Những lá thư Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng (1)

Thụy Khuê

1- Sự thăng trầm trong nghề vẽ

image

clip_image006

Vườn xuân Trung Nam Bắc, Nguyễn Gia Trí

clip_image008

Thiên thai, Phạm Tăng

 

Lời mở đầu

Sau năm 2000, họa sĩ Phạm Tăng có trao cho tôi một số tài liệu liên quan tới ông và hội họa. Trong những tài liệu này, có hai loại đáng chú ý: những lá thư của Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng từ 1960 đến 1974 và những bài báo tiếng Ý và tiếng Pháp viết về hội họa Phạm Tăng trong thời kỳ sáng tác sung mãn nhất (1965-1975), ông thường đem tranh đi triển lãm ở nhiều tỉnh trong và ngoài nước Ý.

Trong loại thứ hai, có bài của hai nhà phê bình Bỉ Paul de Swaef và Alain Germoz nhận định về hội họa Phạm Tăng mà ông nhờ tôi dịch sang tiếng Việt. Hai bài này đã đưa in trên mạng diendantheky, số ra ngày 22/1/2017, tưởng niệm họa sĩ Phạm Tăng (qua đời ngày 9/1/2017 và mạng hopluu.net

Về tập thư của Nguyễn Gia Trí, Phạm Tăng có dặn tôi tuỳ nghi sử dụng. Nhưng khi ông còn sống, việc công bố những lá thư này khá tế nhị, nên tôi đã lưu trữ trong hồ sơ văn học. Sau khi họa sĩ Phạm Tăng qua đời, những lá thư này trở thành những tư liệu quý giá, cần được in ra. Phân vân vì không biết tập thư có đầy đủ hay không, tôi đã liên lạc với gia đình họa sĩ Phạm Tăng ở Paris, cũng không được tin gì thêm; ông Phạm Hải Nam, em rể họa sĩ ở Hoa Kỳ cho biết: ông không rõ về những lá thư này, nhưng ông biết năm 1974-1975, khi ông còn ở nhà họa sĩ tại Roma thấy có hai bức tranh của Nguyễn Gia Trí. Điều này phù hợp với nội dung những lá thư Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng, mà độc giả sẽ đọc dần dưới đây.

Về phần tôi, việc chú thích những lá thư này để in ra đi đôi với sự tìm hiểu vai trò của Nguyễn Gia Trí trong Tự Lực văn đoàn, buộc tôi phải đào sâu tiểu sử Nguyễn Gia Trí, khi ấy mới nhận thấy chúng ta có quá ít tư liệu về nhà danh họa mà cuộc đời hội họa và cách mạng đan cài với sự nghiệp của ba nhà văn lớn: Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, trong hai tổ chức văn hoá và chính trị: Tự Lực văn đoàn và Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Sự nghiệp cách mạng của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, tương đối đã có nhiều người ghi lại. Nhưng sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Gia Trí song song với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, trong nhiều thập kỷ, dường như chưa mấy ai tìm kiếm. Cả đến sự nghiệp hội họa lừng lẫy của ông, phần lớn người ta cũng chỉ xưng tụng và chép lại những giai thoại không chính xác. Sự thiếu tư liệu, vì sống ở nước ngoài, chỉ cho phép tôi làm hai việc:

Thứ nhất, qua những lá thư Nguyễn Gia Trí viết cho Phạm Tăng, trình bầy cuộc sống đơn mạc của nhà danh họa vẫn mang tiếng là "hái ra tiền" trong thời điểm ông sống ở miền Nam từ 1960 đến 1974.

Thứ hai, qua sưu tập Phong Hoá và Ngày Nay, đã được đưa lên Internet, khơi ra hoạt động biếm họa chống Pháp của Nguyễn Gia Trí, một trong những người xây dựng Tự Lực Văn Đoàn và là họa sĩ chính của Phong Hoá và Ngày Nay. Công việc này dài hơi hơn, hiện chưa hoàn tất.

Khi tìm hiểu được cả hai khiá cạnh trên, chúng ta sẽ thấy rõ hơn chân dung đích thực của nhà cách mạng và họa sĩ bậc thầy Nguyễn Gia Trí.

TK

Nguyễn Gia Trí (1908-1993), năm sinh chưa được xác định rõ ràng[1], theo lời Lê Phổ, thi đỗ vào trường Mỹ Thuật Đông Dương năm 1927, khoá 3, cùng lớp với Lê Thị Lựu. Theo Khái Hưng trong truyện Những ngày vui, ông bỏ học tới 2 lần.

