Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Những cảnh tang thương do bão lũ gây nên ở Hà Nội và nhiều tỉnh thành hôm qua khiến tôi ngậm ngùi nhớ lại một lá thư của nhà Thái học Cà Chung hơn chục năm trước, khi anh là cán bộ Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh thay mặt cơ quan viết một lá thư dài thống thiết mời tôi lên làm một phim tài liệu phóng sự về việc phá rừng tràn lan đến độ báo động, đặc biệt là rừng đầu nguồn có nguy cơ bị hủy hoại hoàn toàn. Anh kết thúc bức thư: “Bạn hãy lên ngay nhé, cùng giúp người Thái chúng tôi biết yêu rừng trở lại, hiểu sự cần thiết phải giữ rừng, phải khôi phục rừng đầu nguồn!…”.
Lá thư đó, cũng vào những ngày này năm ngoái, tôi đã nhớ lại như in hằn vết bỏng trong tâm trí – giữa ánh sáng chan hòa lộng lẫy của Nhà Hát Đó Tp. Nha Trang đón hàng trăm nghệ sĩ điện ảnh – truyền hình toàn quốc về dự trao giải Cánh Diều Vàng của Hội Điện ảnh Việt Nam, giữa lúc các tỉnh miền núi phía Bắc bị lũ lụt hoành hành, có những bản bị vùi lấp hoàn toàn trong đất đá, có cả một lớp học bị chôn vùi không một em bé dân tộc nào còn sống sót…
Với nội dung lá thư trên, cộng với kỷ niệm của nhiều lần lên miền núi làm tài liệu phóng sự, ngay trong đêm đó, giữa thành phố biển Du lịch của thành phố Điện ảnh tương lai, tôi đã viết truyện ngắn “Khăn Piêu dính máu”, rồi từ truyện này phát triển thành một kịch bản điện ảnh cho phim truyện dài 120 phút mang tên: “Cơn lũ cuối mùa”, như một tiếng nói cảnh tỉnh mạnh mẽ; hy vọng nếu bộ phim được thực hiện, sẽ góp phần tích cực vào hồi chuông báo động của toàn xã hội đã gióng lên từ hàng chục năm trước – về nạn phá Rừng và phá Núi sẽ dẫn tới hệ quả nhỡn tiền và đau đớn – lũ ống lũ quét chẳng đợi một cơn bão nào cũng sẽ hoành hành ngày một hung dữ cả ở vùng cao lẫn vùng đồng bằng, các thành thị…
Tình trạng mưa lũ, sạt lở đất ở mức độ kinh hoàng tại các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta vào đầu Quý 4 năm 2024 có thể nói là thảm họa thiên tai đặc biệt nhất của thiên niên kỷ này mà hàng chục năm trước đó chưa từng xuất hiện: Đó là việc ngập lũ trên diện rộng ở nhiều bản, làng, xã, huyện, thị của vùng rừng núi; đã có không ít bản làng, cụm dân cư bị “xóa sổ”, có cả lớp học bị chôn vùi bởi các loại lũ quét, lũ ống và sạt lở núi… Người dân vùng thiên tai hết sức mệt mỏi khi chống chọi với sinh – tử, người thân gặp nạn, không ít gia đình phút chốc hóa bần cùng; biết bao gia đình li tán, thậm chí có bản không còn một ai sống sót, môi trường vùng lũ bị ô nhiễm nặng nề… Trong cảnh sức tàn, lực kiệt, người dân vùng thiên tai các tỉnh miền núi phía Bắc đã “bấu víu”, trông cậy ở sự sẻ chia của cộng đồng cả nước về nhân vật lực, tiền bạc…, trong đó có thông tin trực tiếp kịp thời của các phóng viên báo chí và truyền hình tới toàn dân và các giới các cấp có trách nhiệm để việc triển khai công tác cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả lũ lụt có thêm hiệu quả…
Nhưng, trong và sau những cơn lũ lụt thế kỷ đó, đã nảy sinh một nhu cầu bức thiết, nóng bỏng của xã hội đặt trên vai người làm công tác truyền thông và văn học nghệ thuật cả nước, đó là: Nguyên nhân sâu xa gây ra thảm họa lũ lụt khủng khiếp vừa diễn ra ở miền núi là gì? Từ vài chục năm trước đây, đã có một số bài báo, công trình nghiên cứu, tác phẩm văn học nghệ thuật lên tiếng cảnh báo nguy cơ tai hại của việc giết chết rừng đầu nguồn, tàn sát rừng nguyên sinh, phá núi một cách vô tội vạ dẫn tới lũ lụt ngày một