Lời ru cho giấc ngủ của nàng tiên dũng sĩ Trần Tố Nga ở phương trời xa trên mặt trận chiến đấu cho hoà bình và công lý

Bùi Minh Quốc

LỜI THƯA CỦA TÁC GIẢ

Tôi sáng tác bài thơ này vào một ngày đông Đà Lạt giá buốt, sau khi đọc cuốn ĐƯỜNG TRẦN (NXB TRẺ – 2022) của Trần Tố Nga trong đó tác giả kể lại đời mình trước và sau 1975.

Cuộc đời Trần Tố Nga khiến tôi tự nhiên nhớ lại bài thơ GIẤC NGỦ CỦA NÀNG TIÊN DŨNG SĨ mình viết Tháng 4 năm 1968 về các nữ chến sĩ biệt động thành Đà Nẵng trước giờ ra trận (in trong phần phụ lục bên dưới).

ĐƯỜNG TRẦN cho tôi thấy có một NÀNG TIÊN DŨNG SĨ rất đặc biệt, trước 1975 chiến đấu trên mặt trận vành đai Sài Gòn – Gia Định dưới mưa bom bão đạn và chất độc hoá học, rồi vào nội đô làm nhiệm vụ giao liên bí mật, bị bắt và đơn độc chiến đấu trong tù ngục, dũng cảm và  khôn khéo đương đầu có hiệu quả với mọi thủ đoạn tàn bạo và nham hiểm để giữ tròn khí tiết, sau 1975 vẫn không được một ngày yên thân, phải tiếp  tục chiến đấu trong nội bộ, một mình vựợt thắng vô số đòn ác hiểm để tự bảo vệ phẩm giá của một chiến sĩ cách mạng đích thực, một con người chân chính, cứ thế liên tục cho đến nay vẫn một mình đơn độc vững bước trên mặt trận đòi công lý, trước hết cho các nạn nhân của chất độc da cam mà các tập đoàn sản xuất hoá chất cung cấp cho quân đội Mỹ dùng huỷ diệt môi trường và con người trong chiến tranh Việt Nam.

Tôi trân trọng gửi đến Trần Tố Nga và bạn đọc bài thơ này để tỏ niềm tri ân đối với một chiến sĩ cách mạng đích thực luôn đứng ở tuyến đầu của tuyến đầu trong cuộc chiến đấu vì Độc Lập của Tổ Quốc và Tự Do của mỗi con người, vì Hoà Bình, Công Lý và Phẩm Giá Con Người.

 

Tố Nga Tố Nga

Nàng tiên dũng sĩ

Của thời chống Mỹ

Tố Nga Tố Nga

Nàng tiên dũng sĩ

Của thời hoà bình

Đi đòi công lý

 

Tố Nga Tố Nga

Giờ Tố ngủ nha

Thơ giang cánh lửa

Vượt trùng buốt giá

Ủ ấm người xa

 

Thơ ru Thơ ru

Qua ngàn bão lốc

À ơi lùi xa

Đòn tra tù ngục

À ơi lùi xa

Đạn bom, chất độc

À ơi lùi xa

Biển đời oan khốc

À ơi lùi xa

Đố kỵ, gian tà

À ơi lùi xa

Ranh ma quỷ quyệt

 

À ơi Tố Nga

Ngủ ngon vào mộng

À ơi hy vọng

Thổi lộng hồn Nga

À ơi ác mộng

Lùi xa lùi xa

À ơi hy vọng

Toả lan mọi nhà

 

À ơi Tiên Nga

Ngủ ngon giấc đắm

À ơi Tố Nga

Ngày mai ra trận

 

Ngày mai ra trận

Đối mặt hung tàn

Đại Nghĩa Chí Nhân

Đẩy lui cường bạo

Thong dong chánh đạo

Từng bước vững vàng

Đà Lạt, 13.01.2023

BMQ

______________________

PHỤ LỤC

GIẤC NGỦ CỦA NÀNG TIÊN DŨNG SĨ

 

Em ngủ. Vườn trưa xanh nắng thưa

Gió êm êm hát mát thân dừa

Tấm dù em đắp vương vương nắng

Như bướm vờn theo nhịp võng đưa

 

Pháo giặc dưới tàu vẫn bắn lên

Trời êm vẩn đục tiếng bom rền

Máy bay giặc rú như bầy thú

Em chợt tỉnh rồi lại ngủ yên

 

