, 57–58

Tài trợ công của các cuộc vận động chính trị, 217

Taleb, Nassim, 182, 240n33, 256n25

Tầng lớp dưới (underclass), người di cư, 55, 146–147

Tăng trưởng, chủ nghĩa tư bản như hệ thống ~, 22–23

Tanzi, Vito, 107

Tập Cận Bình, 93, 95, 125, 248n41

Taylor, A. J. P., 72

Thái độ chống toàn cầu hóa của các đảng cánh-tả, 157

Thái Lan, sự tăng về tăng trưởng kinh tế ở, 8

Tham nhũng khắp thế giới, 159–175; các nhân tố hỗ trợ (enablers) của, 168–170; toàn cầu hóa và, 130–131; bắt chước các hình mẫu tiêu dùng của các nước giàu và, 170–173; thiếu các cố gắng để kiểm soát, 173–175; các giới hạn về, 163–168

Tham nhũng: ở Trung Quốc, 107–112, 164; ở các nước với chủ nghĩa tư bản chính trị, 97–98; các tác động phân phối của, 109–112; toàn cầu hóa và ~ khắp thế giới, 130–131; chủ nghĩa tư bản chính trị và, 94–95, 96, 120–121. Xem cả  tham nhũng khắp thế giới

Thành công kinh tế, sự hấp dẫn của chủ nghĩa tư bản chính trị và, 121, 123–124

Thành công, tiền như tiêu chuẩn ~ duy nhất, 184

Thanh toán tài chính, các sự, tính phi đạo đức (amorality) và, 183–184

Thatcher, Margaret, 48, 57

Thế giới hậu–Chiến tranh Lạnh, các đường nét về, 1–11; chủ nghĩa tư bản như hệ thống kinh tế-xã hội duy nhất, 2–5; sự lên của châu Á và sự tái cân bằng của thế giới, 2, 5–11

Thế giới quan tự do, sự bất lực để giải thích chỗ của chủ nghĩa cộng sản trong lịch sử và, 68–78

Thế giới thứ Ba: sự phát triển chủ nghĩa tư bản trong, 222–224; sự giải thích chủ nghĩa cộng sản trong, 74, 75–78; vai trò của cách mạng cộng sản trong, 78–82

Thể thao được thương mại hóa, thiếu các quy tắc ứng xử được nội hóa trong, 182

Theory of Justice, A (Rawls), 12, 158

Theory of Moral Sentiments, The (Smith), 159, 178, 228, 253–254n4

Thiên đường thuế, các, 44, 183, 251n21; tham nhũng và, 169; trừng trị thẳng tay ~, 173, 175; tham nhũng khắp thế giới và quy mô của, 160–161

Thời gian rỗi, sự tăng về ~ như sự làm dịu cho chủ nghĩa tư bản được thương mại hóa, 185–187

Thu nhập cơ bản phổ quát (UBI), các vấn đề với, 201–205

Thu nhập lao động, 16–18; sự liên kết của thu nhập vốn cao và thu nhập lao động cao trong cùng các cá nhân, 34–36; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và bất bình đẳng về, 27, 28–30

Thu nhập quốc gia, 233; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và phần gộp tăng lên của vốn trong, 23–26

Thu nhập tự-làm việc, 233

Thu nhập vốn, 16–18, 233–234; sự liên kết của ~ cao và thu nhập lao động cao trong cùng các cá nhân, 34–36; phần tăng lên của ~, ở Trung Quốc, 103–104; phần ~ trong tổng thu nhập, 15–16

Thu nhập: của những người giàu vốn và giàu lao động, 16–18; phân chia thu nhập ròng giữa những người lao động và những người chủ, 14–16; từ nhà ở, 234; đo phần vốn trong tổng ~ ròng, 233–234; nhận được bởi các nhà quản lý chóp bu/CEO, 233–234; phần tăng lên từ vốn, ở Trung Quốc, 103–104; sự đánh đổi giữa chính trị tự do và, 208–209. Xem cả Thu nhập vốn; Thu nhập lao động

Thuê ngoài xem outsourcing

Thuế tài sản để phi tập trung quyền sở hữu vốn, 48–50

Thuế thừa kế, để phi tập trung quyền sở hữu vốn, 48–50

Thụy Điển, nhà nước phúc lợi và, 51

Tiến bộ công nghệ: nỗi sợ ~, 197–205; toàn cầu hóa và, 152, 153; tăng về năng suất lao động và, 24; mối đe dọa của chiến tranh toàn cầu và, 207

