Đào Duy Anh (3)

Thái Kế Toại

Đào Duy Anh trong Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm

Ông Hoàng Văn Chí – tác giả cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc xuất bản ở Sài Gòn tháng 1-1959, một trí thức ở Pháp về, người là anh em đồng hao với Nguyễn Sơn, Vũ Ngọc Phan, từng công tác ở Việt Bắc – viết về tính cách Đào Duy Anh như sau:

Ông là người điềm đạm, trong các buổi họp ông ít phát biểu ý kiến và mỗi khi cuộc thảo luận trở nên gay gắt thì ông hay lẩn tránh. Tuy vậy gần đây ông cũng đứng hẳn về phe đối lập viết nhiều bài trong Nhân Văn và Giai Phẩm lên án chính sách của Đảng.

Có ba sự kiện tác động đến tư tưởng của Đào Duy Anh là:

Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô, báo cáo của Khrutsôp về những tội ác của Stalin.

Ấn phẩm đầu tiên của Nhân Văn Giai Phẩm đã xuất hiện là tập Giai phẩm mùa Xuân.

Sự kiện thứ 3 là vào tháng 4-1956 ông cùng đoàn giáo sư Đại học Sư phạm Văn khoa do Giáo sư Trần Văn Giàu làm Trưởng đoàn, Giáo sư Trương Tửu, ông Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Lương Ngọc phụ giảng, ông Đào Văn Nhâm phụ trách văn phòng tham quan các trường đại học lớn của Trung Quốc như Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm Bắc Kinh, Nam Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu nhằm nghiên cứu cách tổ chức và giảng dạy đại học. Lúc đó văn nghệ sĩ và trí thức trung Quốc còn đang được hít thở bầu không khí Trăm hoa đua nở – Trăm nhà đua tiếng và chính sách đổi mới đối với trí thức qua bài phát biểu của Chu Ân Lai.

Ngày 23-5-1956 Giáo sư Trương Tửu phát biểu trên Đài phát thanh Bắc Kinh nhận xét về công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học Trung Quốc: “Các nhà lãnh đạo văn hóa ở Trung Quốc đã nắm được quy luật phát triển của khoa học: Đó là sự tự do tìm tòi. Tự do tư tưởng, tự do tranh luận trên cơ sở kết hợp lý thuyết với thực tế cách mạng. Về văn nghệ, Đảng cộng sản đã nêu cao khẩu hiệu: Trăm hoa đua nở (bách hoa tề phóng). Về khoa học Đảng lại đề ra khẩu hiệu: Bách gia tranh minh (trăm nhà đua tiếng). Mọi tài năng ý kiến ấy nhằm mục đích: phục vụ nhân dân kiến thiết xã hội chủ nghĩa. Mọi tài năng đều được phát biểu. Trên con đường đi tìm chân lý để phục vụ nhân dân, không có một uy quyền độc tôn nào có thể đàn áp sự tự do tư tưởng của nhà nước”.

Hẳn là những sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến Đào Duy Anh và đó là những cơ sở để ông tin vào thời cuộc đang xoay vần cho hy vọng của ông và nhiều trí thức, văn nghệ sĩ cấp tiến khác. Chính vì thế hơn 25 năm qua tưởng rằng ông đã lìa xa chính trị chỉ để làm nghiên cứu văn hóa, lịch sử nhưng nay thời thế lại vẫy gọi ông. Không thể làm ngơ với nó được, con người kẻ sĩ trong ông lại thúc giục. Không những lên tiếng mà ông còn có vai trò hướng dẫn những người đàn em như Trần Đức Thảo.

Trong Triết gia Trần Đức Thảo Di cảo Khảo luận Kỷ niệm, NXB Đại học Huế 2016, trang 1268-1269, ông Cù Huy Chử cho biết:

Khi báo Nhân Văn ra đời, cùng với tạp chí Giai phẩm Mùa Đông, ông Đào Duy Anh có nói với Trần Đức Thảo: “Ta nên gửi bài”. Trần Đức Thảo hỏi Đào Duy Anh nên viết từ góc độ nào. Đào Duy Anh trả lời: nên viết từ góc độ văn hóa, triết học. Trần Đức Thảo nói với Đào Duy Anh: “Cũng phải, vừa rồi anh Trường Chinh có mời tôi đến nhà và trao cho tôi những tài liệu của Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô. Anh Trường Chinh nói với tôi cần khai thác khía cạnh chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Đào Duy Anh nói với Trần Đức Thảo: Vậy thì anh hãy viết về vấn đề tự do dân chủ. Trần Đức Thảo trầm ngâm một lúc rồi trả lời Đào Duy Anh: Sai lầm trầm trọng của Cải cách ruộng đất và Chấn chỉnh tổ chức chính là vấn đề này. Chính đồng chí Nguyễn Duy Trinh trong báo cáo trước Quốc hội đã nói, muốn khắc phục những sai lầm trong Cải cách ruộng đất thì phải phát huy dân chủ. Nhưng theo tôi, có lẽ cái khía cạnh cần nói mà bây giờ chưa nói được. khó quá! Đó là nhìn nhận con người như thế nào cho đúng trong sự phát triển của lịch sử. Vô lý qúa, cùng một con người ấy, ngày hôm qua được vinh danh, được ca ngợi là người cách mạng, mà hôm nay lại bị coi là một tên phản động. Không thể nói sai lầm trong Cải cách ruộng đất là một sự nhầm lẫn, là một sai lầm có tính chất cục bộ, phải đào sâu để hiểu cái sai lầm ấy có nguồn gốc trong tư tưởng, trong triết học. Đào Duy Anh trả lời Trần Đức Thảo: Nhận thức của anh thì đúng quá rồi. Đúng vậy, chính tôi cũng nhiều lần tự vấn: Tại sao tôi tổ chức ra đảng Tân Việt mà lại không đi đến tận cùng với nó, rồi sau lại tiếp tục đi với tư tưởng của nó khi Cách mạng Tháng Tám thành công dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng đặt vấn đề như anh để nghiên cứu sai lầm của Cải cách ruộng đất, e không thích hợp lúc này. Thôi anh cứ viết thẳng về vấn đề phát huy dân chủ và tự do.

…Ba ngày liền tôi bị phái Phạm Huy Thông đả kích liên tục bằng những chuyện bịa đặt. Tôi không biết nói ra sao, vì trong cảnh tố đấu ai được ai thua, tức là đấu lực thì không thể nào nhắc đến thực chất của vấn đề, là những gì đã xảy ra trong Chỉnh đốn tổ chức, do sự thống trị thực tế của tư tưởng Mao Trạch Đông, thông qua đoàn cố vấn Mao ít… Tôi thấy cái phương pháp khủng bố ấy tạo nên đau xót quá chừng.

…Mấy hôm trước anh Đào Duy Anh bảo tôi rằng dựa vào kinh nghiệm của anh ấy, thì phải nhận ngay tất cả để cho yên.

Ông trực tiếp tham gia Nhân Văn Giai Phẩm với hai bài: Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ Ý kiến của ông Đào Duy Anh, nhà sử học trên báo Nhân Văn số 2 ngày 30-9-1956 và bài Muốn phát triển học thuật trên Giai phẩm Mùa Thu tập III. Giống như lời khuyên Trần Đức Thảo ông đã rất thận trọng, không đụng chạm đến vấn đề chính trị của những sai lầm trong Cải cách ruộng đất và Chấn chỉnh tổ chức mà chỉ nói về học thuật, nghiên cứu khoa học trong trường đại học của ông.