tàn khốc ở miền núi và miền xuôi. Bản thân tác giả kịch bản cũng đã thực hiện hai bộ phim tài liệu khoa học theo đề nghị của Sở Khoa học và Công nghệ một tỉnh miền núi phía Bắc về Rừng đầu nguồn, Rừng phòng hộ, Rừng thiêng của đồng bào dân tộc, góp tiếng nói vào sự cảnh báo khẩn cấp nói trên. Tác giả có điều kiện hiểu vai trò của Rừng – nhất là Rừng đầu nguồn trong đời sống canh tác và Luật tục tích cực của đồng bào dân tộc ít người về bảo vệ Rừng; cũng đã có hàng loạt bài viết cùng các nhà khoa học và nhà hoạt động văn hóa kêu cứu, như: “Những vết thương đau đớn của thiên nhiên” (https://vanviet.info/van-de-hom-nay/nhung-vet-thuong-dau-don-cua-thin-nhin/), “Lời kêu cứu của thiên nhiên Việt Nam” (https://vanviet.info/van-de-hom-nay/loi-ku-cuu-cua-thin-nhin-viet-nam/ ), “Cầu xin linh khí Đất Võ Trời Văn Bình Định hãy chặn đứng âm mưu hủy hoại thiên nhiên!” (https://vanviet.info/van-de-hom-nay/cau-xin-linh-kh-dat-v-troi-van-bnh-dinh-hy-chan-dung-m-muu-huy-hoai-thin-nhin/), Thiên đường hay địa ngục (http://vanviet.info/van/thin-duong-hay-dia-nguc/), v.v.
Song, bao nỗ lực của các nhà khoa học, nhà văn hóa, các cấp chính quyền và những người dân hiểu biết sau nhiều năm giữ rừng dường đã trôi sông trôi biển hết, bởi nạn phá rừng ngày một tràn lan dữ dội không thể kiểm soát nổi! Trong kịch bản, tác giả đã sử dụng gần như nguyên văn một bức thư của một nhà khoa học người Thái gửi tác giả – và đây chính là động lực chính hình thành kịch bản, là đường dây kịch tính ngầm của kịch bản: “Mấy năm qua, người dân vùng này đã phá rừng ngày một táo tợn để trồng lúa trồng ngô… Mới đầu, một số người trẻ tuổi không biết sợ thần linh là gì đã dám xâm phạm rừng thiêng đầu nguồn. Thấy việc phá rừng không bị sao, nhiều người khác cũng lao vào phát nương làm rẫy. Chỉ vài năm sau, rừng thiêng đã bị phá gần hết trước những đám đông được bảo kê mỗi lúc một cuồng dại tìm kiếm cái ăn từ rừng. Những người già cố ngăn cản con cháu nhưng bất lực, họ đành báo trước tai họa tất sẽ ập đến, bởi thần linh trừng phạt… Thế rồi Suối Tông bỗng nhiên bị cạn kiệt về mùa khô, và lũ quét lũ ống xuất hiện dữ dằn vào mùa mưa. Lũ lụt và sạt lở kinh khủng chưa từng thấy đang diễn ra: hàng chục bản nước ngập tận nóc nhà sàn, mấy bản bị lũ cuốn sạch, và cả một bản bị vùi lấp trong đất đá… Hàng trăm người màn trời chiếu đất, đang sống dở chết dở…”.
Còn đây là những tâm sự của một cô giáo người Thái về rừng thiêng quê hương cô mà tác giả cũng đã chắt lọc để đưa vào kịch bản: “Anh à, người Thái từ xưa cho rằng rừng thiêng là nơi ngự trị của thần linh… Có niềm tin: những con thú bị thương trong một cuộc đi săn khi chạy trốn vào rừng thiêng sẽ được thần linh bảo vệ, người đi săn thấy con thú đã chạy vào đó thì không dám truy đuổi nữa… Bao đời rồi, người Thái vẫn sống bình yên như vậy và truyền nhau lưu giữ những điều cấm kỵ, để họ còn có được một cánh rừng già hiếm hoi, quý giá. Luật tục Thái quy định: rừng phòng hộ ở đầu nguồn nước tuyệt đối cấm khai thác; rừng dành cho việc khai thác tre, gỗ để dựng nhà, phục vụ cho các nhu cầu của cuộc sống thì tuyệt đối không được chặt đốt làm nương… Mỗi bản cũng đều có những cánh rừng cấm, đó là rừng đầu nguồn, rừng ma… Các bản xưa còn có những cánh rừng nguyên sinh dành cho dân bản săn thú, không ai được vào đẵn cây đốt cỏ. Những khu rừng “đon khuông” được coi là rừng của thần linh trú ngụ, thì tuyệt đối không được chặt phá dù chỉ mảy may, nếu xâm phạm thì sẽ gặp hậu quả khôn lường…”.