Tiến hóa xã hội, sự, 68

Tiền: như tiêu chuẩn thành công, 184; như bộ san bằng trong xã hội, 177

Tiêu dùng, sự bắt chước các hình mẫu tiêu dùng của các nước giàu, 170–173

Tinbergen, Jan, 24, 43

Tính di động giáo dục giữa thế hệ, 247n35

Tính di động giữa thế hệ: ở Trung Quốc, 105; sự giảm về, 41–42; sự tiến hóa của chủ nghĩa tư bản và, 216; bất bình đẳng và, 63–65; trog chủ nghĩa tư bản tài năng tự do, 215; trong chủ nghĩa tư bản dân chủ-xã hội, 215

Tính di động lao động, toàn cầu hóa và, 129–130, 150, 154

Tính di động thu nhập, 41

Tính di động tương đối, 41–42, 241n34

Tính di động vốn. Xem Các chuỗi giá trị toàn cầu

Tính đồng đều, nhà nước phúc lợi và, 51, 52, 155–156

Tính hấp dẫn toàn cầu của chủ nghĩa tư bản chính trị, 112–113; Trung quốc “xuất khẩu” chủ nghĩa tư bản chính trị và, 118–128

Tinh thần kinh doanh (entrepreneurship), 25

Toàn cầu hóa thương mại, nhà nước phúc lợi và, 51

Toàn cầu hóa: chủ nghĩa tư bản và, 3; các thời đại ~, 150–155; tạo thuận lợi cho tham nhũng khắp thế giới, 107; bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và, 22; nỗi khó chịu ở phương Tây về, 9–10; các kịch bản cho sự tiến hóa của, 209–211; ủng hộ cho ~ ở châu Á, 9; các thiên đường thuế và, 44; nhà nước phúc lợi và, 50–55, 155–159; nhà nước phúc lợi trong thời đại ~, 50–55; tham nhũng khắp thế giới và, 159–175. Xem cả Chủ nghĩa tư bản và toàn cầu hóa, tương tác của

Tôn giáo: ràng buộc lên hành vi tư bản chủ nghĩa, 180; và kiếm tiền như một giá trị cao nhất, 180

Tống, Trung Quốc thời, các nhà buôn và chính phủ trung ương trong, 105, 115

Trần giáo dục, 44

Tránh thuế (tax evasion), 173, 183

Transparency International, 97; Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng (Corruption Perception Index), 160

Trật khớp (disarticulation), 10

Triệu Tử Dương, 92, 248n39

Trò chơi lặp lại, các, sự hàng hóa hóa và, 192–193

Trợ cấp một-lần, 201, 242n43

Trump, Donald, 114

Trung Quốc: thái độ xa lánh khỏi thế giới, 122–123; sự bắt đầu của chủ nghĩa tư bản chính trị ở, 92–93; vốn tháo chạy khỏi ~, 168; chủ nghĩa tư bản ở, 87–91; thay đổi về khoảng cách (gap) thu nhập và, 8; tham nhũng ở, 107–112, 164; dân chủ ở, 117–118; giải thích thành công của, 73–74; GDP trên đầu người, 86, 211, 212, 213; tỷ lệ tăng trưởng ở, 235; khảo sát hộ gia đình ở, 98–100, 232, 247n33; bất bình đẳng thu nhập ở, 98–106; bất bình đẳng ở, 98–112; như nước dẫn đầu trong sự lên kinh tế của châu Á, 5–6; giai cấp trung lưu ở, 104–105, 248n36, 249n48; cần tham gia với thế giới, 125–128; cấu trúc giai cấp mới ở, 104–106; con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản ở, 115; chủ nghĩa tư bản chính trị ở, 5, 67, 96–98, 113–118, 123–125; các tác động chính trị của thành công kinh tế của, 9; phần GDP của khu vực tư nhân, 246n21; hệ thống khoán hộ ở (responsibility) ở, 87, 90, 123, 249n53; vai trò trong phát triển kinh tế ở châu Phi, 125–126, 214; phần của GDP toàn cầu, 9, 10; các cuộc cách mạng xã hội và dân tộc ở, 79–82; sự sống sót của chủ nghĩa tư bản chính trị ở, 113–118; khả năng chuyển giao của chủ nghĩa tư bản chính trị, 123–125

Trung tâm tài chính, các, tham nhũng và ~ toàn cầu, 169–170

Truyền bất bình đẳng giữa thế hệ, sự 19–20

Truyền của cải giữa thế hệ, sự 158–159; đầu tư vào con cái và, 39, 40; chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và, 40–42

Tư cách công dân: như tài sản kinh tế, 134–136, 155; như loại quan niệm (ideal category), 132–134; các mức của, 135–136; những người di cư và các phúc lợi và quyền của, 142–147; nhà nước phúc lợi và, 155–157

