Đến sự hiện đại hóa thơ Việt từ “trường phái trường ca Việt” (kỳ 3)

Đỗ Quyên

DANH SÁCH SỐ 4.4 (theo phân loại Nội dung[28] / Đề tài – Cảm hứng[29])

Trường ca Chiến tranh:

Khương Hữu Dụng, Trần Huyền Trân, Nguyên Hồng, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Xuân Hoàng, Tạ Hữu Yên, Viễn Phương, Phan Vũ, Giang Nam, Lưu Trùng Dương, Ngô Kha, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Thi Hoàng, Anh Ngọc, Hữu Thỉnh, Trần Nhương, Vương Trọng, Ngọc Bái, Phùng Khắc Bắc, Trần Vũ Mai, Hồ Bá Thâm, Thanh Quế, Trần Nhuận Minh, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Trọng Tạo, Từ Nguyên Tĩnh, Nguyễn Đức Mậu, Y Phương, Nguyễn Thái Sơn, Trần Thị Thắng, Văn Lê, Lê Thị Mây, Đỗ Trung Lai, Mạnh Lê, Trần Anh Thái, Phạm Sỹ Sáu, Nguyễn Hữu Quý, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Anh Nông, Nguyễn Ngọc Phú; Nguyễn Minh Khang, Tô Nhuần, v.v.

Trường ca Hậu chiến:

Thu Bồn, Viên Linh, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Trần Vàng Sao, Cao Đông Khánh, Anh Ngọc, Nguyễn Hữu Nhật, Thanh Thảo, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Hoàng Trần Cương, Vũ Xuân Độ, Nguyễn Thụy Kha, Văn Lê, Trần Anh Thái, Đỗ Trung Quân, Văn Công Hùng, v.v.

Trường ca Thời đại – Đất nước – Sự kiện:

Trần Tuấn Khải, Khương Hữu Dụng, Lưu Trọng Lư, Bàng Bá Lân, Trần Huyền Trân, Huyền Kiêu, Huy Thông, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Yến Lan, Hữu Loan, Nguyễn Bính, Minh Tuyền, Huy Cận, Nguyễn Viết Lãm, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Văn Cao, Đỗ Xuân Oanh, Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Phan Vũ, Tạ Hữu Yên, Hoàng Cầm, Hoàng Yến, Trinh Đường, Đinh Hùng, Tế Hanh, Nông Quốc Chấn, Nguyên Hồ, Vũ Anh Khanh, Viễn Phương, Việt Phương, Tất Vinh, Giang Nam, Lưu Trùng Dương, Phùng Quán, Vân Long, Nguyên Sa, Nguyễn Bùi Vợi, Ngô Kha, Thu Bồn, Tạ Vũ, Thanh Tùng, Duyên Anh, Thanh Tâm Tuyền, Võ Văn Trực, Ngô Văn Phú, Viên Linh, Tô Thùy Yên, Lữ Huy Nguyên, Thái Giang, Kiệt Tấn, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Thanh Hiện, Mã Giang Lân, Duy Phi, Cao Đông Khánh, Phạm Tiến Duật, Trần Vàng Sao, Hoài Quang Phương, Trần Văn Nam, Anh Vũ, Du Tử Lê, Hữu Thỉnh, Vương Trọng, Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm, Thi Hoàng, Ngọc Bái, Trần Vũ Mai, Lê Văn Ngăn, Anh Ngọc, Trần Quốc Minh, Trần Nhuận Minh, Lê Huy Quang, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Trọng Tạo, Kim Chuông, Hồ Bá Thâm, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Nguyễn Thái Sơn, Y Phương, Hoàng Trần Cương, Nguyễn Thụy Kha, Lê Thị Mây, Đỗ Trung Lai, Đỗ Minh Tuấn, Hoàng Quý, Nguyễn Anh Tuấn, Lê Quý Anh, Nguyễn Đình Chiến, Thái Hải, Vĩnh Quang Lê, Thế Dũng, Trần Anh Thái, Mai Văn Phấn, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Hữu Quý, Bùi Chí Vinh, Vũ Xuân Tửu, Hữu Đạt, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Quang Thiều, Inrasara, Văn Công Hùng, Lê Quang Sinh, Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Linh Khiếu, Nguyễn Thanh Mừng, Lê Anh Dũng, Phan Hoàng, Trịnh Sơn, v.v.

Trường ca Lịch sử dân tộc – nhân loại (Sử thi hiện đại):

Nguyễn Ái Quốc, Huy Thông, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Minh Tuyền, Trinh Đường, Đào Anh Kha, Trần Tuấn Kiệt, Kiệt Tấn, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Thanh Hiện, Bùi Chí Vinh, Inrasara, Mạnh Lê, Nguyễn Hưng Hải, Tam Lệ; Hồ Đắc Duy, Phạm Văn Sau, Ngọc Thiên Hoa, Nguyễn Thị Lâm Hảo, Nguyễn Khánh Toàn; v.v.

