NGU YÊN
Ngu Yên, nhạc sĩ Từ Công Phụng, ca sĩ Khánh Hà, Diễm Liên
Tiểu Sử Tự Thuật: Ngu Yên tên Nguyễn Hiền Tiên. Quê quán Bình Định, gốc miền Kim Châu. Kể rằng thân thế khởi đầu, 20 tháng 11, sinh vào năm 52.
Mặt mày trên mức xấu trai, học hành đại khái, ngày ngày rong chơi. Nuôi hoài bão nhưng biếng lười, nên thường lấp liếm vài lời cuồng ngông. Sinh ra tâm tính lông bông, lớn khôn chỉ giỏi bềnh bồng nổi trôi. Giữa cơn binh loạn đổi đời, xuôi dòng tản lạc thành người lưu vong. Tháng ngày sồi sụt long đong, vui buồn thơ động tiếng lòng nghêu ngao.
Nhiều nhà thơ hải ngoại không thể thoát ra khỏi sức hút của hai nền thơ lớn, thơ tiền chiến và thơ miền Nam trước 1975. Một số người khác, nhờ cơ duyên đặc biệt, hoặc do tài năng, hoặc cả hai, đã vượt lên và di chuyển về những hướng khác nhau. Đó có lẽ là trường hợp Ngu Yên.
Anh viết sớm, làm mới rất sớm, chấp nhận đi con đường chưa ai đi, không chắc chắn, có phần nguy hiểm của sáng tạo. Trong bối cảnh rời rạc của không khí sinh hoạt văn học mấy chục năm nay, hải ngoại cũng như trong nước, Ngu Yên vẫn giữ được gần như một nhịp độ sáng tác. Cùng với những sinh hoạt nghệ thuật khác, như âm nhạc, anh nêu một tấm gương cho nhiều nhà thơ cùng thế hệ hoặc sau anh.
Thơ anh có giọng nói mới, nhưng trong nhiều bài vẫn giữ cấu trúc cổ điển. Trong khi gây cảm giác mới lạ, đầy năng lượng, thậm chí phá phách, chúng vẫn nằm trong một mối quan hệ thống nhất giữa tình và ý, giữa tư tưởng và xúc cảm.
Anh có thể di chuyển vững vàng giữa tự sự và trữ tình, giữa một đất nước trong quá khứ và một đời sống thường nhật quanh mình. Ngôn ngữ của anh đôi khi thiếu sự kỹ càng, chắt lọc, vì vậy không cô đọng, nhưng ngược lại tự nhiên như một dòng chảy, khỏe khoắn, sảng khoái lạ lùng. Chúng đồng thời vừa là sự hưng phấn, tính hài hước, sự hân hưởng cuộc đời, vừa là sự thông minh sâu sắc, sự quan sát tỉ mỉ, nỗi buồn thảm được che giấu. Thơ Ngu Yên là lời ngợi ca đối với cuộc đời, tình yêu, bất chấp quá khứ, cố gắng vượt lên , và trong khi phá phách vẫn tìm cách để giữ gìn. Trong thơ anh chúng ta hy vọng tìm thấy dấu vết, ở những bài thành công, động lực của một nền thơ mới.
Văn Việt trân trọng giới thiệu.
76 Bạch Đằng Nha Trang
Ngày tôi về
Đường dẫn vào quá khứ không ai quen
Đứng trước căn nhà cũ
Kỷ niệm lần khân 33 năm
Cô hàng xóm hỏi:
– Bác tìm ai?