Mấy năm sau, nhờ xem tranh sơn mài của Trần Quang Trân, trưng bày tại hội chợ, thấy thích, ông mới quay trở lại trường, học tiếp. Việc này được ông ghi lại, trong bức thư gửi Mai Thọ Truyền: "được duyên may mắn nhìn thấy một tác phẩm sơn mài đầu tiên, do một họa sĩ đàn anh, TRẦN-QUANG-TRÂN, thực hiện tại Trường Mỹ Thuật Hà Nội và đem trưng bày. Nhờ được sự hứng khởi đó mà kẻ hèn này, đã chán bỏ Trường Mỹ Thuật từ năm thứ ba, chẳng cần phải để Ông Hiệu Trưởng, Giáo sư hay bạn bè kêu gọi, lại quay trở về tiếp tục học và đã chọn môn làm sơn mài"[2]

Vậy kỹ thuật sơn mài của ta, theo lời Nguyễn Gia Trí, là do Trần Quang Trân sáng tạo (khác với lối sơn mài của Tầu và Tây) chỉ được đem vào dậy ở trường Mỹ thuật Đông Dương từ năm 1932. Điều này đã thúc đẩy Nguyễn Gia Trí trở lại trường Mỹ Thuật để học sơn mài. Rồi chính Nguyễn Gia Trí sẽ là người đưa nghệ thuật sơn mài Việt Nam đến chỗ toàn bích.

Phạm Tăng (1924-2017) vào trường Mỹ Thuật Đông Dương sau Nguyễn Gia Trí 16 năm: Năm 1943, ông thi vào ban hội họa và kiến trúc, ít lâu sau, ông bỏ kiến trúc để chỉ theo hội họa. Đang học dở dang chiến tranh bùng nổ, Phạm Tăng về làm báo ở Nam Định cùng Trần Lê Văn và Hữu Ngọc, chuyên vẽ tranh minh họa chống Pháp. Năm 1954, ông di cư vào Nam, cộng tác và vẽ hý họa cho báo Tự Do (1954-1959), Văn Nghệ Tự Do (1956) và Bách Khoa (1957-1959) tại Sài Gòn.

Năm 1959, Phạm Tăng được học bổng sang Ý học thêm hội họa. Từ 1962, Phạm Tăng chuyên sống bằng hội họa, triển lãm tranh ở các đô thị lớn của Ý, như Roma, Firenze, Milano, Venezia… và nhiều lần tại Bỉ, Áo, Đức, Hoà Lan, Thụy Sĩ, và ở Mỹ châu, tại Brésil và Los Angeles. Năm 1967, bức tranh Vũ trụ được giải thưởng Unesco. Tháng 3/1972, Phạm Tăng được Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật Ý (Accademia Tiberina) ở Roma vinh danh Viện Sĩ.

Nội dung tập tài liệu

Nếu chúng ta không tìm được những tư liệu viết tay hay đánh máy khác của Nguyễn Gia Trí, thì Những lá thư của Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng dưới đây sẽ là những chứng từ duy nhất do chính họa sĩ viết tay và đánh máy gửi cho người bạn vong niên Phạm Tăng, lúc đó đang sống ở Ý.

Những lá thư này, cho biết một số dữ kiện chính xác về cuộc đời ông, thời kỳ 1960-1974 ở Sài Gòn, về nỗi khó khăn và thời gian lâu lắt để làm một bức tranh sơn mài có giá trị, khiến nghệ thuật sơn mài độc đáo của Nguyễn Gia Trí hầu như không ai tiếp nối được.

Những lá thư này, còn giúp ta hiểu rõ về cuộc đời một họa sĩ lừng danh, nhưng luôn luôn bị cái nghèo đeo đuổi, xác định lại một phần sự thực về tình trạng tài chính và cuộc sống đích thực của Nguyễn Gia Trí, và sẽ soi tỏ được một số vấn đề về bản thân ông, về thái độ bảo vệ tác phẩm nghệ thuật trước áp lực của Mai Thọ Truyền, một quan chức cao cấp trong chính quyền miền Nam năm 1970, và nói lên nhân cách bất khuất của họa sĩ trước thế quyền.

