Đào Duy Anh (2)

Thái Kế Toại

Nhân Văn Giai Phẩm diễn ra trong ngành Giáo dục như thế nào?

Hưởng ứng Nhân Văn Giai Phẩm diễn ra trong toàn ngành giáo dục rất nhanh. Rất nhiều giảng viên các trường trung cấp, đại học, sinh viên, giáo viên và học sinh lớn tuổi các trường phổ thông trên miền Bắc, có đọc, mua báo và góp quỹ ủng hộ các báo Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới, Trăm Hoa…

Lực lượng hưởng ứng mạnh mẽ là sinh viên ở Trường Sư phạm Trung cấp trung ương và hai trường Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp nhưng hoạt động chủ yếu là sinh viên Khóa ra trường 1956 của Đại học Văn khoa và Khóa ra trường 1957 tức là Khóa I của Văn khoa ĐHSP. Chủ chốt là các giảng viên trí thức lớn có tên tuổi là các ông Trương Tửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Cao Xuân Huy cùng những trợ giảng như Phan Ngọc, Cao Xuân Hạo, số trợ lý mới ra trường: Văn Tâm, Thúc Hà, Phan Kế Hoành, Bùi Quang Đoài… Ngoài ra còn số sinh viên học giỏi: Ninh Viết Giao, Hà Nhật, Tuân Nguyễn, Văn Tôn, Dương Viết Á, Nguyễn Đức Tiếu, Lê Tư Gia… Các ông đều có bài bài trên Giai Phẩm và báo Nhân Văn, Đất Mới, Tự do diễn đàn… Cùng với việc tuyên truyền cho sinh viên các ông còn tham gia thành lập trung tâm ngôn luận tại hai trường là các tập san Đất Mới và Tự do diễn đàn.

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi cựu sinh viên khóa I Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội trao đổi với tác giả như sau:

Khóa I Văn khoa ĐHTH thì không tham gia. Không. Không có cuộc đấu tố nào. Chỉ có trong năm thứ nhất là một bài viết dài được in ronéo thành một tập chuyên luận của một sinh viên trong lớp tên là Hồ Nguyên Cát truyền đi cho cả lớp đọc, phản đối bài giảng lý luận văn học của anh Phan Ngọc, đầu đề anh nhớ là “Phan Ngọc hay là những luận điệu phản đối chuyên chính vô sản của Hồ Phong” (anh nhớ không chính xác lắm đâu). Cả lớp đều sửng sốt và cũng không ngờ sau đó anh Phan Ngọc thôi không dạy môn lý luận văn học và cả những giờ ngôn ngữ học nữa. Nhưng đến năm thứ hai, cụ Hoàng Xuân Nhị lên dạy thay (lúc bấy giờ chưa được phong GS mà có lẽ vẫn chỉ là phụ giảng thôi nhưng tác phong của cụ rất già), dạy không hay, đúng hơn là rất dở, chỉ có vài ý nghèo nàn lặp đi lặp lại (lại hết lời ca ngợi Đ.), vì thế toàn lớp làm reo, họp lại góp ý và lên tiếng đề nghị cụ thôi không đảm nhiệm môn này. Tiếng nói của sinh viên thuở bấy giờ rất có trọng lượng, thế là Ban Giáo vụ phải cử Hoàng Ngọc Hiến (là trợ lý giảng đạy mới về trường) lên giảng thay. Anh Hiến chỉ trình bày nguyên lý lý luận văn học trong cuốn sách của Abramovits thôi chứ không có giáo trình riêng. Nhưng anh ấy trình bày rất xuất sắc (cũng như Cao Xuân Hạo, chỉ dịch miệng những giờ giảng của bà GS Ngôn ngữ học người Nga Polina, thế mà anh ấy dịch tuyệt hay khiến anh em mê tít); cách trình bày của anh Hiến thuyết phục được anh em, cả lớp bèn gửi kiến nghị lên trường yêu cầu cho anh Hiến thay hẳn cụ Nhị. Tiếc rằng chỉ ít lâu sau (hình như hết năm thứ hai tức là giữa năm 1958) thì anh Hiến lại đi sang LX làm nghiên cứu sinh. Môn lý luận văn học từ đấy cũng coi như kết thúc, trong năm thứ ba chỉ đọc bổ túc thêm một ít chương ở cuốn sách do anh Hạo dịch của Gurievits, đến 1959 mới công bố.

Cụ thể từng ông Toại ơi, Toại nói đúng, hai khóa đầu 1954-1956 (từ Thanh Hóa về học tiếp ở HN) và 1955-1957 (khóa này chỉ có hai năm) thì còn có những anh chị tham gia, có lẽ vì họ nằm đúng vào lúc NVGP khởi phát và cao trào, còn chúng mình là khóa I Đại học Tổng hợp 1956-1959 không còn một ai viết theo khuynh hướng của NVGP nữa, vì ngay lúc mới vào rục rịch có biểu tình thì đã nghe đồn Trường Bổ túc Công nông có cuộc họp khẩn trang bị vũ khí cho học sinh toàn trường, nếu Tổng hợp có biểu tình thì kéo tới đàn áp. Thế là không ai ho he gì nữa. Nhưng năm thứ nhất ở Khoa Văn và Khoa Toán cũng có nhiều chuyện lắm, đến nỗi Bí thư Đảng ủy tên là Linh xuống họp sinh viên lên lớp xoành xoạch, và sinh viên lên cãi lại ông ta cũng rất hăng, ngay sinh viên Khoa Toán cũng kéo sang tham gia và phát biểu ở hội trường. Phải đến năm thứ hai trở đi mới không còn sóng gió gì nữa (đó là nhìn ở bề ngoài).

Báo Đất mới

Ngày 10- 11-1956 Tập san Đất mới tập I – Chuyện sinh viên được NXB Minh Đức xuất bản với bài Phê bình lãnh đạo sinh viên của Q. Ngọc và T. Hồng.

Dương Viết Á: Những bóng mây đen đã qua. Chúng ta hãy giữ lấy ánh sáng mới.

Nguyễn Bao: Hai bài thơ Chỉ một mà thôi, Đôi ta.

Bùi Quang Đoài: Lịch sử một câu chuyện tình.

Thúc Hà: Vai mới tuồng xưa.

Văn Tâm: Những người ấy muốn gì.

Lê Tự Gia: Một cơn mê.

Nguyễn Đức Tiếu: Nhắn ông Lê Văn Hải: Hiểu rồi hãy phê.