Buồn buồn trả lời gió
– Bác già rồi, đọc địa chỉ sai
Hôm sau quay trở lại
Đứng trước căn nhà xưa
Cô hàng xóm nói:
– Bác lộn địa chỉ rồi
Buồn buồn trả lời gió
– Bác muốn mua nhà này
Nhà 76 Bạch Đằng Nha Trang
Xoáy tròn cơn lốc kỷ niệm
Không giấc mơ nào giống chiêm bao
Dòng thời gian xuôi dòng nước mắt
Mẹ nuôi con vay gạo mỗi tháng
Ba hiền khô hoa mai thanh liêm
Ba vào lính mẹ vào chiến trận
Áo cơm lửa đạn chuyện mỗi ngày
Chị tôi đẹp nhất Lê Quí Đôn
Da trắng màu nắng lên cát biển
Má lúm đồng tiền
Miệng cười lả lướt rạng thùy dương
Các anh tôi rời biển
Trên nòng súng quê hương lưỡi lê tổ quốc
Căm thù chung chung chẳng ghét ai
Đám đông đánh đâu ta đánh đó
Đám đông bỏ ta, ta chịu một mình
Tôi rời tu viện
Vì Thượng Đế không có hình hài
May ra biết tình yêu
Làm sao biết tình dục
Tôi rời tu viện lãng chán một thời
Yêu em bằng trái tim thi sĩ
Học hành dở hơn làm thơ
Ôm đàn lươn khươn hát vùi mộng mị
Tôi cao theo niềm vui, ốm theo nỗi buồn
Thất tình học triết
Thua đời tập thiền
Nắng đi tắm biển
Mưa làm thơ
Tôi yêu biển những ngày đông bão
Biển xám ngầu vô tận xám lên trời
Biển lạnh toát thét gầm táo tợn
Vẫy vùng bất lực như tôi
Tôi yêu Nguyễn Hoàng chiều mưa ngập
Tuổi 12 lội nước bắt chuồn chuồn
Tôi yêu Xóm Mới bãi đùn hoang vắng
Ép vào tuổi xanh hoa Bụt hoa Trang
Tôi yêu Bạch Đằng ổ gà văng nước
Yêu chợ ngã ba chuột cống như mèo
Yêu vách tường trường ngàn ngàn tiểu tiện
Yêu thuở ái tình giản dị chỉ yêu
Không giấc mơ nào giống chiêm bao
Đọc triết nhiều giống khùng
Tập thiền nhiều giống ngu
Làm thơ nhiều sống giỡn
Ca hát nhiều hồn chảy máu cam
Dòng thời gian xuôi dòng nước mắt
Muốn trẻ đi sao lại lớn lên
Đành xiêu vẹo theo lịch sử bão tố
Đời tha phương tự động hóa bình thường
Lịch sử
Từ nhiều người tưởng mình ghê gớm
Những người hoang tưởng bình yên
Những người có trái tim bất trắc
Những người thâm thủng khôn ngoan
76 Bạch Đằng và tôi mất vì lịch sử
Tôi trở về 76 Bạch Đằng
Dòng thời gian lạnh nước mắt căm căm
Trời đất có còn chăng nhân nghĩa
Mở cửa cho tôi thăm một lần
Tôi đứng trước nhà tôi
Cô hàng xóm nhiều chuyện:
– Chủ nhà không bán đâu
Buồn buồn hỏi gió:
-Ai bán căn nhà này?
Truyện Một Con Cá
Tôi là con cá sinh ra trong dòng sông Bến Hải
Buổi sáng bơi qua bờ bắc tìm ăn tránh bộ đội lưỡi câu
Buổi chiều về ngủ bờ nam trốn lính rình giăng lưới
Ngày ngày lính bờ bắc đói khổ chán chường chửi lính bờ nam
Lính bờ nam mệt mỏi nản lòng chửi lính bờ bắc
Nhiều đêm nhìn sao trời thao thức
Tôi tự hỏi lòng
họ làm người có vui sướng hay không?
Dòng sông tôi lớn khôn
Người ở hai bờ đua nhau phóng uế
Có chú Ba Tàu bác Nga La Tư đến bỏ đồ dơ
Có dượng Mỹ anh hai Đại Hàn đến xả rác
Gia đình tôi và triệu ngàn con cá khác
Uống nước dơ thương khó sống qua ngày
Ăn đồ bẩn cam lòng như quen số mạng
Trên bàn đại tiệc hòa bình tự do hiệp ước dọn đầy món ăn
Người ngoại quốc người Việt Nam mút xương gặm đầu nhai mắt cá
Họ chúc mừng trên dòng sông ly tán những linh hồn
Một hôm
Lính bờ bắc tràn qua sông nam tiến
Khuấy động phù sa đỏ máu cả dòng sông
Hai bên lính gục ngã
Xương trắng đầu lâu giống nhau anh em ruột
Hồn oan khiên không phân biệt bắc nam
Người cũng chết
Cá cũng chết
Chỉ có Trời còn sống
Trời sống để ghi công trạng kẻ sát nhân
Quí vị những người ở hai bờ Bến Hải
Có bao giờ nghĩ đến loài cá chúng tôi?