Tập tài liệu này sẽ được đánh số từ số 1 đến 12, chia làm ba loại:

1- Loại 1, gồm ba thư viết tay:

Tài liệu số 2 (thư ngày14/7/61)

Tài liệu số 3 (thư ngày 12/9/65)

Tài liệu số 5 (thư ngày 6/11/67)

2- Loại 2, gồm năm thư đánh máy:

Tài liệu số 1 (thư ngày 24-1-60) (đã đăng trên Thế Kỷ 21, số Xuân, 189-190 tháng 1- 2- 2005)

Tài liệu số 4 (thư ngày 1/9/66)

Tài liệu số 9 (thư ngày 22/5/70)

Tài liệu số 10 (thư ngày 22/6/70)

Tài liệu số 11 (thư ngày 22/9/70)

Tài liệu số 12 (thư ngày 2/8/74)

3- Loại 3, gồm ba tài liệu đánh máy, Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng, liên quan đến vụ Mai Thọ Truyền.

Tài liệu số 6: Thư gửi Quốc Vụ Khanh (ngày 13/1/1970)

Tài liệu số 7: Giải Thích (không đề ngày)

Tài liệu số 8: Nhật báo Quyết Tiến (ngày 24/1/1970)

Chúng tôi đánh số tài liệu theo thứ tự thời gian, và chia bài viết làm ba phần:

1-Những thăng trầm trong nghề vẽ (từ tài liệu số 1 đến số 3)

2- Nguyễn Gia Trí đương đầu với Mai Thọ Truyền (tài liệu số 4 đến số 9).

3- Số phận bức tranh lớn nhất của Nguyễn Gia Trí (tài liệu số 10 đến số 12)

clip_image010

Việc tranh Nguyễn Gia Trí đo bằng tấc, mét

Nhưng trước khi đọc tập tài liệu này, có một vần đề khá quan trọng cần được trình bày để giải toả mọi hiểu lầm về việc tranh Nguyễn Gia Trí đo bằng "tấc, mét", đã được hầu như mọi người chép lại, coi như là "dấu ấn" đặc biệt của họa sĩ, chứng tỏ sự kiêu kỳ, khác người của ông và tại sao tranh Nguyễn Giá Trí bán giá cao không ai sánh nổi.

Cho đến nay, người Việt vẫn ít quan tâm đến việc nghiên cứu cuộc đời các văn nghệ sĩ ưu tú của đất nước, trường hợp Nguyễn Gia Trí là điển hình: ông sống rất gần chúng ta nhưng tiểu sử chính xác của ông không mấy ai biết rõ.

Ta cũng không thể chấp nhận những loại "tiểu sử" Nguyễn Gia Trí trên Wikipédia, với những thông tin như: ""Những năm 70, tài chính của Nguyễn Gia Trí tới "hàng nghìn cây vàng", "tranh ông bán đo bằng tấc", "khách mua tranh ông là những tỷ phú Nam Phi, Nam Mỹ", "Trần Lệ Xuân mua tranh tặng Nhật hoàng", v.v. được chép đi chép lại trong những bài viết in trên báo trước, rồi được quảng bá rộng rãi trên internet sau.

Riêng việc "tranh ông bán đo bằng tấc" đã được coi như một bằng chứng về sự "hái ra tiền" của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, cần được giải thích:

Thực ra, việc tính giá tranh theo đơn vị diện tích, là rất thông thường ở những nước có truyền thống bán tranh lâu đời, mà có lẽ người Việt chưa biết rõ. Ở Pháp bức tranh thường được tính theo số Điểm (Points) (một cách xác định kích thước bức tranh) và Cote (giá biểu, họa sĩ càng giỏi, càng nổi tiếng, cote càng cao). Ví dụ họa sĩ A có cote là X euros một Point; họa sĩ B có cote là Y euros một Point. Người buôn tranh cứ theo số Point nhân lên với cote của họa sĩ để định giá bức tranh.

Nguyễn Gia Trí cũng dùng phương pháp này, nhưng thay vì points thì ông định giá tranh của mình theo mét vuông.Vấn đề chỉ đơn giản có thế. Điều này không có nghiã là vì tranh Nguyễn Giá Trí bán theo giá mét vuông mà ông "hái ra tiền".