Trường ca Thế sự – Đời thường – Tâm lý:

Vân Đài, Thái Can, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Đặng Đình Hưng, Nghiêm Xuân Hồng, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Anh Tuấn, Ngô Kha, Thanh Tâm Tuyền, Thế Phong, Tô Thùy Yên, Nguyễn Đăng Thường, Trần Vàng Sao, Nhã Ca, Dung Nham, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Thanh Hiện, Nguyễn Nguyên Bảy, Phạm Công Thiện, Cao Đông Khánh, Du Tử Lê, Xuân Quỳnh, Nguyễn Xuân Thiệp, Thi Hoàng, Nh. Tay Ngàn, Trần Nhuận Minh, Đoàn Huy Giao, Nguyễn Hiếu, Thanh Thảo, Hoàng Trần Cương, Lý Phương Liên, Trần Nghi Hoàng, Huệ Thu, Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Lương Vỵ, Nguyễn Minh Khiêm, Ngu Yên, Đỗ Minh Tuấn, Phạm Công Trứ, Vĩnh Quang Lê, Đỗ Kh., Vũ Xuân Tửu, Bùi Chí Vinh, Nguyễn Thị Thanh Bình, Đỗ Quyên, Nguyễn Hoài Phương, Nguyễn Hoàng Đức, Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Linh Khiếu, Dương Thuấn, Lê Minh Quốc, Dương Kiều Minh, Đặng Thân, Phan Nhiên Hạo, Lê Ngân Hằng, Lê Vĩnh Tài, Phan Trung Thành, Lê Nghĩa Quang Tuấn, Nguyễn Hoàng Anh Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Thạch Trung Tuệ Nguyên, Trịnh Sơn, Lưu Mêlan, v.v.

Trường ca Nhân vật – Anh hùng – Lãnh tụ (Trường ca Anh hùng):

Vân Đài, Thanh Tịnh, Đoàn Văn Cừ, Huyền Kiêu, Huy Thông, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Nhược Pháp, Tố Hữu, Hoàng Cầm, Anh Thơ, Lê Đạt, Xuân Hoàng, Viễn Phương, Giang Nam, Nguyên Hồ, Phùng Quán, Nguyễn Bùi Vợi, Thu Bồn, Võ Văn Trực, Ngô Văn Phú, Lê Anh Xuân, Hoài Quang Phương, Du Tử Lê, Hoàng Bình Trọng, Kiều Văn, Điền Ngọc Phách, Trần Vũ Mai, Lê Huy Quang, Thanh Thảo, Nguyễn Khắc Phục, Hồ Bá Thâm, Lê Thị Mây, Trần Thị Thắng, Nguyễn Đình Chiến, Đỗ Minh Tuấn, Thái Viễn Phương, Vĩnh Quang Lê, Thế Dũng, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Anh Nông, Nguyễn Hưng Hải, Đặng Thân, Trịnh Sơn, v.v.

Trường ca Vùng đất – Biển đảo – Thiên nhiên:

Yến Lan, Tố Hữu, Hoàng Cầm, Vân Long, Thế Mạc, Thu Bồn, Viên Linh, Nguyễn Vũ Tiềm, Lữ Huy Nguyên, Nguyễn Thanh Hiện, Hoài Quang Phương, Duy Phi, Phạm Công Thiện, Du Tử Lê, Hữu Thỉnh, Nguyễn Hữu Nhật, Trần Nhương, Anh Vũ, Anh Ngọc, Trần Quốc Minh, Đặng Tiến Huy, Lê Huy Quang, Vương Trọng, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Hữu Viện, Phan Quế, Nguyễn Trọng Tạo, Trung Trung Đỉnh, Từ Nguyên Tĩnh, Kim Chuông, Hồ Bá Thâm, Y Phương, Vũ Xuân Độ, Mai Trinh Đỗ Thị (cùng Nguyễn Nhã), Văn Lê, Lê Huy Mậu, Nguyễn Việt Chiến, Thái Hải, Nguyễn Minh Khiêm, Vũ Xuân Tửu, Mai Văn Phấn, Inrasara, Nguyễn Hữu Quý, Phạm Sỹ Sáu, Nguyễn Trọng Văn, Dương Thuấn, Văn Công Hùng, Lê Quang Sinh, Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Linh Khiếu, Dương Kiều Minh, Nguyễn Thanh Mừng, Lê Anh Dũng, Đinh Thị Như Thúy, Thạch Trung Tuệ Nguyên, v.v.