Ông Bùi Quang Đoài sau này là nhà văn Thái Vũ sinh viên Đại học Văn khoa tốt nghiệp 1956 kể lại:

“Chuyện viết bài “kê” ông Hoàng Xuân Nhị trên tờ Nhân văn đúng là chuyện “không mời mà đến”, nhưng khoảng một tuần sau, hoạ sĩ Trần Duy đến đưa thư cảm ơn và “xin miễn nhuận bút vì tờ báo đang nghèo”. Song cùng lúc Trần Duy lại đưa ra một tập bản thảo viết tay, giấy đủ loại và đủ cỡ, rồi nói tiếp: “Sau tập Giai phẩm mùa Thu này là tập Giai phẩm Sinh viên”.

Tôi thích thú vì đang định tập viết về chuyện sinh viên sau khi đọc cuốn Les Etudiants của Liên Xô, vì lúc đó có nhiều chuyện vui giữa sinh viên từ kháng chiến về Hà Nội và sinh viên Hà Nội cũ. Trần Duy cho biết sau tập Giai phẩm Sinh viên sẽ là tập Giai phẩm Công nhân, Giai phẩm Nông dân, gãi đúng mơ ước của tôi và các bạn ở đại học lúc đó.

Hơn nữa người đứng đầu trong tập Giai phẩm Sinh viên này lại là Văn Tâm, bạn tốt nghiệp đại học cùng khoá, cũng là chỗ quen biết cũ ở thị xã Thanh Hoá, tôi quen cô Mai em gái Văn Tâm. Hơn nữa Trần Duy mở tập bản thảo có chữ ký của Văn Tâm là đã tuyển chọn kỹ, nay do tôi quyết định cuối cùng. Tâm lý tuổi trẻ là háo danh, “ngựa non háu đá”, được tâng bốc tôi nhận ngay. Tôi rủ Thúc Hà tuyển thơ, mới biết anh chị em sinh viên ai cũng mê văn chương.

Khi biết tôi là người quyết định cuối cùng tập Giai phẩm Sinh viên, các tác giả có bài nhiều lần đến gặp tôi: ai cũng cho bài của mình là hay. Vì vậy chọn bài rất khó. Tôi thấy Cao Huy Đỉnh có bài; vì là bạn khá thân, Đỉnh là đảng viên, tôi bảo Đỉnh nên rút bài về. Đa số bài là chống tiêu cực, chống bè phái theo kiểu như báo Nhân văn.

Duy bài đầu chống tiêu cực ở đại học, nhất là ở mấy năm dự bị đại học thì do Văn Tâm viết, liên quan đến khoá II Dự bị Đại học và khoá đầu đại học, tốt nghiệp 1956. Tôi phải viết lại, bổ sung việc của khoá Dự bị Đại học đầu tiên, chẳng hạn anh em rất bất mãn về việc xử lý của thầy T.V.G trong Đảng uỷ với nhóm Thành, Khái, Nhâm, sau này là Ng. Duy Bình (như cắt học bổng của anh em Liên khu 4 và Bình Trị Thiên để bồi dưỡng cho Hiệu đoàn trường là cánh Liên khu 3 giàu có). Cho nên sau này phản ứng chính là từ tổ chức, lãnh đạo đại học chứ không phải từ các thầy dạy, các giáo sư.

Riêng về truyện ngắn ít đạt, tôi loại khá nhiều, tuy nội dung tốt về chống tiêu cực tham ô, nói chung đó là tiêu điểm chính của nội dung tập Giai phẩm Sinh viên. Do vậy chỉ trong thời gian rất ngắn tôi viết “Một câu chuyện tình” trong sinh viên mà các nhân vật đều có thật trong khoá học của chúng tôi (cả bên Văn và Sử).

Nhưng gay cấn nhất là tên Đất mới mà Văn Tâm và Trần Duy bảo lưu cho kỳ được, khi tôi phản ứng rằng cái tên đó là một địa điểm xưa ở Huế, ngay sau sân vận động Huế (nơi đó hiện giờ có “Quán cơm Âm Phủ”), trên làng Vân Dương, là nơi tụ tập đĩ điếm và dân nghiện hút. Khu vực này dân Huế đều biết. Vì chủ sòng Trần Duy và Văn Tâm trong nhóm nhà xuất bản Minh Đức quen thân với anh Trần Thiếu Bảo, họ bỏ tiền in thì họ… có quyền giữ tên Đất mới.

Bài Phê bình lãnh đạo sinh viên phê phán việc lạm dụng quản lý sinh viên của đảng viên, chi bộ Đảng còn phê phán việc đánh trượt, không vớt nhà văn Phùng Quán. Phùng Quán chỉ thiếu 2 điểm trong khi vớt những người ít điểm hơn ông.

Đất Mới tập II đang được chuẩn bị thì báo Nhân Văn số 6 bị đóng cửa, do đó Đất Mới tập II bị chết yểu.”

Tự do diễn đàn

Cuối tháng 12- 1956 Tập san Tự do diễn đàn do NXB Minh Đức phát hành. Tự do diễn đàn có các bài Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết với cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang, Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc, Chú bé làm văn của Trần Dần, Vài ý nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm, Sinh hoạt văn hóa của Trương Tửu – Trần Đức Thảo.

Rất tiếc Tự do diễn đàn bị phát hiện sớm, bị tịch thu ngay trong nhà in, không được phát hành ra ngoài.

Nguyễn Mạnh Tường

Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16 tháng 9 năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội, nhưng quê quán ông lại là làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Cha ông là Nguyễn Căn Cát, công chức.

Ông học tiếng Pháp từ nhỏ, trước học trường Paul Bert, sau học trường Albert Sarraut, Hà Nội.

Năm 1926, ông đỗ Tú tài triết học (16 tuổi), hạng ưu, được học bổng sang Pháp học Luật và Văn chương tại Trường Đại học Tổng hợp Montpellier (1927).

Năm 1929, ông đỗ Cử nhân văn chương, và năm sau đỗ Cử nhân Luật (1930). Tháng 5 năm 1932, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật, với luận án chính: L’Individu dans la vieille cité annamite (Cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ) và luận án bổ túc: Essai de synthèse sur le Code de Lê (Tổng luận về luật đời ). Tháng 6 năm 1932, ông bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương với luận án chính: Essai sur la valeur dramatique du théâtre d’Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset) và luận án bổ túc: L’Annam dans la littérature française, Jules Boissières (1863-1897) (Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières (1863-1897)).

Tháng 9 năm 1932, ông về nước nhưng không nhận một chức vụ gì của chính quyền thuộc địa, vì vậy nên họ tìm cách gây khó khăn cho ông.

