THẢO LUẬN THOÁT TRUNG VỀ VĂN HOÁ (14): Sức mạnh của hòa bình và những gợi ý cho Việt Nam

Đặng Hoàng Giang

 Người Việt biểu tình hòa bình tại Paris, ngày 16.5.2014. Ảnh:  Đỗ Lan Hạnh

Người Việt biểu tình hòa bình tại Paris, ngày 16.5.2014. Ảnh: Đỗ Lan Hạnh

LTS: Suốt thời gian qua, với sự hung hăng, ngang ngược của Trung Quốc tại biển Đông, nền hòa bình của Việt Nam và khu vực bị đe dọa nghiêm trọng. Phản ứng trước tình hình, Chính phủ Việt Nam kiên trì các giải pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, xung đột. Tuy nhiên, muốn giữ vững hòa bình và chủ quyền lãnh thổ, nếu chỉ dừng lại ở các giải pháp hòa bình ngắn hạn thì chưa đủ. Trong tầm nhìn dài hạn, Việt Nam cần nỗ lực kiến tạo một xã hội hòa bình. Trong một xã hội hòa bình, trạng thái hòa bình không phụ thuộc vào thái độ của các quốc gia bên ngoài, mà là sản phẩm tổng hợp của các nguồn lực bên trong: triết lí phát triển, cấu trúc thể chế, giá trị văn hóa và khao khát hòa bình của người dân… Đó là sức mạnh của một xã hội hòa bình đúng nghĩa – một thứ quyền lực phi bạo lực. Vậy nên, xây dựng một xã hội hòa bình là lựa chọn tất yếu của người Việt Nam trong cả trước mắt lẫn lâu dài. Với cách nhìn như vậy, chúng tôi xin được giới thiệu bài viết sau đây của Đặng Hoàng Giang và trân trọng kính mời các nhà nghiên cứu, bạn đọc tham gia thảo luận, trao đổi.

 

Thế nào là một xã hội hòa bình?

Đã thành thói quen, khi nói đến hòa bình, điều đầu tiên người ta nghĩ đến là một trạng thái không có chiến tranh. Chẳng hạn, trong dự án Chỉ số hòa bình toàn cầu (Global peace index – GPI) do Viện Kinh tế và Hòa bình (The Insitute for Economics and Peace) tiến hành nhằm xếp hạng mức độ hòa bình của các quốc gia trên thế giới, người ta cho rằng, một quốc gia chỉ trở nên hòa bình khi không có xung đột với các quốc gia láng giềng và không phải trải qua các cuộc nội chiến ở bên trong”[1]. Tuy nhiên, theo Johan Galtung – cha đẻ của ngành “hòa bình học”, đấy là một cách nhìn thiển cận vì nó quá nhấn mạnh đến yếu tố chiến tranh trong việc xác định trạng thái có/không có hòa bình của một đất nước. Trên thực tế, nhiều quốc gia tuy không tham gia chiến tranh với bên ngoài và cũng không có nội chiến, nhưng vẫn chưa đạt tới trạng thái hòa bình vì nội tình xã hội tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp – những thứ có thể tạo nên xung đột bất cứ khi nào. Ông gọi nền hòa bình được xác định theo kiểu đó là một nền hòa bình thụ động (negative peace). Để phân biệt với negative peace, Johan Galtung đưa ra khái niệm: nền hòa bình chủ động (positive peace). Một nền hòa bình chủ động thì không phụ thuộc vào thái độ của các quốc gia bên ngoài mà là sản phẩm tổng hợp của các nguồn lực bên trong. Nghĩa là, xã hội sống trong hòa bình nhờ biết lựa chọn một triết lí phát triển, một cấu trúc thể chế phù hợp cùng các giá trị văn hóa tương ứng có khả năng hình thành và duy trì trạng thái đó[2].