 

Trả lời Bài thứ nhất:
Trong khi về thực tế phần nhiều những phương tiện xuất bản, phát hành, đến cả các phương tiện nghiên cứu và sáng tác đã tập trung ở các cơ quan chính quyền, thì vấn đề không phải là đấu tranh để đòi tự do gì gì, mà là đấu tranh để tranh thủ sự giúp đỡ thiết thực của Chính phủ tạo điều kiện cho sự thực hiện những tự do ấy, ví dụ giúp đỡ thiết thực cho tư nhân xuất bản dễ dàng, giúp đỡ việc phát hành, cho phương tiện thuận tiện để sáng tác và nghiên cứu, săn sóc sự xuất bản rộng rãi các tác phẩm văn nghệ và đặc biệt chú ý xuất bản những tác phẩm nghiên cứu khoa học. Ở trong chế độ ta, Chính phủ và nhân dân là nhất trí. Những yêu cầu trên là nghĩa vụ của Chính phủ phải thoả mãn để phát huy hết khả năng của nhân dân và của giới trí thức nói riêng.
…Cho nên, theo ý tôi, vấn đề đầu tiên phải đặt ra là làm thế nào cho các cơ quan có liên quan trách nhiệm thấy rằng xây dựng trường Đại học là một vấn đề quốc gia trọng đại, không tích cực góp phần vào xây dựng nó mà có khi còn trở ngại nó là có tội với nước, với dân. Vấn đề ý thức, vấn đề tư tưởng ấy mà giải quyết được thì mới khỏi gặp phải tình trạng như đối với cái quỹ tí hon 10 vạn đồng một tháng để xây dựng cái thư viện văn khoa cho trường Đại học, bộ Tài chính lại thỉnh thoảng xén xẻo đi một nửa lấy cớ là mua sách nhiều quá (trong khi để có kẻ tham ô lãng phí mỗi lần hàng mấy trăm triệu), hoặc tình trạng như sách Trung Quốc viện trợ cho nước ta rất nhiều, thế mà hơn nửa năm nay, bộ Giáo dục và nhiều người quan trọng can thiệp, bộ Văn hoá vẫn giữ cả chưa chuyển cho trường Đại học quyển nào, đến nỗi các giáo sư rất cần những sách ở đó để chuẩn bị khai giảng sắp tới mà sách vẫn nằm mốc trong kho của Thư viện Trung ương, không tài nào gỡ ra được.

…Dù là một tổ chức nghiên cứu khoa học, tiêu chuẩn chính trị cũng cần phải có, vì chúng ta không quan niệm có nhà khoa học phi chính trị, có nhà chuyên môn siêu giai cấp. Nhưng nên yêu cầu tiêu chuẩn chính trị như thế nào? Có cần nhất thiết phải là đảng viên hay dự bị đảng viên thì mới dùng? Có cần phải là người ngoan ngoãn phục tùng, khôn khéo, mềm dẻo, ít đấu tranh, tức là ít làm phiền cho cấp trên thì mới dùng, mà người có tinh thần đấu tranh thì nhất thiết gạt đi? Hay là cần đặt tiêu chuẩn rộng rãi hơn như thế nào?
Về tiêu chuẩn chuyên môn thì cấp trên nên bằng cứ vào đâu? Nếu bằng cứ vào thành tích nghiên cứu và công tác chuyên môn do quần chúng – quần chúng trực tiếp là học sinh và giáo sư, quần chúng gián tiếp là công chúng rộng rãi và giới khoa học quốc tế – nhận định, hay chỉ bằng vào sự xét đoán riêng, không khỏi có phần hẹp hòi chủ quan và cảm tình cá nhân, của người lãnh đạo?
Cuối cùng tôi muốn nêu lên vấn đề học tập nước bạn. Trong công cuộc xây dựng ngành Đại học, chúng ta cần phải học tập, mà cần phải học tập rất nhiều các nước bạn, nhất là Liên Xô và Trung Quốc là những nước làm thầy chúng ta về nhiều mặt. Chúng ta cần phải thành khẩn học tập kinh nghiệm cũng như kiến thức của các chuyên gia nước bạn. Nhưng có nên lấy tinh thần tự ti dân tộc mà phủ nhận khả năng sáng tạo của chuyên gia Việt Nam không? Vấn đề này cũng cần phải thảo luận để nhằm thực hiện sự học tập một cách sáng tạo; không sa vào cái tệ học tập máy móc và giáo điều có thể gây nên tai hại.

Bài thứ hai: Muốn phát triển học thuật
Tôi muốn góp một số ý kiến vào vấn đề xây dựng nền học thuật của nước nhà. Chẳng cần phải thảo luận, ai ai cũng phải thừa nhận rằng nền học thuật của ta hiện nay thấp kém, lạc hậu. Trong sự nghiệp kiến thiết kinh tế và văn hoá để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ theo hướng xã hội chủ nghĩa, công tác học thuật, công tác nghiên cứu khoa học, có một vai trò trọng đại, vì công tác này mà không phát triển thì không những kiến thiết văn hoá mà cả kiến thiết kinh tế cũng không thể đi xa. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm thế nào cho công tác ấy đáp ứng xứng đáng được nhu cầu kiến thiết. Nhưng muốn nhận định nhiệm vụ ấy cho đúng đắn, cần phải đánh giá đúng mức tình hình hiện tại của công tác học thuật.

…Tình trạng ấy lại củng cố thêm thành kiến của người cán bộ chính trị phổ thông cho rằng người trí thức chuyên môn cũ chỉ biết khoa học kỹ thuật của đế quốc là cái không thích hợp với chế độ chúng ta. Chính bản thân người trí thức chuyên môn, sau bao nhiêu đợt chỉnh huấn cũng phải nhận thấy rằng mình vốn chứa đầy thói hư nết xấu của thành phần tiểu tư sản hoặc mang nặng những tư tưởng tư sản và địa chủ, và sau khi đã xác định thái độ phục vụ nhân dân vô điều kiện, thì họ đã tự nguyện thủ tiêu hết thắc mắc về công tác chuyên môn để toàn tâm toàn ý phục vụ kháng chiến.
..Do đó, trong thực tế, người trí thức không được cảm thông nâng đỡ trong yêu cầu chuyên môn của họ, mà trái lại, họ cảm thấy luôn luôn bị người cán bộ chính trị chèn ép. Viết đến đây, ngòi bút của tôi ngần ngại rất nhiều. Tôi sợ không khéo người ta lại gia cho tôi cái tội muốn cho chuyên môn độc lập với chính trị, tức muốn thoát ly sự lãnh đạo của Đảng.

…Sự phân công giữa công tác chính trị và công tác chuyên môn phải rạch ròi thì công tác chuyên môn mới tiến hành thông suốt được. Nhưng tình hình thực tế của ta thì cũng ít khi đạt được mức lý tưởng như thế. Vì cái thành kiến không tin trí thức, cho nên trong nhiều cơ quan, có khi là cơ quan thuần tuý chuyên môn, bên cạnh hay ở trên người cán bộ phụ trách chuyên môn, tất phải có người cán bộ chính trị để lãnh đạo. Người cán bộ chính trị ấy, có khi vì trình độ còn non, thường có khuynh hướng vượt quá quyền hạn mà lấn sang quyền điều khiển chuyên môn.

Trong địa hạt khoa học tự nhiên, sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn như thế cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Trong địa hạt khoa học xã hội thì mối tệ cũng không kém. Vì khoa học xã hội chịu sự lãnh đạo của chính trị trực tiếp hơn cho nên người ta rất dễ nghĩ lầm rằng hễ người có lập trường và năng lực chính trị vững vàng thì tất có điều kiện căn bản cần thiết để làm công tác về khoa học xã hội. Bởi thế chúng ta thấy không ít trường hợp, hoặc những cán bộ thuần tuý chính trị hoặc những cán bộ chính trị mượn danh hiệu chuyên môn, được cử ra lãnh đạo một tổ chức văn hoá hay học thuật. Như thế thì công tác nghiên cứu khoa học khó lòng được quan niệm và hướng dẫn đúng đắn.

Tóm lại, chính cái tư tưởng không tin và coi rẻ trí thức đã dẫn đến sự ứng dụng lệch lạc cái nguyên tắc rất đúng đắn về quyền lãnh đạo của chính trị, do đó công tác học thuật của chúng ta, về khoa học tự nhiên cũng như về khoa học xã hội, gặp nhiều cản trở mà vẫn bị hãm vào tình trạng lạc hậu.

…Do đó vấn đề mấu chốt cần phải giải quyết trước hết để thúc đẩy công tác học thuật tiến lên là vấn đề trí thức.