Theo tài liệu số 4 (thư ngày 1/9/66) ta biết: giá tranh Nguyễn Gia Trí năm 1966, cao hơn giá tranh ông năm 1956 là 20%. Mà theo tài liệu số 9, giá tranh ông năm 1967 là 150.000 đồng/m2. Vậy ta có thể suy ra năm 1956, tranh Nguyễn Gia Trí giá khoảng 120.000 đồng/m2.

Theo tài liệu số 12 (thư ngày 2/8/74), năm 1974, giá tranh ông là 800.000đồng/m2 (tương đương với 1142 đô-la Mỹ/m2, tính theo hối suất năm 1975, 1 đô-la Mỹ= 700 đồng VNCH).

Vậy một mét vuông tranh của ông giá 1142 đô la. Giá tranh như thế không thể gọi là cao!

Nhưng người ta vẫn tung ra những tin đại loại như: những năm 1970, tài chính của Nguyễn Gia Trí tới "hàng nghìn cây vàng". Hoặc: "tiền vào như nước, đổ đầy bàn, đếm không xuể".

Chưa nói đến nghệ thuật sơn mài thượng thừa của Nguyễn Gia Trí, chỉ cần xét giá trị lao động, nếu đem đối chiếu giá mét vuông tranh của ông và thời gian ông dành ra để hoàn thành một mét vuông ấy, với thời gian của các họa sĩ khác (đôi khi chỉ cần một buổi, một tuần, là họ làm xong một mét vuông tranh của họ) thì tranh Nguyễn Gia Trí không hề đắt so với tranh những họa sĩ nổi tiếng khác.

Theo tài liệu 6, 7 và 8, ba bức tranh ông làm cho Thư Viện Quốc Gia VNCH (ký giao kèo tháng 11/1967), làm trong hai năm, khánh thành cuối năm 1969.

Tổng cộng diện tích ba tranh này là 14m2 54, trị giá: 2.475.000 đồng VNCH (tương đương với 30.937,5 đô-la Mỹ, nếu tính theo hối suất năm 1966: 1 đô-la=80 đồng VNCH. Nhưng nếu tính theo hối suất năm 1970: 1 đô-la=277,75 đồng VNCH, thì chỉ còn 8.910,9 đô-la).

Chúng ta lại biết rằng, đến khi tranh làm xong, chính phủ vẫn chưa trả hết tiền, qua lời Nguyễn Gia Trí kể với Phạm Tăng: "Anh biết không trước khi đi [Pháp] lão [Mai Thọ Truyền] còn sai luật sư dụ tôi trao tranh cho hắn, hắn sẽ tháo khoán trả tiền nốt cho tôi, bằng không sẽ đưa ra tòa". (Tài liệu 10).

Ngoài việc nghệ thuật là vô giá, Nguyễn Gia Trí phải dành ra 27 tháng, không làm gì khác, để thực hiện ba tác phẩm này trong xưởng vẽ với nhiều thợ. Thử hỏi ngày nay, ai dám nhận một công việc như vậy, để đạt tới một kết quả tài chính như vậy, chưa kể phải chịu sự đe dọa của một quan chức hống hách?

Đó là lý do chính, tại sao Nguyễn Giá Trí luôn luôn có người đặt mua tranh, mà ông vẫn nghèo, như lời ông viết trong những bức thư gửi cho Phạm Tăng mà chúng ta sẽ đọc dần, dưới đây.

Tài liệu 1

Lá thư dưới đây có lẽ là thư đầu tiên Nguyễn Gia Trí trả lời thư của Phạm Tăng viết từ Roma gửi về thăm ông ở Sài Gòn.

clip_image012

Thư ngày 24-1-60

NGUYỄN GIA TRÍ

26/8 Đường Công-Lý nối dài

SAIGON

Saigon, ngày 24/1/60

Anh Phạm Tăng thân,

Hôm nay xưởng tôi thợ mới nghỉ Tết, nhân rảnh đôi chút viết thơ thăm anh sức khỏe và công việc học hành ra sao.