Ở nhà được khoảng ba tháng, ông trở lại Pháp.

Năm 1936, về nước, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn chương Pháp ở trường Bảo hộ (Lycée du Protectorat, tức trường Bưởi, sau này là Chu Văn An) và trường Cao đẳng Công Chánh (École Supérieure des Travaux Publics). Theo lời ông kể thì đây “là quãng một thời gian hạnh phúc của đời tôi”. Ngoài ra, theo Thụy Khuê, trong khoảng thời gian này, ông học thêm chữ nho và văn chương cổ điển Việt, tham gia phác họa cuốn Việt Nam văn phạm (với nhóm Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim), hợp tác làm Việt Nam tự điển (với nhóm Khai Trí Tiến Đức), và còn làm phụ tá cho Thị trưởng Hà Nội.

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Trường Đại học Văn Khoa được thành lập, ông được cử dạy Khoa Văn chương Phương Tây.

Tháng 4 năm 1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử vào phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt.

Năm 1946, ông đang biện hộ cho thân chủ ở Hải Phòng thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Sau đó, ông lên Việt khu Việt Bắc, rồi vào Liên khu III và IV, được cử làm Luật sư tại các Tòa án quân sự, Tòa án đại hình và là thành viên Ban Giám đốc Trường dự bị đại học.

Năm 1951 ông tham gia Đảng Xã hội Việt Nam.

Năm 1952, ông được cử đi dự Hội nghị bảo vệ Hòa Bình châu Á – Thái Bình Dương ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Ba tháng sau đi dự Đại hội Hòa bình Thế giới ở Vienne (Áo).

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, ông về lại Hà Nội, tiếp quản trường Đại học Luật và Đại học Sư phạm, rồi được cử làm Giám đốc Đại học Luật, Phó Giám đốc Đại học Sư Phạm, và được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Luật sư Hà Nội. Cũng trong khoảng thời gian này, ông được phong Giáo sư, và tham gia giảng dạy tại các trường Đại học Văn khoa, Sư phạm, Tổng hợp Hà Nội.

Vào những năm 1953-1956, miền Bắc Việt Nam tiến hành Cải cách ruộng đất. Theo ông, kể từ 1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi”. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể:

Ngày 22/5/1956, Hội nghị Luật gia Dân chủ họp ở Bruxelles trong lúc phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đang manh nha, ông lại được “vời ra” lần nữa, và ông cũng lại dùng tài hùng biện để biện hộ cho sự thống nhất Việt Nam, theo quan điểm của miền Bắc. Nhân chuyến đi này ông được các luật gia Tiệp Khắc và Nga và mời sang Praha và Moscou.

Khi trở về Hà Nội, ông đã nhận được rất nhiều vinh dự, nhưng ngày 30/10/1956, ông xuất hiện tại Mặt trận tổ quốc với bài diễn thuyết lịch sử: Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo, gây chấn động dư luận. Ông cho biết:

Ở Hội nghị của Mặt trận Tổ Quốc, họp ở Hà Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi ông Trường Chinh, thay mặt Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), tự phê bình về các sai lầm đã phạm trong Cải cách ruộng đất, tôi đọc bản tham luận Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo. Từ góc độ một người hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.

“Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn, rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn (của Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm). Tôi như thành một người “phạm pháp quả tang”, bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa.

Ông còn một số bài viết về Vũ Trọng Phụng, kể chuyện pháp luật từ các sự tích cổ điển châu Âu cho các báo Nhân Văn, Giai Phẩm, Tự do diễn đàn, sách Vũ Trọng Phụng của chúng ta…

Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông bị cách chức các chức vụ, không được giảng dạy, chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu văn học nước ngoài tại Viện nghiên cứu phương pháp và chương trình giáo dục thuộc Bộ Giáo dục, và là cộng tác viên của nhà xuất bản Giáo dục.

Năm 1989, ông được phép sang Pháp, và lưu lại ở đó 4 tháng. Tại đây, ông cho xuất bản cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp Un Excommunié (Một người bị rút phép thông công) viết về những điều trải nghiệm trong những năm ông đã sống và viết kể từ sau 1945.

Ngày 13 tháng 6 năm 1997, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường qua đời vì tuổi già tại nhà số 34 phố Tăng Bạt Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thọ 88 tuổi

Trương Tửu

Ông sinh ngày 18 tháng 10 năm 1913, trong một gia đình trung lưu ở ngoại ô Gia Lâm (Hà Nội). Mẹ mất sớm, cha là một nhà nho thủ cựu, nghiêm khắc, nhưng ông để Trương Tửu muốn làm gì thì làm.

Thời trai trẻ, ông học hết năm thứ nhất bậc trung học, rồi học trường Kỹ nghệ thực hành ở Hải Phòng (nghề thợ tiện, cùng trường lớp với Lê Văn Siêu). Nhưng chỉ được một năm rưỡi thì bị đuổi học (năm 1927), vì tham gia bãi khoá ở Hà Nội để đòi thực dân Pháp thả tác giả bài thơ Chiêu hồn nước Phạm Tất Đắc. Bị buộc rời trường, ông tự học chương trình Tú tài Pháp Việt.

Từ năm 1941 đến 1946, Trương Tửu làm Giám đốc Văn chương (tương tự Tổng biên tập) Nhà xuất bản Hàn Thuyên. Thời kháng chiến chống Pháp, ông là ủy viên Hội Văn hóa Việt Nam, chi hội phó Chi hội Văn hóa Thanh Hóa, tham gia bí thư đoàn liên đoàn Văn nghệ kháng chiến liên khu IV, dạy trường Thiếu sinh quân, trường Dự bị đại học…

Sau hiệp định Genève 1954, ông hồi cư về Hà Nội, dạy Trường Đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa Hà Nội. Năm 1957, ông được phong chức danh Giáo sư, cùng đợt với Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường…

Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 19 đến 24-4-1956 về việc quán triệt nguyên tắc lãnh đạo tập thể, đề cao vai trò của Đảng đã đề cập rất nghiêm túc việc chống sùng bái cá nhân trong đảng, đã nói rõ sự tôn kính lãnh tụ đã đi vào sự lệch lạc của sùng bái cá nhân, trong đó có trách nhiệm của Bộ Chính trị và cá nhân Hồ Chủ tịch, thừa nhận sự lãnh đạo của Trung ương có nhiều sai lầm nghiêm trọng về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Hội nghị lần thứ 10 họp từ ngày 25-8 đến 5-10-1956 về mở rộng dân chủ, đảm bảo quyền tự do dân chủ và tăng cường chế độ pháp trị dân chủ
Còn cá nhân Trương Tửu, ông đã nhìn nhận các vấn đề ở trên như thế nào? Ông trở thành thủ lĩnh lý luận văn học với bài chốt rất trọng lượng: Về tình trạng sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ. Ông viết: “Bệnh sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ… Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ, vì rằng hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa, có cái này thì không có cái kia được”…
Trương Tửu nêu lên tấm gương không chịu sùng bái cá nhân của Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc đối với Trường Chinh. Ông quy trách nhiệm cho số lãnh đạo văn nghệ: “Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn yểm tất cả tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v. Còn gì nữa?”…
Theo ông, chính lãnh đạo đã tạo ra một tình trạng u ám trong văn nghệ: “Một số văn nghệ sĩ non gan… biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu nặng hờn oán và uất ức. Một số khác nữa cất kín cá tính và nghệ thuật xuống đáy ba lô, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu – đánh giặc đã! Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị trù, bị hành hạ, bị gạt sang một bên”…
Trương Tửu đề nghị:
“Đã đến lúc phải sa thải những nhà lãnh đạo thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ.
Đã đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói”.
Trương Tửu yêu cầu phải tạo ra môi trường dân chủ cho văn nghệ sĩ:
“Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải duy trì bảo vệ tính độc đáo ấy không để một sức mạnh bên ngoài nào xâm phậm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật – để có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do ở đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, không yêu những cái mà mình ghét, không ca tụng những cái mà mình phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo”…
Trong hai tiểu luận Văn nghệ và chính trị, Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích, Trương Tửu phân tích những nguyên lý về quan hệ giữa văn nghệ với chính trị của chủ nghĩa Mác Lê nin, muốn rằng những người Cộng sản phải hiểu và vận dụng cho đúng các nguyên lý ấy trong lãnh đạo văn nghệ.

Trong Văn nghệ và chính trị, ông khẳng định rằng:
“Những văn nghệ sĩ của Đảng tất nhiên phải tuân theo kỷ luật nội bộ của Đảng, phải chịu sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, phải thực hành những nhiệm vụ và công tác Đảng giao phó cho”…
Nhưng mặt khác, ông đòi hỏi phải thực hiện triệt để chủ trương của Lênin “tuyệt đối bảo đảm tự do thật rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho sở hướng cá nhân, bảo đảm tự do thật rộng rãi cho tư tưởng và sức tưởng tượng phóng khoáng, cho nội dung và hình thức”…
Ông cũng khẳng định ý kiến của Lênin về sự tự do tư tưởng đó vô cùng quan trọng do nó ảnh hưởng đến sự bền vững của cách mạng, bởi nó mang đến cho giai cấp công nhân sự thực khách quan: “Giai cấp vô sản xa rời sự thực ngày nào là bước vào con đường thất bại ngày ấy. Cho nên nó đặc biệt tôn trọng sự thực, tôn trọng chân lý khách quan, tôn trọng những người phát hiện sự thực, tôn trọng những người tìm tòi chân lý – tôn trọng những nhà khoa học và nghệ thuật”.

Trần Đức Thảo

Trần Đức Thảo, sinh ngày 26/9/1917, tại Thái Bình, quê quán tại làng Song Tháp, phường Châu Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là con một viên chức bưu điện.

Ông là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert Sarraut (Hà Nội), giải nhì cuộc thi triết học các trường trung học toàn quốc Pháp, đỗ tú tài Pháp năm 1935. Năm 1936, ông nhận học bổng của Phủ Toàn quyền Đông Dương sang Paris, Pháp, và thi đậu vào trường École normale supérieure (Paris) năm 1939.

Ông đậu thủ khoa đồng hạng bằng Thạc sĩ triết học (ngang điểm với Jules Vuillemin) tại Pháp lúc mới 26 tuổi (1942). Với luận án Phương pháp hiện tượng luận của Husserl, ông là người Việt Nam đầu tiên được nhận bằng thạc sĩ Triết học. Trong những năm thập niên 1940, ông bắt đầu nghiên cứu viết cuốn sách đầu tiên Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng) mà sau này đã được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới. Sách này lần đầu tiên xuất bản năm 1951.

Thay mặt sinh viên và trí thức Việt Nam du học ở Pháp, Trần Đức Thảo đã viết thư gửi về Tổ quốc, bày tỏ tình yêu nước khi Việt Nam vừa giành được độc lập tháng 8 năm 1945. Thư này được in trên tờ Cờ giải phóng, cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Khoảng tháng 10 đến tháng 12 năm 1945, do sự ủng hộ tích cực đối với Việt Minh và chính phủ Hồ Chí Minh, ông bị chính quyền Pháp bắt giam với lý do ông là mối đe dọa an ninh với Pháp.

Trong năm 1946, tháng 5 và tháng 6, Trần Đức Thảo gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp nhiều lần, ngỏ ý muốn về Việt Nam nhưng Hồ Chí Minh đã khuyên Trần Đức Thảo ở lại Pháp tiếp tục nghiên cứu khoa học và tham gia hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước.

Những năm tháng ở Pháp ông tham gia tích cực vào phong trào chống đế quốc Pháp ủng hộ Việt Minh. Ông là chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước tại Pháp.

Vào những năm 1948, 1949, ông tham gia vào những cuộc “bút chiến” khoa học, trong đó có các tranh luận với các nhà triết học bậc thầy thời bấy giờ là Alexandre Kojève và Jean-Paul Sartre.

Ngày 4/1/1949, Trần Đức Thảo được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm thành viên Hội đồng Giáo dục Quốc gia.

Năm 1951, ông rời Paris về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1952, đầu 1953 ông là thư ký tại văn phòng Tổng Bí thư Trường Chinh.

Năm 1953-1954, đi nghiên cứu thực tế trong quân đội, trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp ở Việt Bắc, đi tham gia cải cách ruộng đất ở Phú Thọ.

Sau 1954, từ Việt Bắc về Hà Nội, Giáo sư Trần Đức Thảo kết hôn với Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhất, đến ngày 5 tháng 1 năm 1967, theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Nhất hai ông bà đã thuận tình ly hôn.

Năm 1954 tham gia Ban Nghiên cứu Văn-Sử-Địa, tiền thân của Ủy ban Khoa học Xã hội và Ban Tuyên huấn Trung ương sau này. Trong thời gian này Trần Đức Thảo đã công bố nhiều tác phẩm trên tạp chí Văn-Sử-Địa.

Năm 1955-1956, ông trở thành giáo sư Triết học và là Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội).