Cách tiếp cận theo hướng từ nguyên học (etymology) tiếp tục soi sáng nhiều đặc điểm khác của một xã hội hòa bình. Theo từ điển tiếng Anh, từ ghép hòa bình (peace) có họ hàng gần với các từ cổ trong tiếng Anh – Pháp (pes) và tiếng Pháp (pais) ở thế kỉ XI, với nghĩa đen là: hòa bình, hòa hợp/hòa giải, lặng yên và đồng tình. Bản thân pes lại bắt nguồn trực tiếp từ một tiếng La tinh khác – pax, có nghĩa là sự thỏa thuận, đồng tình trong hòa bình, thanh bình; sự không có thù địch, chiến tranh. Tiếp tục đào sâu ngữ nghĩa, nhiều nhà ngôn ngữ học còn chỉ ra mối liên hệ giữa pes với các từ shalom (tiếng Hê-bơ-rơ) và salaam (tiếng Ả Rập) với hàm nghĩa rất rộng: công bằng, tốt lành, an toàn, hạnh phúc, thịnh vượng, bình đẳng, an ninh, giàu có và thân thiện[3].

Như vậy, trong ý nghĩa trọn vẹn của nó, ý niệm hòa bình không nên hiểu giản đơn là tình trạng vắng bóng chiến tranh và bạo lực mà phản ánh trạng thái văn minh của một xã hội. Ở đó, sự an ninh con người (human secuirity); sự hài hòa và đồng thuận xã hội; sự minh bạch, tiến bộ của môi trường thể chế đã mở đường cho sự phồn thịnh của toàn xã hội.

Ưu thế của các quốc gia hòa bình

Nhờ có một môi trường chính trị – xã hội ổn định, các xã hội hòa bình trở thành điểm đến hấp dẫn, tin cậy của các nhà đầu tư trên toàn thế giới. Đây là nguồn lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Điều quan trọng là, sự ràng buộc quyền lợi với nhiều đối tác liên quan đã tạo cho các quốc gia hòa bình một vành đai an ninh từ xa vì không ai muốn làm xáo trộn một môi trường đang đem lại sự ổn định, thịnh vượng. Mặt khác, với triết lí phát triển hài hòa, các quốc gia hòa bình tránh được vết xe đổ mà nhiều quốc gia mới nổi đã và đang sa vào. Cụ thể, thay vì chấp nhận đánh đổi nhiều thứ (nền tảng văn hóa, tài nguyên môi trường, công bằng xã hội) để đạt được mục tiêu tăng trưởng, họ lựa chọn một con đường phát triển bền vững nhờ kết hợp hài hòa giữa khai thác và bảo tồn, giữa tăng trưởng và ổn định, giữa kinh tế và nhân văn, giữa truyền thống và hiện đại. Các quốc gia thuộc nhóm đầu của bảng xếp hàng mức độ hòa bình toàn cầu hết sức tiêu biểu cho xu hướng này: Ai Len, Đan Mạch, Niu Zi Lân, Ca Na Đa, Nhật Bản, Áo, Ai Xơ Len, Phần Lan, Thụy Điển[4].  

Các xã hội hòa bình cũng cho phép phát triển tối đa các nguồn lực nhân văn. Trên thực tế, một xã hội hòa bình không nhất thiết phải là một xã hội giàu có nhất (xét theo thang đo GDP và GNP quen thuộc lâu nay), nhưng là một xã hội đảm bảo các điều kiện để con người thường xuyên được an lạc, vô ưu. Vả lại, nghĩ cho cùng, đối với con người, còn hạnh phúc nào lớn hơn cảm giác an lạc, vô ưu khi sống giữa một thực tại luôn biến động, bất trắc như hiện nay. Chính điều này đã tạo nên một sức mạnh đặc biệt cho các xã hội hòa bình do các thành viên của nó luôn tìm thấy những động lực mạnh mẽ để tồn tại, phát triển và cống hiến cho sự phát triển chung của xã hội. Ngược lại, trong các xã hội chưa đạt tới ngưỡng hòa bình, con người thường xuyên sống trong nỗi bất an. Do đó, họ chỉ có thể miễn cưỡng sống tạm cuộc đời của mình và đương nhiên không có một động cơ nào đủ mạnh để sống tiếp cuộc đời của những thế hệ trước, sống trước cuộc đời của những thế hệ sau và sống chung cuộc đời của những kẻ cùng thời[5]. Đặt hạnh phúc con người ở trọng tâm của sự phát triển, tự thân điều đó đã tạo nên tính chính nghĩa tuyệt đối cho các xã hội hòa bình. Bởi thế, trong thời đại ngày nay, khả năng một quốc gia bên ngoài xâm phạm lãnh thổ của một đất nước hòa bình là điều khó thể xảy ra vì điều này sẽ gặp phải phản ứng quyết liệt của toàn thể nhân loại tiến bộ.