Mất nước quí vị vẫn sống
Không có nước chúng tôi bất động
Chỉ có Trời mới hiểu
Cá và người ai cần nước hơn ai?
Tôi là con cá rời dòng sông Bến Hải
Vượt biển đông đến mắc cạn nơi đây
Trái tim tôi ướp đầy gia vị tiền tài của cải
Trí óc tôi mưu toan ám ảnh chuyện mánh mung
Tấm lòng chật ước mơ vinh hoa phú quí
Chợt đêm qua nhìn sao trời thao thức
Tôi tự nhủ lòng ước gì con cá được làm người
Quí vị đọc bài thơ này
Có bao giờ tự hỏi:
Ước gì con người được làm cá?
(Houston, 20-06-1997)
Exit. Wrong Way
đọc 2:
lối này bí lối kia bí lối nọ bí lối trước bí lối sau bí
bí lối thời gian một chiều – “lạy chúa” không phải ngõ ra
lối này bí lối kia bí lối nọ bí lối trước bí lối sau bí
bí lối sống chết một chiều – “mô phật” không phải ngõ ra
lối này bí lối kia bí lối nọ bí lối trước bí lối sau bí
ngu yên hỡi
đường ra duy nhất
hãy đi
dù thiên hạ nghĩ rằng lạc lối
đọc 3:
nhà vây xe vây điện vây bảo hiểm vây hụi vây chi phí vây
vây kín đường trái một chiều Chúa vây
cha vây mẹ vây vợ vây con vây bạn vây quen vây lạ vây
vây kín đường phải một chiều Phật vây
vây vây vây vây vây vây
ngu yên
thoát thân lối này
lối này tệ hơn bị vây
(Houston 31-3-97)
Bàn Tay Biết Cầm
Không dễ bắt muỗi như bắt kiến, không phải vì muỗi bay, vì nó biết phản ứng với bàn tay.
Đời dễ bắt người này, khó bắt người kia, không phải vì người này bò người kia bay, vì có người dùng bàn tay phản ứng.
Không phải Thúy Kiều nhờ Giác Duyên cứu độ, sống lại từ Tiền Đường, vì bàn tay Nguyễn Du cầm bút.
Muốn đánh đàn hay, phải cắt móng tay. Muốn kéo lực mạnh, phải tập tạ. Muốn hai tay dẻo dai, học múa. Muốn hai tay bảo vệ, học võ. Muốn an nhàn, phải tập khoanh tay.
Vì sao mỗi người chỉ có hai tay?
Vì sao mỗi bàn tay không lớn như tàng dù, dễ che mưa nắng?
Khi bàn tay đủ sức kháng cự, số mệnh sẽ thụt lùi hoặc chờ đợi.
Tiếc thay, ngay từ đầu, tay tôi nhỏ bé và yếu mềm.
Chỉ còn biết cầm bút: Phản kháng.
Phạm Duy Của Ngày 27 tháng 1 năm 2013
Trưa nay
một con chim lớn lặng lẽ bay về phương xa
để lại tiếng kêu cảm động mặt trời
rơi vàng nắng âm u Sài Gòn chiều Chủ Nhật.
Từ bắc về nam ra ngàn trùng biển khơi
cây đàn ghi-ta dáng cong hai chữ S
ráp ngược đầu thành thùng đàn.
Một chữ trong lòng
một chữ nước non
vang tiếng hát bảy mươi năm tình quê khách lạ
bao nhiêu người có tai?
Quê hương không dành riêng cho bất cứ ai
mấy kẻ ngửi được hương
dù không có quê?
bao nhiêu người có mũi?
Lòng người hẹp như lỗ kim
chim lớn làm sao bay qua?
bao nhiêu kẻ có tim?
Miệng người thở đầy khí độc lưỡi như rắn dữ
làm sao nghe tử tế chân tình?
bao nhiêu kẻ có lòng?