Như vậy, ý tưởng và đề tài của kịch bản điện ảnh này đã hình thành giữa bao hình ảnh và tin tức tang thương của bão lũ tháng 09.2024 tại các tỉnh Sơn La, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, v.v., giữa nước mắt xót thương cho cả một bản người dân tộc bị đất đá vùi lấp và cả một lớp học phổ thông cơ sở bị lũ cuốn trôi hết, giữa những ghi chép ngổn ngang và ấn tượng sâu nặng ám ảnh sau hàng chục lần đi điền dã, quay phim tư liệu về Rừng miền núi Tây Bắc qua mấy thời kỳ…
Thông qua số phận các nhân vật gắn bó ít nhiều với thân phận của Rừng, kịch bản mong gióng lên hồi chuông SOS về nạn phá Rừng đầu nguồn và các loại Rừng do những kẻ kinh doanh bất lương cầm đầu đang tàn phá thiên nhiên, đồng thời làm tha hóa lũng đoạn đạo đức xã hội – nhất là tầng lớp thanh thiếu niên ở một vùng miền núi còn nhiều gian khổ… Kịch bản đã cố gắng xây dựng lên cho bộ phim tương lai hình ảnh những con người trung thực có tấm lòng yêu rừng và biết bảo vệ rừng – cũng đồng thời bảo vệ nhân phẩm của bạn bè, người thân, những người dân nghèo lương thiện – từ những nguyên mẫu đời sống hôm nay ở trường học, bệnh viện, cơ quan truyền thông, công sở… Thông qua tình bạn, tình yêu, tình đồng bào, kịch bản mong muốn tôn vinh một cách xứng đáng lòng nhân hậu, tình tương thân tương ái của các trí thức và người dân trong hoạn nạn…
Bộ phim tương lai này sẽ là một sự ủng hộ có ý nghĩa đối với Chính sách đầu tư bảo vệ và phát triển rừng của Chính phủ (theo Điều 94 Luật Lâm nghiệp 2017: Bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và Bảo vệ và cứu hộ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm…; và Quyết định số 38/2016/QĐ-TTg về việc ban hành một số chính sách bảo vệ, phát triển rừng…), bằng những hình tượng nhân vật tích cực của thời đại, trong giai đoạn Đất nước đang mọi cách vươn lên hòa nhập Khu vực và Thế giới…
Tóm tắt truyện phim:
Nhà báo, nhà làm phim Yên Thế được Sở Khoa học và Công nghệ một tỉnh miền núi mời lên làm phim về Rừng đầu nguồn, thông qua bạn anh là nhà Thái học Lò Trung, cán bộ Sở này. Tại buổi quay đầu tiên, Yên Thế đã làm quen với Cầm Thị Lay, cô giáo phổ thông cơ sở thị xã, khi cô đưa học trò nhỏ tham quan Bãi Tông và suối thiêng, nơi dẫn tới rừng đầu nguồn. Lay cũng là người nghiên cứu văn hóa dân gian Thái, hiểu rừng và yêu rừng… Từ niềm quý trọng, Lay đã thầm yêu thương Thế. Đến khi Thế mang phim đã hoàn thành lên cho Sở Khoa học và Công nghệ, giữa anh và Lay đã nảy sinh một tình yêu chân thật say đắm. Song Lay đã không vượt qua được Luật tục Thái là “Yêu trộm”, tuy cô đã sống ly thân với người chồng vũ phu nghiện rượu, và hai người đành gạt nước mắt chia tay bên suối Tông…
Năm năm sau, trong đợt lũ rừng chưa từng có tàn phá vùng núi này, Yên Thế lại được Lò Trung và Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh mời lên gấp để làm phim về việc phá rừng đầu nguồn. Thế đã từ bỏ một hợp đồng phim đang làm dở về Du lịch miền Trung trước lời kêu cứu của bạn anh về thảm họa thiên nhiên Tây Bắc: “Bạn tôi ơi, đó là sự trừng phạt của thiên nhiên, là hậu quả của những người vô thần, coi thường quy luật và sức mạnh của tự nhiên. Họ cho rằng không có thần thánh hay lực lượng siêu nhân nào cả. Đúng, thần thánh thì không có, nhưng sức mạnh của tự nhiên thì còn hơn cả thần thánh nữa! Tiếc thay, nhiều cánh rừng đã bị “giải thiêng”. Nhiều luật tục, quy định cũ đầy tính nhân văn và khoa học đã bị xóa bỏ không thương tiếc, vì cho rằng những gì thuộc về luật tục đều là lạc hậu… Mẹ thiên nhiên đã trả thù rồi đây…”.