Những điều kiện để hình thành một xã hội hòa bình

– Một nhà nước đối thoại, tương tác (interactive state): Như tên gọi đã chỉ ra, một nhà nước đối thoại, tương tác là một nhà nước luôn sẵn sàng đối thoại với người dân để cùng giải quyết các vấn đề được đặt ra từ hiện thực cuộc sống. Đây là cơ sở để hình thành một nền chính trị trách nhiệm (accountable politics). Trong môi trường chính trị đó, không một quyết định lớn nào được đưa ra mà không trải qua một quá trình tham vấn, đối thoại giữa nhà nước với người dân nhằm lựa chọn các phương án chính sách khả thi nhất. Chính quá trình đối thoại này đã hình thành nên một nền văn hóa công luận (public culture). Theo Habermas, đặc tính của văn hóa công luận là tự do tư tưởng và thực hiện phản biện xã hội. Phản biện xã hội thực chất là một hình thức đối thoại bình đẳng, dân chủ giữa các thành phần xã hội với nhà nước nhằm thúc đẩy sự hoàn thiệncủabộ máy nhà nước và cáckiến tạo chính sách, thể chế. Để phù hợp với bản chất tương tác, nhà nước đối thoại được thiết kế và vận hành theo một số nguyên tắc căn bản: (i) Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; (ii) Tam quyền phân lập; (iii) Thừa nhận tự do ngôn luận; (iv) Thừa nhận các hội đoàn dân sự – với tư cách là các tổ chức độc lập đại diên cho tiếng nói, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của người dân…

– Một đời sống văn hóa đa dạng: Dưới sự bảo trợ của các định chế chính trị – văn hóa tiến bộ, nhiều loại hình văn hóa có điều kiện thuận lợi để cùng tồn tại và phát triển. Tồn tại trong một mối quan hệ tương hỗ, các loại hình văn hóa này góp phần làm giàu vốn văn hóa cho xã hội và đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng của các thành viên trong cộng đồng. Sự cộng sinh văn hóa một mặt kích thích các ý tưởng mới ra đời, qua đó, thúc đẩy khả năng tái tạo, điều chỉnh, đổi mới của toàn xã hội; mặt khác, gián tiếp hình thành tinh thần khoan dung văn hóa. Khoan dung là sự tôn trọng, thừa nhận, thấu hiểu tính đa dạng của đời sống văn hóa – nơi cộng sinh của các chủ thể văn hóa với các cách thức và biểu hiện khác nhau. Khoan dung không chỉ là sự thừa nhận, tôn trọng tín ngưỡng, văn hóa của người khác, cộng đồng khác mà bao hàm cả việc thừa nhận và tôn trọng các giá trị của chính mình – với tư cách là một cá thể độc lập trong cộng đồng. Bởi vì, bản chất của khoan dung là quyền được sống theo đức tin và văn hóa của mình, kể cả khi văn hóa đó bị những người khác kì thị. Nói một cách ngắn gọn, khoan dung nghĩa là hài hòa trong khác biệt. Theo Tuyên ngôn về các nguyên tắc khoan dung được Liên hiệp quốc công bố năm 1995, khoan dung vừa là một nghĩa vụ đạo đức (moral duty), vừa là một đòi hỏi chính trị và pháp lý. Chỉ dựa trên tinh thần khoan dung, con người mới có khả năng thay thế nền văn hóa của bạo lực và chiến tranh bằng nền văn hóa của hòa bình[6].   

– Một cộng đồng gắn kết và ôn hòa: Lối sống của con người có ảnh hưởng sâu sắc đến trạng thái phát triển của xã hội. Một xã hội hòa bình trước hết được hình thành từ lối sống mang đậm tinh thần hòa bình của những con người tồn tại trong đó. Tinh thần ấy được bộc lộ rõ nét qua hai đặc điểm cơ bản: gắn kết và ôn hòa. Tinh thần gắn kết đồng nghĩa với ý thức không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo, quá khứ, vùng miền. Tinh thần gắn kết cũng nhấn mạnh đến xu hướng vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của đời sống cá nhân và gia đình để kết nối thường xuyên với đời sống bên ngoài thông qua việc tham gia vào các sự kiện xã hội. Với họ, hạnh phúc không chỉ là được thỏa mãn các nhu cầu của đời sống cá nhân mà còn có nghĩa là được hòa mình vào đời sống công cộng. Trong khi đó, tinh thần ôn hòa gần gũi với tinh thần khoan dung: tôn trọng sự đa dạng, khác biệt của người khác và giải quyết các xung đột, tranh chấp thông qua đối thoại, thương thảo. Nghiên cứu các xã hội hòa bình trên thế giới, người ta nhận ra một điểm chung: con người trong các xã hội ấy có xu hướng thiện lành cả trong suy nghĩ và hành vi. Họ đã sáng tạo được rất nhiều hình thức nhằm thúc đẩy sự hài hòa trong quan hệ xã hội, xây dựng lòng tôn kính lẫn nhau và nuôi dưỡng lòng bác ái, vị tha với cái khác biệt của người khác. Họ cũng rất giỏi trong việc giảm thiểu, giải trừ xung đột khi chúng xuất hiện và ngăn chặn chúng phát triển thành bạo lực[7].