Trường ca Văn hóa – Giáo huấn – Tâm linh:

Khương Hữu Dụng, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Trần Tuấn Kiệt, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Vũ Tiềm, Hồ Bá Thâm, Nguyễn Thanh Hiện, Trần Nhuận Minh, Ngu Yên, Nguyễn Linh Khiếu, Đặng Thân, Tam Lệ, Nguyễn Hữu Hồng Minh; Ngọc Thiên Hoa, v.v.

DANH SÁCH SỐ 4.5 (theo phân loại Dấu ấn – Ảnh hưởng)

Ảnh hưởng thời cuộc – xã hội:

Nguyễn Ái Quốc, Trần Tuấn Khải, Hữu Loan, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Trần Dần, Tô Thùy Yên, Nguyễn Khoa Điềm, Ngô Kha, Du Tử Lê.

Ảnh hưởng nghiên cứu – học thuật:

Tố Hữu, Thu Bồn, Thanh Thảo.

Ảnh hưởng cơ chế – truyền thông: Tố Hữu.

Ảnh hưởng sau cột-mốc-khoảng-1960 trước 1975: Thu Bồn.

Ảnh hưởng sau 1975: Hữu Thỉnh.

Ảnh hưởng sau Đổi mới 1986: Thanh Thảo.

Ảnh hưởng sau hậu Đổi mới: Trần Anh Thái.

Dấu ấn đa thể tài:

Chế Lan Viên (14), Ngô Kha, Nguyễn Thanh Hiện, Trần Nhuận Minh, Thanh Thảo, Ngu Yên.

Dấu ấn cải cách thể loại:

Đặng Đình Hưng, Trần Dần.

Dấu ấn phong cách – ngôn ngữ:

Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Trần Dần, Cao Đông Khánh, Ngô Kha, Thi Hoàng.

Dấu ấn trường phái thơ: Minh Tuyền[30] (Thi chủ/đại biểu của trường phái thơ triết học Việt Nam thời Tiền chiến).

Dấu ấn lối viết lạ:

Hữu Đạt, Tam Lệ.

Dấu ấn quốc tế: Chế Lan Viên.

Dấu ấn dung lượng một trường ca hiện đại: Nguyễn Linh Khiếu.

Dấu ấn số lượng tác phẩm:

Tố Hữu (12), Chế Lan Viên (28), Hoàng Cầm (10), Thu Bồn (13), Ngô Kha (9), Tô Thùy Yên (10), Nguyễn Thanh Hiện (15), Trần Vàng Sao (10), Thanh Thảo (17), Hoàng Trần Cương (9), Nguyễn Thụy Kha (9), Hồ Bá Thâm (14), Nguyễn Minh Khiêm (13), Ngu Yên (20), Nguyễn Thị Thanh Bình (10), Đỗ Quyên (22), Nguyễn Quang Thiều (14), Dương Kiều Minh (11), Lê Vĩnh Tài (26), Lê Ngân Hằng (15), Nguyễn Thế Hoàng Linh (10), Trịnh Sơn (10).

▪ Dấu ấn chuyên tâm:

Đỗ Quyên, Lê Vĩnh Tài.

Trong Danh sách số 1 đã ghi chú tên các tác giả nữ và tác giả ở ngoài nước.[31]

Tác giả nữ: Tổng số khoảng 33.

Tác giả ở ngoài nước: Tổng số khoảng 54.

Tác giả ở miền Nam trước 1975: (tổng số khoảng 30)

Trần Tuấn Khải, Vũ Hoàng Chương, Nghiêm Xuân Hồng, Bích Khê, Đinh Hùng, Hoàng Anh Tuấn, Thế Phong, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Duyên Anh, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Viên Linh, Đỗ Quý Toàn, Nhã Ca, Nguyễn Đăng Thường, Trần Tuấn Kiệt, Kiệt Tấn, Nguyễn Thanh Hiện, Trần Văn Nam, Cao Đông Khánh, Phạm Công Thiện, Dung Nham, Nguyễn Xuân Thiệp, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Du Tử Lê, Nh. Tay Ngàn, Hoàng Ngọc Tuấn, Võ Chân Cửu, v.v.

DANH SÁCH SỐ 5 (theo phân loại tác giả phê bình – nghiên cứu)

Tác giả thảo luận – phê bình – nghiên cứu – lý luận:

