THƠ ĐÀO ANH KHA

C_ _…o Anh Kha (ph_i) v… V_ Ng_c Ti_n (tr i),  10-2006 (1)

Ảnh: Nhà thơ Đào Anh Kha (phải) và nhà văn Vũ Ngọc Tiến

Có một nhà thơ không đứng trong Hội Nhà Văn, nói đúng hơn là từ thời Nguyễn Đình Thi đến thời Hữu Thỉnh làm TTK vẫn không được xét vào Hội dù hai người giới thiệu là hai cây bút cỡ bự Tố Hữu & Huy Cận; dù ông đã từng nhận giải thưởng lớn năm 1949 với vở kịch thơ “Phạm Hồng Thái” ở chiến khu Đông Nam Bộ; dù ông đã từng rất nổi tiếng với hai tác phẩm dịch thơ “Khuất Nguyên” (1961), “Hamlet” (1963); dù ông đã từng là thư ký riêng cho ông Lê Duẩn thời 9 năm kháng Pháp; dù ông đã từng… đã từng… Nhưng thật lạ, nhiều nơi trên thế giới biết đến ông với tư cách nhà thơ, sau mới biết đến ông là dịch giả, nhà quốc tế ngữ, nhà tư tưởng và còn lạ hơn, ở tuổi 80 trở đi, ông còn là họa sĩ tài ba theo trường phái siêu thực!… Cố thi sĩ Đào Anh Kha (1923- 2013) lặng lẽ sống, cô đơn sáng tạo trong căn gác xép ở phố Tràng Thi – Hà Nội. Thơ ông từ trẻ đến già đều nhuốm sắc hiện sinh, không viết cho ai cả mà hóa ra là cho tha nhân, cho tất thảy. Hơn 20 năm trước, lúc tôi hoạn nạn, tột cùng đau khổ, tột cùng bi phẫn, ông gọi tôi đến nhà uống rượu tẩy trần, lặng im không nói để rồi lúc tiễn khách ra về đọc tặng hai câu thơ: “Đời ơi người nợ hay ta- Nếu ta chủ nợ thì tha cho người…” Chỉ thế thôi, thơ ông đã cho tôi nghị lực, niềm yêu sống tiếp. Ông có thói quen trước làm thơ bằng tiếng Pháp, sau mới tự mình dịch ngược ra tiếng Việt. Tôi chọn 1 bài tuyên ngôn thơ ông làm ở tuổi tráng niên và hai bài thơ tình làm ở tuổi 85, qua trang Văn Việt dành tặng các văn hữu, thi hữu Ban Vận động Văn đoàn Độc lập cùng thưởng lãm, suy ngẫm…

Vũ Ngọc Tiến

Je suis

Je suis L’oiseau Parole sorti du nid Imagination

donnant au silence méditatif ses ailes

Je suis le ver Parole perforant le fruit-coeur endurci

entrouvrant un canal pour le va-et-vient du sang frais

Je suis la vrillette Parole percant le bois Inanimé

dévorant son écorce pour éplucher L’arbre Insensible

Je suis le pastel Parole pour dessiner les dieux Bien et Mal

aux deux côtés du Temple distinguant L’amour de la haine

Je suis la lune Parole éclairant chaque solitude

emportant la berceuse des vents à travers L’océan des douleurs

Je suis la guitare Parole fredonnant tout bas ses chansons

que toi seule les percoive en toute clarté, ô bien-aimée

Anh là

Anh là con chim Lời nở từ trứng Tưởng tượng

chắp cánh bay cho lặng thầm ý tưởng

Anh là con sâu Lời đục trái tim chai sạn

mở lối thông cho máu thắm đi về

Anh là con mọt Lời khoét gỗ đá Vô tri

ăn tróc vỏ bóc trần cây Vô giác

Anh là bột mầu Lời vẽ ông Thiện ông Ác

trên mỗi cửa Đền phân vế ghét và thương

Anh là mảnh trăng Lời soi bóng lẻ cô đơn

đưa tiếng gió ru hời qua bể khổ

Anh là nguyệt cầm Lời không thôi ngân tiếng khẽ

chỉ mình em nghe rõ bạn tình ơi!