Vĩ thanh

Không phải ngẫu nhiên mà Viện Kinh tế và Hòa bình tiến hành xây dựng bộ chỉ số hòa bình, để từ đó, xếp hạng mức độ hòa bình của các quốc gia trên toàn thế giới. Thực ra, bộ chỉ số này phản ánh một cách đánh giá mới về sự phát triển của các quốc gia: mức độ hạnh phúc, an lạc của con người trong những điều kiện hiện có. Nhân loại ngày càng đi đến nhận thức rằng: toàn bộ nỗ lực sinh tồn xét cho cùng đều để phục vụ cho hạnh phúc của con người. Với từng quốc gia, mọi lí tưởng, chỉ số, thành tích đều trở nên vô nghĩa nếu con người không được sống trong thanh bình, hạnh phúc thực sự. Do đó, trở thành một quốc gia hòa bình là mục đích phấn đấu chính đáng của tất cả các quốc gia.

Đối với Việt Nam – một quốc gia có truyền thống hòa hiếu, đi theo lộ trình phát triển hòa bình là lựa chọn tất yếu trong hiện tại và tương lai. Điều này càng trở nên cấp thiết khi chúng ta đối diện với một Trung Quốc luôn đặt trọng tâm phát triển trên bạo lực, bá quyền và muốn chi phối Việt Nam trong cái vòng cương tỏa mà họ tự vẽ ra. Để cụ thể hóa ý niệm hòa bình thành hiện thực cụ thể, chúng ta cần những chuyển động tích cực cả từ nhà nước lẫn toàn xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, người viết kì vọng vào một sự chuyển động mang tính tiên phong từ phía xã hội – nơi dự trữ rất nhiều tiềm năng nhưng bấy lâu chưa được khai phá. Lúc này đây, chúng ta đang rất cần những sáng kiến cộng đồng để đổi mới xã hội, đặc biệt là những sáng kiến nhằm khôi phục niềm tin giữa các cá nhân, các thế hệ, các cộng đồng người Việt cả trong lẫn ngoài nước. Vì niềm tin là cơ sở của gắn kết và bao dung – một yêu cầu không thể thiếu của một xã hội hòa bình. Đó là cách tốt nhất để nhân dân truyền đi một thông điệp rằng: một nhân dân tháo vát, sáng suốt, vị tha và thông minh như thế xứng đáng có một nhà nước đàng hoàng, tử tế để hướng đạo toàn thể dân tộc vượt qua những trở lực hữu hình và vô hình, mạnh mẽ hội nhập vào cộng đồng nhân loại tiến bộ, văn minh./. 

 

[1]Tina Aridas, Valentina Pasquali (2014), The most peaceful countries in the world, nguồn: http://www.gfmag.com.

[2]Tina Aridas, Valentina Pasquali (2014), The most peaceful countries in the world, nguồn: http://www.gfmag.com.

[3]http://en.wikipedia.org/wiki/Peace.

[4]Tina Aridas, Valentina Pasquali (2014), The most peaceful countries in the world, nguồn: http://www.gfmag.com.

[5]Phạm Thị Hoài, Tư cách trí thức Việt Nam, nguồn: http://amvc.free.fr

[6]Emmanuel Agius và Jolanta Ambrosewics, Towards a culture of Tolerance and peace, bản PDF, p. 11-12

[7]Peaceful societies: alternative to Violence and War, nguồn: http://www.peacefulsocieties.org/  

 

Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/

Comments are closed.