Từ 1942 đến 1945
từ 1949 đến 1953
từ 1975 đến 2005
từ 2006 đến 2013
có năm nào thiếu Phạm Duy?
Từ một nốt đến ngàn nốt
từ tiếng bình dân đến câu thơ
từ thanh bình đến chiến tranh đến di tản
từ tôn giáo đến ngục ca, tục ca, du ca đến ngàn lời ca
có khi nào thiếu Phạm Duy?
Từ em bé đến người già
từ chiến sĩ đến linh mục đến tỳ kheo
từ thiếu nữ khóc đến thanh niên cười đến tình nhân ôm hồn kỹ niệm
có người nào thiếu Phạm Duy?
Từ nỗi buồn nhỏ đến thất vọng lớn
từ yêu người yêu nước yêu ca dao
từ bàn tiệc, phòng trà, sân khấu cho đến một mình đâu đó
có bài hát nào thiếu Phạm Duy?
Trước 2 giờ 45 trưa
Sài Gòn, Luân Đôn, Melbourne, Hà Nội, Paris, Houston, Nha Trang, Toronto, Dallas,
Huế, Quận Cam, New Orlean, Quảng Nam, Sidney, Montreal, Qui Nhơn, Lục Tỉnh….
đang nói tiếng Việt
chưa thiếu Phạm Duy.
Sau 2 giờ 45
một con chim lớn lặng lẽ bay về phương xa
để lại tiếng kêu cảm động mặt trời
rơi vàng nắng âm u Sài Gòn chiều Chủ Nhật.
từ nay
thiếu Phạm Duy.
Truyện Màu Gì?
Câu chuyện này màu vàng
màu vàng hấp hối
màu vàng trên cánh hoa tu-líp héo
màu vàng trên lá khô sắp rã rời.
Nhưng khi bắt đầu
câu chuyện màu hồng phấn.
Câu chuyện dài có nhiều nhân vật
họ gặp gỡ
sinh hoạt chung
rồi xa nhau
kẻ sống người chết
kẻ nhớ người quên.
Năm tháng tiếp tục qua
dù những chuyện đã chấm dứt.
Đoạn kết nào cũng vàng
màu vàng hấp hối.
Thời gian là bút lông
sơn lên không gian nhiều lớp màu
những nhân vật trong thời gian không gian
đổi màu dưới ánh đèn sân khấu.
Chuyện nào cũng thương tâm
nhân vật nào cũng chết
Câu chuyện này cũng vậy.
Câu chuyện này kết cuộc màu trắng
trắng ngà ngà như vải liệm tang
trắng như rửa sạch những vết dơ dĩ vãng
trắng như trang giấy sau cùng trong cuốn sách
trắng trơn
không còn gì để viết.
Ai đã đổ rượu đỏ lên sách này
cho chuyện thành màu máu?
Ngày 12 tháng 4 năm 2013
Con khỉ đột
cạo hết lông
như đàn ông trần truồng.
Con khỉ
mặc lễ phục
đeo kính
ra đường
điệu bộ đại gia.
Con khỉ cái
cạo hết lông
như đàn bà nguyên thủy.
Mặc áo đầm
thoa son phết phấn
chải tóc quăn
ra đường
trèo giày cao
đẹp như chân dài.
Hai con gặp nhau
chuyện trò
hứa hẹn
dẫn vào khách sạn
tắt đèn
lông mọc lên khắp người
hiện hình hai con khỉ.
Hai con khỉ ra về
ngoài ánh sáng
rụng hết lông
một con giống đàn ông
một con giống đàn bà.
Viết Bằng Lược
Không thể hỏi nhà sư
mượn lược
Không thể hỏi thời gian mượn đôi ngày
Nhưng phải trả dù không mượn
nên tôi hỏi em
mượn tình yêu
Tình bây giờ là chiều xuống trên sông êm ả trước khi đổ thác
có ven bờ đom đóm soi hoa
có mây kỷ niệm bay ngang in lại lòng sông thương tiếc
có nâng niu con cá ngáp hơi
Em biết không
Anh thật sự mệt mỏi muốn êm đềm đắp cỏ mặc nắng mưa
bao chuyện cũ giao côn trùng rền rĩ
dù biết lòng chưa bạt nỗi niềm
Nếu có thể mượn lâm chung vài phút
mới an lòng chải tóc cho em
Chỉ nên hỏi nhà sư mượn tràng hạt
mượn Phật được không nếu có Phật thừa?