Đây là chỗ nên nhắc lại lời nói của Ô. Mi-cai-an ở Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô: “Học thuật là cái gì nếu không có tinh thần sáng tạo? Thế chỉ là bài tập của học sinh chứ không phải là học thuật, vì học thuật trước hết là sáng tạo cái mới chứ không phải là nhai lại.” Lời nói ấy mãi khuyến cáo những người làm công tác học thuật phải nghiêm khắc với mình.
Nhưng muốn tìm được cái mới thì tất phải biết rõ tình hình cái cũ là thế nào đã. Người làm công tác nghiên cứu khoa học phải biết rõ tình hình tài liệu về vấn đề mình muốn nghiên cứu, và hiện trạng nghiên cứu của vấn đề ấy là thế nào. Như thế mới tránh khỏi cái tình trạng mình mất công cặm cụi phiên dịch hay trình bầy một tài liệu mà người khác đã phiên dịch hay trình bầy từ trước mất rồi, hoặc “một mình vùi đầu vào nghiên cứu một vấn đề và có được những kết quả khả quan, nhưng không may họ không biết rằng có người khác, thậm chí mấy chục năm trước đây đã đạt được những kết quả ấy rồi” (xem bài nói chuyện của ông Lục Định Nhất về Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh). Như thế thì cũng tránh khỏi cái tình trạng có hại hơn nữa là có khi người ta chỉ tìm thấy một mẩu tài liệu vụn vặt nào đã tưởng lầm rằng đó là một phát minh quan trọng, vội dựa vào đó mà kết luận dứt khoát về một vấn đề mà các nhà học giả trong nước, có khi là trên thế giới, đang tranh luận gay go.

…Cái điều kiện cuối cùng, mà không thể thiếu được, để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Ở đây tôi không vạch ra hạn chế tự do tư tưởng nói chung vì những tác phong quan liêu bè phái, độc đoán là những cái đã tác hại nghiêm trọng trong mọi ngành công tác. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai hình thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Đại hội thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô đã tố cáo những tác hại của hai bệnh ấy trong công tác tư tưởng và học thuật, nhất là về khoa học xã hội. Phần lớn các nhà công tác lý luận cũng như các nhà triết học, sử học chỉ là "nhắc lại những khuyến cáo, công thức và đề án cũ mà họ đã lật đi lật lại đủ chiều" (Mi-cai-an). Thậm chí người ta còn cho rằng "khoa học xã hội chỉ có thể phát triển nhờ những nhân vật phi phàm, các nhà học giả khác chỉ có việc là chú giải và phổ biến những tác phẩm của các lãnh tụ" (Kommounist). Ở nước ta thì bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn, khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Mác-Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc những ý kiến của Sta-lin hay các lãnh tụ khác, để, hoặc phát triển thêm những ý kiến ấy, hoặc g̣ò bó tài liệu, xoay sở thế nào để gán vào khuôn khổ của những công thức rút ra tự những ý kiến ấy. Xin chỉ một cái tỷ dụ gần đây. Như vấn đề phân kỳ của lịch sử Việt Nam và vấn đề hình thành dân tộc, chúng tôi nhận thấy rằng nhiều người nghiên cứu không dám có ý kiến gì mới ngoài những điều các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác hay các vị lãnh tụ đã nói về các vấn đề ấy. Bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn: hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ, như cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt mồm bịt miệng người ta.
Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được.

..Phải áp dụng chính sách "bách gia tranh minh" mà Đảng Cộng sản Trung Quốc thi hành đối với công tác nghiên cứu khoa học, cái chủ trương mà ông Lục Định Nhất đã giải thích rằng: "Tự do suy nghĩ độc lập, tự do tranh luận, tự do sáng tác và tự do phê bình, tự do phát biểu ý kiến của mình". Về điểm này tôi không thể nói gì hơn. Tôi chỉ xin nhấn mạnh rằng cái tự do chúng ta chủ trương đây, cũng như ý kiến của ông Lục Định Nhất, không phải là tự do theo lối tư sản, mà là tự do dân chủ trong nội bộ nhân dân.
Những vấn đề chúng tôi nêu trong bài này thì ở Trung Quốc người ta đã giải quyết tốt đẹp rồi. Về vấn đề trí thức thì bản “Báo cáo về vấn đề phần tử trí thức” của Chu Ân Lai đọc ở cuộc hội nghị bàn về vấn đề phần tử trí thức do Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập hồi tháng 1 năm này đã nêu lên chính sách cụ thể của Đảng và Chính phủ, làm cho toàn thể giới trí thức Trung Quốc vô cùng phấn khởi và tin tưởng chắc chắn vào tương lai tươi đẹp của mình và của nước nhà. Về vấn đề phát triển học thuật thì bài nói chuyện của ông Lục Định Nhất hồi tháng 5 vừa rồi về chính sách “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” lại làm cho giới trí thức thấy cái đường lối công tác rộng rãi và đúng đắn, đảm bảo chắc chắn sự thực hiện cái nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho họ, trong hạn 12 năm phải làm cho Trung Quốc theo kịp trình độ khoa học tiền tiến của thế giới về những ngành quan trọng. Việt Nam chưa phải là một nước tiến bộ như Trung Quốc, cố nhiên giới trí thức Việt Nam cũng không đòi hỏi sự giải quyết vấn đề in hệt như Trung Quốc. Vấn đề của chúng ta nhất định phải giải quyết trên cơ sở thực tế của chúng ta. Nhưng chúng ta đã học tập Trung Quốc về nhiều phương diện, thì về phương diện này chúng ta cũng có thể học tập Trung Quốc để tìm cái hướng giải quyết vấn đề của chúng ta. Giới trí thức Việt Nam đương chờ đợi một sự giải quyết mạnh bạo và căn bản.

 

Hậu Nhân Văn

Trong cuốn Dâu họ Đào, hồi ký của bà Phan Thị Bội Hoàn phu nhân ông Đào Duy Dếnh chưa xuất bản có viết:

Bạn bè xa lánh, còn một số đến thăm là Văn Cao, Sỹ Ngọc, Bửu Tiến, Tôn Quang Phiệt và một vài người nữa.

Thời gian này Đào Duy Anh buồn vì đáng ra những người bạn tâm đắc đã cùng hoạt động từ thời Tân Việt ở Huế, ở Việt Bắc. khu IV cũ nay có chức, có quyền cần hiểu và thông cảm chia sẻ vui buồn với bác, nhưng ngược lại họ đi phát biểu không đúng sự thật, lại còn viết báo Nhân dân phê phán, truy chụp bác trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm để chứng tỏ họ là người có lập trường cách mạng với Đảng.

… Cuối đời bác nói với con trưởng của tôi: “Bác đã viết xong một cuốn Bi kịch trí tuệ nhưng chưa thể in được cháu ạ. Với tư cách là người làm sử bác kể lại bi kịch của các nhân vật được nhân loại tôn sùng từ Chúa Zê xu, Đức Phật Thích Ca, Mô ha mét, Ga li lê, Tư Mã Thiên, Nguyễn Trãi và nhiều nhân vật khác. Bác muốn nói lên những ai có suy nghĩ và đi trước thời đại của mình, quyết bảo vệ suy nghĩ ấy là đúng thì họ đều bị chính quyền đương thời hành hạ.”

Hồi ký Sống với tình thương của bà Trần Thị Như Mân (Nhà xuất bản Trẻ, 1992), vợ Đào Duy Anh:

Cùng thời gian này đã xảy ra vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, anh Anh bị đưa ra kiểm điểm trước hội trường, phải viết bài nhận lỗi trên báo Nhân dân và sau đó không được dạy Trường Đại học Tổng hợp nữa. Lúc đó là sau tết năm 1958. Đó là bài: "Một kết quả bước đầu của đợt học tập hai văn kiện Mat-scơ-va ở trường đại học: Ông Đào Duy Anh tự kiểm thảo" đăng báo Nhân dân 3 kỳ, ngày 19/5/1958, ngày 20/5/1958 đến số ra ngày 21/5/1958.