Hoài Thanh, Phạm Huy Thông, Xuân Diệu, Nguyễn Viết Lãm, Vũ Đức Phúc, Bùi Văn Nguyên, Lê Đình Kỵ, Phong Lan, Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Bao, Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang, Thu Bồn, Phạm Ngọc Cảnh, Yến Nhi, Trần Đình Sử, Từ Sơn, Lê Lưu Oanh, Vũ Văn Sỹ, Hà Quảng, Mã Giang Lân, Vũ Tuấn Anh, Thiếu Mai, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Vương Trọng, Hồng Diệu, Ngô Thế Oanh, Anh Ngọc, Mai Hương, Lại Nguyên Ân, Trần Nhuận Minh, Dục Tú, Tôn Phương Lan, Vũ Duy Thông, Thanh Thảo, Nguyễn Tiến Hải, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đức Thiện, Nguyễn Văn Dân, Bích Thu, Lê Văn Khoa, Khuất Bình Nguyên, Phạm Quang Trung, Lý Hoài Thu, Phạm Quốc Ca, Nguyễn Đức Tùng, Trần Anh Thái, Lê Minh Quốc, Trương Đăng Dung, Đỗ Quyên, Trần Ngọc Vương, Nguyễn Hữu Quý, Inrasara, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hòa, Văn Giá, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Anh Nông/ Kim Diệu Hương, Đà Linh, Nguyễn Hưng Hải, Lưu Khánh Thơ, Chu Văn Sơn, Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Trọng Khơi, Trần Thị Minh Hiền, Phạm Thuận Thành, Nguyễn Thị Liên Tâm, Linh Nga Niê Kdăm, Mai Bá Ấn, Đặng Thân, Trần Thiện Khanh, Nguyễn Thanh Tuấn, Đỗ Thu Thủy, Diêu Lan Phương, Hỏa Diệu Thúy, Nguyễn Thanh Tâm, Đỗ Thị Thu Huyền, Đoàn Minh Tâm, Đoàn Ánh Dương, Bùi Thị Minh Ngọc, Hà Thị Liên; Phạm Văn Sỹ, Hồi Thanh, Đào Thị Bình, Nguyễn Xuân Cổn, Nguyễn Hồng Nhung, v.v.

Tác giả luận án tiến sĩ: Võ Quang Nhơn, Nguyễn Thị Liên Tâm, Mai Bá Ấn, Diêu Thị Lan Phương, v.v.

IV. Tạm kết

Trường-phái-trường-ca-Việt-Nam là đặc sắc và Việt tính!

Đó đã không là một tập hợp có chủ định, có đường hướng của nhóm các thi sĩ chung phương pháp, quan niệm theo một nhóm-phái thông thường. Mà là phản ứng dây chuyền sáng tạo đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu có ý thức của từng nghệ sĩ – dù ở bên các lằn ranh chính trị và thời thế khác nhau, thậm chí đối địch nhau – hòa cùng cảm xúc tráng ca của đất nước và sử thi của dân tộc trong một thời đại bi hùng của nhân loại nửa cuối thế kỷ XX.

Qua thập niên đầu thế kỷ XXI, con sông trường ca Việt cũng trở mình về hướng toàn cầu theo tâm thức chung của văn học Việt Nam và thế giới, từ thể tài, cấu trúc đến giọng điệu, ngôn ngữ, dù không còn tính xung kích của một hiện tượng văn học trong độ nóng bỏng thời cuộc chiến tranh và hậu chiến. Mà quả quyết trở về như một rẽ nhánh văn chương bình thường trong một kỷ nguyên không lửa đạn đầy sự khác thường.

Dùng cách nói của văn sĩ Monterroso[32], chúng ta – những độc giả và tác giả trường ca Việt Nam – dường như thường ở tâm trạng: “Thức dậy, (con khủng long) trường ca vẫn còn đó!”

Thúc đẩy các khuynh hướng, trào lưu thơ Việt đương đại chính là cách đúng nhất và nhanh nhất trong khi hiện đại hóa một dân tộc thi sĩ, một đất nước thơ, một nền thi ca giàu bản sắc hướng ra nhân loại.

Vì một lưu vực thi ca Việt trên cơ sở của lý luận, của phương pháp, trong đó có dòng trường ca Việt!

Trễ nhưng tới lúc, chúng ta không thể treo mãi vấn đề hiện-tượng-trường-ca-Việt-Nam giống một “công án thiền”, như nêu ở mở bài. Thiết thực và tha thiết, dù khó tránh sai sót, chúng tôi muốn gửi tới Hội thảo những điều phân tích và minh họa nói trên. Cùng một lời chót, làm đích của tham luận: Cần có một hội thảo khoa học quốc gia về Trường ca Việt Nam, như là lần thứ hai, nếu tính từ hội nghị đầu tiên đã 33 năm qua? *)

Canada & Việt Nam

1/12/2009; 7/7/2010; 20/3/2016 (cập nhật 26/4/2016)

Đỗ Quyên

——-*——-

*) Đây là bản toàn văn tham luận Hội thảo “Thế hệ nhà văn sau 1975”, Đại học Văn Hóa Hà Nội 28/4/2016. Trong tham luận này nhiều phần từ 5 bài sau đây được sử dụng với tu chỉnh:

1- Đến trường phái thơ Việt từ cảm thức hậu hiện đại Việt, Tham luận “Hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài”, Hà Nội 4-10/1/2010; Tạp chí Sông Hương số 257 – 7/2010, tapchisonghuong.com.vn 30/7/2010;