Phật có tóc sao sư không có?
athitaa tức thị ruupa tức thị không
Đời một người như trăm triệu đời người
đã như vậy
sẽ như vậy
Viết ngàn chương không tỏ được lòng
Viết để viết không còn gì mong
Viết như chải nhà sư không cần lược.
GHI:
Atthitaa: Có. Ruupa: Sắc. Theo nghĩa kinh Phật là khác nhau.
Sắc tức thị không; “Có” tức thị không; Khác nhau.
Buồn Buồn, Ra Mắt Sách
Đám đông
khoảng 200 người
trong căn phòng
ra mắt sách.
Người đàn bà ngồi cạnh tác giả
gương mặt buồn buồn.
Đám đông
chờ
ra mắt sách.
Sách hững hờ nhắm mắt.
Văn ở ngoài sân.
Thơ ở ngoài đường.
Người đàn bà ngồi cạnh tác giả
nụ cười buồn buồn.
Sân khấu tự động vỗ tay
ông này lên nói
bà kia lên nói
ông nọ lên nói
tác giả lên nói.
Văn ở ngoài sân.
Thơ ở ngoài đường.
Người đàn bà nhìn lên
ánh mắt buồn buồn.
Sân khấu tự động vỗ tay
cô này lên hát
cô kia lên ngâm thơ
cô nọ lên hát
cô còn lại nhìn tác giả đắm say.
Văn ở ngoài sân.
Thơ ở ngoài đường.
Người đàn bà ngồi cạnh tác giả
cúi mặt
buồn buồn.
Hơn hai giờ sau
đám đông ra về
chỉ còn người đàn bà
dọn dẹp
từ từ
gương mặt buồn buồn.
Đêm 29 tháng 10 năm 2012
Bão Sandy đến đông bắc Hoa Kỳ
mắt bão nhìn hồn tôi
đêm không một gì rơi vẫn nghe cây bật gốc bứng đường New York
gió gầm xả mưa trên màn ảnh tuông thành sông
dòng nước ngầm cuộn ngập đường hầm xe tàu điện
người đàn bà sinh con sau lưng xe truck giữa lính hỏa giăng lều cản mưa
người đàn ông da đen không di tản đu lên nóc nhà
lửa cháy khu đông
nước chìm khu nam tập trung nhiều ngược xuôi cứu mạng
trên lầu cao xây cất cần trục gãy đong đưa
con chó lạc chủ ngoài lan can sủa vô vọng
tiếng thiên nhiên giận dữ đuổi theo giết người
không còn ai để ý
kẻ nào đã dẫn bão đến đây?
Sóng từ biển đập lên
mặt đường thành lòng sông
cột điện thành đèn biển không chim nào dám đậu tốc gió 80 dặm một giờ
xe thành thuyền không chèo trôi không bến
cây gãy với cành lên mặt nước vẫy kêu cứu không ngừng
giữa đục ngầu cuốn xoáy
con búp bê bơi
Người ta vội vã rời khỏi nhà
trốn bão
bỏ quên con bé trên sofa
cô đơn sợ hại biết mấy
ai biết hồn nó thất vọng đau thương cỡ nào
nước tràn
con bé thoát ra ngỏ cửa sổ
bơi từ ngoại ô vào thành phố
lềnh bềnh hoang tàn
chìm trôi phồn hoa tráng lệ
những khúc nước xiết
con bé hấp hối níu dòng định mệnh dành riêng cho người
– biết không bé
người cũng trôi như cháu thôi
Bão Sandy quá nhỏ, quá ngắn, quá hiền so với bão thiêng liêng
bão từ đời sau qua đời này
thánh thần đã trốn bão
bỏ quên con người
hãy tự thoát thân
xin cảm ơn anh quay phim đài CNN
cho chú nhìn thấy cháu lần cuối
Pariseine
1.
Tim bay qua Đại Tây Dương
lượn trên thành phố lịch sử
đậu xuống vai Louis 14 trên lưng ngựa
đêm không biết tim tên gì
gọi Pariseine.