Sau khi cùng Lò Trung đến vùng lũ ngập tang thương đầu tiên để tác nghiệp, trở về Thị xã, Thế gặp lại Lay, và tận mắt chứng kiến sự thay đổi của người con gái anh yêu tha thiết: Một cô gái vốn yêu rừng khi rơi vào hoàn cảnh bơ vơ túng quẫn đã buộc phải sống cảnh “già nhân ngãi non vợ chồng” với Lê Trường – một chủ doanh nghiệp khai thác chế biến xuất khẩu gỗ thực chất là phá rừng – việc phá rừng được bảo kê bởi một số lãnh đạo tha hóa của địa phương. Lê Trường đã mở Nhà hàng đặc sản, Vũ trường, tổ chức đào tạo Hoa Hậu phố núi và năng khiếu nghệ thuật nhằm đối tượng chính là những cô gái nhẹ dạ… Và điều khiến Yên Thế và Lò Trung lo sợ hơn cả là Lay đã chớm bước vào con đường phạm tội hủy hoại sự trinh trắng của các cô gái… Hai người đã mở một “chiến dịch” nhằm cứu Lay, bằng cách cùng Lay tìm đến nhà tất cả các cô gái trong bản danh sách mà Lay đã sưu tầm, nhằm cảnh báo cho các gia đình về hiểm họa đang chờ đón con cháu họ…
Trước tai nạn khủng khiếp của lũ rừng trên quê hương mình, và sau hành trình tim đến các “nạn nhân tương lai” do chính bản thân vô tình tạo ra, Lay đã chợt tỉnh ngộ và ân hận sâu sắc. Cô lặng lẽ làm đơn xin chuyển trường tới vùng sâu vùng xa cách thị xã hai trăm cây số, trả lại toàn bộ nhà cửa đồ đạc do Lê Trường cung phụng, mang hai con nhỏ lên một xã bị lũ nặng nhất là Chiềng Cơi nhận công tác.
Yên Thế và Lò Trung, trong thời kỳ quay tư liệu cho phim, cũng đồng thời vất vả đi tìm dấu vết của Lay. Thậm chí Thế và Lò Trung đã bị giám đốc Lê Trường vu khống, xuyên tạc tới cơ quan An ninh khi đánh hơi được mục đích thật sự của hai anh… Nhưng cuối cùng, nhờ cơ quan pháp luật và các đồng nghiệp của Lay, hai anh cũng hoàn thành được nhiệm vụ, và tìm được Lay tại một ngôi nhà sàn đổ nát sau lũ tại Chiềng Cơi… Còn Thế và Lay đã tìm lại được tình yêu thật sự của đời mình, trong cảm xúc dân gian yêu Rừng, yêu Thiên nhiên: Cơn lũ đầu mùa là anh / Cơn lũ cuối mùa là em (Dân ca Thái Tây Bắc).
Kịch bản “Cơn lũ cuối mùa” thấm đầy nước mắt và máu của biết bao số phận người dân nghèo miền núi và miền xuôi đã và đang khốn khổ đến tột cùng bởi thảm họa lũ lụt, và ngay lúc này đây đang có hàng ngàn gia đình sống trong cảnh “màn trời chiếu đất” thương tâm… Không biết đến bao giờ mới có một nhà sản xuất phim đồng cảm với nỗi khổ đau của số đông dân chúng đang chật vật mưu sinh giữa thảm họa thiên tai?…
Đạo diễn MA NAT