Ông Cù Huy Chữ (trong Triết gia Trần Đức Thảo Di cảo Khảo luận Kỷ niệm, NXB Đại học Huế 2016, trang 1268-1269) cho biết Trần Đức Thảo tâm sự:

“Nghe theo lời khuyên của Đào Duy Anh, tôi đã viết hai bài báo Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, đăng trên báo Nhân văn, và Nội dung và hình thức của tự do, đăng trên tạp chí Giai phẩm Mùa Đông. Tôi không ngờ vì hai bài báo ấy mà tôi bị giam hãm trong cái gọi là kiểm thảo. Cuộc đấu tranh với tôi về việc tham gia Nhân văn-Giai phẩm tại trường đại học thực ra không phải là đấu lý, mà là đấu lực, dùng số đông để áp đảo. Trong số những người phê phán tôi, tôi không nhận rõ bộ mặt của họ nữa, hôm qua còn là sinh viên ngoan ngoãn của tôi, hôm qua còn là bạn đồng nghiệp của tôi, thân mật biết mấy, yêu thương biết mấy, mà hôm nay họ bịa ra nhiều chuyện để phê phán tôi. Tôi không giải thích nổi động cơ của họ.”

Sau vụ Nhân văn – Giai phẩm, ông bị cho cách chức Giáo sư, cách chức Phó Giám đốc trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cách chức Trưởng khoa Lịch sử chung cho cả Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp Hà Nội và không được tiếp tục giảng dạy ở đây.

Trần Đức Thảo về công tác tại Nhà xuất bản Sự Thật, tiếp tục nghiên cứu triết học. Từ đây công việc chủ yếu của Trần Đức Thảo là nghiên cứu dịch thuật các tác phẩm kinh điển chủ nghĩa Marx-Lenin, viết các tác phẩm khoa học, để xuất bản tại Pháp và một số nước khác.

Năm 2000, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về khoa học xã hội với tác phẩm Tìm cội nguồn của ý thức và ngôn ngữ (viết bằng tiếng Pháp, Editions Sociales, Paris, 1973).

Phan Ngọc

Phan Ngọc quê gốc ở xã Nhân Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong một gia đình khoa bảng có truyền thống Nho học, cha ông là Phó bảng Phan Võ nguyên Đốc học Phú Yên, Án sát Hà Tĩnh, hàm Thượng thư Bộ Lễ. Ông sinh năm 1925 tại Tĩnh Gia, Thanh Hóa, nơi cha ông khi đó đang làm Tri phủ.

Ông có bằng tú tài vào thời Pháp thuộc, sau đó có học qua ở trường Y rồi nhập ngũ tham gia cuộc chiến chống Pháp chiến đấu trong biên chế của Sư đoàn 304, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ năm 1952-1954, Phan Ngọc là Trưởng phòng Phiên dịch Bộ Giáo dục. Từ năm 1954-1955 ông là Sĩ quan Ban Liên hiệp đình chiến. Từ năm 1955-1958 Phan Ngọc là phụ giảng tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tổ trưởng đầu tiên của tổ Ngôn ngữ học, đồng thời kiêm nhiệm giảng viên Văn học Trung Quốc, Lý luận văn học tại khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Do có liên quan tới vụ án Nhân văn – Giai phẩm, ông không được trực tiếp giảng dạy nữa mà chuyển sang làm nhân viên dịch thuật khoa Văn.

Từ năm 1980-1995 ông là chuyên viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Ông được phong học hàm Phó Giáo sư năm 1992. Phan Ngọc đã giảng dạy ở Pháp, New Zealand, Hồng Kông, Singapore và viết khoảng 200 bài nghiên cứu đăng nhiều báo và tạp chí trong và ngoài nước.

Phan Ngọc là người biết nhiều ngoại ngữ. Ông từng dịch bộ Triết học Hegel từ tiếng Đức sang tiếng Việt để phục vụ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông dịch Thần thoại Hy Lạp từ nguyên bản tiếng Hy Lạp; Spartacus từ nguyên bản tiếng Ý; Chiến tranh và hoà bình từ nguyên bản tiếng Nga; Sử ký Tư Mã Thiên, thơ Đỗ Phủ… từ nguyên bản tiếng Hán; Shakespeare từ nguyên bản tiếng Anh.

Theo thông tin của báo Thanh Niên, sau Trương Vĩnh Ký, Phan Ngọc là người biết nhiều ngoại ngữ nhất ở Việt Nam. Ông biết tới 12 ngoại ngữ, trong đó sử dụng thông thạo được 6 ngoại ngữ.

Năm 1976, dịch giả Phan Ngọc đã dịch từ Triết học Hegel để chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV từ nguyên bản tiếng Đức, hoàn thành vượt thời hạn ba tháng, dù trước đó ông chưa hề biết tiếng Đức. Ông được gọi là “vua” dịch giả ở Việt Nam.

Ông được xem là nhà bách khoa cuối cùng của thế hệ trí thức Việt Nam được đào tạo dưới thời Pháp thuộc; tuy vậy những công trình của ông cũng đã gây không ít tranh cãi về chất lượng học thuật.

Cụm công trình về văn hóa Việt Nam của ông gồm Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận mới (1994) và Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1985) đã được Nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2000.

Các biện pháp đấu tố thanh trừng

Trong bài báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm, có một đoạn Tố Hữu viết:

“Cho đến khi, dưới ánh sáng của nghị quyết Bộ Chính trị, mở ra hai lớp học tập cho ngót 500 anh chị em văn nghệ sĩ, qua một cuộc đấu tranh kiên quyết thì mặt nạ của nhóm phá hoại “Nhân văn – Giai phẩm” mới hoàn toàn rơi xuống đất; và đồng thời, những sai lầm lệch lạc nghiêm trọng, nhất là tình trạng mất cảnh giác giai cấp trong văn nghệ sĩ, trong các đảng viên và cơ quan của Đảng cũng được vạch chỉ rõ ràng.

Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường Đại học, chủ yếu ở khoa Văn, khoa Sử, bọn tơ-rốt-kít Trương Tửu, Trần đức Thảo khoác áo giáo sư cũng phơi trần chân tướng” (Tố Hữu, “Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm “Nhân Văn- Giai Phẩm”, Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận).

Câu: “Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường Đại học…” rất quan trọng, nó xác định sự kiện cùng lúc với hai lớp Thái Hà, dành cho văn nghệ sĩ, thì trong Đại học, Giáo dục có các “lớp” khác, dành cho các giáo sư đại học, giảng viên, giáo viên, sinh viên và học sinh.