Ôi tuyệt vời thay giấc ngủ hiền

Của người em gái đẹp như tiên

Dễ thương như nước Thu Bồn ấy

Mà tựa triều dâng giữa trận tiền

 

Ai biết chiều qua trong phố hẹp

Em là cô gái rất hiên ngang

Dẫn tổ ba người băng lửa thép

Đánh bật vòng vây mấy tiểu đoàn

 

Giờ nằm trong võng ngủ ngoan

Gió thơm mái tóc nắng chan mặt hồng

Hỡi con chim nhỏ trên đồng

Hót lên cho đượm giấc nồng em ta

Đêm nay vào lúc trăng tà

Nàng tiên dũng sĩ lại ra trận rồi…

Tháng 4.1968

LE SOMMEIL DE LA FEE
VAILLANTE GUERRIERE

Traduit par Đỗ Tuyết Khanh & Hàn Thuỷ

 

Elle dort. Cet après midi
Au jardin parsemé de taches de lumière
Les cocotiers bruissent dans la brise légère
Le soleil sur sa couverture en voile parachute
Danse comme un papillon au rythme du hamac

Les canons des navires ennemis ne cessent de tonner
Fracassant la sérénité du ciel
Leurs avions hurlent comme une meute déchaînée
La réveillent, et elle se rendort

Oh le merveilleux doux sommeil
De la jeune fille jolie comme une fée
Lumineuse comme Thu Bồn le fleuve
Qui monte submerger le front comme la marée

Qui peut deviner qu’hier dans l’étroite ruelle
Elle a, en vraie héroïne,
A la tête de son groupe de trois
Brisé le cercle de feu et d’acier
De plusieurs bataillons ennemies

Elle dort maintenant tranquille dans son hamac
La brise embaume ses cheveux
Le soleil rosit ses joues
Petit oiseau des champs, chante
Pour accompagner son sommeil profond
Cette nuit quand la lune déclinera
Ma jolie vaillante guerrière repartira au front…

THE SLEEP OF THE MIGHTY FAIRY

Translated by J.R. Forman

 

Asleep at noon. The winds so cooly sing

Arnong the coconut, and like a king

You take the garden’s shade while insects beat

They wings in rhythm with our hammok’s swing.

 

In cloudy skies the shells explodc and soar,

And airplanes like the herds of oxen roar.

Our enemies are driving gunboats still.

Though you wake up, you fall asleep once more.

 

Oh, little sister, how you sleep so sound

As pretty as a fairy flower-crowned,

As placid as the waters of Thu Bồn

That swell amid this metal battleground!

 

Courageous girl who through the streets and wire

Just yesterday had guided three small friends

And led them over still and through the fire

To hide behind an enemy brigade.

 

Now sleeping tight and unafraid!

The wind’s perfume, my sister’s hair and sunny face,

The birds that fly above with grace,

All pray that we prolong our peaceful sleep at noon.

Tonight when wakes the eastern moon,

The mighty fairy will return again to war…

*

TRẦN TỐ NGA

CHỨNG THƯ ĐỌC TẠI TOÀ ÁN CÔNG LUẬN QUỐC TẾ VÌ NẠN NHÂN DA CAM VIỆT NAM

(Tác giả tự dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của mình)

Tôi là Trần Tố Nga, tốt nghiệp trường Đại học Hà Nội bộ môn Hóa hữu cơ năm 1965, thuộc vào lớp những cô gái trẻ đầu tiên đi vào chiến trường miền Nam Việt Nam đầu năm 1966 bằng con đường bộ mà người ta gọi là “Đường mòn Hồ Chí Minh”. Chúng tôi vào miền Nam với mục đích dạy chữ cho trẻ em các vùng mới được giải phóng. Nhưng sau bốn tháng đi vượt núi, trèo đèo, về đến Tây Ninh thì quân đội Mỹ đã vào miền Nam, gây nên cuộc chiến tranh cục bộ giữa Quân đội Giải phóng miền Nam Việt Nam và quân đội Mỹ. Không còn làng mạc để cho trẻ học vì hố bom đã thay thế cho làng mạc, tôi về làm việc tại Thông tấn xã Giải phóng, trở thành phóng viên chiến trường.