Anh đã đi thăm cụ Y chưa? Có gặp cũng cho tôi hỏi thăm nhé. Anh sang bên đó, rồi anh sẽ thấy, không phải những tác phẩm của những họa sĩ và lối sáng tác của họ, là những cái mình được coi mà ảnh hưởng tốt đẹp và bền bỉ nhất. Theo tôi nghĩ thì cái hay ở ngoại quốc về môn hội họa của mình là, không như ở nhà, nhiều giả dối và điệu bộ trống rỗng quá, ở những xứ như Ý và Pháp họ có nề nếp chân truyền về nghề nghiệp. Cái hay của họ, tôi cho là sự tìm tòi thành thực và một thứ tin tưởng. Tôi không nói tin tưởng nghệ thuật như nghệ thuật là một thứ tôn giáo theo cái lối "nghệ sĩ" hiểu nghệ thuật, nghiã là với những hình thức rất sáo của tôn giáo. Tôi chắc anh tiếp súc với những họa sĩ dù là thuộc những phái "siêu thực" hay "trừu tượng" kỳ quặc nhất, nếu là những người nghệ sĩ chân thành, anh sẽ thấy thường lắm, giản dị lắm, vì lý do là nó tự nhiên.

Hôm nọ tôi vừa mua được một cuốn Art d’Aujourd’hui [Nghệ Thuật Ngày Nay] trong đó có những sáng tác hội họa mới nhứt của Mỹ và của Ý. Nhiều cái trông thật thì không biết thế nào, nhưng cũng ngộ. Nếu đọc những bài họ viết thì bên cạnh những thuyết bí hiểm lại có những thuyết "văn chương" quá, khiến cho mình đâm nghi. Nhiều khi các ông ấy chỉ làm minh họa những thuyết về khoa học hay triết lý, chẳng có gì khác. Nhưng đây là những thí nghiệm cần thiết, cố nhiên hàng vạn người họa chăng mới có một ngưòi tìm được một hạt kim cương. Mình phục cái can đảm của họ.

Mấy lời lăng nhăng nói chuyện cho cái Tết tha hương đầu tiên của anh đỡ nhớ nhà. Nhưng chắc cũng chẳng có gì nhắc anh là Tết, tuy vậy sang năm mới cũng chúc anh mọi sự may mắn vui vẻ.

Nguyễn Gia Trí

Lá thư đề ngày 24/1/60, câu "cái Tết tha hương đầu tiên của anh" xác định việc Phạm Tăng rời nước năm 1959. Thư viết về vấn đề nghệ thuật. Câu: "Hôm nay xưởng tôi thợ mới nghỉ Tết", cho thấy tới đầu năm 1960, Nguyễn Gia Trí vẫn còn có xưởng để làm tranh.

Về xưởng thợ, theo Hoàng Hưng, từ sau cuộc triển lãm năm 1938 của trường Mỹ Thuật Đông Dương, Nguyễn Gia Trí đã lập xưởng vẽ ở làng Thịnh Hào, Ngã Tư Sở và trong số những thợ sơn mài của ông, có người sau này nổi tiếng như nhà văn Kim Lân, họa sĩ Nguyễn Trọng Hợp, nhà quay phim Nguyễn Đăng Bẩy[3].

Xưởng thợ này tất nhiên phải ngừng hoạt động trong thời gian ông bị Pháp bắt và bị cầm tù ở Vụ Bản (Hoà Bình) cùng với Hoàng Đạo và Khái Hưng, từ 1941 đến 1943.

Theo nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến[4], từ 1943 đến 1945, Nguyễn Gia Trí lập xưởng vẽ ở chân đê La Thành, khoảng giữa đường từ núi Nùng (vườn Bách thảo) tới trường đua ngựa cũ. Trần Khánh Triệu tức Nguyễn Tường Triệu, con nuôi Khái Hưng, con ruột Nhất Linh, cũng nhớ sau khi đi tù ở Vụ Bản về, Nguyễn Giai Trí vẽ ở Quần Ngựa.

Vậy trong xưởng vẽ ở Quần Ngựa này, Nguyễn Gia Trí đã thực hiện bức tranh sơn mài lớn nhất của ông, bán cho ông bà Drouin, mà ông nói đến trong tài liệu 12.

Sau đó, là thời gian lưu vong sang Trung Hoa, ở Thượng Hải và Hồng Kông, từ cuối năm 1946 đến 1952, chúng tôi sẽ tìm hiểu kỹ hơn giai đoạn này khi nghiên cứu về cuộc đời Nguyễn Gia Trí.

Ở đây, chỉ xin vắn tắt: Nguyễn Gia Trí về Hà Nội năm 1952, ở lại ba tháng, rồi vào Sài Gòn, ông bị Pháp bắt đi an trí ở Thủ Dầu Một từ 1952 đến 1953.