Về những biện pháp trừng phạt đối với toàn bộ văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên và quần chúng đã ít nhiều tham gia, đã đọc, đã mua báo, hoặc đã giúp đỡ, ủng hộ phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bằng cách này hay cách khác, hiện nay chưa có một ước lượng nào gần với sự thật nhưng có lẽ cũng phải hàng vạn người bị ảnh hưởng.

Tháng 8/2010, tôi đã viết trong bài Vụ Nhân Văn – Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành:

Tại các đợt học tập Chỉnh huấn tại các trường Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu tố, bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng chịu kỷ luật như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy,… Một số sinh viên cũng bị kỷ luật như Bùi Quang Đoài (Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ (Thúc Hà)…

Một số trí thức là nhân sĩ đã có thái độ ủng hộ NVGP cũng chịu các hình thức đối xử như Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục, Hoàng Văn Đức, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Tấn Gi Trọng… Ngoài ra, tại các địa phương những giáo viên, cán bộ, học sinh có hưởng ứng NVGP mua báo NVGP đều bị xử lý với nhiều hình thức.

Hiện nay, có rất ít tư liệu của các nhà trí thức Nhân Văn Giai Phẩm viết về vấn đề này, nên không thể biết những gì đã xảy ra cho họ. Nhờ cuốn Un Excommunié – Kẻ bị khai trừ, trong đó giáo sư Nguyễn Mạnh Tường kể lại ông đã bị đưa ra “corrida – đấu trường” ba lần: đấu trường Mặt trận Tổ Quốc, đấu trường Đại học và đấu trường Đảng Xã hội. Sau đó, ông hoàn toàn bị ly khai, không được tiếp xúc với người ngoài, không được dạy học, không cả dạy tư, rơi vào cảnh đói rét, bệnh tật.

Tại mỗi đấu trường, ông phải trả lời về “tội trạng” của mình. Đấu trường đầu tiên là phòng họp của Mặt trận Tổ Quốc ở phố Tràng Thi, được ông mô tả như sau:

Tôi đã có nhiều dịp tới đây dự các cuộc họp, hồi tôi còn ở trong nhóm những người được sủng ái được ngồi bên cánh phải của Người. Tôi biết rõ tất cả các vị “đồng liêu” sẽ quyết định số phận của tôi hôm nay!

Lần này, tôi vào phòng họp như con bò mộng bị thả vào đấu trường. Đúng là một đấu trường bởi vì tất cả bàn ghế đã được xếp dẫy dọc tường, chừa một chỗ trống giữa phòng. Sau dẫy bàn, là đám đông nhiều hạng người. Những người ngồi là thành viên Mặt Trận, đứng là những kẻ hiếu kỳ, phần đông là nhà báo, hoặc các cơ quan hội đoàn. Đó là thứ quần chúng đấu trường, thèm cảm giác mạnh và sôi sục ham muốn thấy quang cảnh lạ lùng khó tả sắp diễn ra!

Như con bò mộng thả trong đấu trường, tôi đưa mắt nhìn một lượt cử tọa. Nếu những người đứng, trố mắt nhìn và lắng tai nghe, thì những vị “đồng liêu” của tôi ngồi sau dãy bàn, có vẻ ngượng nghịu với nhiệm vụ mà họ chưa quen lắm. Tuy những câu hỏi đã được các vị “có thẩm quyền” soạn sẵn, nhưng trong cách diễn tả, giọng họ có chút bối rối. Tôi không khỏi thương cho họ bị rơi vào hoàn cảnh trái khoáy này”.

Biết rõ bản lĩnh của mình, luật sư Nguyễn Mạnh Tường cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong việc tự biện hộ, ông nắm chắc phần “thắng” trước những đối thủ tầm thường, đuối lý, không đáp lại được những lời hùng biện của người luật sư đầy kinh nghiệm.

Ngày hôm sau, đấu trường Đại học diễn ra trong không khí công cộng, mọi hạng người đều có thể tham dự. Hàng ngàn sinh viên, nhân viên trong đại học, nhà báo, những kẻ hiếu kỳ, bọn lang bang, đến kín chật hành lang, giảng đường, muốn dự kiến buổi “xử tử một trí thức nổi tiếng ở Hà Nội”. Lần này quan toà không ngồi bàn, mà thay phiên nhau bước lên giảng đàn. Nếu bên Mặt trận Tổ Quốc còn có chút nể mặt ông, chưa làm quá lộ liễu, thì ở đây, ông thấy rõ:

Người ta muốn kéo tên tôi xuống bùn đen, họ muốn chỉ rõ tội ác của tôi để biện minh trước cho sự trừng phạt mà họ sẽ dành cho tôi. Và đồng thời, để răn đe tầng lớp trí thức, để cải tạo họ, bắt họ tuân thủ vô điều kiện những mệnh lệnh và quyết định của đảng, theo đúng đường lối chính thống cộng sản. Tất cả mọi vi phạm vào nguyên tắc thần thánh này sẽ bị trừng phạt nghiêm ngặt, dù cho thủ phạm đã có công lớn như thế nào đối với tổ quốc và cách mạng.

Dưới chân giảng đàn mà tôi đã trải qua những giây phút đẹp nhất cuộc đời, tôi được thấy những điều tồi tệ nhất. Tôi thấy, không những người ta muốn trừng phạt tôi -xin lỗi- cải tạo tôi, mà còn hơn nữa: họ muốn dìm tôi xuống địa vị một phạm nhân dưới chân cái bục mà thời vàng son tôi đã đứng, bắt tôi nghe những lời thoá mạ mỉa mai cay độc của những kẻ không phải là đồng song với tôi như ở Mặt Trận mà là những đứa nhãi ranh không biết lượm được ở đâu, một vài kẻ hình như đã học tôi.

Những lời đấu tố thô bỉ người thầy, không được Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại, ông chỉ ghi lại cuộc tranh luận của ông với một sinh viên học trò cũ và một nhà giáo trung học nhờ chạy chọt, được lên dạy đại học, vì những vấn đề họ đưa ra, có chỗ đáng bàn. Và ông vẫn vận dụng kiến thức của mình để thuyết giảng. Ông thấy mình như đã chiếm được cảm tình của số đông cử tọa, qua ánh mắt của họ. Un excommunié của Nguyễn Mạnh Tường thuật lại những nổi trôi của một người trí thức có lòng với đất nước, trong buổi đổi đời.