Cuối năm 1966, tôi ở tại Củ Chi, nơi quân đội Mỹ dùng mọi cách để biến thành một vùng trắng, không còn sự sống, không có dân, theo chính sách “tách cá ra khỏi nước”, cô lập bộ đội Giải phóng, bảo vệ căn cứ Đồng Dù, nơi đóng quân của quân đội Mỹ. Củ Chi biến thành mảnh đất không còn màu xanh. Cây trơ cành, ban ngày không có bóng người. Cuộc sống của người dân cũng như của tất cả các chiến binh, du kích đều ở trong lòng đất.

Một hôm, nghe tiếng máy bay quần rất lâu trong vùng, ngước nhìn lên, tôi thấy như có một đám mây phủ trên đầu. Người con gái còn quá ngây thơ với chiến trường là tôi lúc ấy, tò mò leo ra khỏi hầm để nhìn cho rõ. Tôi ho sặc sụa, cả người ướt đẫm bởi một chất bột…

Hai năm sau, tôi sinh cháu gái đầu lòng, một đứa bé mới sinh bụ bẫm, xinh xắn. Nhưng rồi da của cháu tróc ra từng lớp, cháu không lớn, thở một cách khó nhọc. Người mẹ trẻ chưa được một lần ôm con vào lòng vì cháu không chịu được sức ép, dù là sự ôm ấp nhẹ của mẹ. Cháu bị dị tật tim, căn bệnh mang tên tứ chứng Fallot. Cháu sống được 17 tháng. Mấy mươi năm ròng, tôi ân hận đã không biết giữ gìn khi mang thai để đến nỗi con bị chết. Đứa con gái thứ hai của tôi còn sống, nhưng đã bị tôi truyền cho tôi một chứng bệnh khó chữa: Alpha thalassémie.

Câu chuyện của tôi quá nhỏ bé, quá tầm thường so với câu chuyện của hàng triệu nạn nhân  da cam đang sống trên khắp đất nước Việt Nam. Nếu như hôm nay, tôi xin được làm nhân chứng tại Tòa án này, chính vì tôi muốn nói thay cho những người không còn nói được, không đến được nơi này, hy vọng rằng những lời nói tự đáy lòng sẽ góp phần đánh thức lương tâm của những kẻ đã tạo ra chết chóc, thương đau, thảm cảnh diệt hàng loạt gia tộc.

Đúng vậy, tôi xin được dùng chữ diệt gia tộc. Trong số các bạn nhà giáo cùng vào chiến trường với tôi năm ấy, có người đã chết vì ung thư như anh Nguyễn Văn Ba, như anh Lê Phụng, Phạm Xuân Phương, chỉ vì các anh đã đi đến những vùng bị quân Mỹ rải chất độc, tìm các em nhỏ để dạy chữ. Các anh chết đi mà nào đã biết được hạnh phúc có một người yêu, có một gia đình, có những đứa con nối dõi theo như truyền thống của xã hội Việt Nam. Có những anh cùng làm việc với tôi tại Thông tấn xã Giải phóng, mà đã là phóng viên thì đương nhiên phải đi chiến trường, khi hòa bình về, cưới vợ, sinh con như mọi người. Anh Phạm văn Thính, phóng  viên chiến trường miền Đông Nam bộ và vợ Nguyễn Thị Kim Liên hiện đã được các bác sĩ kết luận chỉ còn 23% sức khỏe, đã sinh ba lần, ba lần con không sống được. Vợ chồng anh Lê Trường Kỳ sinh hai người con, cứ đến 3, 4 tuổi cháu bị ung thư máu rồi chết. Cuối cùng rồi chính anh cũng chết, gia đình họ Lê của anh Kỳ, gia đình họ Phạm của anh Thính không còn ai tiếp nối. Như vậy, gia tộc không bị diệt là gì?

Tôi quyết định dành những năm tháng còn lại chăm sóc những người bất hạnh hơn mình, những người khuyết tật, các cháu mồ côi… Tôi quay về với những nỗi thống khổ do chiến tranh để lại dù đã hơn 30 năm trôi qua.

Một giáo sư Đài Loan, ông Chen Chin Cheng dành  tiền xây 200 căn nhà cho những người nghèo Việt Nam của chúng tôi gọi là những “ngôi nhà của tình thương”.  Ông chấp nhận xây nhà cho những nạn nhân chất độc da cam vùng Thái Bình, một tỉnh có 1.810.000 dân mà đã có 30.000 nạn nhân chất độc da cam, trong đó có 19.500 nạn nhân thuộc thế hệ thứ nhất, 9.500 thuộc thế hệ thứ hai và 1.600 thuộc thế hệ thứ ba.