Tim có thể đi có thể bay có thể bơi
nhưng tạm thời
nó cưỡi ngựa trắng Napoléon
ngày không biết tim tên gì
gọi Pariseine.
Băng qua đền đài Versailles, điện Louvre, nhà thờ Notre Dame, vườn Tuilerie
mấy trăm năm chết đứng trong tranh và tượng,
bao nhiêu người quá vãng chỉ còn vài hình hài vẽ khắc
mới ngậm ngùi thời gian vô lý và vô lương
kẻ bất tử chẳng nói được gì cho người chết
nó đậu xuống cổng Triomphe
nắng không biết tim tên gì
gọi Pariseine.
Băng qua tháp Eiffel, vườn Luxembourg, bảo tàng Armée, lâu đài Bourbon
những kỳ công bằng mồ hôi long lanh rực rỡ
sáng tạo lưu truyền phải chăng gồm máu nghệ sĩ trộn nước mắt dân nghèo?
thưởng ngoạn về sau phải chăng từ ngưỡng mộ đến tự nhiên quên lãng?
người nghèo làm nghệ thuật người giàu lưu truyền cho người nghèo hưởng thụ
những hạt mưa đến vội vàng đi vội vã không biết tim tên gì
gọi Pariseine.
2.
Chiếc lá lượm ven sông
nhàu nát dưới chân du khách
lá ngâm nước bầm dập
chiều 21 tháng 3 năm 2014 chưa hết mùa xuân
có định mệnh nào cho bàn tay cứu lá?
hay chỉ tình cờ?
có ân sủng nào cho bàn tay cứu linh hồn?
hay chỉ ngẫu hứng?
Ngàn tượng thần thánh dựng khắp phố phường mở mắt đời đời nhìn thấy tang thương
sao muộn màng phép lạ?
dù sao mùa nào lá vẫn rụng
đời chỉ có người quét không ai đếm
lá rụng vào dòng sông
lá chìm xuống thành bùn
lá hóa ra nước nuôi đất từ làng mạc mọc lên thành phố xây cao đô thị.
Viên đá lượm ven sông
hình thù dị dạng mòn nhẵn dưới chân du khách
đá vỡ từ thế kỷ 13
khi thành trì thất thủ
vương triều tan hoang
nhiều thứ trọng đại biến mất
viên đá vẫn còn
đá rơi vào dòng sông
đá chìm xuống đất bùn
đá hóa thành sỏi
giữ linh hồn cho lá
Để có dòng sông Seine
chim muôn ca hót từ trăm thế kỷ suối nguồn mây mưa dâng hiến vài ngàn năm
để có dòng sông Seine chia đôi thành phố
biết bao thăng trầm thành bại theo sóng lô nhô, không bao giờ ngơi nghỉ.
Đối ai biết Paris có bao nhiêu tượng?
Đố ai biết sông Seine có bao kẻ chết chìm?
Để có một Paris
biết bao lần Thượng Đế phải suy nghĩ
để có một sông Seine
biết bao lần Thượng Đế phải sửa đổi số phần
Để có một Paris lầu cao hàng hàng lớp lớp dãy ngang dãy dọc đồng hình đồng dạng
duy nhất
lòng sông Seine ghi lại biết bao thảm cảnh
Để có một Paris lộng lẫy tượng thần
lòng sông Seine ghi lại biết bao nghệ sĩ thảm thương cùng tro xương Jeane d’Arc
Để có một Paris, phố xá hoa đèn rực rỡ, lòng sông Seine ghi lại biết bao đen tối
Để có một Paris nổi tiếng trăm năm
lòng sông Seine ghi lại biết bao bước chân qua lại ba mươi bảy chiếc cầu và oan hồn thảm sát thả trôi
Để có một Paris xụp đổ
lòng sông Seine ghi lại biết bao sự tích và đợi chờ:
đố ai biết Paris bao giờ bị tàn phá?
đố ai biết sông Seine bao giờ cạn?