1- Vòng vo về trường-phái-nhóm thơ Việt từ cảm xúc hậu hiện đại Việt, vanchuongviet.org 21/12/2009;

3- Trường ca Việt Nam: Tác giả và tác phẩm (cập nhật liên tục trên nhiều báo mạng trong 6 năm qua; như: vanvn.net 27/9/2012, vanhoanghean.com.vn, vietvan.vn, chimviet.free.fr, khoavanhoc.edu.vn 18/3/2015, vanviet.info 28-29-30/4/2015);

4- Muốn thơ mình: chuẩn mực của phóng túng và phóng túng của chuẩn mực (Tập sách phỏng vấn Thơ đến từ đâu – Nguyễn Đức Tùng, Nxb Lao Động, 2009, phần Đỗ Quyên; Kệ Sách eBook, 2012; bản cũ: talawas 8/8/2006).

5Nhìn nhận nhanh phê bình thơ Việt hậu Đổi mới; Tham luận Hội thảo “Thế hệ nhà văn sau 1975”, Đại học Văn Hóa Hà Nội 28/4/2016; vanviet.info 19, 21, 23, 26/4/2016.

**) CÁO LỖI & TRI ÂN:

Hai thế kỷ trước, danh nhân Bùi Huy Bích từng răn dạy: “Làm thơ khó, tuyển thơ càng khó” – (“Tố thi nan, tuyển thi vưu nan”).

Ngoài một số ít tác giả là thi hữu đã cung cấp trực tiếp tác phẩm, nguồn tham chiếu chính của chúng tôi là các trang mạng; một phần vì hiếm có cơ hội cập nhật sách báo in ấn ở Việt Nam. Thành thật cáo lỗi về thiếu sót, nhầm lẫn chắc chắn sẽ có ở nhiều mặt (tiêu chí tuyển chọn, vấn đề văn bản và xuất bản…) Rất mong nhận được ý kiến đóng góp cũng như thông tin về tác phẩm, tác giả thơ trường ca Việt Nam.

Chân thành cảm tạ những cộng tác, giúp đỡ vô giá của các tác giả và độc giả, các thi sĩ và nghiên cứu gia, độc lập hay trong các cơ quan, tổ chức văn học, ở trong và ngoài nước; cũng như những báo chí, trang mạng đã giới thiệu khảo cứu về tác giả và tác phẩm trường ca Việt Nam.

Xin ghi nhận tấm thịnh tình từ:

Các bạn văn đầu tiên đã đọc và cổ vũ, như nhà lý luận – phê bình Trần Thiện Khanh và các nhà thơ Khế Iêm, Mai Văn Phấn, Trần Anh Thái, Nguyễn Đức Tùng; Các nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu như Nguyễn Anh Nông, Diêu Lan Phương, Đặng Tiến Huy, Duy Phi, Hoàng Thư Ngân, Nguyễn Hữu Quý, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Anh Tuấn, Từ Nguyên Tĩnh, Hàn Thủy, Đỗ Minh Tuấn, Nhật Tuấn, Vũ Ngọc Dung, Nguyễn Hoàng Đức, cùng nhiều tác giả, độc giả khác đã có những thông tin, trao đổi quý báu kể từ sau danh sách đầu tiên chỉ với 122 tác giả[33], mà đáng kể nhất là có được 30 tác giả cùng khoảng 50 tác phẩm nhờ tham khảo thống kê của nhà nghiên cứu – phê bình Mai Bá Ấn.

Đặc biệt, nhà thơ Trần Quốc Minh đã nhiệt thành giới thiệu, công phu sao chép trích lược tác phẩm cần thiết, khi liên lạc với một số tác giả ở Hải Phòng – một vùng đất từng sản sinh “trường phái thơ Hải Phòng” thời những năm 1970-1980, trong đó có dòng trường ca đặc sắc với khoảng 30 tác giả. Cũng vậy, với thông tin và trích dẫn bài vở chọn lọc, nhà văn Nguyễn Tiến Hải, từ nguồn tư liệu phong phú của quân đội, đã tận tình bổ sung nhiều tác giả, tác phẩm, cùng các sáng tác đang hoàn thành từ các trại sáng tác.

Cuối cùng là nhà phê bình Văn Giá đã gợi ý hình thành và thúc đẩy bài tham luận này.

***) CHÚ THÍCH – TRÍCH DẪN – THƯ MỤC CHÍNH[34]:


[28] “Trường ca là một thể loại lớn với hai nghĩa: có dung lượng lớn và mang nội dung lớn.” (Hoàng Ngọc Hiến; bđd);

“Nội dung của trường ca thường gắn liền với các phạm trù thẩm mĩ về cái đẹp, cái hùng, cái cao cả.” (Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức; bđd).