Chỉ một ngày đi thăm một vài gia đình ở các huyện Tiền Hải, Kiến Xương, Vũ Thư mà cả tháng trời sau, tôi không ngủ được, nước mắt cứ chực trào ra khi nghĩ đến những gì tôi đã thấy. Chỉ xin đưa ra đây một vài câu chuyện:

– Một người lính trẻ trở về làng. Anh cưới cô Nhu, cô gái xinh nhất làng đã chờ anh trong mấy năm anh đi vào chiến trường. Cuộc sống tưởng chừng êm đềm, hai vợ chồng hạnh phúc khi người vợ có thai lần đầu. Ngờ đâu, họ cho ra đời không phải là một đứa bé mà là một bọc thịt. Vừa mất con, vừa bị làng xóm dè bỉu, cho là họ đã làm nên tội lớn ở kiếp trước, họ sống trong cô đơn, trong mặc cảm tội lỗi, nhưng cũng không thể không tiếp tục sinh con theo phong tục tập quán phải có con nối dõi. Lần thứ hai, lần thứ ba vẫn cứ là những bọc thịt. Lần thứ tư, lần thứ năm, hai đứa bé trai ra đời, mang hình người nhưng không có óc Họ đã sinh ra hai người con mang bệnh tâm thần. Khi tôi đến, một đứa bé đang đập đầu vào gốc cây, đứa kia nằm giãy giụa, phát ra những âm thanh không thành lời. Người cha cũng bị tâm thần, giờ chỉ còn như một nắm xương, đang nằm bất động. Cô Nhu xinh đẹp ngày nào, nay đã là một bà già 40 tuổi hom hem, nét đầy khắc khổ. Chị nói trong tiếng khóc “đã ba lần tôi ra sông, định tự tử, nhưng nghĩ đến khi tôi chết, ai là người chăm sóc người chồng liệt, ai là người lo cho hai đứa con điên, đành kéo dài kiếp sống đọa đày”. Người phụ nữ, người mẹ ấy cả ngày quần quật ngoài đồng nuôi ba người vừa bệnh vừa mất trí, mấy mươi năm qua chưa một lần được một lời yêu thương, một lần an ủi, chưa một ngày được sống cuộc sống của một người bình thường.

– Tại một gia đình khác ở xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư: Đô, một chàng trai nếu gọi được hình hài đó là một chàng trai, vì cậu đã hơn 20 tuổi, tay chân còng queo như mấy cây que cắm vào một thân chia làm ba khúc, chỉ có thể nằm sấp vì mấy cục bướu lớn ở sau lưng, ngước chào tôi bằng nụ cười méo mó của cậu. Cậu dùng mấy ngón tay cong lau giọt nước mắt của tôi đang lăn dài, ú ớ an ủi con người khỏe mạnh.

– Còn nữa, còn nhiều nữa, đi qua 30 gia đình trong số 15.000 gia đình nạn nhân của Thái Bình, tôi đã gặp không phải 30 cảnh đau khổ, 30 con người đau khổ mà là gấp đôi, gấp ba. Có những gia đình đã cho ra thế hệ thứ ba nạn nhân, thế hệ thứ ba khuyết tật, dị tật, điên khùng…

– Còn nữa, còn nhiều nữa những cảnh đời bị tước đoạt niềm vui làm vợ, niềm hạnh phúc làm me. Và khi chúng tôi xây được 50 ngôi nhà đầu tiên thì đã có ba người không chờ được nhà mới, ra đi về với Tổ Tiên.

Mà tôi cũng chỉ mới đến một vài xã của Thái Bình thôi. Còn Quảng Trị, A Lưới, còn Bến Tre, còn Củ Chi… còn bao nhiêu gia đình tôi chưa đến được. Tôi sẽ không bao giờ kể hết được nỗi đau thể xác, nỗi đau tâm hồn, những vết thương không thể nào hàn gắn của một xã hội do hậu quả tội ác mà quân đội Mỹ đã để lại trên đất nước tôi khi rải cái chất được gọi là chất độc da cam.