Khi về Viện Sử ông Trần Huy Liệu dặn là chọn đề tài nào hiền lành thì hãy làm. Làm hoàn toàn đơn độc không có người cộng tác. Với tuổi ngày càng cao, anh không thể đi lại xông xáo như thời trẻ, những khi có việc cần thì vẫn cứ phải một mình lên ga mua vé tàu hỏa có chở theo xe đạp, đến nơi lại đạp xe hết làng nọ xóm kia.

Tháng 8-1945 Đào Duy Anh ra Hà Nội, đã quay lại chính trị nhưng khát vọng của ông không được thực thi. Ông lại phải chờ đến 1956. Nhưng bi đát thay thời cuộc mới chỉ xoay vần nửa chừng. Một lần nữa Đào Duy Anh lại bị chế độ mà ông đã nhiệt thành phò tá tước mất vũ khí chính trị cuối cùng, danh vị, bục giảng, tiếng nói. Đó mới là bi kịch lớn nhất của đời ông.

Hãy chứng kiến cảnh nhà nghiên cứu ở Pháp Tạ Trọng Hiệp gặp ông:

Chỉ thấy nhớ lại buổi gặp Đào Duy Anh trong tháng 7-1979, ở thành phố Hồ Chí Minh, ông dẫn tôi về nhà khách thành ủy, khẩn khoản xin người ta cho phép tôi được lên phòng ông nói chuyện cho yên tĩnh. Mới gặp mà như quen nhau từ tiền kiếp. Ngồi với nhau gần ba tiếng đồng hồ, nói toàn chuyện cổ văn cổ sử Hán Nôm, Hùng vương hay Lạc vương, đọc Thủy kinh chú như thế nào, chữ “song viết” trong thơ Nguyễn Trãi, v.v. Cuối cùng, ông rút ra mấy tập bản thảo hoàn chỉnh, đánh máy rõ ràng, bảo tôi muốn chọn những gì ông tặng cả mà đem về Pháp, in được cuốn nào cho ông thì in. Lúc chia tay, ông đứng sững nhìn tôi hồi lâu, im lặng, im lặng mãi cho đến phút cuối bất thình lình mở rộng hai tay ôm choàng lấy tôi, vừa ôm vừa nức nở thê thảm, như thể trút hết bao nhiêu buồn đau dồn chất suốt hơn hai mươi năm. Tôi nhìn khuôn mặt giàn giụa nước mắt, lòng thắt lại, cả hai đều vẫn im lặng cho đến khi tôi ra về.

(Tạ Trọng Hiệp, Đào Duy Anh (1904-1988), Đoàn Kết số 403, tháng 6-1988)

 

Nhận xét cuốn hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm

Năm 1973 Đào Duy Anh viết xong cuốn hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm. Tên gọi của nó đã hàm chứa nhiều nỗi niềm tâm sự nhưng mãi đến 1989 nó mới được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành và chỉ có 16 chương trong số 30 chương. Đến năm 2000 Nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất vẫn chỉ có 16 chương. Mãi đến 2004 Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh mới in lại với đầy đủ 30 chương.

Đỗ Lai Thúy đánh giá:

Năm 1972, sau khi viết xong tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (mà 17 năm sau mới được in), Đào Duy Anh có đưa cho một nhà nghiên cứu văn hoá vẫn được ông coi là bạn vong niên cầm về nhà đọc với lời nói kèm: đây chỉ là tập hồi ký vo. Thấy bạn ngơ ngác ông vội giải thích: vo ở đây là chỉ nói được một khía cạnh của cuộc đời mình mà là khía cạnh dễ nhìn thấy nhất. Tuy nhiên, dẫu không trực tiếp quen ông, nhưng bạn đọc hôm nay của cuốn hồi ký học thuật quan trọng này vẫn thấy được, dù chỉ là thấp thoáng, con người thứ hai ẩn kín của ông qua những trang dịch Sở Từ của Khuất Nguyên, Thơ chữ Hán Nguyễn Du và Khảo luận về Truyện Kiều… Ông nghiên cứu tâm sự người xưa để ký gửi vào đấy tâm sự của người nay. Tâm sự ấy bắt nguồn từ đoạn đầu đời hoạt động chính trị chảy tràn sang quãng đời sau hoạt động văn hoá. Đúng như ông nói trong Lời đầu sách của cuốn hồi ký, người ta “có biết tôi cũng chỉ ở Lịch sử dân tộc mà có buộc tội tôi cũng chỉ ở Lịch sử dân tộc”. Tuy nhiên, trong cô đơn ông vẫn thanh thản, buồn một “nỗi buồn trong sáng” bởi ông biết rằng ông đã thuộc về Lịch sử.

(Đỗ Lai Thúy, Đại học Sư phạm Hà Nội – Một nửa thế kỷ: Kỷ niệm 50 ngày thành lập trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1951-2001), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2001)

 

Cuộc trò chuyện với Ngô Vĩnh Long về hồi ký:

Tháng 5-1980 Giáo sư Ngô Vĩnh Long về thăm và làm việc trong nước có đến thăm Đào Duy Anh. Ông Long cho biết Đào Duy Anh có cho ông xem bản thảo tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm và nói rằng ông không ưng ý vì chưa có điều kiện thuận lợi để viết một cuốn hồi ký hoàn chỉnh, mới chỉ ghi chép một số điều không nỡ để mai một cuộc đời hoạt động văn hóa của mình. Vì thế Đào Duy Anh chưa ưng ý với những trang viết đầy rẫy thiếu sót này và tiếc rằng mình đã gần đất xa trời không còn thời gian để tiếp tục thực hiện mong muốn.

Cuốn Nhớ nghĩ chiều hôm viết xong trong năm 1973. Thời thế những năm đó và cho tới gần những năm ông mất chưa cho phép ông nói hết được suy nghĩ thực của mình. Toàn bộ bối cảnh mấy năm 1956-1958 chỉ có mấy dòng trong chương XIII.

Vì thế chúng ta chỉ đọc được mấy dòng tội nghiệp:

Đầu năm 1958, vì có liên can vào vụ Nhân văn Giai phẩm tôi thôi giảng ở Trường Đại học Tổng hợp. Sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô tôi mơ hồ với nhiều ảo tưởng, không nắm được thực tế của thời đại cho nên đã phạm sai lầm lớn là đấu tranh không đúng, chẳng khác gì như người chỉ biết vác mặt lên trời mà chạy, vấp ngã và đau. Hối hận thì chỉ còn một cách là “sửa mình” như cha ông ta đã từng dạy. Bấy giờ tôi có làm một bài thơ tự thuật có hai câu này:

Sẩy bước không chừng muôn thuở hận

Sửa mình duy có một lòng băng.

Nội dung hồi ký Đào Duy Anh né tránh những vấn đề phức tạp của chính trị hiện tại. Ông không dám nói đến những oan ức mà ông phải chịu đựng từ 1930 đến lúc ông mất, không nói đến nhân tình thế thái của đồng chí, bạn bè, học sinh, không nói đến sự chịu đựng vô biên của gia đình về sự nghèo khó, về bệnh tật. Nhưng ông không phủ nhận Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam, ông vẫn còn nặng tư tưởng tận trung. Ông cũng không phủ nhận chủ nghĩa Mác. Trang 285 ông viết:

Tôi không tin rằng chủ nghĩa Mác đã lâm vào khủng hoảng mà thấy rằng chủ nghĩa Mác vẫn khỏe mạnh… Chủ nghĩa Mác chính là tư tưởng của thời đại ngày nay.

Nếu còn sống đến đầu những năm 1990 chắc rằng ông không viết như thế mà sẽ nghĩ giống như Trần Đức Thảo.