[29] “Tính chất ‘tầm cỡ’ của thể loại trường ca là ở ‘dung lượng cảm hứng’ […] Một cảm hứng lớn như vậy chỉ có thể xuất hiện ở một thời đại cách mạng. (Trần Ngọc Vương; x. Mai Bá Ấn, bđd);

“Trường ca là kết quả sự mở rộng dung lượng phản ánh và quy mô cảm xúc của thơ trữ tình.” (Vũ Văn Sỹ; x. Mai Bá Ấn, bđd);

“Theo nguồn cảm hứng, tạm thời có 3 nhánh: trường ca anh hùng ca; trường ca cảm thức cá nhân trên nền nhân sinh; và trường ca thời cuộc – đời thường.” (Đỗ Quyên; Ghi nhận về một thi cảm trường ca tươi lạ, vanvn.net 22/8/2012).

[30] Minh Tuyền, Wikipedia; Hoàng Thư Ngân, Việt Nam có Triết thi?, phongdiep.net 16/9/2010; Một gương mặt đặc biệt trên thi đàn Việt Nam những năm 1040-1945, bichkhe.org 6/1/2016.

[31] Về các mối quan hệ giữa giới tính (nam-nữ), địa phương tính (Bắc-Trung-Nam), địa chính trị – xã hội (miền Bắc-miền Nam trước 1975, trong nước-ngoài nước) với tác giả và tác phẩm trường ca Việt Nam hiện đại và đương đại, chúng tôi vẫn đang tìm hiểu và sẽ trình bày qua một bài viết riêng.

[32] Nhà văn tiếng Tây Ban Nha Augusto Monterroso, người Guatemala, được xem là có truyện cực ngắn ngắn nhất và nổi danh nhất thế giới, mang tựa đề Con khủng long (El dinosaurio). Nội dung truyện như sau:“Thức dậy, con khủng long vẫn còn đó.” (Hoàng Ngọc-Tuấn chuyển ngữ).

[33] X. diendan.org 7/7/2010.

[34] THƯ MỤC CHÍNH – Cùng với các nguồn trích dẫn nêu trên, dưới đây là một số tài liệu tham khảo khác:

• Chế Diễm Trâm; Quan niệm của nhóm Dạ Đài và cách tân bước đầu của thơ Trần Dần, vanchuongviet.org 18/6/2013.

• Diêu Thị Lan Phương; Thể loại trường ca trong văn học hiện đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Đại học Quốc gia Hà Nội 15/6/2011; phần Những thể loại văn vần có dung lượng lớn như là tiền đề của tư duy về hình thức.

• Đỗ Quyên; Thi pháp Nguyễn Quang Thiều: Nhìn từ dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị, Kỷ yếu Hội thảo “Thơ Việt Nam hiện đại & Nguyễn Quang Thiều”, Nxb Hội Nhà Văn, 2012; nhavantphcm.com.vn 24-25-27/6/2012.

• Hà Li, Lưu Nguyễn, Phi Hà; Ba bài viết về tập trường ca Lòng hải lý, trieuxuan.info 21/7/2011.

­• Hà Quảng; Về các khuynh hướng phát triển trường ca Việt, vanvn.net 6/9/2011.

• Inrasara;

Thơ Việt, từ Hiện đại đến Hậu hiện đại, inrasara.com;

Đổi mới, các trào lưu thơ Việt ở đâu, về đâu?, inrasara.com 21/12/2015;

Thơ Việt hành trình chuyển hướng say, Nxb Thanh Niên, 2014.

• Nguyễn Văn Dân; Trường ca với tư cách là một thể loại mới, Tạp chí Sông Hương số 230 – 4/2008, tapchisonghuong.com.vn 16/4/2008.

• Nguyễn Minh tường thuật; Tọa đàm về trường ca của Trần Anh Thái, viet-studies.info 15/6/2009.

• Phan Nhiên Hạo chủ trì bàn tròn; Văn chương hôm nay nhìn từ ngoài lề, litviet.com 5/9/2009.

• Trần Thiện Khanh phỏng vấn; Đối thoại về trường ca và trường ca Việt Nam hiện đại, Tạp chí Thơ số 11/2009, vanhocquenha.vn 17/9/2010.