Tự cấp tự túc (autarky), 95; thách đố thế giới được thương mại hóa bằng việc ủng hộ, 187; các hạn chế về tham nhũng và, 164

Tự động hóa, các nỗi sợ về ~ tăng lên, 197–201

Tự trị, sự, cho các quy tắc (autonomy for rules), chủ nghĩa tư bản chính trị và, 121

Tự trị, sự, của nhà nước trong chủ nghĩa tư bản chính trị, 92–93, 95

Tưởng Giới Thạch, 107

Tương lai, sự bất lực để mường tượng ~, 197–201

Tuyên ngôn Cộng sản xem Communist Manifesto

Tỷ lệ chiết xuất (extraction ratio) bất bình đẳng, 246n16

Tỷ lệ của cải-thu nhập (wealth-income ratio), 27, 30

Tỷ lệ tăng trưởng, mức thu nhập và, 235

Tỷ lệ vốn-lao động (K/L), 149

Tỷ phú, các: tham nhũng và, 251n18; các quan hệ chính trị của, 251–252n23; nguồn của cải của, 161–163

U

Uber, 190, 199

UBI xem thu nhập cơ bản phổ quát

V

Vanishing American Corporation, The (Davis), 25

“Về Chính phủ Đại diện” (Mill), 57

Veblen, Thorstein, 17, 171

Vecchi, Michela, 152

Venturini, Francesco, 152

Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, 99

Việt Nam: tỷ lệ tăng trưởng GDP trên đầu người ở, 86–87; tỷ lệ tăng trưởng ở, 235; sự tăng về tăng trưởng kinh tế ở, 8; chủ nghĩa tư bản chính trị ở, 96, 97; các cuộc cách mạng xã hội và dân tộc ở, 79–80; ủng hộ toàn cầu hóa ở, 9

Visa tạm thời, 146

Voltaire, 228

Vốn, Tư bản (capital): chủ nghĩa tư bản tài năng tự do và phàn tăng lên của ~ trong thu nhập quốc gia, 23–26; đo phần của ~ trong tổng thu nhập ròng, 233–234; vì sao lao động là khác với ~, 139–141

Vonyó, Tamas, 83–84

Vries, Peer, 115

“Vùng vô pháp luật”: Trung Quốc và, 117; trong chủ nghĩa tư bản chính trị, 93

Vương quốc Anh: chủ nghĩa tư bản cổ điển ở, 13; trừng trị thẳng tay các thiên đường thuế, 173; sự di chuyển người tự do và, 250n6; bất bình đẳng về thu nhập từ vốn và lao động ở, 26–27, 28; mua các giấy phép cư trú ở, 134, 135; phần của vốn như phần trăm của thu nhập quốc gia ở, 15

W

Wallerstein, Immanuel, 116

Wang Fan-hsi, 81

Wang Hui, 116

Wang Ming, 81

Warren, Bill, 76, 78, 223

Washington, Đồng thuận, 73, 116–117

Wealth and Poverty of Nations, The (Landes), 196

Wealth of Nations, The (Smith), 113, 114, 178, 253–254n4

Weber, Max: chủ nghĩa tư bản của, 176–180; định nghĩa về chủ nghĩa tư bản, 12, 225; về sự phân biệt giữa sản xuất và lĩnh vực gia đình, 189; về công việc không đều, 192; về chủ nghĩa tư bản chính trị, 91, 94; về Đạo Tin lành, 254n6

Weiss, Yoram, 39

When China Rules the World (Jacques), 122

Whig, cách nhìn ~ về lịch sử, 68

Wilson, Woodrow, 80, 112

Wolff, Edward, 26, 32

Wootton, David, 227, 253–254n4

World Bank (Ngân hàng Thế giới), 127; World Development Report (Báo cáo Phát triển Thế giới), 202; Worldwide Governance Indicators (các Chỉ báo Quản trị Khắp Thế giới), 160

X

Xã hội cộng sản, các: tính thù địch với toàn cầu hóa, 3; các hạn chế về tham nhũng trong, 164–167

Xã hội thương mại, các: lòng tham và đạo đức giả trong, 178–180; các quan hệ xã hội trong, 176–177

Xa lánh, tha hóa, sự (alienation), sự hàng hóa hóa và, 193

Xâm nhập pháp lý, sự, vào đời sống gia đình, 188–190

Xia, Ming, 92

Xie, Yu, 103

Xu Caihou, 108–109

Xu Chenggang, 123

Y

Yang, Li, 103–104, 105

Yitzhaki, Shlomo, 33

Z

Zasulich, Vera, 74, 245n6

Zheng He, 122

Zhou, Xiang, 103

Zucman, Gabriel, 103–104, 161, 168, 169

 

 

Comments are closed.