Viendra un jour

Viendra un jour où ce soleil se réduira en crématoire

La terre en cadavre et notre monde en un amas de cendres

Cependant ton âme flottera sans jamais s’évanouir

Alors que je revivrai, pour m’emparer du Créateur

Afin d’édifier une planète toute nouvelle

Où L’aube seule règnera limpide sans la turbidité des nuits

Où l’on ne verra que perles et or, non de la boue noire

Et les hommes ressembleront aux anges, sans aucune ombre de démon

L’herbe et l’oiseau se baigneront dans le ruisseau de jouvence

Les jours et les mois chanteront, nos fleuves et monts n’auront qu’ à rire aux éclats

Et notre couple magnigique, ô ma belle

Nous nous contemplerons sans jamais en apaiser la surprise…

*

Mais hélas, comment vouloir que l’amour ne soit jamais éteint

Qui revivra solitaire ne manquera pas de perdre son paradis

Et à la première minute où nous gou^terons de nouveau à la souffrance

Ces ciel et terre refondus redeviendront les mêmes qu’ hier.

Pour pouvoir aimer encore, il nous faudra rentrer dans le feu

Le coeur couchant sur le brasier, la ferveur dans les marais

Agrippé au cycle des mondes, je reviendrai ici-bas

Pour encore chanter mes vers et te dédier mes rêves…

Rồi một ngày

Rồi một ngày vầng dương kia hoá lò hỏa táng

Đất phơi thây và thế giới – đống tro tàn!

Nhưng hồn em sẽ phảng phất không tan

Anh sống lại, và cướp tài Tạo hóa

Dựng xây nên một hành tinh khác lạ

Trong vắt bình minh chẳng đục bóng đêm

Chỉ có ngọc vàng, không thấy bùn đen

Người tựa thiên tiên, vắng loài quỷ ác

Cây cỏ chim muông tắm dòng hoan lạc

Năm tháng ca vang và sông núi reo cười

Hai đứa mình thì lạ lắm, em ơi

Ta đắm nhìn nhau mãi còn kinh ngạc…

*

Nhưng bỗng chốc, chao ôi, tình yêu vụt tắt

Những kẻ bơ vơ sẽ lạc mất Thiên đường

Và phút đầu tiên người trở lại đau thương

Trời đất mới lại hoàn toàn như cũ!

Nếu còn muốn yêu phải về trong lửa

Tim trên lò than, óc giữa bãi lầy

Anh bám luân hồi lại sẽ trở về đây

Để hát lời thơ, tặng em nghìn mơ ước…

À quoi bon la question

À quoi bon la question sur l’â^ge du poète

Certes très vieux il est, car plus d’une viellesse

surpasseraient en vain les années accumulées dans sa tête.

Mais tu t’es étonnée de la fraicheur de ses vers –

Certes très jeune il est, car des adolescences rassemblées

ne sauraient avec lui rivaliser des battements de coeur

Nai^tre dans la nuit des temps

Vivre jusqu’ aux lendemains

Comme le ciel la terre, comme l’Amour

il n’en a point d’a^ge

*

En outre, il reste toujours enfant

tant que son chant suit de près tes mots et ton rire.

Hỏi chi em

Hỏi chi em tuổi tác gã nhà thơ

Hắn già lắm: Đôi lão thành cộng thử

Khó cao hơn tuổi hắn chất trong đầu.

Em khen rằng thơ viết trẻ làm sao –

Hắn trẻ lắm: Dăm thành niên góp lại

Trái tim nồng, khó sánh kịp xôn xao.

Sinh tự ngàn xưa

Sống đến nghìn sau

Như trời đất, tình yêu

Hắn không hề có tuổi

*

Mà hơn nữa, hắn mãi còn thơ dại

Hát ca theo tiếng nói tiếng cười em.

Comments are closed.