 

Mai Thảo viết về tình bạn của Đào Duy Anh với Vũ Hoàng Chương:

“Cuối năm 1975, một buổi chiều, ông nằm thiếp trên sàn Gác Bút, mãi mới gượng ngồi dậy được.
– Tao vừa ở nhà Mộng Tuyết về. Mệt quá.
– Còn tới đó làm gì cho mệt?
– Nể quá. Đào Duy Anh vừa vào. Ở nhà Mộng Tuyết, nói rất muốn gặp tao và muốn có một tập Rừng Phong đem về Hà Nội. Tao mang lên cho. May quá, còn đúng một tập. Thấy tao, Đào Duy Anh mừng lắm. Hắn cũng già quá rồi. Bây giờ ngồi một chỗ soạn tự điển thôi. Mày biết hắn nói với tao gì không? Tôi vào Nam chỉ để gặp anh. Thơ trước sau tôi vẫn chỉ yêu nhất có hai người. Là anh và Lý Bạch.
Tôi chép miệng, hồi tưởng lại một Đào Duy Anh trắng hồng, mạnh mẽ ngồi trước mặt ở hội nghị văn nghệ Lam Sơn, Cầu Bố ngày nào.
– Thế thì làm sao sống được bấy nhiêu năm ở Hà Nội?
– Phải sống. Làm thế nào. Trương Tửu bây giờ còn phải ngồi sao tẩm thuốc Bắc, xem tướng tay trên một vỉa hè Bạch Mai thì Đào Duy Anh được họ cho ngồi yên với vài trang tự điển còn là may lắm.

Bởi vậy mà với một chế độ tử thù với thơ, sau ngày 30 tháng 4-1975, Vũ Hoàng Chương phải bị giết chết. Ngày bắt ông, 13 tháng 4-76. Ngày ông mất 19 tháng 8 cùng năm.

Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyển ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh.
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.

Một lần Thanh Tâm Tuyền đã nói với tôi về một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt thường thấy và chỉ có ở những tài thơ lớn, qua một số câu thơ bất chợt có được một số mệnh đặc biệt khi trở thành, từ một lúc nào không hay biết, ngôn ngữ thường dùng của quảng đại, như lời nói thường, trong đời sống hàng ngày. Những người chưa từng biết đến thơ, trọn đời chẳng hiểu thế nào là thơ, bỗng sống thơ, nói thơ, bởi tâm trạng đám đông một thời đã được nói hết trong một câu thơ và quảng đại đã hồn nhiên xử dụng câu thơ ấy như lời nói thường ngày mà không hề biết rằng lời nói thường ấy chính là một lời thơ, của một thi sĩ. Nhà thơ lớn không chỉ bất hủ với văn học, mà còn bất hủ với đồng loại, với cùng thời, với cái cao quý nhất của đời sống là đời sống hàng ngày là vậy. Dân gian đã nói thường với nhau, chứ không phải đã đọc thơ, như thế, hàng trăm câu thơ Nguyễn Du.
Từ cộng sản chiếm được miền Nam, hơn ba triệu người Sài Gòn đều "nói" Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là "Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa." Gặp nhau là "Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ…" Thật cảm động và cũng thật tức cười. Và đó cũng là một lý do nữa trong những lý do gây tai họa sắp tới cho thi sĩ.

Hà Nội văn nghệ vào Nam đủ mặt, chỉ một hai người dám liều tới thăm Gác Bút, như Vũ Đình Liên, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Lưu Trọng Lư, còn nhóm người cùng một thời Tự Lực với ông như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Hoài Thanh, hoặc vì đố kỵ với tiếng thơ lẫy lừng của thiên tài, hoặc vì hèn nhát sợ bị liên lụy, đều tránh mặt.

(Mai Thảo, “Mấy tháng cuối cùng với Vũ Hoàng Chương”. Trong tập Chân dung mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam, Westminster, CA: NXB Văn Khoa 1985)

 

Lê Đạt nói về tình cảm Đào Duy Anh dành cho ông:

Tức là đã lâu lắm, mấy chục năm tôi không gặp anh Ðào Duy Anh nữa, tại vì nhà anh ấy ở rất xa, mà anh ấy lại ở thế hệ khác, mình chẳng có cái gì mà bàn với anh ấy cả. Và hai là, anh ấy không muốn tiếp xúc với những người Nhân Văn cũ, anh rất ngại. Sau này, vì tình hình nó mở ra, thì hôm ấy Mặt trận Tổ quốc tổ chức ngày sinh nhật thật trọng thể 80 năm của anh Ðào Duy Anh. Chị còn lạ gì tôi, tôi không thích đến những cuộc đông đảo như vậy bao giờ cả, tính tôi là người như thế. Tôi đã đắn đo lắm, thì anh Ðào Duy Anh có nói với em anh ấy là Ðào Phan, Ðào Phan là bạn tôi, bảo rằng: “Thế nào cũng bảo Lê Ðạt tới”. Khi anh ấy nói như thế thì nhất định là tôi phải tới rồi. Ðào Phan có dẫn tôi đến chỗ ông Ðào Duy Anh, đông lắm, mọi người những học trò rồi là những người lâu lắm mới lại gặp, ông Ðào Duy Anh xuất hiện thì mọi người quý lắm, tôi có đến chào anh Ðào Duy Anh thì anh Ðào Duy Anh quay lại ngay. Tôi nói: “Chào bác, thế nào bác còn nhớ tôi không?” Thì anh Ðào Duy Anh có nói một câu mà tôi rất cảm động: “Làm sao mà quên được, bục công an chứ gì!” Thì tôi mới biết là trong mấy chục năm nay ông ấy không bao giờ quên mình cả! Ðấy là cái quan hệ giữa tôi và anh Ðào Duy Anh. Như thế những người ở trong Nhân Văn ấy, mặc dù không gần gũi nhau như trước nữa nhưng trong thâm tâm người ta vẫn dành một chỗ nào nhất định để đối xử với nhau. Ðó là một tình bạn rất hiếm ở một nước như nước Việt Nam.

(Thụy Khuê, “Lê Ðạt nói về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm”)

 

Bà Trần Thị Như Mân

Xuất thân trong một gia đình dòng dõi quan lại triều Huế. Cha bà từng làm đến Tổng đốc Nghệ An. Còn nhỏ, bà được đi học ở trường Tiểu học Pháp – Việt, sau đó học ở trường Đồng Khánh (Huế). Năm 18 tuổi, bà đỗ cao đẳng tiểu học và được bổ nhiệm làm giáo viên kiêm giám thị trường Đồng Khánh. Ngay năm đầu tiên dạy ở trường Đồng Khánh, bà là người đã vận động một số nữ giáo viên khác gửi một bức điện cho toàn quyền Pháp ở Hà Nội đòi ân xá cho Phan Bội Châu khi biết tin chính phủ pháp kết án tử hình. Bà cùng với nữ sử Đạm Phương thành lập “Nữ công học hội”. Mục đích của Hội là dạy “Công việc gia chánh không phải chỉ là việc trong gia đình, mà còn nhằm mục đích nuôi sống bản thân mình. Muốn tham gia công việc xã hội, người phụ nữ trước hết phải sống tự lập về mặt kinh tế”.

Ít năm sau, chính bà lại tham gia lễ tang của Phan Châu Trinh. Đám tang này đã trở thành một cuộc tuần hành chống chính quyền đo hộ Pháp. Vì điều này bà bị bãi chức, đuổi khỏi trường Đồng Khánh.

Không muốn phụ thuộc gia đình, bà tìm mọi cách để học một nghề kiếm sống. Bà đã từng lặn lội từ Huế ra Hà Đông (Hà Nội) để học nghề dệt bằng khung cửi cải tiến, rồi học nghề trồng rau, nuôi tằm lấy kén, làm mỹ phẩm…

Trong thời gian này bà gia nhập Tân Việt Đảng và giao nhiệm vụ tổ chức Phụ nữ đoàn nhằm tuyên truyền giác ngộ các chị em trước khi giới thiệu vào Đảng. Bà chủ trương ta tờ báo “Phụ nữ tùng san”. Tờ báo xin phép in lưu hành nhưng không được nên bà đã ra báo bằng cách nguỵ trang dưới dạng một cuốn sách và cứ ra định kỳ. Phần đầu in sách từng trích đoạn trong cuốn Những người khốn khổ của Victor Hugo do bà tự dịch; phần sau là nội dung chính của tờ báo. Số 1 Phụ nữ tùng san được ra vào tháng 5 năm 1929 và trở thành một trong hai tờ báo phụ nữ đầu tiên của Việt Nam, cùng với tờ phụ nữ Tân Văn ở Sài Gòn.