Để có một Paris hôm nay, lòng sông Seine ghi lại biết bao hơi thở
khốn cùng là hơi thở hấp hối hài lòng của Paul Celan dưới đáy sông:
“Ông ấy sống cô đơn trong nhà chỉ chơi với rắn rồi viết…” (1)
Đêm Paris
uống rượu dọc bờ sông
trở về say mòng lúc 2 giờ sáng
lạc quận 5 quận 4 quận 3
đi mãi trong bóng đen và đèn đường
không tìm ra khách sạn
ngang qua điện Louvre
thấy bóng người đội mũ rộng vành
dạng đồ quân nhân thời cũ
chìm trong âm u
tới gần hỏi thăm đường:
– Thưa ông, tôi đi lạc.
– Westin khách sạn gần thôi.
– Làm sao ông biết tôi?
– Theo dõi chuyện trên đời, tôi là chiếc bóng.
– Nhìn ông rất giống một người, Napoléon?
– Chính tôi. Napoléon Bonaparte.
– Chào ông. Lạ lùng quá! Vì sao ông lạc đến đây?
– Mỗi đêm tôi vẫn đứng nơi này xem thử. Thiên hạ mấy ai nhận quen lịch sử. Họ ca tụng tôi vinh dự trong Louvre, nhưng thờ ơ ngoài thiên thu đời sống.
– Ông có công với Pháp nhưng có tội sâu rộng. Người chết vì ông vì giấc mộng đế vương. Lịch sử chẳng qua là xấp giấy tầm thường, buồn vui mỗi ngày chẳng phải phi thường hay sao?
– Cậu nghĩ tôi đáng tội thế nào?
– Nếu tính bằng xác chết, làm sao ông có công lao thật? Nếu tính bằng xác chết, ông là một trong mười sát nhân bậc nhất trên đời.
(Tiếng hát văng vẳng từ sông Seine. Bài Fugue de Mort của Paul Celan. )
Sữa đen lúc rạng đông chúng ta uống buổi hoàng hôn
uống buổi trưa buổi sáng và buổi tối
chúng ta uống và tiếp tục uống
chúng ta đào mộ trên không trung cho người chẳng nằm tù túng.
Ông ấy sống trong nhà chỉ chơi với rắn và viết (1)
– Cậu giống như Paul Celan, rất tự hào việc làm thi sĩ?
– Tôi làm thơ nhưng không như thi sĩ tin thơ. Tôi làm thơ để thí nghiệm bất ngờ: Những suy nghĩ những kinh nghiệm về thơ thật sự. Tôi muốn viết những tình tự trí tuệ. Những bí mật giữa dòng lệ nụ cười. Những cảm xúc giữa đất và trời, giữa hư và thật, giữa men say rượu mạnh và trà Sen no Rikyu (2).
– A, thí nghiệm. Đúng như vậy. Ai đi tìm thiên thu mà không thí nghiệm? Không thực hành, không biết đúng sai. Mỗi trận chiến là mỗi bài khảo hạch tài binh pháp. Thử thách khả năng cao thấp làm người. Xác nhận tự do ý chí hay ý mệnh do trời. Anh hùng can đảm hay tình cờ phản ứng. Mỗi chiến tranh là mỗi sử chứng tài năng. Lãnh tụ bất tử hay hoang mang chết yểu. Tôi thí nghiệm nhiều kiểu chiến tranh, để trí tuệ minh oan cho vô lý mong manh một đời.
– Nói sao ông vẫn có tội giết người. Kết quả đúng hay sai có quá nhiều người chết và nhiều người tiếp tục khổ đau. Còn tôi, đúng hay sai, chỉ bài thơ vô cầu. Hay hoặc dở không mấy ai hơi đâu lưu ý.
– Chứng minh hiện hữu cậu làm thơ đi tìm thẩm mỹ. Chứng minh hiện hữu tôi đánh trận đi tìm chân lý tài năng. Cậu là nghệ sĩ, tôi là quân nhân. Trong ngắn ngủi dấn thân vào đêm tối. Không phải thành bại là niềm tự hối chung thân. Chính là không-dám-làm sẽ muôn thuở ăn năn.
– Nói sao đi nữa, ông vẫn là kẻ sát nhân. Dù thành hay bại vẫn ăn năn tự hối. Giết một sự sống là phạm tội thẫm mỹ. Mỗi con người là thẫm mỹ vẹn toàn một cách riêng.