Các bạn đừng hỏi tại sao đã một lần sinh con dị tật mà người ta vẫn tiếp tục sinh? Bản thân tôi đã học ngành hóa mà mãi sau này mới nghĩ ra là có thể, bản thân mình đau ốm, con mình chết, con mình bệnh vì cái chất bột đã phủ lên người mình năm nào. Còn họ, những người nông dân, những người còn trẻ chưa kịp học hành đã dấn thân vào chiến tranh, cho đến khi hiểu biết về hậu quả của chất độc da cam đến với họ thì đã quá muộn rồi. Vả chăng, ai có thể cắt được của con người những tia hy vọng được làm cha, làm mẹ, được hoàn thành sứ mệnh nối dõi tông đường như tập quán dân tộc?

Tôi xin có một lời mời mà cũng là một lời thách thức: tất cả những người cầm quyền Mỹ đang lớn tiếng yêu cầu tôn trọng quyền con người, tất cả những tập đoàn sản xuất chất hóa học đã rải lên Việt Nam từ năm 1961 đến 1971 đang chối bỏ trách nhiệm của mình, xin hãy đến Việt Nam, đến với các nạn nhân da cam dù chỉ một ngày thôi, để tận mắt thấy, để tận tay sờ lên các vết thương, để cảm nhận đến tận cùng nỗi thảm khốc ghê tởm mà mình đã gây ra, để cùng tìm ra một giải pháp chuộc lại lỗi lầm. Dù tuổi cao, sức yếu, tôi xin tình nguyện cùng đi với các vị, đi đến cùng trời cuối đất, đi đến tất cả những nơi có nạn nhân chất độc da cam, đi đến khi nào các vị đã thấy rõ điều cần làm.

Lòng tôi ngổn ngang trăm câu hỏi không có lời giải đáp:

Thảm họa này sẽ kéo dài đến bao giờ? Tất nhiên là cho đến khi nạn nhân cuối cùng của gia đình ấy chết đi và dòng họ ấy bị xóa sổ hoàn toàn, tên gọi của tội ác ấy là gì nếu không phải là diệt chủng?

Khi thế hệ cha mẹ – thế hệ nạn nhân đầu tiên mất đi, ai sẽ là người lo cho những thế hệ sau? Một người mẹ có thể quên thân mà lo cho những đứa con của mình, dù chu đáo hay không. Nhưng vắng mẹ rồi, những con người không có óc, những thân thể không ra hình người kia sẽ do ai chăm, ai lo? Bao nhiêu trung tâm từ thiện cho vừa, bao nhiêu tiền thuốc thang cho đủ?

Vậy thì những kẻ đã gây ra thảm họa ấy sao không bị trừng trị? Tòa án Mỹ đã hai lần bác bỏ vụ kiện, phủi sạch trách nhiệm của mình.

Để kết thúc, tôi xin được kể về một người lính Mỹ tôi đã quen khi là đại diện cho Hội Cựu tù binh Đông dương trong các hoạt động xã hội của hội này tại Việt Nam. Anh tên là William Fry, thường gọi là Bill Fry, đi lính vào những năm 60 của thế kỷ trước. Giải ngũ, anh về sống tại quê nhà ở Tahiti. Yêu đất nước anh đã đến thời trẻ, anh xin được cưới một cô gái Việt Nam làm vợ. Đưa vợ và hai người con của vợ về Tahiti không bao lâu, anh vui mừng báo tin: vì anh đã từng ở Quảng Trị là nơi máy bay Mỹ đã rải chất độc da cam, nên với căn bệnh tiểu đường loại 2, anh được chính phủ Mỹ cho một khoản bồi thường thiệt hại lớn. Cả gia đình chuyển về Mỹ sinh sống, vì ngoài tiền bồi thường, anh được chính phủ Mỹ trợ cấp suốt đời trong khi tòa án Mỹ đã hai lần bác bỏ đơn kiện của nạn nhân chất độc da cam và các tập đoàn sản xuất ra chất độc này vẫn từ chối trách nhiệm.

Nhân danh những người đã chết vì chất độc da cam, nhân danh những nạn nhân đang sống ngắc ngoải vì chất độc da cam, nhân danh lương tâm loài người, tôi xin hỏi chính phủ Mỹ và tất cả các tập đoàn đã sản xuất ra chất độc để rải xuống Việt Nam từ 1961 đến 1971: TẠI SAO???

Paris 15/05/09

TRẦN TỐ NGA

Comments are closed.