Bà gặp và yêu ông Đào Duy Anh khi cả hai người cùng hoạt động trong Tân Việt cách mạng đảng. Năm 1930 ông bà chính thức trở thành vợ chồng.

Ổn định gia đình bà lại bươn chải là ăn để nuôi chồng, nuôi con. Biết chồng có chí hướng viết sách, làm báo nên bà một mình lo toan mọi vấn đề kinh tế để ông có thời gian tập trung vào nghiên cứu.

Bà là người đã gợi ý cho công việc viết từ điển. Cuốn Hán-Việt từ điển (cuốn từ điển đầu tiên của Đào Duy Anh) được in phần lớn do công của bà. Bà là người đọc hết bộ Quan Hải tùng thư, rồi Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm… trích những từ Hán Việt hay những danh từ về chính trị – xã hội nào không hiểu ra, viết vào phiếu để ông viết lời giải thích. Sau đó bà lại tập hợp lại, sắp xếp theo thứ tự để biên tập thành từ điển. Vì vậy đây là cuốn từ điển giải thích chứ không phải từ điển thông thường. Sau khi hoàn thành, vì điều kiện lúc đó không có đủ tiền in, bà đã nghĩ ra cách chia cuốn từ điển thành nhiều tập. Tập đầu bà in thật mỏng đưa cho mọi người xem. Nhưng ai thích thì đặt tiền cho bà in những tập sau. Với cách đó bộ từ điển đã được xuất bản hết.

Sau khi ra được cuốn Hán-Việt từ điển, ông bà tiếp tục làm cuốn Pháp-Việt từ điển, có cả những phần giải nghĩa ra chữa Hán để những người không biết chữ quốc ngữ sử dụng. Như vậy có thể gọi từ điển Pháp-Việt-Hán.

Bà Trần Thị Như Mân cũng là người đóng góp cho sự nghiệp giáo dục. Bà là người thúc đẩy phong trào tự học ở Huế. Hiệu sách Vân Hoà của bà được coi là lớn nhất Huế với đủ loại sách Pháp – Việt – Hán… và cả sách macxit, các vị Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều, Phan Đăng Lưu đều tự học từ hiệu sách Vân Hoà của bà.

Vốn xuất thân từ nhà giáo dục, mặc dù đã làm nhiều nghề khác nhau, nhưng việc trông nom dạy dỗ học sinh vẫn là niềm ao ước của bà. Bà đã vận động một số bạn bè làm giáo viên thành lập trường Nữ giáo dành cho những học sinh không thi được vào trường Đồng Khánh học. Nữ giáo là ngôi trường tư thục nữ đầu tiên và duy nhất từ trước đến nay.

Sau cách mạng tháng tám bà là Chủ tịch Hội Phụ nữ Cứu quốc Thừa Thiên – Huế, rồi Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, rồi tham gia phụ trách trại nhi đồng miền Bắc. Năm 1965, vì lý do sức khoẻ, bà được nghỉ hưu. Nhưng cũng chính từ thời gian này, bà lại có nhiều thời gian để giúp chồng viết sách.

Sau khi Đào Duy Anh mất, bà quyết định viết hồi ký Sống với tình thương. Cuốn hồi ký viết xong trong năm 1988, được in trong Phụ lục của hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm của Đào Duy Anh nhưng đến tháng 5-1992 mới được Nhà xuất bản Trẻ phát hành sau khi bà qua đời được 3 tháng.

Mối lương duyên chính trị của vợ chồng Đào Duy Anh với Đảng Tân Việt

Ngày 14 tháng 7 năm 1925, một số tù chính trị cũ ở Trung kỳ như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên,… một số giáo viên như Trần Mộng Bạch, Trần Phú, Hà Huy Tập… và một số nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai… đã lập ra Hội Phục Việt (còn được gọi là Đảng Phục Việt) sau đổi tên thành Hội Hưng Nam. Đến năm 1926 đổi thành Việt Nam Cách mệnh Đảng. Đến tháng 7 năm 1927 lại đổi thành Việt Nam Cách mệnh Đồng chí Hội. Hội đã nhiều lần họp bàn với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhưng thất bại. Ngày 14 tháng 7 năm 1928, Hội họp đại hội tại Huế quyết định lấy tên là Tân Việt Cách mệnh Đảng, báo cáo tình hình của đảng và thòng báo cho các kỳ bộ thòi điểm họp đại hội. Chiều 13.7.1928, cùng tại nhà Đào Duy Anh đã diễn ra cuộc họp trù bị cho đại hội. Đại hội đã bầu Ban lãnh đạo mới gồm: Đào Duy Anh phụ trách Tổng Bí thư, Ngô Đức Diễn là ủy viên tổ chức và tài chính, Phan Đăng Lưu là ủy viên tuyên huấn.

Về tư tưởng chính trị, Đảng Tân Việt xác định: “Liên hợp cả các đồng chí trong ngoài, trong thì dẫn đạo công nông binh, quần chúng; ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa đặng kiến thiết một xã hội bình đẳng và bác ái mới”.

Thành phần xã hội của Đảng Tân Việt chủ yếu gồm các phần tử thanh niên trí thức, học sinh, công chức, tiểu thương và công nông, đặc biệt là những người có học.

Địa bàn hoạt động chủ yếu của Tân Việt là các tỉnh miền Trung, mạnh nhất là ở Nghệ – Tĩnh. Đến cuối năm 1928, ở đây số lượng đảng viên đã lên tới 612 người, gây dựng được cơ sở trong các nhà máy, xí nghiệp, đường phố và các vùng nông thôn.

Do chịu ảnh hưởng tư tưởng mácxít, nhiều đảng viên Tân Việt đã chuyển sang hoạt động cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đảng Tân Việt hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạnh nên các đảng viên Đảng Tân Việt chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm Đường Kách Mệnh được coi như kim chỉ nam của hội viên Đảng Tân Việt. Nội bộ Tân Việt ngày càng phân hóa thành hai khuynh hướng rõ rệt: dân tộc tư sản và dân tộc xã hội chủ nghĩa. Những người trong Ban lãnh đạo Tổng bộ đều đứng trên lập trường dân tộc tư sản. Giữa năm 1929, những người theo khuynh hướng dân tộc tư sản trong Ban lãnh đạo Tổng bộ Tân Việt đã công bố đề án thành lập “Khối quốc gia”. Trước tình hình đó, những đảng viên tích cực, cấp tiến dưới ảnh hưởng tư tưởng cộng sản của Đảng Tân Việt đã nhóm họp và đi đến tiến hành cuộc vận động thành lập một tổ chức cộng sản lấy tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 7-1929 Đào Duy Anh và Trần Thị Như Mân bị bắt. Tháng 6-1930 cả hai người bị xử án treo ba năm và ba năm quản thúc. Ông bà làm lễ cưới và không hoạt động chính trị nữa, chuyển sang hoạt động văn hóa.

Tuy nhiên việc bị bắt đã để lại cho Đào Duy Anh nhiều hệ lụy, có một số đối tượng vì lý do cá nhân đã vu cáo ông khai báo, cộng tác với mật thám Pháp. Thậm chí họ còn gắn việc này vào sinh mệnh chính trị vào các em ông., nhất là với Đào Duy Kỳ và Đào Duy Dếnh.

 

Người học trò Võ Nguyên Giáp

Trong thời gian Đào Duy Anh dạy học ở Đồng Hới, Võ Nguyên Giáp có theo học ông. Sau khi ông hoạt động tại Huế, Võ Nguyên Giáp đến làm việc tại Quan Hải tùng thư – Nhà xuất bản của Tổng bộ Tân Việt do Đào Duy Anh sáng lập. Từ đó, Đào Duy Anh giới thiệu Võ Nguyên Giáp với cụ Huỳnh và được cụ bảo lãnh nhận làm biên tập báo Tiếng Dân. Điều này như một nhân duyên. Bởi, trước đó Võ Nguyễn Giáp đã đến với nghề báo, khi đó còn là học sinh Trường Quốc học Huế với bài báo đầu tiên bằng tiếng Pháp được gửi đăng trên tờ L’Annam ngày 24.3.1927 do luật sư Phan Văn Trường ở Sài Gòn làm chủ nhiệm với tựa đề “Đả đảo tên tiểu bạo chúa ở trường Quốc học!”. Bài báo đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với người làm báo lúc bấy giờ.