PHỤ LỤC

Vài ý kiến cá nhân của người viết Tham luận về sự khác nhau giữa trường ca và thơ dài, trường ca hậu hiện đại, tính địa phương của trường ca, thi pháp và tâm lý sáng tác trường ca:

“Mảng trường ca, ‘các anh bên lý luận-phê bình’ đang bỏ trống. Còn nữa, các bạn ‘ở các tỉnh phía Nam’ của nền văn học Việt Nam hình như cũng bỏ quên loại hình này. Xin đưa ra hai ví dụ. Vị chủ nhà xuất bản to thứ nhì miền Nam trước 1975, lớn thứ nhứt hải ngoại khi làm cuốn sách nọ cho tôi, trên bìa sau tôi ‘dọa’ sắp in một tập trường ca, đã hỏi: ‘Thế anh cũng viết nhạc à?’ Lại có bạn ở Mỹ, còn xuân xanh, tài thơ đang vang danh đó đây, đã trao đổi cùng tôi: ‘Trường ca là cái gì vậy? What are its elements? Is there a length limit? Topic specification?’ Nói cho ngay, trong Nam thường gọi trường ca là ‘trường thi’. Còn chữ ‘trường ca’ thì dành cho các tác phẩm âm nhạc có tầm vóc như Hội Trùng Dương, Đóa hoa vô thường, Bầy chim bỏ xứ […]

Bài thơ dài, trường ca, kịch thơ và tiểu thuyết thơ – Ôi, những anh chị em cùng mẹ (thơ) khác cha (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch)!

Nói luôn: trường ca và một bài thơ dài khác nhau chứ… Cả hình thức lẫn dung lượng. Về hình thức, trường ca cho đến nay gì thì gì cũng có cấu trúc khá rõ, từa tựa tiểu thuyết: chương hồi, diễn tiến, tình tiết, chun chút kịch tính, thậm chí có cả tuyến nhân vật, đối thoại. Dấu hiệu dễ nhận ra ở một trường ca là phần mở và phần kết ‘long trọng hóa vấn đề’ hơn so với ở một bài thơ dài. Về dung lượng: bài thơ bình thường là cầu tre, bài thơ dài như cầu gỗ là cùng, còn trường ca thì là ‘cầu Long Biên (vừa dài vừa rộng bắc ngang sông Hồng/ Tàu xe đi lại thong dong/ Bộ hành tấp nập đi về thảnh thơi’.) Tứ thơ, âm điệu, nhất là giọng thơ – gọi cho mạnh là nhịp chảy – là các nét chung của hai loại này. Tôi đoán rằng những ai đã viết thơ dài ngon lành đều có thể viết trường ca […]

Có thể kể ra các bài thơ dài nổi danh mang sức vóc trường ca. Thủy mộ quan (Viên Linh), Đánh thức tiềm lực (Nguyễn Duy), Bài thơ Hắc Hải (Nguyễn Đình Thi), Những người trên cửa biển (Văn Cao), Nước non ngàn dặm (Tố Hữu), Thơ bình phương – Đời lập phương, Trận tuyến này cao hơn cả màu da, Thời sự hè 72 – bình luận, Phác thảo cho một trận đánh một bài thơ diệt Mỹ (Chế Lan Viên)… Có những tác giả như cố ý không viết trường ca nhưng thơ, rồi nhiều bài thơ dài của họ tôi cứ đọc như các trường ca vậy. Đó là Chế Lan Viên, Uyên Nguyên, Hữu Loan…

Cho dễ hình dung về dung lượng, sẵn trong máy, tôi dẫn ra số lượng chữ trong một số bài. Bài thơ dài: Nguyễn Duy, Nhìn từ xa Tổ Quốc – 1.096 chữ, Kim Mộc Thủy Hoả Thổ – 1.224 chữ; Tố Hữu, Việt Bắc – 1.062 chữ; Trần Dần, Nhất định thắng – 1.788 chữ; Nh. Tay Ngàn, Nỗi Liên đen tối vô cùng – 2.025 chữ.

Trường ca, tiểu thuyết thơ: Mai Văn Phấn, Người cùng thời – 7.535 chữ; Đặng Đình Hưng, Ô mai – 8.256 chữ, Trần Dần, Jờ Joạcx – 5.032 chữ; Đỗ Quyên: Đống chữ – 8.548 chữ, Buồn muộn cùng thế kỷ – 11.623 chữ, Biển đỡ (chưa hoàn thành) – 6.751 chữ. Nếu đặt “Trung Quốc đông dân Thơ thời gian của Đỗ Quyên với 19.064 chữ bên cạnh bài thơ 6 chữ của Dương Tường – chắc là bài thơ ngắn nhất thế giới – Tôi đứng về phe nước mắt’, ta có định nghĩa khác về trường ca: thể loại văn học lấy chữ đè… thơ!”

”Khi viết trường ca, so với những tác giả khác, cụ thể là các tác giả thời chiến tranh 1965-1975 ở miền Bắc và hậu chiến 1975-1985 từng tạo ra một trường phái trường ca Việt Nam, tôi cũng thấy mình có ‘phương pháp, quy ước’ này nọ khác với họ. Độ mươi năm, qua cả tá trường ca, năm ba bài thơ dài, tôi không sao tường minh cái gọi là ‘tiêu chí’ cho mình. Tất nhiên, thây kệ nó thôi. Mình viết ra trường ca chớ có phải ‘ngâm kíu chường ka’ của mình đâu! Rồi, ào ào một dạo ba bốn năm nay, ngoài này và trong nước, rộ lên vụ hậu hiện đại (postmodernism), tôi mới tủm tỉm cười với hai bàn tay của mình khi thấy vô tình mà – càng về sau – mình cũng làm theo lối hậu hiện đại như… người lớn!