Hiện nay, phần tiểu sử Nguyễn Gia Trí, từ 1953 đến 1955, còn nhiều điểm chưa rõ, nên ta chưa thể biết đích xác ông lập xưởng vẽ ở Sài Gòn vào thời điểm nào. Nhưng việc này chứng tỏ, sau 1954, khách mua tranh Nguyễn Gia Trí, đã trở lại như thời trước 1945, trong số đó có Tổng Thống Ngô Đình Diệm, năm 1957- 58, đã đặt mua hai tranh, với giá hơn một triệu đồng,

Tuy nhiên, tình trạng này có lẽ đã không kéo dài, vì như lời họa sĩ Phạm Tăng nói với chúng tôi: thấy họa sĩ Nguyễn Gia Trí nghèo, nên ông đã giúp bằng cách mời ông Trí vẽ tranh hý họa trên báo cùng với ông và khi Phạm Tăng đi Ý, Nguyễn Gia Trí vẽ thay.

Bức biếm họa chuột gặm dưa hấu, vẽ cuối năm 1959, làm bìa cho báo Xuân Tự Do 1960, nằm trong bối cảnh đó. Một mặt khác, ta cũng nên chú ý đến một biến cố chính trị quan trọng xẩy ra năm 1960, đó là cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960 do Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông thực hiện, nhằm lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm mà Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có dính líu. Nguyễn Gia Trí luôn luôn đi cạnh Nhất Linh, vậy ông có tham dự vào biến cố này không? Khó mà biết được. Nhưng những khó khăn của ông sau cuộc binh biến 11/11/1960 có lẽ đã trả lời phần nào câu hỏi trên.

Một điều chắc chắn là biến cố này đã đóng góp vào sự đình trệ trong công việc của họa sĩ Nguyễn Gia Trí năm 1961, khiến ông phải thải hết thợ ra, làm việc một mình, như trong thư ông viết cho Phạm Tăng dưới đây.

Tài liệu 2

clip_image014

Thư ngày 14-7-1961

NGUYỄN GIA TRÍ

26/8 Đường Công-Lý nối dài

SAIGON

Saigon ngày 14/7/61

Anh Phạm Tăng thân

Anh mà còn phải nói đến lỗi chậm viết thư cho tôi thì tôi lại cám ơn anh về đã viết thơ cho tôi bây giờ.

Tôi được thư anh nói công việc học hành tôi cũng vui mừng lắm. Trước đây tôi cũng có tin anh vì cụ Y cho tôi hay anh gập cụ. Cụ tiếc sao anh không sang Pháp học. Cụ đâu có biết những khó khăn của mình! Có lần có người lại còn định mời cụ về dạy laque nữa nhưng cụ từ chối vì có việc không tiện đi. Cụ bảo sao không bảo mình dạy. Mình cũng chẳng tiện nói rõ lý do gì từ xưa đến nay mình vẫn không hợp tác được.

Anh định dủ tôi bày tranh với anh à? Anh còn lạ gì laque lâu thế nào, mà từ đầu năm nay còn có mình tôi làm. Thợ phải thải hết, vì tuy đã ráng sức nhưng ông sao cưu mang mãi được. Tốn kém lắm, không thể cứ đi vay về mãi mà làm. Tình hình chán lắm. Tôi còn một esquisse lớn 3×4 thước, định làm từ năm ngoái mà không thể vẽ xong được. Hiện giờ còn mấy cái nhỏ nhỏ người ta đặt làm đã lâu mà vẫn chưa xong.

Hình như anh học về gravure phải không? Món đó tốt lắm. Có lẽ về nhà dùng được đấy nhỉ.

Thôi tạm biệt để thư sau. Chúc anh làm việc thành công.

Nguyễn Gia Trí

Nguyễn Gia Trí thường nhắc đến Cụ Y, tức họa sĩ Imguimberty (1896-1971) thầy dạy vẽ ở trường Mỹ Thuật Đông Dương; ông Trí là học trò cưng của cụ, theo lời Tạ Tỵ. Tôi cũng đã từng được nghe hai họa sĩ Lê Phổ và Lê Thị Lựu nói về ông thầy này với giọng trân trọng kính yêu lạ thường. Nhưng theo thư trên đây, Nguyễn Gia Trí còn cho biết thêm: "Có lần có người lại còn định mời cụ về dạy laque nữa nhưng cụ từ chối vì có việc không tiện đi. Cụ bảo sao không bảo mình dạy". Chữ "có người" ở đây chắc chỉ hai anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu muốn mời cụ Y về dạy sơn mài ở trường Mỹ Thuật Gia Định, nhưng cụ không nhận và cụ bảo sao không mời Nguyễn Gia Trí. Trong thư ông Trí còn nói thêm với ông Tăng: "Mình cũng chẳng tiện nói rõ lý do gì từ xưa đến nay mình vẫn không hợp tác được." Lý do "bất hợp tác" này hẳn là chính trị, như ta đã thấy ở trên.