Trong thời gian làm việc ở báo Tiếng Dân, dưới sự hướng dẫn của cụ Huỳnh, Võ Nguyên Giáp đọc nhiều sách về chính trị, kinh tế – xã hội để nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích vấn đề thời sự đang diễn ra trong nước và thế giới. Viết nhiều bài chính luận, xã hội, khoa học mang quan điểm mác-xít. Tuy nhiên, những bài viết của Võ Nguyên Giáp giai đoạn này bị kiểm duyệt hết sức nghiêm ngặt.

Võ Nguyên Giáp là thư ký của nhà xuất bản, anh sinh hoạt trong một tiểu tổ bí mật của Đảng Tân Việt do Đào Duy Anh làm tổ trưởng. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp và báo Người cùng khổ (Le Paria) từ Pháp gửi về.

Từ năm 1929, Võ Nguyên Giáp trở thành một trong những thành viên trong nhóm hạt nhân của Đảng Tân Việt. Anh tích cực vận động cho tổ chức này gia nhập Đảng Cộng sản.

Tháng 9-1945, Võ Nguyên Giáp khi là Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã giải cứu Đào Duy Anh bị chính quyền cách mạng Huế bắt giam và báo cáo với Hồ Chủ tịch.

Trong cuộc nói chuyện với Ngô Vĩnh Long, Đào Duy Anh có ý trách Võ Nguyên Giáp là nhiều năm không gặp ông từ sau vụ Nhân Văn. Mãi đến khi em trai ông là Đào Duy Kỳ mất tháng 3-1980, Võ Nguyên Giáp tới viếng Đào Duy Kỳ tại nơi tổ chức lễ tang thì hai người mới gặp và nói chuyện với nhau.

Theo hồi ký của bà Mân thì mấy năm sau đó Võ Nguyên Giáp có đến nhà thăm Đào Duy Anh người anh, người thầy cũ của mình nhưng cuộc gặp mặt diễn ra buồn thảm.

Đầu năm 1987 anh Võ Nguyên Giáp có cho một sĩ quan trẻ đến hẹn hôm sau anh sẽ đến thăm. Đó là lần đầu tiên anh hẹn đến nhà, chúng tôi dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ để chờ. Nhưng suốt cả ngày hôm sau không thấy anh đến và cũng không cho người báo lại. Mãi đến cuối năm đó hai vợ chồng anh mới đến., các con chúng tôi cũng đi vắng cả, chỉ có mình tôi ở nhà. Khi hỏi anh có biết ai đến thăm không thì anh không trả lời mà vẫn quay mặt vô tường… Sau lần đến thăm đó, thấy nhà tôi nằm lâu bị loét ở lưng, anh Giáp đã can thiệp với Bộ Y tế cho chúng tôi mượn một cái võng đệm cao su dùng cho người bệnh phải nằm liệt.

 

Anh em của Đào Duy Anh

Kiều Mai Sơn:

“Hôm qua, 24/2/2024, nhằm vào ngày rằm tháng giêng năm Giáp Thìn, ngày giỗ thứ 44 của ông Đào Duy Kỳ (1916-1980), tôi có viết về ông Kỳ và đưa thông tin 3 anh em trai trong gia đình ông đều đi tù Côn Đảo. Nhưng tôi chỉ nêu tên ông Kỳ và em trai út – ông Dzếnh (bút danh Đào Phan). Cụ anh Lô Huy có băn khoăn vì đếm đi đếm lại vẫn thấy thiếu 1 người.

Hôm nay, tôi xin chép hầu cụ anh Lô Huy người tù Côn Đảo thứ 3 của dòng họ Đào Duy. Đó là ông Đào Duy Phiên. Xin được dẫn lại từ tư liệu trong hồi ký của người em dâu út ông Phiên viết về anh chồng của mình:

"Anh Đào Duy Phiên:

Theo các anh chị em Họ Đào đều nói rất giống bố đẻ. Giống cả hình hài, khuôn mặt đến tính nết hiền lành nhân ái.

Bác sinh năm 1910, theo anh cả Đào Duy Anh được đi học từ 1924 ở Quảng Bình, sau đó vào trường Quốc học Vinh, đến năm 1929 vào Huế tốt nghiệp cao đẳng tiểu học tại trường Quốc học Huế. Bác thông thạo tiếng Hán, tiếng Pháp.

Bác ưa văn chương, văn hóa và đàm luận chính trị. Tháng 2 năm 1930, bác được bổ làm Thư ký Bưu điện Sài Gòn, rồi chuyển đi Bạc Liêu, Cần Thơ, cuối 1935 về lại Bưu điện Sài Gòn. Đến năm 1941 thì người Pháp chuyển bác sang Bưu điện Pak-cế Lào vì tham gia hoạt động chính trị.

Ở Sài Gòn ông vào Đảng Xã hội SFIO chi nhánh miền Nam, làm Tổng thư ký Công đoàn Bưu điện miền Nam, tham gia Ban chấp hành Nghiệp đoàn công chức Pháp – Việt (Nam Kỳ), làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo THỢ THẦY của Công đoàn Bưu điện miền Nam. Với những hoạt động đấu tranh công khai cho quyền lợi công nhân lao động và hoạt động báo chí theo chủ trương của Đảng Xã hội mà ông bị thực dân Pháp bắt vào tháng 4-1941 tại Pak-sế Lào, xử tù 7 năm đày đi Côn Đảo.

Sau cách mạng tháng 8, bác và cùng nhiều chính trị phạm được đón về. Khi Pháp gây hấn ở Nam Bộ, bác là Chủ tịch “Hội giúp binh sĩ bị nạn và vận động ủng hộ kháng chiến” tại Huế. Pháp chiếm lại Huế, gia đình bác ra Thanh Hóa, làm Chủ tịch Uỷ ban Liên Việt huyện Nông Cống (tiền thân của Mặt trận Tổ quốc hiện nay), kiêm dậy trường tư thục. Năm 1955, về Hà Nội làm giáo viên đến hưu trí.”

(Nguồn: Phan Thị Bội Hoàn (hồi ký): Dâu họ Đào – Sách chưa xuất bản).

Đào Duy Kỳ

Đào Duy Kỳ (1916 – 1980), ông quê gốc ở Khúc Thủy, Hà Tây, sinh ngày 4-9-1916, tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Tốt nghiệp Thành chung trường Quốc học Huế năm 1934, Đào Duy Kỳ ra Hà Nội học Ban Tú tài (1935), hoạt động cách mạng trong thanh niên học sinh và thanh niên lao động.

Hai mươi tuổi, Đào Duy Kỳ được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1937, khi Đảng thành lập Đoàn Thanh niên Dân chủ, Đào Duy Kỳ được chỉ định làm Tổng thư kí, với sự cộng tác của những cán bộ thanh niên đầy nhiệt huyết, như Nguyễn Thường Khanh (tức nhà thơ Trần Mai Ninh), Lê Hữu Kiều (tức nhà phê bình văn học Nam Mộc)… Cùng với các cộng tác viên của mình, thời kì này Đào Duy Kỳ chủ yếu hoạt động trên mặt trận báo chí, dùng báo chí làm công cụ tuyên truyền giác ngộ thanh niên, đưa họ vào tổ chức, hoạt động cho phong trào.

Đầu tiên ông được cử làm chủ bút báo Bạn dân, cơ quan hoạt động công khai của Đoàn Thanh niên Dân chủ. Năm 1938, sau khi báo Bạn dân bị đình bản, tờ Thế giới ra đời, với chủ bút vẫn là Đào Duy Kỳ.

Ngoài báo Đoàn, ông còn góp sức vào việc tổ chức và biên tập các báo xuất bản công khai của Đảng thời bấy giờ như Thời thế, Tin tức, Le Travail, Notre Voix. Với ngòi bút chiến đấu xuất sắc đầy nhiệt huyết của mình, tên tuổi Đào Duy Kỳ với bút danh Trường Sơn trở nên rất quen thuộc trong giới thanh niên cách mạng cả nước.