Qua biện pháp kỷ luật dành cho Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, chúng ta có thể ức đoán được chính sách đối xử với Đào Duy Anh…

Trong số đấu tố nhiệt thành có cả những giảng viên của hai trường, ngoài Nguyễn Lân còn có Hoàng Xuân Nhị.

Thái Vũ viết:

Về lý lịch, Hoàng Xuân Nhị có một lý lịch đặc biệt buộc tôi phải chú ý: ông ta học ở Pháp; 1939 Đức Quốc xã chiếm Paris, lập chính phủ bù nhìn bán nước Vichy với thống chế Pétain, Hoàng Xuân Nhị đã theo quân Đức Quốc xã qua Berlin và được nuôi dưỡng; năm 1945 Đức bại trận, Hoàng Xuân Nhị trở về Paris và… sau đó gia nhập Đảng Cộng sản Pháp…

Đến năm 1955 đã thấy ông ở Hà Nội dạy năm đầu Đại học Sư phạm Văn học, khi tôi học năm thứ 3. Về trình độ học vấn của ông thì sau này, khoảng sau năm 1970 còn có hai bài bàn tới, đăng trên hai số báo Văn nghệ, của Hoàng Minh và Tạ Ngọc Liễn.

Nguyễn Lân với bài Trường Đại học Sư phạm đã nhổ được hai cái gai:

Sở dĩ có những lệch lạc ở một số sinh viên khoa Văn và khoa Sử là vì họ đã chịu cái ảnh hưởng tàn khốc của Trương Tửu và Trần Đức Thảo… Nhà trường đòi hỏi các cán bộ giảng dạy trước khi lên lớp phải soạn giáo trình và giáo án; nhưng Tửu và Thảo thì không chịu viết giáo trình, lấy cớ là môn mình phụ trách khó quá chưa thể cho in thành tài liệu được. Sự thực là họ sợ mực đen giấy trắng dễ biểu lộ những tư tưởng phản động của họ. Họ thường tay không lên lớp rồi nói lung tung, không theo một phương pháp sư phạm nào. Vì không có giáo án nên đã có lần Trương Tửu không chuẩn bị, phải nhai lại một bài đã giảng kỳ trước, làm cho sinh viên hết sức công phẫn…

… Nhưng Trương Tửu và Trần Đức Thảo thì ngược lại, chỉ âm mưu dùng cái diễn đàn của trường đại học để đả kích chế độ, đả kích Đảng và xuyên tạc chân lý. Thí dụ: Tửu đã say sưa giảng về Vũ Trọng Phụng để chứng minh rằng Vũ Trọng Phụng sáng suốt hơn Đảng. Còn Thảo thì trong hai năm dạy lịch sử tư tưởng chỉ cố ý dừng lại ở Hê-ghen, không hề giảng đến Mác, Thảo luôn luôn dùng cái “hạt nhân duy lý” để xóa nhòa ranh giới giữa duy vật và duy tâm, xóa nhòa ranh giới giữa ta và địch. Quả là Tửu và Thảo đã dụng tâm làm tan rã lòng tin tưởng của sinh viên vào Đảng, vào chế độ.

Những sinh viên đấu tố tích cực có: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Khắc Thành…

Một giáo viên ở Hà Tĩnh cho biết:

Mùa hè năm 1958, tất cả giáo viên cấp II, III miền Bắc tập trung ở trường Bổ túc công nông để chỉnh huấn tư tưởng, quét sạch nọc độc Nhân Văn – Giai phẩm trong nhà trường. Có lẽ chưa có một đợt chỉnh huấn nào có quy mô rộng lớn và kéo dài như vậy. Trưởng ban chỉnh huấn là đồng chí Võ Thuần Nho, bí thư là đồng chí Hà Huy Giáp (Thứ trưởng Bộ Giáo dục). Các giảng viên đến giảng bài có các đồng chí Trường Chinh, Hà Huy Giáp, Nguyễn Khánh Toàn, Đỗ Mười, Ngô Minh Loan… Một tháng học lý thuyết, một tháng kiểm thảo, thời gian viết kiểm thảo quy định “nội bất xuất, ngoại bất nhập”.

Người được chọn kiểm thảo điển hình cho cụm giáo viên khu IV, không ngoài ai khác là thầy Trần Quốc Nghệ. Nhưng dường như quanh đi quẩn lại cũng chừng ấy vấn đề: với Quốc Dân Đảng, với những phần tử Nhân Văn Giai phẩm. Cũng may cho thầy là hồi ấy ở trong khu IV không có liên hệ với ai, còn chúng tôi cũng may là không tham gia, không liên hệ gì cả. Sau chỉnh huấn, tư tưởng được đổi mới, phấn đấu nhiều hơn để lột xác tiểu tư sản (tạch tạch sè) và đứng vào hàng ngũ người lao động. Còn thầy vẫn như trước, có phần ưu tư hơn. Một hôm, thầy nghĩ thế nào lại nói với tôi: “Cậu thấy không, chỉnh huấn rồi cũng về ngày ngày soạn bài, lên lớp chấm bài, có khác gì đâu?”. Tôi sững người, thầy Nghệ “vô chính trị” đến thế là cùng! Ai mà nghe được câu đó thì không biết thầy bị mấy lần kiểm điểm. Nhưng suốt một thời gian dài, tôi không dám nói với ai, vì tôi nghĩ con người đôi khi vẫn có những lúc buột miệng lỡ lời, nếu đem quy kết thì dễ thành tội nặng là đằng khác. Thời ấu trĩ về chính trị ấy, có người chỉ vì một câu nói, một bài báo cũng đủ kết tội đến mấy chục năm không gỡ ra được.

Ninh Viết Giao thuật lại trong hồi ký Xứ Nghệ và tôi, NXB Nghệ An 2006:

9-1956 vừa tốt nghiệp ĐHSP VK khóa 1 về Nghệ An được phân về trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng. Vài năm đầu ở HTK nhiều chuyện xảy ra.

Quan trọng nhất là Nhân văn Giai phẩm. Tôi bị quy những khuyết điểm như sau:

Dự hội nghị trong đêm ở Khu học xá trước khi về Vinh có đông đủ sinh viên năm thứ 2 thứ 3 Văn và Sử do thày Trần Đức Thảo triệu tập.

Học trò thân của thầy Trương Tửu, thầy Trần Đức Thảo…

Bạn thân của nhiều người trong nhóm Đất Mới như Thúc Hà, Bùi Quang Đoài, Văn Tâm…

Nói chuyện Vũ Trọng Phụng, treo ảnh Vũ Trọng Phụng trong nhà.

Đọc báo Nhân văn, Giai phẩm và Đất Mới…

V.v.