Thư này còn cho biết: Phạm Tăng mời Nguyễn Gia Trí triển lãm chung ở ngoại quốc, nhưng ông Trí từ chối, ông bảo: laque làm lâu lắm; nhất là từ đầu năm 1961 ông đã phải thải hết thợ ra, làm một mình, vì không thể vay tiền mãi mà làm.

Sự kiện "làm sơn mài rất lâu" và tình trạng "túng bấn" này, được họa sĩ nhắc đến lần đầu, và ông sẽ còn nhắc lại nhiều lần nữa, trong những thư kế tiếp.

Câu: từ đầu năm nay còn có mình tôi làm. Thợ phải thải ra hết trong thư, chứng tỏ họa sĩ đích thực bị khó khăn từ đầu năm 1961, tức là sau biến cố 11/11/1960. Điểm này đã trả lời câu hỏi: Nguyễn Gia Trí có dính líu vào vụ đảo chính hụt cùng Nhất Linh chăng? Tuy nhiên, cả Nguyễn Gia Trí lẫn Nhất Linh đều không bị bắt, phải chăng vì anh em ông Ngô Đình Diệm rất nể trọng hai nghệ sĩ lớn này?

Nhưng riêng đối với Nguyễn Gia Trí, thời kỳ sung mãn bán được nhiều tranh đã chấm dứt với cuộc đảo chính hụt 11/11/1960. Và ông bước sang thời kỳ khó khăn hơn.

Mặc dù tình trạng chính trị đã thay đổi: anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị ám sát và miền Nam bước vào nền Đệ Nhị Cộng Hoà, nhưng tình trạng "nợ nần" của Nguyễn Gia Trí vẫn kéo dài từ 1961 đến 1965: khiến ông ước có "bạc triệu và làm việc trong một hai năm không lo sinh sống và nợ nần", và ông biết đó chỉ là: "câu chuyện mộng tưởng".

Ông nói: Bây giờ [1965] về kỹ thuật tôi đã tiến bộ nhiều. Ông giải thích về bức Abstrait (Trừu tượng) do một người Pháp lục trong đống phác họa, rồi đặt, chứ ở Việt Nam lúc ấy [1965] không mấy người biết thưởng thức tranh trừu tượng. Và ông gửi cho Phạm Tăng hình một số tranh ông đã hoàn tất trong 4 năm qua.

Bẵng đi hơn 4 năm, từ tháng 7/1961 đến tháng 9/1965 không có thư (được giữ lại), có thể vì ở ngoài nước Phạm Tăng bận lập gia đình và vẽ tranh triển lãm khắp nơi; trong nước lại liên tiếp xẩy ra những biến cố quan trọng: nhà văn Nhất Linh tự vận (7/7/1963), cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 dẫn đến sự sát hại anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 2/11/1963.

Khi tình hình đã lắng xuống, năm 1965, Phạm Tăng liên lạc lại và dưới đây là lá thư trả lời của Nguyễn Gia Trí.

Tài liệu 3

clip_image016

Thư ngày 12-9-1965

NGUYỄN GIA TRÍ

Hẻm 36, Số 26/8 đường Cách Mạng

SAIGON

Saigon ngày 12/9/65

Anh Phạm Tăng thân,

Nhận được thư anh tôi rất mầng vì đã lâu vắng tin anh. Tự hẹn sẽ viết dài cho anh mà nên lần khần giờ mới cầm bút viết được. Tuy vậy nhiều chuyện viết ra dài dòng quá viết sao xuể được. Giờ hãy nói chuyện tranh sơn mài.