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp sụp đổ. Thực dân Pháp tiến hành một cuộc tổng khủng bố trên toàn cõi Việt Nam. Nhiều tổ chức cơ sở của Đảng và quần chúng cách mạng bị tan vỡ. Hàng loạt cán bộ đảng viên bị bắt. Để bảo toàn lực lượng, Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật.

Trong vòng bí mật, Đào Duy Kỳ vẫn hoạt động rất sôi nổi, lăn lộn, xông pha trên một địa bàn khá rộng, bao gồm các tỉnh trung du và miền núi. Với sự tín nhiệm cao, ông được Đảng cử giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ, rồi Bí thư Tỉnh ủy khu D gồm các tỉnh dọc theo tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai là: Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, và đã có thời kì từng giữ Quyền Bí thư Xứ ủy Bắc Kì (năm 1940-1941).

Cuối năm 1941, sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, Mặt trận Việt Minh được thành lập, Đào Duy Kỳ được cử lên Cao Bằng tham gia biên soạn tài liệu và giảng các lớp huấn luyện cán bộ tài vùng căn cứ bí mật của cách mạng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tháng 6/1942 trên đường trở về Hà Nội, ông bị mật thám Pháp đón bắt tại làng Cổ Nhuế, một làng ngoại thành và cũng là cơ sở cách mạng.

Thực dân dùng nhiều thủ đoạn mua chuộc Đào Duy Kỳ đều thất bại. Cuối cùng, Tòa án quân sự kết án chung thân khổ sai, đày đi địa ngục trần gian Côn Đảo.

Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 giải phóng đất nước, ra khỏi nhà tù, chưa thể về miền Bắc, Đào Duy Kỳ ở lại làm Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Liên tỉnh miền Đông Nam Bộ.

Giữa năm 1946, Trung ương Đảng điều ông ra Hà Nội thành lập Đoàn Thanh niên Việt Nam do ông làm Tổng đoàn trưởng, nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp thanh niên còn đứng ngoài Đoàn Thanh niên Cứu quốc, cùng tham gia kháng chiến, hoạt động rất sôi nổi.

Sau khi cơ quan Trung ương dời lên chiến khu Việt Bắc, năm 1948 ông được cử làm Trưởng tiểu ban Huấn học kiêm Phó Giám đốc trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh). Từ năm 1951, ông tham gia Thường trực Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng.

Ông là người có công thành lập Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam từ đầu năm 1959, và là Chủ tịch Hội đồng Khoa học đầu tiên của Viện. Giới chuyên môn và học trò đều kính trọng gọi ông là Nhà Bảo tàng học.

Đào Duy Kỳ có công lớn trong việc bảo tồn, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, phát động phong trào hoạt động văn hóa quần chúng bằng cách tổ chức các câu lạc bộ, nhà văn hóa ở cơ sở nông thôn, phục hồi các lễ hội có ý nghĩa lịch sử và tôn giáo, giữ gìn các thuần phong mĩ tục của dân tộc…

Đà Nẵng đặt tên ông cho đoạn đường từ đường Tôn Quang Phiệt đến đường Đỗ Anh Hàn, chiều dài 490 m, đặt tên là Đào Duy Kỳ, thuộc Khu dân cư An Hòa, quận Sơn Trà.

Đào Duy Dếnh

Đào Duy Dếnh (1920-1996) còn có tên là Đào Phan, sinh tại xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Ông tham gia cách mạng từ sớm. Năm 1938, ông làm Trưởng ban cán sự Đảng tại TP Huế. Bị thực dân Pháp bắt giam, ông đã vượt ngục về công tác ở Thuận Hải.

Năm 1940, ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, khi vừa tròn 20 tuổi. Năm 1942, ông bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông về đất liền và trở lại hoạt động ở Huế làm Đội trưởng Đội Tuyên truyền xung phong Việt Minh Trung Bộ, tập hợp những thanh niên trí thức đi đến tận những vùng rừng núi, những thôn xóm xa xôi hẻo lánh diễn thuyết, diễn văn nghệ tuyên truyền cho chính phủ, sau đó làm Trưởng ty Thông tin Thanh Hóa. Ông cũng đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên lâm thời.

Năm 1947, ông làm Chủ nhiệm báo Quân du kích, tiền thân của báo Quân đội nhân dân ngày nay. Năm 1950 ông được bổ nhiệm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Vệ quốc quân.

Cuối năm 1950 Đào Duy Dếnh bị bắt đi tù, được ra tù khoảng giữa năm 1954.

Sau đó ông công tác ở báo Quân đội nhân dân rồi Bảo tàng quân đội. Từ 1978 ông được nghỉ hưu với quân hàm thiếu tá và chuyên tâm làm nghiên cứu văn hóa. Quãng thời gian cuối đời, ông Đào Duy Dếnh hoàn thành ba công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là: Hồ Chí Minh – Danh nhân văn hóa; Hồ Chí Minh – Một nhân cách lớn; Đạo Khổng trong văn Bác Hồ. Đây là những tác phẩm có giá trị lớn phục vụ cho Hội thảo Danh nhân Văn hóa Hồ Chí Minh của tổ chức UNESCO.

Ông không được công nhận chế độ lão thành cách mạng do bị nghi án khai cung trong nhà tù Sơn La mà người kết tội ông lại là ông Lê Đức Thọ, bạn tù, do có tư thù với nhau. Mãi đến cuối những năm 80 đầu 1990 dưới sức ép của nhiều lão thành cách mạng là bạn tù Sơn La, các cơ quan chức năng mới vào cuộc xác minh. Đơn vị của tác giả đã làm việc với Cục Bảo vệ quân đội xem xét lại hồ sơ của ông. Chúng tôi đã đi đến kết luận là những lời buộc tội ông trong hồ sơ của ông Lê Đức Thọ chỉ là truyền miệng chứ không hề có chứng cứ. Sau khi có công văn của đơn vị tôi các cơ quan chức năng đã trả chế độ lão thành cách mạng cho ông Đào Phan.

Ông mất năm 1996 tại Hà nội.

Có người hỏi tất cả anh em trai ông Đào Duy Anh đều bị bắt đi tù, bị đứt đoạn về đường công danh, Vậy về phong thủy mồ mả tổ tiên có vấn đề gì không? Một vài con cháu hiện nay mà tôi quen biết không biết về bí mật này. May trong số học trò của Đào Duy Anh có một người để ý đến việc này. Đó là Trần Quốc Vượng. Ông cho biết:

Tôi là người làm khảo cổ và do đó có góp phần tìm lại ngôi mộ tổ họ Đào, để các chi họ Đào xây lại đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Đi công tác khảo cổ cùng thày vào xứ Thanh 1958 cùng với cả em thày, nhà cách mạng Đào Duy Kỳ, khi ấy là chuyên viên cao cấp Vụ Bảo tồn, bảo tàng – Bộ Văn hóa, thày chỉ cho tôi ngôi mộ tổ họ Đào trên đỉnh “một trăm hòn Rú Kẻ Đông” (Núi Đông Sơn gần Hàm Rồng). Và bảo (năm 1958) là năm đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm:

Mộ tổ nhà họ Đào chúng tôi, theo phong thủy học, chôn trên mảnh đất con Rùa. Thi thoảng nó lại nho vươn cái cổ ra… rồi khi bị đập nó lại rụt liền ngay cái cổ lại!

… Dù đã nghiệm sinh nhiều uẩn khúc suộc đời, dù đã trải qua nhiều hoàn cảnh nghiệt ngã, với một thân xác luôn đau yếu, với râu tóc ngày một bạc màu, kì lạ thay, thày Đào Duy Anh vẫn không gục ngã. Mà trái lại dẫu vẫn u buồn, Đào Duy Anh vẫn bền bỉ chịu đựng, dành tâm lực vào những đề tài nghiên cứu mới.

(Trần Quốc Vượng, “Đào Duy Anh người miệt mài dò tìm bản sắc Việt Nam”. Sách Học giả Đào Duy Anh. NXB Văn học 2014)

 

Hà Nội tháng 2-2024

Comments are closed.