Sau sửa sai, hè 1958, chỉnh huấn giáo viên cấp 2 và cấp 3 toàn quốc tại trường Bổ túc công nông Hà Nội, tôi là một trong số 2,3 giáo viên của trương Huỳnh Thúc Kháng bị đưa ra kiểm thảo điển hình. Tôi không nhắc lại lời thày nọ, thày kia đã phê phán tôi, nặng lời với tôi.

…Trở về Vinh, đầu năm học 1958-1959. Ban giám hiệu trường Huỳnh Thúc Kháng hạ tôi xuống chỉ cho tôi dạy 2 lớp 8 và không cho làm Tổ trưởng chuyên môn nữa.

Trong Trăm năm ly hợp – Lê Khắc gia phả chí, Nhà xuất bản Lao Động Hà Nội 2013, tác giả Lê Khắc Hoan cho biết:

“Khê đang công tác tại Tổ giáo vụ Sư phạm cấp tốc trực thuộc Sở Giáo dục Khu tự trị Thái Mèo. Anh được đọc Người người lớp lớpNhất định thắng rồi nghe tin Trần Dần, Tử Phác bị bắt. Cơ quan Sở Giáo dục theo chỉ đạo của Tuyên huấn Khu ủy mở cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm gieo nọc độc trong ngành giáo dục. Văn Khê bị đình chỉ công tác chuyên môn. Chuyển làm hành chính sự vụ. Phụ trách cờ đèn kèn trống các hội nghị và cơm áo gạo tiền cho các lớp sư phạm. Cả năm trời sau đó, Văn Khê nín lặng ẩn nhẫn”.

Theo Thái Vũ, các bạn ông chịu những trừng phạt sau: bị cách chức trợ giảng, buộc rời khỏi trường đại học và chuyển đi dạy cấp 3 ở địa phương.

Hà Thúc Chỉ (Thúc Hà) về Hải Phòng dạy trường cấp 3 Ngô Quyền. Văn Tâm bị “biếm” lên tỉnh Phú Thọ, sau được về Hà Nội dạy trường cấp 3 Nguyễn Trãi. Phan Kế Hoành đi dạy trường cấp 3 Hà Đông, lại được chuyển về Ban Tu thư Bộ Giáo dục, tham dự làm sách giáo khoa.

Bùi Quang Đoài (Thái Vũ) được cho về Phòng Tuyên truyền báo chí của Bộ Giáo dục lúc đó.

Ninh Viết Giao thì về Nghệ An. Hà Nhật về Quảng Bình…

Phan Ngọc và Cao Xuân Hạo cũng không được giảng dạy, chuyển sang dịch tư liệu cho Khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Hữu Đạt một cựu sinh viên, giáo viên ở Khoa Ngôn ngữ Đại học Tổng hợp Hà Nội kể:

Các thế hệ sau này không hề biết Phan Ngọc ngoài việc đọc một số các công trình rất nổi tiếng của ông. Nhưng thế hệ chúng tôi thì được gần gũi với ông khá nhiều. Nhất là những năm chúng tôi mới ở lại trường. Dạo đó, kỳ thực không ai nói với chúng tôi ông là vị tổ trưởng bộ môn đầu tiên của tổ Ngôn ngữ học. Chúng tôi chỉ biết đại khái, ông là một nhân vật cỡ của Phong trào Nhân văn Giai phẩm, một phong trào tư tưởng ta đã có dịp biết đến ở hồi thứ nhất trong thiên lịch sử Văn khoa giai đoạn thập kỷ sáu mươi. Lúc đó, cũng có người nhắc nhở chúng tôi là không nên tiếp xúc với ông nhiều, mặc dù ông là một cán bộ trong khoa. Khi đó ông hoàn toàn không còn là một cán bộ giảng dạy mà là một nhân viên của phòng tư liệu khoa Văn. Song, hầu như tất cả cán bộ thuộc trang lứa chúng tôi, ai cũng vẫn gọi ông bằng “thầy” trong xưng hô giao tiếp hàng ngày một cách rất tự nhiên. Có thày làm thơ tặng ông:

Thông minh vốn sẵn tính trời

Qua cơn bão tố hoá người ngẩn ngơ

Mấy ai tính được chữ ngờ

Tại các địa phương còn diễn ra sự truy bức những người ủng hộ Nhân Văn Giai Phẩm, yêu cầu nộp sách báo của Nhân Văn, kỷ luật, điều chuyển công tác những giáo viên có tư tưởng Nhân Văn… Sau nữa một vài người nhân lý do đó còn bị bắt giam đi tù nhiều năm. Ví dụ như ông Bùi Văn Nghĩa học khóa I Đại học Sư phạm Văn khoa ra trường 1957 khi bị bắt 1964 khi đang dạy Cấp 3 Thị xã Sơn Tây.

Có một số người tham gia đánh Nhân Văn Giai Phẩm sau mươi năm lại thay đổi chính kiến chính trị và lại lâm nạn, bị kết án tư tưởng xét lại như Võ Hồng Cương hoặc bị bắt như các ông Huy Vân, Trần Thư, Phùng Văn Mỹ, Lê Khắc Thành…

Các cuộc đấu tố, thanh trừng trong lĩnh vực đại học và giáo dục để lại nhiều dấu ấn nặng nề trong quan hệ thầy trò, học sinh, sinh viên mấy chục năm sau. Trong các cuộc gặp mặt của Khóa Sư phạm Văn khoa 1956 khi bắt đầu đổi mới cũng xảy ra tranh cãi việc đón các thầy Nhân Văn đến dự hay không, việc có báo cho những người đã đấu tố các thầy hay không. Hoặc có vài người vẫn oán trách thầy Trần Văn Giàu vì dẫn công an xuống bắt sinh viên. Có người vào thành phố HCM nhưng không bao giờ đến thăm thầy Trần Văn Giàu.

Khi kiến nghị giải quyết chế độ chính sách cho các văn nghệ sỹ, trí thức đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm chúng tôi có đề nghị các Ban Ngành cùng hưởng ứng, tiến hành. Công việc giải tỏa với những người liên quan khối Văn học Nghệ thuật đã tiến hành tương đối tốt, Phan Khôi, Trương Tửu đã được phục hồi hội tịch Hội Nhà văn, nhiều ông đã được kết nạp hội viên Hội Nhà văn như Văn Tâm, Bùi Quang Đoài…

Nhưng tại ngành giáo dục riêng việc phục hồi chức danh giáo sư cho bốn ông Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu thì vẫn chưa tiến hành.

Comments are closed.