(Tiếng hát lại vọng lên từ sông Seine)
Sữa đen lúc rạng đông chúng ta uống buổi hoàng hôn
uống buổi trưa buổi sáng và buổi tối
chúng ta uống và tiếp tục uống
chúng ta đào huyệt mộ trên không trung cho người chẳng nằm tù túng.
Ông ấy sống trong nhà chỉ chơi với rắn và viết (1)
– Này cậu thi sĩ, chẳng phải có duyên mới gặp nhau. Hãy tự đốt đời mình như ngọn đuốc soi đen tối mai sau. Bây giờ tôi phải về cõi sầu bí tích. Trời sắp sáng. Cậu đi đến cuối con đường u tịch, rẽ hướng này sẽ thấy khách sạn u minh.
– Còn ông đi về đâu?
– Nơi tôi ở cậu không tới được. Nơi đó là cõi sầu nhân danh bất khả thi.
– Rồi tôi cũng sẽ chết.
– Không giống đâu. Tôi chết với lịch sử. Còn cậu, chỉ chết với thời gian. Thôi giã từ…
(Tiếng hát từ sông Seine nhỏ dần rồi tan vào vắng lặng)
Ông ấy viết rồi bước ra bên ngoài
sao trên trời lấp lánh
ông huýt sáo say mê (1)
3.
Sông Seine mặt nước xanh rêu
xanh đặc không thấy đáy
ngậm biết bao bí mật, biết bao huyền thoại
biết bao điều không ai biết về sau
trôi trên dòng sông đêm
qua những khúc in ánh đèn long lanh như ánh mắt xúc động sắp khóc
qua những khúc tối đen
cảm giác tiếng kêu thầm oán trong im lặng khao khát
phải chăng tiếng ngư nhân từ đáy sông Seine bị Paris giăng lưới không về được biển?
phải chăng tiếng Pariseine trầm uất giữa đời sống bất thường đồng hóa bình thường?
Il était une fois la Seine
il était une fois những nguồn nước trong mát đầu tiên hội ngộ rủ nhau về biển
il était une fois l’amour những tâm hồn lạ lẫm đầu tiên biết yêu đương
il était une fois le malheur từ đó những đau khổ hòa tan trong nước
et une autre fois l’oubli sông rời tháng ngày chôn giấu hư tình
Il était une fois la Seine bây giờ sông Seine mai mốt sông Seine
il était une fois la vie biết gì chăng đời sống? nhớ gì chăng đời sống? (3)
Pariseine!
ngươi là linh hồn thành phố và dòng sông
Pariseine!
ngươi là xung đột giữa Paris đứng và nước Seine chảy
Pariseine!
ngươi là cặn bã thời gian lắng đọng lâu đời hóa ngọc trai
Pariseine!
ngươi là nguyên vẹn một chữ không thể tách rời
Pariseine!
ngươi sẽ được ghi nhớ từ đây
================================
(1) Trích trong bài thơ Fugue de Mort của Paul Celan (1920-1970). Ông là một trong những thi sĩ được tuyển chọn vào hàng thi sĩ thế giới. (The Vintage Book of Contemporary World Poetry by J.D. Mc Clatchy. Và The Poetry of Our World by Jeffery Paine và một số tác giả khác.) Người Romania nhưng sang học ở pháp năm 1938. Trở về quê hương sau thế chiến thứ hai. Trở lại pháp năm 1948 và sống ở đây cho đến ngày ông trầm mình tự vận trong dòng sông Seine. Bài thơ Fugue de Mort được xem là một trong vài bài thơ nặng ký viết về sự thảm sát của Holocaust.
(2) Sen no Rikyu: 1522-1591. Ông dẩn đầu một trường phái trà đạo ở Nhật bản. Cắt bỏ những phức tạp rườm rà, chuyên chú về đơn giản. Dùng những sáng tạo tầm thường biểu dương công phu và phẩm hạnh. Gọi là “Con Đường Trà Đạo”.
(3) Trích La Seine a rencontré Paris, bài thơ của Jacques Prévert được phổ nhạc. Hàng chữ nghiêng không phải là hàng dịch, chỉ là lời tiếp theo của bài thơ Pariseine.
======================================================