Thấy anh thế mà không rõ công chuyện đó. Nó làm lâu la quá, nên có bao giờ anh thấy trong xưởng tôi đến một bức tranh nhỏ mà không có người đặt tiền hay đã trả tiền hết rồi? Hiện nay tôi còn nợ tiền ba bốn bức tranh cỡ 60×80 mà có cái chưa bắt đầu vẽ được một nét. Nghĩ đến mà sốt ruột. Cho nên tôi còn nhớ cũng đã có lần anh nói câu chuyện bày tranh ở ngoại quốc, tôi muốn mà không thể nào làm được. Đành sống qua ngày trong cái hoàn cảnh chật hẹp nước mình. Cái sơn mài nó không thể sản xuất nhiều được mà không phương hại đến cái phẩm của nó. Hoặc giả phải có vốn bạc triệu thì trong số những sản phẩm chọn lọc họa chăng được một nửa có thể kha khá. Bạc triệu và làm việc trong một hai năm không lo sinh sống và nợ nần. Có thể nói là một câu chuyện mộng tưởng.Tôi thành thực không tiếc gì, vì vẫn làm hết sức mình. Bây giờ về kỹ thuật tôi đã tiến bộ nhiều. Nhân tiện gởi anh mấy tấm hình anh coi, và tưởng tượng thật nó thế nào. Cái thuyền nó có matière tựa như aquarelle. Còn cái abstrait là một ông Pháp ông lục trong đống esquisse thấy rồi đặt, chứ còn bỗng dưng ở đây mấy khi có người thưởng thức?

Anh có lòng nghĩ đến tôi ở xa xôi thực quý hóa.

Lâu lâu anh hãy viết thư về nói chuyện của anh làm ăn. Được tin anh đã lập gia đình bên đó xin có lời mừng.

Thân mến.

Nguyễn Gia Trí

Tháng 9/1965, Phạm Tăng viết thư về, có lẽ vẫn để giục Nguyễn Gia Trí triển lãm tranh chung. Vì thế, Nguyễn Gia Trí mới trách nhẹ: "Anh thế mà không hiểu rõ chuyện!" Và ông nhắc lại: Sơn mài làm lâu lắm nên có bao giờ anh thấy trong xưởng vẽ của tôi có đến một bức tranh nhỏ mà không có người đặt tiền hay đã trả hết tiền rồi?

Ông còn cho biết: Hiện nay ông còn nợ tiền ba bốn bức tranh cỡ 60×80 cm, mà chưa bắt đầu vẽ được một nét. Tất nhiên ông cũng muốn triển lãm tranh ở nước ngoài nhưng không thể làm được, vì "Cái sơn mài nó không thể sản xuất nhiều được mà không phương hại đến cái phẩm của nó. Hoặc giả phải có vốn bạc triệu thì trong số những sản phẩm chọn lọc họa chăng được một nửa có thể kha khá. Bạc triệu và làm việc trong một hai năm không lo sinh sống và nợ nần. Có thể nói là một câu chuyện mộng tưởng".

Tóm lại, trong thư này, Nguyễn Gia Trí xác định một lần nữa:

– Sơn mài làm lâu lắm, nếu làm nhanh bức tranh mất giá trị.

– Sự "tiến bộ" mà Nguyễn Gia Trí nói đến ở đây sẽ được thể hiện trong bộ ba bức tranh làm cho Thư Viện Quốc Gia (1967-1970) và tác phẩm lớn Vườn Xuân Nam Trung Bắc (bắt đầu từ 1973, hoàn tất sau 1975), hiện trưng bày ở Bảo tàng Mỹ Thuật TP Hồ Chí Minh.

– Ông mừng Phạm Tăng đã lấy vợ Ý[5].

(Còn tiếp)

Thụy Khuê

thuykhue.fr.fr


[1] Chúng tôi sẽ tìm hiểu rõ hơn trong sách Tự Lực văn đoàn, văn học và cách mạng.

[2] Trích Tài liệu 6, phần 2: Nguyễn Gia Trí đương đầu với Mai Thọ Truyền.

[3] Hoàng Hưng, Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật, in trong sách Những người lao động sáng tạo, nxb Lao Động, 1998.

[4] Như Phong Lê Văn Tiến và bộ sưu tập ký hoạ, phác thảo của Nguyễn Gia Trí, Thế Kỷ 21, số 189-190, tháng 1 và 2, năm 2005.

[5]Phạm Tăng phiên âm tên vợ sang tiếng Việt là Bà Lưu.

Comments are closed.