Đó là: không có trung tâm chủ đề; tính đại tự sự hầu như không hiển lộ; phân mảnh từ hình thức đến nội dung; người đọc trường ca không nên coi nó là một tác phẩm độc lập mà chỉ là một ‘mảnh’ của một ‘mảng’ nào đó trong kinh nghiệm thơ ca, văn học, văn hóa hay xã hội của mình; tính truyện không có, tính chuyện thì lấy lệ; cấu trúc hờ, có chương hồi cũng như không; liên văn bản như là những cú nhảy dù; chất văn xuôi và chất thơ có thể ăn nằm với nhau khi hứng; không câu nệ bất kỳ hình thức, thể loại nào từ cổ điển tới tân kỳ, tu từ và phi tu từ có thể làm bạn, các thủ thuật cắt dán, nhại nhái ăn nhậu cùng ca dao, tục ngữ; có những phân mảnh không mang một ý nghĩa nhất định; giữa các trường ca khác nhau cũng không có cấu trúc nhất quán; v.v. Gọi là vô tình vì mình không đọc lý thuyết gốc, không theo dõi, không hòa nhịp với khuynh hướng sáng tác đó; còn thì cả con người chúng ta – từ tóc đỉnh đầu đến gót bàn chân – đã và đang sống trong cái điều kiện hậu hiện đại (postmodernity) rồi! Tuy nhiên, về loại hình căn bản của trường ca, tôi cũng không hoặc chưa ra ngoài cái ‘kinh điển’ của nó: có nội dung và ý nghĩa xã hội nào đó. Nói rộng, về thể loại văn học, tôi không/chưa tới cái phá thể, xa như ở Trần Dần, Đặng Đình Hưng; gần nhất như ở Nguyễn Thúy Hằng. 

[…] Tôi cũng nghĩ mình phóng túng về tinh thần và hên ở chỗ đã đem được cái đó vô trường ca. […] Không rõ bộ môn tâm lý học sáng tạo văn học đang ở thành tựu nào? Riêng quan hệ giữa ‘trường ca’ và ‘nhà thơ phóng túng về tinh thần’: một câu hỏi tạm treo ở đây. Tôi hơi hơi nghi ngờ về quan hệ tỷ lệ thuận của chúng. […] Lúc viết các đoạn phóng túng, vượt biên, tôi coi nó như một bài thơ độc lập. Đôi khi ham vui, kéo thành một trường ca con; mà anh gọi là tiểu đoạn trường ca. Đó là một trong vài thủ pháp tôi từng xây dựng. Mấy tháng trước, coi trên Tiền Vệ, được biết Dương Kiều Minh đánh giá một trong những đặc thù ở trường ca Trên đường của Trần Anh Thái cũng trùng ý đó: Trường ca trong trường ca. Thực ra, đọc trường ca của nhiều người, tôi cũng có cảm giác ấy. À, ‘trường ca trong trường ca’ thì bình thường vậy, mà sao khi nói ‘tiểu thuyết trong tiểu thuyết’ các nhà phê bình coi bộ trang trọng lắm? 

Với thể loại trường ca: làm tân làm tiến toàn bộ nó là chuyện to như con voi! Maia ‘thì ở nước Nga’ mà Trần Dần, Hữu Loan, Phùng Quán, Lê Đạt và nhiều nhà thơ lớn khác ‘vẫn thấy rất là Việt Nam’, đến mức trường ca Maia, phong cách Maia đã được Việt hóa rất ô-kê. Nhưng, nói cho ngay, các bậc tiền bối đó chưa thoát ra được cái bóng của ‘những đám mây mặc quần’. Có thể chỉ ra những câu, đoạn ‘made in’ Trần Dần, Hữu Loan, Phùng Quán, Lê Đạt theo ‘license’ của Mayakovsky. Trong sáng tạo, đó là chuyện kế thừa tất nhiên. Nêu vậy chỉ để bật tung cái khó của thay đổi, làm mới thi pháp trường ca. Mà Lão núi của Lê Đạt; Mùa sạch, Jờ Joạcx của Trần Dần là ba ví dụ nhãn tiền.”

[Đỗ Quyên; Trích lược (có nhuận sắc) trả lời phỏng vấn của Nguyễn Đức Tùng, sđd].

HẾT

(Bản đầy đủ – cập nhật 26/4/2016 )

Comments are closed.